CẢIOCÁCH
THỐNG
GIÁO
DỤC
KỶ YẾU HỘI THẢ
QUỐCCƠ
TẾ CẤU
VIỆTHỆ
NAM
HỌC LẦ
N THỨ
BAQUỐC DÂN…
TIĨU BAN GI¸O DơC Vµ §µO T¹O NGN NH¢N LùC
C¶I C¸CH C¥ CÊU HƯ THèNG GI¸O DơC QC D¢N 1§¸P øNG NHU CÇU NH¢N LùC
TRONG BèI C¶NH TOµN CÇU HãA
PGS. TS Đặng Danh Ánh*
Khi đề cập tới hệ thống giáo dục quốc dân (GDQD) 2 tơi cứ tự hỏi vì
sao cần cải cách cơ cấu hệ thống GDQD hiện nay. Nhìn chung, tác giả
viết bài này với ý thức xây dựng, nói thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật
(theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ VI). Ý thức ấy khơng xuất phát từ
dụng ý xấu hay nhằm phủ nhận những thành tựu mà nền giáo dục nước
nhà đã đạt được mà xuất phát từ sự tâm huyết đối với sự nghiệp giáo
dục thế hệ trẻ, từ sự nhận thức của tác giả rằng: Nhà nước, ngành giáo
dục và tồn xã hội phải làm nhiều hơn nữa cho giáo dục, bản thân
ngành giáo dục phải đổi mới mạnh mẽ có tính cách mạng hơn nữa nếu
muốn đạt được mục đích của mình.
Từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến nay, chúng ta đã tiến hành ba
cuộc cải cách giáo dục (CCGD): Cuộc CCGD lần thứ nhất bắt đầu từ năm
1950 chuyển hệ thống phân ban tú tài cũ sang hệ thống phổ thơng (PT)
9 năm; cuộc CCGD lần thứ hai bắt đầu năm 1956 chuyển hệ thống PT 9
năm sang hệ thống PT 10 năm; cuộc CCGD lần thứ ba bắt đầu năm 1979
theo nghị quyết số 14 NQ/TW ngày 11/1/1979 của Bộ Chính trị (khố
IV)... chuyển hệ thống PT 10 năm sang hệ thống PT 12 năm. Cho đến
nay cuộc CCGD ấy vẫn được tiếp tục điều chỉnh cho phù hợp với cơng
cuộc Đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo. Tác dụng của ba cuộc
CCGD là thúc đẩy hệ thống GDQD phát triển. Khơng ai có thể phủ nhận
được những thành tựu to lớn của giáo dục trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ. Khơng ai có thể phủ nhận được những được
những đóng góp của giáo dục vào phát triển kinh tế và xã hội trong thời
kỳ Đổi mới: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình qn trong nhiều năm qua là
khoảng 7 đến 7,5%/năm - có sự đóng góp trực tiếp của nguồn nhân lực sản phẩm của giáo dục, đào tạo.
*
Viện Nghiên cứu Đào tạo và Tư vấn Khoa học - Cơng nghệ.
3
Đặng Danh Ánh
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nền giáo dục nước nhà vẫn
bộc lộ những bất cập bị xã hội phê phán từ nhiều phía, giáo dục chưa
tìm được sự đồng thuận chẳng những đối với các cấp chính quyền mà
còn cả người dân nữa. Ngành giáo dục đã, đang cố gắng tìm mọi cách để
sửa chữa những yếu kém, bất cập. Nhưng khi sửa chữa, lại không tránh
khỏi những lúng túng, chưa tìm được căn bệnh chính, chưa điểm đúng
huyệt. Theo chúng tôi, những căn bệnh chính cần chữa là nằm trong cơ
cấu hệ thống GDQD. Hệ thống GDQD ví như ngôi nhà của bạn, khi ngôi
nhà đang bị xiêu vẹo, mái nhà đang dột nát thì mọi trang trí nội thất đều
trở nên vô nghĩa. Do vậy, việc trước tiên cần làm ngay là cải cách cơ cấu
hệ thống GDQD hiện nay vì những yếu kém sau đây:
1. Mất cân đối về các loại hình trường và đội ngũ giáo viên
3
Bậc học
Số trường
năm học 2006 - 2007
Số giáo viên
năm 2006 - 2007
GD phổ thông (GDPT)
27.956 trong đó có 12.755 là
trường THCS + THPT
780.601
Dạy nghề (DN)
262
8.394
TCCN
269
14.540
322 chưa kể các trường thành
viên của các ĐHQG và khu vực
53.518
GD Nghề
nghiệp
GD Đại học + Cao đẳng (GDĐH)
Các số liệu trên làm cho hệ thống giáo dục bị dị dạng: đầu to, đáy
to, thân hình bị thắt lại. Hệ thống dạy nghề đáng lẽ phải được “phát
triển với quy mô lớn” 4 để vừa kế tục các cấp học phổ thông nhằm đáp
ứng nhu cầu “mở rộng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên
nghiệp vụ nhiều trình độ...” (5) vừa tạo cơ hội đồng đều cho mọi công dân
học lấy một nghề thích hợp, nhưng trên thực tế hệ thống ấy còn quá nhỏ
bé: số lượng trường dạy nghề chỉ ≈ 1/105 tổng số trường phổ thông; số
giáo viên dạy nghề ≈ 1/98 tổng giáo viên phổ thông. Còn số giáo viên
đại học, cao đẳng lớn hơn giáo viên dạy nghề 7 lần. Hiện nay, Bộ Giáo
dục - Đào tạo đã tạo ra nhiều cơ chế thông thoáng trong quản lý nên
nhiều trường dạy nghề đầu đàn đã được chuyển thành trường trung học
chuyên nghiệp, trường trung học chuyên nghiệp được chuyển thành
trường cao đẳng, trường cao đẳng chuyển thành trường đại học. Hiện
tượng này vẫn còn đang tiếp diễn. Tình hình đó làm cho hệ thống dạy
nghề đã yếu lại càng yếu hơn.
Người ta có thể tự hỏi vì sao các nghị quyết của Đảng hay như thế
mà không được triển khai trên thực tế và vì sao bậc dạy nghề trong giáo
dục vẫn phát triển chậm và chưa có sự “bứt phá”.
4
CẢI CÁCH CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN…
2. Mất cân đối trong cơ cấu phân luồng học sinh phổ thông
(PLHSPT) sau trung học và công tác hướng nghiệp yếu (xem chi tiết của
Đặng Danh Ánh: Tư vấn nghề và PLHS sau trung học, đọc tại hội thảo
quốc tế “Đối thoại Pháp - Á về hướng nghiệp” do Đại sứ quán Pháp và
Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức 11/1/2005).
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “coi trọng công tác
hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học, chuẩn bị cho thanh
niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong cả nước và từng địa phương...” 6 nhưng chúng ta đã không
làm được như vậy. Trong nhiều năm qua, công tác hướng nghiệp và PLHS
sau trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) còn yếu kém 7
và chưa được quan tâm đúng mức; 8 điều đó được thể hiện như sau:
2.1. PLHS sau THCS vào THPT rất cao: có sự tăng đột biến
trong việc tuyển mới học sinh sau THCS vào THPT từ 136.485 học sinh
(40,27%) năm học 1990 - 1991 tăng lên 1.260.145 học sinh (79,8%)
năm học 2005 - 2006 9. Trong khi đó Trung Quốc (ở giáp nước ta, có
phong tục tập quán giống nhau, thể chế chính trị giống nhau, cùng đi
lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu và cùng là nước đang phát triển)
đã làm một cuộc cách mạng trong PLHS sau THCS vào THPT rất thành
công: từ 90% học sinh sau THCS vào THPT năm học 1979 - 1980 giảm
xuống còn 43,3% năm học 1995 - 1996 (10) . Số còn lại 56,7% đi học
nghề.
Hãy xem tình hình PLHS sau THCS vào THPT ở một số nước:
+ CHLB Đức (2003): 26% vào THPT; 74% vào trung học nghề (THN).
+ Thụy Sỹ (2003): 30% vào THPT; 70% vào THN.
+ Mỹ (2000): 76% vào THPT; 24% vào THN.
+ Nhật (2000): 70% vào THPT; 30% vào THN.
+ Hàn Quốc (1982): 50% vào THPT; 50% vào THN.
+ Hàn Quốc (2003): 64% vào THPT; 36% vào THN.
+ Đài Loan (1995): 20,9% vào THPT; 31% vào TCCN; 48% vào THN.
2.2. Chỉ tiêu 11 PLHS sau THCS và THPT vào Dạy nghề và THCN
rất thấp 12
+ Tuyển mới vào Dạy nghề năm học 2005 - 2006 là 228.000 học sinh
(Hs) (9,3%).
5
Đặng Danh Ánh
+ Tuyển mới vào THCN năm học 2005 -2006 là 273.239 Hs (7,8%).
2.3. Chỉ tiêu
11
PLHS sau THPT vào Cao đẳng, Đại học rất cao
Tổng số Hs tốt nghiệp THPT và Bổ túc văn hoá năm học 2005 2006 là 882.443 Hs được tuyển mới vào Cao đẳng, Đại học là 411.631
Hs (46,6%). Đó là một tỷ lệ quá cao, chứ không phải là 5-6% như một
vài người đã nêu trên báo chí. Khi bước vào quá trình công nghiệp hoá
(năm 1960) như nước ta hiện nay, Nhật Bản có 4 triệu Hs trung học thì
1,8 triệu là Hs học nghề, Cộng hoà Liên bang Đức cứ 10 Hs trung học thì
có 8 Hs học nghề.
2.4. Hậu quả của chính sách không đúng trong PLHS và
trong hướng nghiệp: Một là, sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ lệ PLHS
sau THCS vào THPT (79,8%) so với Dạy nghề (9,3%) sẽ tạo ra “sức ép
tâm lý” rất lớn đối vói Hs, phụ huynh Hs và toàn xã hội khi kỳ thi Cao
đẳng, Đại học đến gần. Chính điều này gây ra tình trạng “quá tải” “chạy
đua” vào các trường Cao đẳng, Đại học; đồng thời gây ra thảm trạng
“dạy thêm, học thêm” tràn lan trong nhiều năm qua.
Hai là, các cuộc “chạy đua” đó gây tốn kém kinh phí không chỉ cho
Nhà nước mà còn đối với nhân dân nữa. Riêng việc đi lại, ăn ở của trên 2
triệu lượt thí sinh và gia đình hàng năm trung bình ước tính tốn khoảng
1.000 tỷ đồng.
Ba là, đa số các ngành đào tạo trong trường Trung cấp chuyên
nghiệp và Dạy nghề chỉ cần tuyển Hs sau THCS, nhưng vì Hs sau THPT
thừa nhiều thì các trường Trung cấp chuyên nghiệp và Dạy nghề không
“dại gì” mà không tuyển Hs sau THPT. Như vậy, số Hs tốt nghiệp THCS
không được vào THPT (25% hàng năm) sẽ không có cơ hội học tiếp các
trường Trung cấp chuyên nghiệp và Dạy nghề. Các hiện tượng tiêu cực,
các tệ nạn xã hội từ đó mà ra.
Bốn là, sự bất hợp lý trong cơ cấu tuyển Hs sau THPT vào Cao
đẳng, Đại học (46,6%) so với Dạy nghề (9,3%) sẽ làm mất cân đối
trầm trọng cơ cấu đào tạo và tất yếu làm mất cân đối cơ cấu nguồn
nhân lực, cơ cấu các trình độ tại các doanh nghiệp.
3. Mất cân đối trong cơ cấu tuyển sinh và cơ cấu đào tạo
Tình hình PLHS sau trung học như trên đã làm nảy sinh sự mất cân
đối trong cơ cấu tuyển sinh và cơ cấu đào tạo. Vấn đề này diễn ra trong
nhiều năm, chúng tôi chỉ nêu lên năm 2005 - 2006 làm ví dụ:
- Về cơ cấu tuyển sinh12
6
CẢI CÁCH CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN…
+ Tuyển mới vào Dạy nghề: 228.000 Hs (9,3%).
+ Tuyển sinh mới vào THCN: 273.239 Hs (11,1%).
+ Tuyển mới vào Cao đẳng, Đại học: 411.631 sinh viên (46,6%).
- Về cơ cấu đào tạo12
+ Hs đang học ở hệ Dạy nghề: 342.000 Hs.
+ Hs đang học ở hệ THCN: 500.252 Hs.
+ Sinh viên đang học ở hệ Cao đẳng, Đại học: 1.363.167 sinh viên.
Nếu tính trong suốt 20 năm đổi mới, chúng ta có kết quả12
- Về cơ cấu tuyển sinh: Cao đẳng, Đại học tăng trên 11 lần, từ
37.404 sinh viên năm 1986 lên 411.631 năm 2006; trong khi đó dạy
nghề chỉ tăng khoảng trên 4 lần, từ 53.000 Hs lên 228.000 năm 2006.
- Về cơ cấu đào tạo: Cao đẳng, Đại học tăng trên 10 lần, từ
127.000 sinh viên năm 1986 lên 1.363.167 sinh viên năm 2006, còn dạy
nghề chỉ tăng gần 3 lần, từ 120.000 lên 342.000 Hs năm 2006.
Những số liệu trên đã nói lên sự bất hợp lý trong cơ cấu tuyển sinh
và cơ cấu đào tạo vì nó tạo ra hình tháp lật ngược “Thày nhiều hơn thợ”
là như vậy.
Nhìn chung, tỷ lệ PLHS sau THCS vào THPT (79,8%) và tỷ lệ tuyển
sinh sau THPT vào Cao đẳng, Đại học (46,64%) là rất cao, đó là tỷ lệ của
những nước phát triển. Chúng ta quen đi tắt đón đầu ngay cả trong lĩnh
vực giáo dục, tạo ra “hình tháp lật ngược” trong cơ cấu đào tạo như nêu
ở trên sẽ không phải là chính sách khôn ngoan. Cần điều chỉnh cơ cấu
tuyển sinh theo hướng tăng số lượng tuyển sinh cho dạy nghề vì
UNESCO cho rằng, giáo dục - đào tạo phải được phát triển theo trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước (tính GDP/đầu người) theo thứ tự
ưu tiên như sau:
+ Các nước chậm phát triển: Giáo dục phổ thông - Dạy nghề - Đại
học.
+ Các nước đang phát triển: Dạy nghề - Giáo dục phổ thông - Đại
học.
+ Các nước phát triển: Đại học - Dạy nghề - Giáo dục phổ thông.
Hiện nay đáng lẽ chúng ta phải phát triển nhiều giáo dục dạy nghề
thì lại phát triển nhiều giáo dục đại học; trong khi đó một số người lại
nêu ra rằng thời kỳ “đại học tinh hoa” đã qua rồi, thay vào đó là “đại
học đại chúng”. Như vậy giáo dục đại học và dạy nghề của chúng ta đã
7
Đặng Danh Ánh
phát triển không phụ thuộc vào kinh tế mà phụ thuộc vào ý tưởng của
một số cá nhân.
Phải nói thật là chúng ta có thói quen lấy mình làm thước đo chính
mình, không có thói quen so sánh với các nước xung quanh. Vì thế trong
thời điểm hiện nay, khi mà GDP/đầu người của chúng ta là 700USD chỉ
bằng 1/85 Mỹ, 1/60 của Nhật, 1/43 của Đài Loan, 1/37 của Hàn Quốc,
1/4 của Thái Lan, 1/3 của Trung Quốc... thì những người nêu ra “đại học
đại chúng” chỉ là ảo tưởng phi thực tế, làm cho nền giáo dục nước nhà đi
chệch hướng.
4. Mất cân đối trong cơ cấu nguồn nhân lực
Muốn biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một
nước công nghiệp phát triển, đủ sức cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu
hoá thì cần có nguồn nhân lực đủ các cấp trình độ và được bố trí hợp lý.
Nhưng, như trên đã trình bày, trong nhiều năm qua cơ cấu đào tạo của
chúng ta rất bất hợp lý, tất yếu dẫn tới cơ cấu nguồn nhân lực bị mất
cân đối nghiêm trọng. Tỷ lệ Đại học/Trung học chuyên nghiệp/Công nhân
kỹ thuật là:
+ 1/ 2,25/ 7,1% năm 197912
+ 1/ 1,68/ 2,3 năm 1989
12
+ 1/ 0,83/ 0,6 từ năm 1990 - 1995
+ 1/ 1,16/ 0,92 năm 2004
13
14
Trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, đại bộ phận lực lượng lao động
của chúng ta làm việc với quy trình công nghệ nửa cơ giới và cơ giới thì
cơ cấu nguồn nhân lực như trên là không thể chấp nhận. Hãy so sánh
xem tập đoàn Sam Sung của Hàn Quốc ở Việt Nam hiện nay họ bố trí cơ
cấu
lao
động
như
thế
nào?
Cứ
100 lao động có 4,5% kỹ sư; 16,7% trung cấp; 65,8% CNKT; 13% lao
động phổ thông (Nguồn: Tổng cục Dạy nghề 2006).
Tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển tiến bộ khoa học kỹ thuật,
trên thế giới người ta bố trí cơ cấu nguồn nhân lực theo hình tháp như
sau:
- Khu vực dịch vụ theo tỷ lệ: Đại học/Trung học chuyên nghiệp/nhân
viên = 1/4/10.
- Khu vực công nghiệp theo tỷ lệ: Đại học/Trung học chuyên nghiệp
/Công nhân kỹ thuật.
8
CẢI CÁCH CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN…
+ Ở giai đoạn cơ khí hoá: 1 kỹ sư + 4 trung cấp + 60 công nhân kỹ
thuật lành nghề + 20 công nhân bán lành nghề và 15 lao động phổ
thông.
+ Ở giai đoạn thiết bị tự động hoá một phần trong từng khu vực, cơ
cấu nhân lực được bố trí là: 1 Cán bộ nghiên cứu + 17 kỹ sư + 21 kỹ
thuật viên + 60 công nhân lành nghề + 11 công nhân bán lành nghề,
không có lao động phổ thông.
- Ở giai đoạn tự động hoá toàn bộ mạng hệ thống chương trình và
công nghệ thông tin phát triển thì cơ cấu nhân lực được bố trí theo hình
tháp cụt: 4 cán bộ nghiên cứu + 25 kỹ sư + 50 kỹ thuật viên + 21 công
nhân lành nghề. Giờ đây không có công nhân tay nghề thấp và không có
lao động phổ thông, còn công nhân lành nghề giảm, xuất hiện loại công
nhân “cổ trắng, cổ vàng”, lao động của họ có tính chất trí tuệ cao gần
giống như lao động của kỹ sư, nhưng nhân viên dịch vụ tăng và tăng cả
số lượng kỹ sư và kỹ thuật viên. Các nhà khoa học cho rằng: Nhìn chung
trong suốt các giai đoạn tiến bộ kỹ thuật, lực lượng nòng cốt của nền
sản xuất công nghiệp bao giờ cũng vẫn là công nhân lành nghề, chỉ khi
nào bước sang nền kinh tế hậu công nghiệp (kinh tế tri thức) thì những
người công nhân lành nghề ấy chuyển hoá dần thành kỹ thuật viên
trung cấp và kỹ sư.
Năm 1985, ở Hàn Quốc trong thời kỳ giữa công nghiệp hoá cơ cấu
nguồn nhân lực được bố trí theo một tỷ lệ chung là 1/ 5/ 25.
5. Quy mô mở rộng nhưng chất lượng giáo dục yếu
Một nguyên nhân cơ bản làm cho chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam thấp và giảm dần là do chất lượng giáo dục của Việt Nam rất yếu.
Đành rằng quy mô phát triển mạnh hơn trước nhiều lần, như đại học mở,
đại học tại chức “bung ra” tràn lan khắp nơi, rất tùy tiện; đào tạo cao
học, tiến sỹ quá mở rộng (không theo tiêu chuẩn chặt chẽ như trước
kia), do vậy chất lượng đang bị tầm thường hoá, càng lên cao càng như
vậy (có người gọi đại học là phổ thông cấp 4 - Báo An Ninh Thủ đô
8/8/2008...) Biểu hiện phổ biến là:
- Vốn kiến thức cơ bản và văn hoá chung của Hs phổ thông rất yếu.
- Khả năng sáng tạo và độc lập nghiên cứu của sinh viên rất yếu.
- Năng lực ứng dụng kiến thức đã học của thạc sỹ, tiến sỹ vào thực
tiễn càng hạn chế.
9
Đặng Danh Ánh
Vì thế trong báo cáo về năng lực cạnh tranh toàn cầu của các nền
kinh tế năm 2004 - 2005, diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã đánh giá
chất lượng giáo dục của 104 nước theo thang điểm 7 thì Việt Nam đạt
2,4 điểm xếp thứ 89/104, trong khi đó Singapore đạt 5,8 điểm xếp thứ
2/104, Thái Lan: 3,2 điểm xếp thứ 65/104; Trung Quốc: 3,2 xếp thứ
66/104 15... Cần lưu ý rằng đánh giá của WEF về năng lực cạnh tranh
toàn cầu của các nền kinh tế có một loạt các chỉ số trong đó chỉ số về
giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 93 là chỉ số thấp nhất trong các chỉ
số (Báo cáo của Tiến sỹ Lê Đăng Doanh tại hội thảo do Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức ngày 12/11/2007). Khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
thăm Mỹ, GS David Dapice cho biết: Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục ở Việt
Nam cao nhất khu vực (4,3% GDP theo WB) nhưng sinh lợi thấp, hiệu
quả chưa cao. Ông dẫn chứng năm 2006: Đại học Seoul có 4560 bài báo
đăng trên tạp chí danh tiếng; Đại học Bắc Kinh 2892 bài; Đại học NUS
(Singapone) 3684 bài; Đại học Chulalongkon (Thái) 734 bài thì Đại học
Quốc gia và Đại học Bách Khoa Hà Nội của Việt Nam chỉ có 68 bài. Đầu
năm 2008, Hội đồng Đài Loan xếp hạng 500 trường đại học hàng đầu
thế giới năm 2007 cho kết quả: Nhật có 32 trường; Hàn Quốc và Trung
Quốc có 9 trường; Singapore có 2 trường; Việt Nam không có trường nào
(Báo Lao động 7/1/2008). Số liệu điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo
công bố tạo hội nghị toàn quốc đánh giá chất lượng giáo dục diễn ra tại
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5/1/08 làm người ta giật mình: 50% sinh
viên tốt nghiệp làm việc tại các doanh nghiệp phải đào tạo lại.
Những số liệu trên đây là tiếng chuông cảnh báo đối với các nhà
trường, các nhà quản lý giáo dục và các cấp chính quyền từ trung ương
tới địa phương suy nghĩ tìm cách nâng cao chất lượng đào tạo.
6. Chất lượng nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh toàn cầu
của nền kinh tế thấp và giảm dần
Về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam rất thấp và đang giảm
dần: Trong 3 năm (1998-2000), Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã đánh
giá chất lượng nguồn nhân lực của 59 quốc gia để xếp hạng về lợi thế
cạnh tranh bằng cách cho 100 điểm thì chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam chỉ đạt 32/100 và năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế
được xếp hạng như sau:
+ Năm 1998 được xếp hạng thứ 39/ 59 quốc gia.
+ Năm 1999 được xếp hạng thứ 48/ 59 quốc gia.
+ Năm 2000 được xếp hạng thứ 53/ 59 quốc gia.
10
CẢI CÁCH CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN…
Như vậy chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam giảm dần. Các nhà
kinh tế thế giới cảnh báo rằng, các nền kinh tế có chất lượng lao động
dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên toàn cầu. Đến
năm 2006, một công trình khác của WEF cũng đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực của một số quốc gia theo thang điểm 10 thì Việt Nam
đạt 3,79 điểm trong khi đó Trung Quốc đạt 5,73 điểm; Hàn Quốc đạt
6,91 điểm.
Chúng ta đều biết rằng, phản ứng dây chuyền chất lượng giáo dục
yếu làm cho chất lượng nguồn nhân lực thấp mà điều này lại ảnh hưởng
trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà. Cũng theo
báo cáo của WEF về năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế trong 7
năm tiếp theo thì Việt Nam được xếp thứ: 60/75 quốc gia năm 2001;
65/80 năm 2002; 60/102 năm 2003; 77/104 năm 2004; 81/117 năm
2005; 77/125 năm 2006; 68/131 năm 2007. Như vậy là năng lực cạnh
tranh toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam 10 năm qua (1998-2007) yếu
dần và phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực. Nếu chất lượng nguồn
nhân lực của Việt Nam tốt thì tăng trưởng kinh tế của nước nhà trong
những năm qua chắc chắn không phải là 7-8% mà còn có thể cao hơn
thế (8-9%).
7.
Hệ thống GDQD hiện nay là một hệ thống sơ cứng, khép
kín, cục bộ (chuyên gia Đức ví nó như là một tấm thảm vá, thiếu
đường dẫn, cầu dẫn), thiếu mềm dẻo linh hoạt, thiếu hẳn sự liên
thông dọc - liên thông ngang giữa các hệ thống nhỏ
Hệ thống giáo dục phổ thông chưa thực sự gắn kết với hệ thống
giáo dục nghề nghiệp và hệ thống giáo dục đại học nhằm làm tốt chức
năng chuẩn bị cho học sinh đi vào các trường dạy nghề, THCN và CĐ,
ĐH; Hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đại học cũng chưa phát huy được
đầy đủ những thành quả của giáo dục phổ thông mang lại.
Khi xem xét mối quan hệ giữa 3 hệ thống giáo dục này người ta
thấy nổi lên sự bất bình đẳng giữa dạy nghề với giáo dục phổ thông,
giữa dạy nghề với giáo dục đại học không chỉ về mặt đầu tư tài chính
cho dạy nghề thấp (năm 2006 là 6,5%) không chỉ về quy mô tuyển sinh
và cơ chế chính sách đối với người dạy người học, cỡ con dấu nhỏ của
các trường dạy nghề (28 ly) mà còn về con đường thăng tiến nghề
nghiệp cho học sinh học nghề. Người ta có thể hỏi: Tại sao học sinh tốt
nghiệp THPT dù giỏi hay kém đều được thi vào Cao đẳng, Đại học, tình
trạng đó đã gây nên “sự ùn tắc” “quá tải” như hiện nay; còn học sinh
học nghề dù có xuất sắc cũng bị “chặn đứng” không có con đường đi
11
Đặng Danh Ánh
lên. Sự bất bình đẳng này đã làm xuất hiện trong học sinh phổ thông
tâm lý khá phổ biến là không thích đi học nghề vì học sinh học nghề cảm
thấy bị phân biệt đối xử (nhất là trong tình hình hiện nay khi các trường
Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học đều được mở hệ dạy nghề
thì họ sẽ quan tâm tới cấp học cao hơn) kể cả sau khi ra trường công tác từ đó dẫn đến số thanh niên thất nghiệp tăng lên, kéo theo sau nó là
những tệ nạn xã hội khác.
Để giải quyết sự bất bình đẳng này, việc cần làm ngay là cải cách
chính sách hướng nghiệp, phân luồng và liên thông trong hệ thống
GDQD nhằm tạo cơ sở cho học sinh học nghề, học sinh Trung học
chuyên nghiệp được quyền học tiếp Cao đẳng, Đại học khi đã hội đủ các
điểu kiện nhập học, đồng thời phải xây dựng hệ thống GDQD hoàn
chỉnh, trong đó hệ thống dạy nghề phải được phát triển rộng khắp theo
hướng đi từ trình độ thấp đến trình độ cao và phải được coi là một thành
phần của hệ thống giáo dục suốt đời. Cơ cấu hệ thống GDQD mới cần có
hai nhánh: nhánh giáo dục hàn lâm như hiện nay gắn với các trường Cao
đẳng, Đại học phi sản xuất, còn nhánh kia là hệ thống giáo dục công
nghệ đi từ thấp đến cao gắn với các trường Cao đẳng, Đại học kỹ thuật
sản xuất. Hai nhánh hệ thống giáo dục này được phát triển song song và
hài hoà với nhau, bảo đảm tính liên thông dọc - ngang với nhau. Cần đặt
công tác hướng nghiệp, giáo dục công nghệ (giáo dục tiền kỹ thuật) ở vị
trí trung tâm trong công tác giáo dục của nhà trường và Hs phải được
hướng nghiệp, giáo dục công nghệ ngay từ tiểu học đến hết THPT. Trong
cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân mới cần bổ sung, khôi phục ngay loại
hình trường trung học nghề (THN) để Hs vừa được học nghề, vừa được
học văn hoá hết bậc bổ túc THPT như nhiều nước phát triển trên thế giới
đã làm. Đây là loại hình giáo dục hấp dẫn đối với Hs và phụ huynh của
ta vì những lý do sau:
- THN là giải pháp tốt nhất của công tác hướng nghiệp để điều
chỉnh cơ cấu PLHS trung học cơ sở từ 79,8% hiện nay vào THPT xuống
còn 50% trong tương lai, số lượng 29,8% HS còn lại đưa vào THN, từ đó
giảm áp lượng thi vào Cao đẳng, Đại học, giảm tình trạng “dạy thêm học
thêm” tràn lan.
- THN là con đường đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ
văn hoá THPT đáp ứng yêu cầu công nhân kỹ thuật trong nền kinh tế tri
thức.
- THN là con đường nhanh nhất để thực hiện phổ cập THPT trong
tương lai.
12
CẢI CÁCH CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN…
- THN còn là con đường phân ban tự nguyện theo khối ABCD (vì tùy
theo yêu cầu của nghề mà người học phải đáp ứng trình độ văn hoá
theo khối nào), tránh được những khó khăn trong phân ban hiện nay. Khi
tốt nghiệp THN, Hs vừa có bằng tốt nghiệp bổ túc THPT, vừa có bằng
nghề 3/7 thì các em có quyền học liên thông lên Cao đẳng, Đại học; từ
đó giải toả được băn khoăn của phụ huynh muốn con em mình được học
lên cao; nếu không hội đủ tiêu chuẩn học liên thông thì các em có thể đi
làm ngay vì đã có bằng nghề trong tay.
Ngày 5/12/2002 Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ra “Quy chế tạm thời về
đào tạo liên thông giữa các bậc đào tạo.” Sau 5 năm (2002-2007) làm
thí điểm, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã cho phép 66 trường Cao đẳng, Đại
học được đào tạo liên thông. Ngày 13/2/2008 Bộ Giáo dục - Đào tạo đã
chính thức ban hành quy chế về đào tạo liên thông. Tuy nhiên mới thực
hiện liên thông dọc, chưa có liên thông ngang và chưa có liên thông với
Dạy nghề.
8.
Hệ thống GDQD hiện nay đã xa rời nguyên lý giáo dục của
Đảng: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội”
Hệ thống giáo dục phổ thông chỉ mới dạy chữ, kiến thức văn hoá
chung chung, coi nhẹ kiến thức kỹ thuật nghề nghiệp, coi nhẹ thực hành
và lao động sản xuất. Vì thế, học sinh của chúng ta đi thi quốc tế bao
giờ cũng đạt huy chương vàng ở môn toán, còn những môn đòi hỏi thực
hành nhiều như lý, hoá, sinh thì rất hiếm. Lỗi đó tại nhà trường. Nhà
trường phổ thông không chú ý dạy trẻ kỹ năng sống, kỹ năng thực hành,
kỹ năng làm việc (kỹ năng lao động), không chuẩn bị cho các em ý thức
sẵn sàng đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự dịch chuyển cơ
cấu kinh tế ở từng địa phương và trong cả nước theo văn kiện Đại hội IX
của Đảng đã đề ra. Nhà trường phổ thông chỉ “thúc” học sinh phải tiến
lên hàng đầu bằng mọi giá mà không giáo dục các em rẽ ngang đi học
nghề để vào đời. Đây là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện
trong học sinh tâm lý học để đi thi, để “làm quan”, coi đại học là con
đường tiến thân duy nhất, “phi đại học bất thành thân”.
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đại học còn rất yếu về mặt thực
hành, rèn luyện tay nghề cho học sinh, sinh viên. Vì thế mới có cảnh
“thày không ra thày, thợ không ra thợ”, nghĩa là kỹ sư, kỹ thuật viên... đa
số nói là chính chứ bắt tay vào làm có nhiều khó khăn. Một kỹ sư mà
không vận hành được máy, không biết sử dụng máy để gia công những
sản phẩm đơn giản, không xử lý được những hỏng hóc thông thường của
13
Đặng Danh Ánh
thiết bị, phương tiện dụng cụ... thì không thể đáp ứng được yêu cầu của
sản xuất hiện nay (ví dụ: Cuối năm 2004, công ty liên doanh Nhật Bản tổ
chức thi kỹ năng đo lường cơ khí. Có 27 học sinh, sinh viên của 7 trường
Đại học, Cao đẳng kỹ thuật tham gia. Chỉ có 3 em được tuyển: 1 em giải
nhất thuộc về học sinh công nhân Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, 1
em giải nhì - sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội, 1 em giải ba - sinh viên
Đại học Hàng hải Hải Phòng). 16
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đại học chưa gắn kết với các cơ
sở sản xuất kinh doanh, chưa nắm bắt được nhu cầu của thị trường lao
động và việc làm. Vì thế, nhiều học sinh sinh viên tốt nghiệp ra trường
mà không tìm được việc nên xảy ra hiện tượng “việc tìm người thì người
không có”; “người tìm việc thì rất khó khăn”. Rõ ràng là chúng ta đang
“thừa người nói có bằng cấp và thiếu người làm” thực sự. Một cơ quan
lao động đã thăm dò 7000 sinh viên tốt nghiệp đang “đói” việc làm, thu
được kết quả: 30% không đi làm, sống dựa vào gia đình, 25% đi làm tiếp
thị, 20% bán hàng thuê, số còn lại đi làm dịch vụ khác thuần tuý bằng
cơ bắp. Trong số đi làm trên chỉ 25 - 30% đúng chuyên môn, còn 70% là
lao động phổ thông không cần phải đào tạo mặc dầu số này đã tốt
nghiệp đại học 17. Tại hội thảo “Quản lý - chuyển giao công nghệ - đào
tạo nhân lực” được tổ chức tại Hà Nội tháng 10/1997, nhiều nhà khoa
học nước ngoài đã nhận xét: hệ thống giáo dục Việt Nam xuất hiện
nhiều dấu hiệu đáng lo ngại như việc cấp bằng quá nhiều, đặc biệt ở
trình độ cao... còn các nhà đầu tư nước ngoài thì phàn nàn rằng, Việt
Nam đang dư những người có bằng và thiếu công nhân cần thiết.
Hiện nay, các trường chuyên nghiệp và đại học chưa gắn kết được
với doanh nghiệp, chưa thực hiện được “hãy đào tạo cái mà doanh
nghiệp cần, chứ đừng đào tạo cái mà nhà trường có thể làm được”. Vì
vậy gây ra hiện tượng “thừa lao động không chuyên nghiệp”, “thiếu lao
động có tay nghề”. Cho nên tại buổi tiếp của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đầu năm 2007, ông Lý Quang Diệu cho rằng “Việt Nam cần có
thêm những kỹ sư giỏi, những người thợ lành nghề để thu hút đầu tư...” 1
Còn tháng 3/2007, Giám đốc Ngân hàng Châu Á (ADB) cũng nhận xét:
Việt Nam dự kiến tăng trưởng 8,3% năm 2007 và 8,5% năm 2008.
Nhưng Việt Nam đang thiếu trầm trọng lao động tay nghề cao. Trong số
lao động hiện nay chỉ có 25% có tay nghề so với mức 50% của khu vực.
Các doanh nghiệp phải thừa nhận, thiếu hụt lao động có tay nghề là khó
khăn thứ ba của họ sau khó khăn về tài chính và đất đai...”. 19
Phải chăng những ý kiến đó không có cơ sở? Nếu mục tiêu của giáo
dục là sản xuất ra những mảnh bằng cho con người để làm bùa hộ
14
CẢI CÁCH CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN…
mệnh cho cả đời hay làm hộ chiếu qua các cửa ải thì giáo dục như vậy
là giáo dục sách vở, làm cản trở cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Cần thiết phải xây dựng mối liên kết 4 nhà: nhà nước - nhà
trường phổ thông - nhà trường chuyên nghiệp, đại học - nhà doanh
nghiệp trong giáo dục - đào tạo; bảo đảm cho hệ thống giáo dục thực
hiện tốt nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Cải cách cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân để khắc phục 8 yếu
kém nêu trên là một cuộc cách mạng vì nó đụng chạm đến nhiều cấp,
nhiều ngành từ trung ương đến địa phương, vì nó đòi hỏi mọi người dân
kể cả các cấp chính quyền cao nhất đến cấp cơ sở phải thay đổi nếp
nghĩ từ “làm quan sang làm lính”, từ “giáo dục làm thày sang giáo dục
kỹ thuật”. Dân tộc ta có “duyên nợ làm thơ”, chứ không có “duyên nợ kỹ
thuật” mà thiếu “kỹ thuật”, thiếu “nghề nghiệp” thì dân tộc ta mãi mãi
“luẩn quẩn” trong cảnh đói nghèo vì chỉ có người ăn, thiếu người sản
xuất, làm sao nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối
cảnh toàn cầu hoá được. Bởi vậy phải huy động lực lượng tổng hợp của
toàn xã hội vào công cuộc cải cách giáo dục kỳ này.
15
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ VIỆT NAM HỌC LẦN THỨ BA
TIĨU BAN GI¸O DơC Vµ §µO T¹O NGN NH¢N LùC
Đặng Quốc Bảo
Sù §ãNG GãP CđA GI¸O DơC VµO HDI CđA VIƯT NAM
TRONG TIÕN TR×NH §ỉI MíI KINH TÕ - X· HéI
Tõ 1990 - 2005
PGS Đặng Quốc Bảo*
1.
Chỉ số HDI ngày nay trở thành thước đo tiêu biểu phản ánh sự phát
triển
của mỗi quốc gia.
HDI bao qt ba lĩnh vực: Tuổi thọ (y tế), học vấn (giáo dục), GDP
(kinh tế) của cộng đồng dân cư. Nó cũng là chỉ số nêu lên chất lượng
dân số của cộng đồng.
Từ năm 1990 cho đến nay, HDI của Việt Nam được UNDP (Chương
trình phát triển của Liên hiệp quốc) cập nhật đầy đủ trong các báo cáo
Phát triển con người (HDR - Human Development Report). Việt Nam
cũng đã hai lần cơng bố HDR do mình tự xây dựng: HDR 1999 và HDR2004,
HDRVN 1999 và đã được Liên hiệp quốc tặng giải thưởng.
Hiện nay, Việt Nam đang có những nỗ lực xây dựng HDR cho tồn
quốc và các tỉnh thành đều đặn hàng năm, coi HDR như một cơng cụ
hữu ích phục vụ quản lý kinh tế - xã hội.
2. Nhân tố giáo dục trong HDI có vai trò then chốt bởi lẽ giáo dục
vừa là mục tiêu vừa là động lực của q trình phát triển. Giáo dục ngày
nay là nhân tố tạo nên cả kết quả tinh thần và kết cấu vật chất của quốc
gia. Giáo dục hình thành và phát triển "Nhân cách - Nhân lực", vừa tạo
ra nguồn vốn con người, vốn tổ chức, vốn xã hội của cộng đồng.
3. Báo cáo này chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:
*
16
Đại học Quốc gia Hà Nội.
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DỤC VÀO HDI CỦA VIỆT NAM…
- HDR của UNDP - một tư liệu có giá trị cho việc hoạch định chính
sách kinh tế giáo dục;
- HDR của Việt Nam năm 1999 và 2004;
- Phân tích chỉ số giáo dục và các chỉ số phát triển khác của
Việt Nam so sánh quốc tế;
- Tổng hợp sự phát triển của Việt Nam qua HDI;
- Khuyến nghị về sự phát triển giáo dục trong bối cảnh hiện
nay.
3.1. HDR của UNDP - một tư liệu có giá trị cho việc hoạch định
chính sách kinh tế giáo dục
3.1.1 Gần 20 năm nay từ 1990 UNDP (Chương trình phát triển của Liên
hiệp quốc) đều đặn công bố các Báo cáo Phát triển con người HDR
(Human Development Report).
Các HDR phản ánh tình hình phát triển của quốc gia, tổng hợp lại
trong chỉ số HDI (Chỉ số phát triển con người - Human Development
Index). Đây là nguồn tư liệu quý báu để mỗi quốc gia tự nhận thức được
tình thế - xu thế của mình trong đời sống toàn cầu, từ đó có căn cứ vạch
chính sách chiến lược phát triển đất nước mình phù hợp với bước tiến
của thời đại.
UNDP không chỉ phản ánh tình hình các quốc gia tại thời điểm hình
thành Báo cáo (thường là phản ánh tình hình 2 năm trước đó) mà còn
hồi cố số liệu với những sự hiệu chỉnh cần thiết nhằm làm rõ xu thế phát
triển của quốc gia.
Từ 1990, những số liệu chủ yếu của Việt Nam đều đặn được phản
ánh
trong HDR:
a. Tổng hợp HDI và thứ hạng,
b. Tuổi thọ bình quân và chỉ số tuổi thọ,
c. Số (%) người lớn (từ 15+ tuổi biết chữ),
d. Số (%) thanh thiếu niên 6 - 24 tuổi so dân số độ tuổi đi học tại
các nhà trường chính quy,
e. Chỉ số phát triển giáo dục,
17
Đặng Quốc Bảo
f. GDP bình quân theo sức mua và chỉ số GDP.
3.1.2. HDI của Việt Nam từ 1990 đến 2005 qua các HDR của UNDP
Bảng 1: Giá trị chỉ số HDI tổng hợp và giá trị các chỉ số thành phần của Việt Nam
Chỉ số HDI và các chỉ số thành phần của Việt Nam
Thứ hạng so với các nước có trong báo
cáo
62,7
Giá trị chỉ số phát triển con người
1992
HDI
Chỉ số
-
0,608
74*/130
57,3
-
0,498
99/160
4,6 năm
59,9
-
0,464
102/160
Số
6 -năm
24 tuổi
học(%)
trung bình hoặc tỷ lệ đi học
0,63
Chỉ số
62,7
1987
Tuổi thọ bình quân
trung bình (năm)
1991
Tính cho năm
0,62
Năm
62,0
1990
Giáo dục
Tỷ lệ biết chữ của người lớn (%)
GDP
Chỉ số
Tuổi thọ
GDP bình quân đầu người (PPP USD)
Báo cáo
Theo
%
1.000
0,38
80,0
-
1.000
0,38
84,4
3,2 năm
0,63
1.000
0,38
87,6
Theo
số
thập
phân
1993
1991
62,7
0,63
1.100
0,40
87,6
4,6 năm
59,9
-
0,472
115/160
1994
1992
63,4
0,62
1.250
0,42
88,6
4,9 năm
60,7
-
0,514
116/160
1995
1992
65,2
0,63
1.010
0,38
91,9
49
0,78
0,539
120/174
1996
1993
65,5
0,63
1.040
0,39
92,5
51
0,79
0,540
121/174
1997
1994
66,0
0,63
1.208
0,42
93,0
55
0,80
0,557
121/175
1998
1995
66,4
0,64
1.236
0,42
93,7
55
0,81
0,560
122/174
1999
1997
67,4
0,71
1.630
0,47
91,9
62
0,82
0,644
110/174
2000
1998
67,8
0,71
1.689
0,47
92,2
63
0,83
0,671
108/174
2001
1999
67,8
0,71
1.860
0,49
93,1
67
0,84
0,682
101/162
2002
2000
68,2
0,72
1.996
0,50
93,4
67
0,84
0,688
109/173
2003
2001
68,6
0,73
2.070
0,51
92,7
64
0,83
0,688
109/175
2004
2002
69,0
0,73
2.300
0,52
90,3
64
0,82
0,691
112/177
2005
2003
70,5
0,76
2.490
0,54
90,3
64
0,82
0,704
108/177
2006
2004
70,8
0,76
2.745
0,55
90,3
63
0,81
0,709
109/177
2007
2005
73,7
0,812
3.071
0,572
90,3
63,9
0,815
0,733
105/177
Nguồn: Báo cáo Phát triển con người các năm từ 1990 đến 2007 của UNDP.
Lưu ý: Báo cáo từ 1990 - 1994 các chỉ số có giá trị tham khảo
18
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DỤC VÀO HDI CỦA VIỆT NAM…
Báo cáo từ năm 1995 trở đi: các chỉ số và phép tính ổn định.
3.1.3. Hồi cố HDIViệt Nam và một số nước châu Á
Nước
1985
1990
1995
2000
2005
Việt Nam
0,590
0,620
0,672
0,711
0,733
Indonesia
0,585
0,626
0,670
0,692
0,728
Philippines
0,692
0,721
0,739
0,758
0,771
Trung Quốc
0,595
0,634
0,691
0,732
0,777
Thái Lan
0,679
0,712
0,745
0,761
0,781
Malaixia
0,696
0,725
0,763
0,790
0,811
Hàn Quốc
0,785
0,825
0,801
0,892
0,921
Singapore
0,789
0,827
0,865
x
0,922
Bình luận: Trong thời gian từ 1990 đến 2005, HDI của Việt Nam tăng
lên được 0,113 (11,3%). Nếu từ 2006 đến 2020, HDI của Việt Nam giữ
được nhịp độ tăng như trên và còn gia tăng nhiều hơn thì Việt Nam sẽ
đạt 0,846. Nếu làm tốt hơn có thể đạt 0,861. Mức này bằng mức Hàn
Quốc năm 1995.
3.2. HDR của Việt Nam năm 1999 và 2004
3.2.1. Hoà vào tư duy chung của thời đại, với sự giúp đỡ của UNDP,
Việt
Nam
đã
2 lần xây dựng Báo cáo Phát triển con người quốc gia.
a. Lần thứ nhất năm 2001. Báo cáo này tổng hợp tình hình năm
1999, đã tính ra HDItoàn quốc 1999 = 0,689 với số liệu chi tiết cho 61 tỉnh
thành.
Báo cáo này đã được UNDP đánh giá cao và được tặng thưởng của
Liên
hiệp quốc.
b. Lần thứ hai năm 2006. Báo cáo này dựa vào số liệu giữa kỳ điều
tra dân số để tỉnh ra HDItoàn quốc 2004 = 0,731 với số liệu chi tiết cho 64 tỉnh
thành.
c. Đề tài khoa học KX.05.05 nghiên cứu sự phát triển con người Việt
Nam trong chương trình khoa học cấp nhà nước KX.05 "Văn hoá - Con
người - Nguồn nhân lực" trong thời kỳ công nghiệp hoá đã cộng tác với
nhiều tỉnh thành trong nước xây dựng các HDR địa phương thời kỳ 2001
- 2005.
19
Đặng Quốc Bảo
Các vùng khác nhau của đất nước đều có các tỉnh thành xây dựng
HDR cho địa phương mình.
– Khu vực Đông Bắc Bắc Bộ có các tỉnh: Hà Giang - Cao Bằng Quảng Ninh.
– Khu vực Tây Bắc Bắc Bộ: Hoà Bình - Yên Bái.
– Khu vực Đồng bằng sông Hồng: Hà Nội, Thái Bình, Hải Dương, Ninh
Bình.
– Khu vực Bắc Trung Bộ: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
– Khu vực Duyên hải miền Trung: Phú Yên.
– Khu vực Tây Nguyên: Gia Lai, Kontum.
– Khu vực Đông Nam Bộ: Thành phố Hồ Chí Minh.
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: Vĩnh Long, Kiên Giang, An
Giang, Bạc Liêu, Tiền Giang.
Tuổi thọ (năm) 2004e
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (%) 2004f
GDP bình quân đầu người (VNĐ) 2004g
GDP bình quân đầu người (USD PPP) 2004h
Chỉ số tuổi thọ bình quân 2004i
Chỉ số giáo dục 2004i
Chỉ số GDP 2004i
HDI 1999i
HDI 2004i
Toàn quốc
72,1
71,9
92,2
8845
2800
0,78
0,85
0,56
0,689
0,731
Đồng bằng sông
Hồng
76,0
74,5
96,2
8340
2733
0,83
0,89
0,55
0,721
0,757
Đông Bắc
73,6
69,6
90,4
4847
1575
0,74
0,85
0,46
0,640
0,684
Tây Bắc
65,3
67,6
76,0
3546
1094
0,71
0,72
0,40
0,565
0,611
Tỉnh / Thành phố
Tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục (%) 2004đ
3.2.2. HDI của các vùng đất nước qua Báo cáo phát triển con người
Việt
Nam
xây dựng năm 2006.
20
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DỤC VÀO HDI CỦA VIỆT NAM…
Bắc Trung Bộ
78,4
71,3
93,9
4594
1500
0,77
0,89
0,45
0,662
0,704
Duyên Hải Nam
Trung Bộ
78,5
71,7
92,8
6571
2098
0,78
0,88
0,51
0,676
0,722
Tây Nguyên
73,9
65,4
88,2
4335
1325
0,67
0,83
0,43
0,598
0,646
Đông Nam Bộ
71,1
73,7
93,6
21799
6721
0,81
0,86
0,70
0,750
0,792
Đồng bằng sông
Cửu Long
61,5
72,1
89,8
7093
2239
0,79
0,80
0,52
0,669
0,702
3.2.3. HDI của 64 tỉnh thành qua Báo cáo Phát triển con người Việt
Nam xây dựng năm 2006.
a. Có 3 nhóm:
– Nhóm các tỉnh thành có chỉ số HDI ở mức phát triển cao (HDI > 0,7:
33 tỉnh).
– Nhóm các tỉnh thành có chỉ số HDI ở mức phát triển trung bình (0,6
<
HDI
< 0,7: 27 tỉnh).
– Nhóm các tỉnh thành có chỉ số HDI ở mức phát triển chậm (HDI <
0,6, 4 tỉnh).
GDP bình quân đầu người thực tế (USD 2004)
GDP bình quân đầu người (USD PPP) 2004h
Chỉ số tuổi thọ bình quân 2004i
Chỉ số giáo dục 2004i
Chỉ số GDP 2004i
HDI 1999i
HDI 2004i
94,4
11182
710
3579
0,80
0,87
0,60
0,714
0,756
Bà Rịa
72,7
75,0
94,4
34193
6516
10543
0,83
0,87
0,78
0,748
0,828
Chênh lệch xếp hạng GDP và HDI 2004
GDP bình quân đầu người (VNĐ) 2004g
72,9
Xếp hạng GDP theo USD PPP 2004
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (%) 2004f
72,6
Xếp hạng HDI 2004
Tuổi thọ (năm) 2004e
Nhóm
chỉ số
PTCN
caoa
Tỉnh / Thành phố
Tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục (%) 2004đ
b. Số liệu cụ thể của 3 nhóm:
1
1
0
21
Tuổi thọ (năm) 2004e
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (%) 2004f
GDP bình quân đầu người (VNĐ) 2004g
GDP bình quân đầu người thực tế (USD 2004)
GDP bình quân đầu người (USD PPP) 2004h
Chỉ số tuổi thọ bình quân 2004i
Chỉ số giáo dục 2004i
Chỉ số GDP 2004i
HDI 1999i
HDI 2004i
Xếp hạng HDI 2004
Xếp hạng GDP theo USD PPP 2004
Chênh lệch xếp hạng GDP và HDI 2004
Hà Nội
82,7
76,2
97,9
19206
122
0
6294
0,85
0,93
0,69
0,799
0,824
2
3
1
Tp. Hồ
Chí
Minh
75,0
76,2
93,2
2392
1
1520
7375
0,85
0,87
0,72
0,793
0,814
3
2
-1
Đà
Nẵng
81,8
76,1
96,0
1238
0
786
3954
0,85
0,91
0,61
0,760
0,793
4
5
1
Hải
Phòng
72,9
74,2
96,7
10404
661
3409
0,82
0,89
0,59
0,733
0,766
5
7
2
Bình
Dương
71,8
72,8
94,1
14220
903
4384
0,80
0,87
0,63
0,726
0,764
6
4
-2
Khánh
Hoà
74,2
73,2
93,0
10314
655
3294
0,80
0,87
0,58
0,707
0,751
7
9
2
Đồng
Nai
69,6
72,5
94,1
11848
753
3653
0,79
0,86
0,60
0,714
0,751
7
6
-1
Quảng
Ninh
74,8
72,1
94,0
10000
635
3250
0,78
0,88
0,58
0,703
0,747
9
10
1
Hải
Dương
75,2
74,5
96,3
6809
433
2231
0,83
0,89
0,52
0,711
0,745
10
17
7
Bắc
Ninh
76,9
72,4
95,6
6964
442
2282
0,79
0,89
0,52
0,680
0,735
11
16
5
Vĩnh
Phúc
67,6
73,1
95,8
6788
431
2225
0,80
0,86
0,52
0,685
0,728
12
18
6
Hưng
Yên
73,1
72,9
95,5
6259
398
2051
0,80
0,88
0,50
0,691
0,728
12
22
10
Thái
Bình
81,5
72,9
95,9
4872
309
1596
0,80
0,91
0,46
0,689
0,724
14
35
21
Hà
74,6
74,8
95,6
4529
288
1484
0,83
0,89
0,45
0,691
0,722
15
39
24
Tỉnh / Thành phố
Tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục (%) 2004đ
Đặng Quốc Bảo
- Vũng
Tàu
22
Tuổi thọ (năm) 2004e
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (%) 2004f
GDP bình quân đầu người (VNĐ) 2004g
GDP bình quân đầu người thực tế (USD 2004)
GDP bình quân đầu người (USD PPP) 2004h
Chỉ số tuổi thọ bình quân 2004i
Chỉ số giáo dục 2004i
Chỉ số GDP 2004i
HDI 1999i
HDI 2004i
Xếp hạng HDI 2004
Xếp hạng GDP theo USD PPP 2004
Chênh lệch xếp hạng GDP và HDI 2004
Vĩnh
Long
68,0
74,1
92,2
6458
410
2039
0,82
0,84
0,50
0,695
0,721
16
23
7
Cần
Thơ
57,2
72,4
89,3
10454
664
3300
0,79
0,79
0,58
0,671
0,720
17
8
-9
Cà
Mau
61,0
72,1
92,9
8312
528
2624
0,79
0,82
0,55
0,680
0,718
18
12
-6
Kiên
Giang
61,7
73,0
90,3
8091
514
2554
0,80
0,81
0,54
0,678
0,716
19
13
-6
Long
An
63,9
73,1
92,5
6839
434
2159
0,80
0,83
0,51
0,686
0,715
20
19
-1
Tiền
Giang
62,5
73,3
92,7
6570
417
2074
0,81
0,83
0,51
0,684
0,713
21
21
0
Nam
Định
75,6
72,7
96,3
4500
286
1475
0,79
0,89
0,45
0,681
0,712
22
41
19
Bình
Định
78,9
71,1
94,4
5287
336
1689
0,77
0,89
0,47
0,659
0,711
23
28
5
Quảng
Nam
80,3
72,0
92,7
4888
310
1561
0,78
0,89
0,46
0,668
0,709
24
37
13
Ninh
Bình
78,8
72,4
95,6
4182
266
1370
0,79
0,90
0,44
0,663
0,709
24
49
25
Lâm
Đồng
78,2
71,8
95,1
4854
308
1483
0,78
0,89
0,45
0,667
0,708
26
40
14
Nghệ
An
77,7
71,2
95,0
4856
308
1586
0,77
0,89
0,46
0,666
0,708
26
36
10
Tây
Ninh
61,8
71,3
92,1
7713
490
2378
0,77
0,82
0,53
0,666
0,707
28
14
-14
Hà
Tĩnh
83,7
71,1
96,3
4034
256
1318
0,77
0,92
0,43
0,666
0,706
29
51
22
Hà Tây
73,5
71,0
95,0
5028
319
1648
0,77
0,88
0,47
0,670
0,704
30
32
2
Phú
Thọ
72,4
72,0
96,2
4471
284
1453
0,78
0,88
0,45
0,675
0,704
30
42
12
70,4
70,8
96,8
5003
318
1626
0,76
0,88
0,47
0,660
0,703
32
33
1
Tỉnh / Thành phố
Tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục (%) 2004đ
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DỤC VÀO HDI CỦA VIỆT NAM…
Nam
Thái
Nguyê
23
GDP bình quân đầu người thực tế (USD 2004)
GDP bình quân đầu người (USD PPP) 2004h
Chỉ số tuổi thọ bình quân 2004i
Chỉ số giáo dục 2004i
Chỉ số GDP 2004i
HDI 1999i
91,5
6449
410
2036
0,77
0,83
0,50
0,668
Nhóm
chỉ số
PTCN
T.bìnhb
70,7
69,1
88,0
4947
314
1570
0,73
0,82
0,46
0,628
0,672
Bạc
Liêu
58,3
70,8
87,9
8542
543
2697
0,76
0,78
0,55
0,649
Thừa
Thiên
Huế
75,4
71,3
89,5
5228
332
1708
0,77
0,85
0,47
Bình
Thuận
69,6
71,7
91,8
5412
344
1669
0,78
0,84
Thanh
Hoá
77,8
70,6
94,0
4412
280
1441
0,76
Quảng
Bình
79,8
69,3
94,5
4582
291
1497
Quảng
Ngãi
80,7
71,0
89,2
4187
266
Trà
Vinh
64,3
71,1
85,5
6616
An
Giang
57,1
70,9
86,9
Hậu
Giang
61,2
71,0
Bình
Phước
72,7
Đồng
Tháp
0,701
33
24
-9
0,698
34
11
-23
0,650
0,698
35
27
-8
0,47
0,642
0,697
36
30
-6
0,78
0,45
0,659
0,697
37
44
7
0,74
0,90
0,45
0,642
0,695
38
38
0
1337
0,77
0,86
0,43
0,645
0,687
39
50
11
420
2089
0,77
0,78
0,51
0,656
0,686
40
20
-20
7288
463
2301
0,77
0,77
0,52
0,654
0,686
41
15
-26
89,2
5990
381
1891
0,77
0,80
0,49
0,685
42
26
-16
70,8
90,2
4573
290
1410
0,76
0,84
0,44
0,633
0,683
43
45
2
61,5
72,6
87,5
5081
323
1604
0,79
0,79
0,46
0,648
0,682
44
34
-10
Phú
Yên
73,8
67,8
92,2
5188
330
1657
0,71
0,86
0,47
0,631
0,681
45
31
-14
Bắc
Giang
75,2
68,9
95,3
3909
248
1270
0,73
0,89
0,42
0,632
0,680
46
56
10
Tỉnh / Thành phố
Chênh lệch xếp hạng GDP và HDI 2004
GDP bình quân đầu người (VNĐ) 2004g
71,1
Xếp hạng GDP theo USD PPP 2004
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (%) 2004f
66,7
Xếp hạng HDI 2004
Tuổi thọ (năm) 2004e
Bến
Tre
HDI 2004i
Tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục (%) 2004đ
Đặng Quốc Bảo
n
24
Tuổi thọ (năm) 2004e
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (%) 2004f
GDP bình quân đầu người (VNĐ) 2004g
GDP bình quân đầu người thực tế (USD 2004)
GDP bình quân đầu người (USD PPP) 2004h
Chỉ số tuổi thọ bình quân 2004i
Chỉ số giáo dục 2004i
Chỉ số GDP 2004i
HDI 1999i
HDI 2004i
Xếp hạng HDI 2004
Xếp hạng GDP theo USD PPP 2004
Chênh lệch xếp hạng GDP và HDI 2004
Sóc
Trăng
57,3
70,7
88,3
6280
399
1983
0,76
0,78
0,50
0,655
0,680
46
25
-21
Lạng
Sơn
74,3
67,0
92,5
5140
327
1670
0,70
0,86
0,47
0,629
0,678
48
29
-19
Tuyên
Quang
79,6
68,4
89,6
4038
257
1312
0,72
0,86
0,432
0,621
0,672
49
52
3
Đăk
Nông
74,5
67,0
93,8
4592
292
1403
0,70
0,87
0,44
0,672
49
47
-2
Đăk
Lăk
75,3
67,5
93,8
4009
255
1225
0,71
0,88
0,42
0,631
0,668
51
57
6
Hoà
Bình
69,1
68,8
94,4
3743
238
1155
0,73
0,86
0,41
0,637
0,666
52
60
8
Quảng
Trị
79,1
66,0
90,3
4427
281
1446
0,68
0,87
0,45
0,619
0,665
53
43
-10
65,1
70,4
83,1
4212
268
1299
0,76
0,77
0,43
0,616
0,652
54
54
0
Yên
Bái
68,8
68,7
87,1
3719
236
1209
0,73
0,81
0,42
0,612
0,651
55
58
3
Bắc
Kạn
77,2
68,4
88,3
3056
194
993
0,72
0,85
0,38
0,594
0,651
55
62
7
Cao
Bằng
82,3
64,7
80,9
4244
270
1379
0,66
0,81
0,44
0,576
0,638
57
48
-9
Lào
Cai
66,5
67,9
72,5
4317
274
1403
0,71
0,71
0,44
0,559
0,620
58
46
-12
Sơn La
65,5
68,0
72,9
3511
223
1084
0,72
0,70
0,40
0,550
0,606
59
61
2
Gia Lai
67,2
64,2
75,1
4264
271
1303
0,65
0,72
0,43
0,550
0,602
60
53
-7
Nhóm
chỉ số
phát
triển
công
nghệ
67,5
63,1
65,9
3302
210
1029
0,64
0,66
0,39
0,506
0,563
Tỉnh / Thành phố
Tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục (%) 2004đ
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DỤC VÀO HDI CỦA VIỆT NAM…
Ninh
Thuận
25
Tuổi thọ (năm) 2004e
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (%) 2004f
GDP bình quân đầu người (VNĐ) 2004g
GDP bình quân đầu người thực tế (USD 2004)
GDP bình quân đầu người (USD PPP) 2004h
Chỉ số tuổi thọ bình quân 2004i
Chỉ số giáo dục 2004i
Chỉ số GDP 2004i
HDI 1999i
HDI 2004i
Xếp hạng HDI 2004
Xếp hạng GDP theo USD PPP 2004
Chênh lệch xếp hạng GDP và HDI 2004
Kon
Tum
75,6
59,7
78,1
4171
265
1274
0,58
0,77
0,42
0,535
0,592
61
55
-6
Hà
Giang
72,0
61,3
74,4
2733
174
888
0,61
0,74
0,36
0,503
0,568
62
63
1
Điện
Biên
61,9
66,6
55,5
3885
247
1199
0,69
0,58
0,41
0,561
63
59
-4
Lai
Châu
60,5
64,9
55,5
2656
169
820
0,66
0,57
0,35
0,529
64
64
0
Tỉnh / Thành phố
Tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục (%) 2004đ
Đặng Quốc Bảo
thấpc
0,486
3.3. Phân tích các chỉ số giáo dục và các chỉ số phát triển khác
của Việt Nam (so sánh với quốc tế)
Báo cáo Phát triển con người 2007 - 2008 của UNDP đã phản ánh
HDI của 177 nước trên thế giới. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích tình
hình của Việt Nam trong so sánh với một số nước trên thế giới và các
nước châu Á.
3.3.1. HDI tổng quát
a. HDI là trung bình cộng của ba chỉ số thành phần T (tuổi thọ), G
(giáo dục), K (kinh tế).
T+G+K
H
=
3
26
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DỤC VÀO HDI CỦA VIỆT NAM…
b. Việt Nam trong so sánh với một số nước khác trên thế giới
Nước
Thứ hạng
HDI
Iceland
cao nhất 1/177
0,986
Siera Leon
thấp nhất 177/177
0,336
Việt Nam
thứ 105/177
0,733
El Sanvado (trên VN)
thứ 104/177
0,735
c. Việt Nam trong so sánh với một số nước của ASEAN và châu Á
Nước
Giá trị HDI
Xếp hạng
Singapore
0,922
25
Hàn Quốc
0,921
26
Brunây
0,894
39
Malaysia
0,811
63
Thái Lan
0,781
78
Trung Quốc
0,777
81
Philippin
0,771
90
Việt Nam
0,733
105
Inđônêxia
0,728
107
Ấn Độ
0,619
128
Mianma
0,583
132
Nước đồng hạng với Việt Nam là Angirêri có tuổi thọ: 71,7.
Biết chữ: 69,9%.
Đi học: 73,7%; GDPbình quân sức mua: 7.062$
27