Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

CÔNG TRÌNH NGHIÊN cứu KHOA học HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT về ưu đãi THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.45 KB, 76 trang )

1

TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp kể từ khi được hình thành đã có một
vai trò quan trọng trong việc thiết lập một hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh và
nộp thuế cho NSNN của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do hệ thống các quy định pháp luật
về ưu đãi thuế TNDN hiện nay còn khá là dàn trải, phức tạp, thậm chí một số điểm còn
chưa phù hợp với thông lệ quốc tế mà đã gây khó khăn cho các chủ thể khi thực hiện đầu
tư hay kinh doanh. Tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam” là một đề tài rất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Những
đóng góp của đề tài sẽ là những tham khảo hữu ích cho các cơ quan chức năng cũng như
doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam hiện nay
Về nội dung tóm tắt của công trình
Đề tài đã làm rõ được một số lý luận cơ bản về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như pháp luật về ưu đã thuế thu nhập doanh
nghiệp. Đồng thời đề tài đã làm rõ được nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp và phân tích được các vai trò của pháp luật ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp đến đời sống kinh tế xã hội.
Trên cơ sở các lý luận đưa ra, sau khi phân tích về các quy định pháp luật ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp tác giả đã đưa ra các đánh giá trên hai khía canh ưu, nhược điểm.
Đồng thời cũng phân tích các tác động của các quy định này với đời sống kinh tế xã hội
khi áp dụng vào thực tiễn.
Đề tài đã đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp trên cơ sở các hạn chế còn tồn tại nhằm thiết lập một hành lang pháp
lý hoàn chỉnh nhất, là môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp đâu tư tại
Việt Nam.


2

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT


1. AFTA
2. APEC
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

: ASEAN Free Trade Area( Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN)
: Asia-Pacific Economic Cooperation(: Diễn đàn Hợp tác

Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN
: ASEAN Economic Community(Cộng đồng kinh tế ASEAN)
CHXHCN
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
DN
: Doanh nghiệp
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
FDI
: Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài)
GDP
: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm nội địa)
IMF

: International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế)
KCN
: Khu công nghiệp
NSNN
: Ngân sách nhà nước
OECD
: Organization for Economic Co-operation and Development

(Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế)
13. TNDN
: Thu nhập doanh nghiệp
14. WTO
: World Trade Organization (Tổ chức Thương mại thế giới)

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT
Hình 1

Tên
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà
đầu tư

Trang
17

Bảng 1

Số thu thuế TNDN theo sắc thuế và khu vực kinh tế trong
năm 2009 và năm 2010


53

Bảng 2

Số thu thuế TNDN theo sắc thuế và khu vực kinh tế trong
năm 2014 và 7 tháng đầu năm 2015

56


3

MỤC LỤC
TÓM


4

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Đối với bất kì một quốc gia đang phát triển hay một quốc gia phát triển thì thuế
TNDN đều là một khoản thu quan trọng, chiếm một tỉ trọng lớn trong thu NSNN. Thuế
TNDN được xem như một công cụ hữu hiệu hỗ trợ Nhà nước trong việc điều tiết kinh tế
vĩ mô và thu ngân sách. Đặc biệt, thông qua ưu đãi thuế TNDN, Nhà nước thúc đẩy và thu
hút vốn đầu tư từ trong và ngoài nước, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, tạo
công ăn việc làm, gián tiếp làm tăng thu nhập dân cư. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích
cực trên sẽ tồn tại những mặt hạn chế, cụ thể nếu Nhà nước ưu đãi quá nhiều thì vừa
không có tác dụng thúc đẩy đầu tư phát triển sản xuất, vừa mất thu ngân sách.
Từ khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế, chính sách ưu đãi thuế TNDN đã được đưa

vào Luật Thuế TNDN và các văn bản pháp luật về đầu tư. Qua 20 năm thực hiện, chúng
ta đã có hệ thống pháp luật về ưu đãi thuế TNDN đa dạng và tương đối hoàn chỉnh với
các quy định chi tiết về các điều kiện ưu đãi, các hình thức ưu đãi và mức độ ưu đãi. Điều
này đã tạo ra một hành lang pháp lí quan trọng hỗ trợ các doanh nghiệp, các chủ thể trong
nền kinh tế và ngay cả các cơ quan nhà nước trong việc thu nộp, thuế một cách minh bạch
rõ ràng, hạn chế các sai lầm trong quá trình thực hiện.
Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu mà pháp luật về ưu đãi thuế TNDN đạt được thì nó
vẫn còn bộc lộ ra nhiều hạn chế. Đó là việc hệ thống các quy phạm pháp luật về ưu đãi
thuế TNDN ở nước ta hiện nay còn khá dàn trải và phức tạp. Thêm vào đó pháp luật về
ưu đãi thuế TNDN ở nước ta còn một số điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế chẳng
hạn như các hoạt động về xuất nhập khẩu. Hay việc thực hiện pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN còn chưa thật linh hoạt cũng như phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Do vậy trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu được đặt ra đối với hệ thống pháp luật về ưu
đãi thuế TNDN một mặt phải vừa thực hiện được mục tiêu quan trọng là quản lý, điều tiết
vĩ mô nền kinh tế; mặt khác vừa phải phù hợp với các thông lệ và cam kết quốc tế. Chính
vì vậy tác giả đã triển khai đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế Thu
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu


5

Tác giả nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế Thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam” nhằm:
Thứ nhất, hệ thống hoá các lí luận về thuế TNDN, ưu đãi về thuế thu nhập doanh
nghiệp cũng như các vấn đề pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thứ hai, trình bày thực trạng quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay bằng cách các đánh giá về ưu điểm hay hạn chế của đối
tượng nghiên cứu.
Thứ ba, trình bày một số các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập

doanh nghiệp ở nước ta hiện nay để hỗ trợ quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế
nói riêng cũng như hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
4. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Các quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật Việt Nam và một số
nước trên thế giới.
Về thời gian: Tính từ thời điểm Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được thông qua vào
ngày 10/05/1997 và có hiệu lực vào ngày 01/01/1999 cho đến thời điểm năm 2015
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là các phương pháp như: Phương pháp tổng hợp và
-

phân tích, phương pháp thống kê và xử lý số liệu, phương pháp chuyên gia cụ thể:
Phương pháp tổng hợp và phân tích: đề tài nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng
cách phân tích thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng sau đó tổng hợp lại để

-

thành một hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc.
Phương pháp thống kê và xử lý số liệu: nghiên cứu và đánh giá thực trạng của hệ thống

-

pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong phạm vi cả nước.
Phương pháp chuyên gia: Đề tài sử dụng phương pháp này để sử dụng kinh nghiệm trí tuệ
của các chuyên gia để nghiên cứu, đánh giá, phân tích để tìm ra bản chất của đôí tượng
nghiên cứu và đề ra các giải pháp cụ thể.


6. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 4 chương:
Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.
Chương II: Những vấn đề lí luận về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật
về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Chương III: Thực trạng quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.


6

Chương IV: Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam kể từ thời điểm Luật thuế TNDN ra đời và có hiệu lực thi hành đã có rất
nhiều tác giả quan tâm và chú ý đến vấn đề pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp. Qua đó ta có thể thấy rằng pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có sự
ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống kinh tế và xã hội ở Việt Nam. Số lượng bài nghiên cứu
phong phú, mọi khía cạnh đều được các tác giả khai thác cụ thể tương đối toàn diện các
vấn đề. Tuy nhiên ở từng tác phẩm của tác giả vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế làm cho
vấn đề nghiên cứu về pháp luật về ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam vẫn còn chưa thực sự
hoàn chỉnh.
Đầu tiên có thể kể đến tác phẩm “Chính sách ưu đãi Thuế thu nhập doanh nghiệp ở
Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Ái Liên. Trong tác phẩm nghiên cứu của mình tác giả đã
chỉ ra một cách cụ thể và sâu sắc các vấn đề về chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh

nghiệp ở Việt Nam trong những năm 2007- 2008. Cụ thể, tác giả đã đưa ra một nội dung


7

tương đối hoàn chỉnh về ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam vào thời điểm đó. Trên cơ sở đó
tác giả trình bày những nghiên cứu thực tế về thực trạng thực hiện ưu đãi thuế TNDN ở
quận Tân Bình và sau đó là đưa ra các đánh giá về tác dụng của chính sách ưu đãi thuế
TNDN đối với một số công ty tư nhân ở Việt Nam trên hai khía cạnh là ưu điểm, nhược
điểm. Ở phần cuối của đề tài, tác giả Phạm Thị Ái Liên của đã đưa ra các kiến nghị và
giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam đến năm 2020. Ta
có thể thấy nếu xét tại thời điểm đó thì đề tài nghiên cứu của tác giả đã có những điểm
thành công nhất định khi có thể nhận thức đầy đủ và tương đối toàn diện các vấn đề phân
tích. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam luôn có những biến đổi và đề tài
nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Ái Liên đã bộc lộ ra một số hạn chế nhất định. Thứ nhất,
tác giả đã chưa chỉ ra được cách định nghĩa cụ thể về ưu đãi thuế TNDN hay pháp luật về
ưu đãi thuế TNDN. Thêm vào đó những nội dung pháp luật của ưu đãi thuế TNDN còn rất
nhiều hạn chế như chưa đầy đủ về thuế suất ưu đãi thuế TNDN, cách trình bày tương đối
dàn trải và phức tạp. Thứ hai, khi trình bày về thực trạng của chính sách ưu đãi thuế
TNDN tác giả đã chọn số liệu tại quận Tân Bình. Tuy tác giả đã phân tích tương đối cụ
thể với các số liệu rõ ràng nhưng ta có thể thấy với phạm vi địa lý về kinh tế thì rõ ràng sự
nghiên cứu của tác giả vẫn còn trên phạm vi hẹp và qua đó cũng khó có thể đưa ra các
đánh giá về chính sách ưu đãi thuế TNDN trên phạm vi cả nước. Và rất rõ ràng tác giả đã
chỉ có những đánh giá về tác dụng của chính sách ưu đãi thuế TNDN đối với một số công
ty tư nhân ở Việt Nam trên dựa trên kết quả nghiên cứu của khoa Kinh tế Trường ĐH
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Và cuối cùng khi đưa ra các giải pháp tác giả cũng
không có sự bóc tách của giữa hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế TNDN với hoàn thiện cơ
chế trong công tác triển khai vì vậy mà những kiến nghị của tác giả cũng chưa thực sự rõ
ràng nhất. Tuy nhiên xét theo hoàn cảnh những năm 2007- 2008 thì đề tài nghiên cứu của
tác giả Phạm Thị Ái Liên đã có những nhận thức ở một khía cạnh nào đó có thể đánh giá

là tương đối đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước
Đề tài nghiên cứu “Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam”
(năm 2012) của tác giả Lưu Thị Tuyết. Có thể nói đây là một trong các công trình nghiên
cứu vừa có chiều toàn diện lại sâu sắc cụ thể. Về mặt lí luận tác giả đã đưa ra định nghĩa
thế nào là pháp luật về ưu đã thuế TNDN từ đó có cách hiểu đúng đắn về đối tượng


8

nghiên cứu. Dựa trên cơ sở xác định lí luận một cách đúng đắn tác giả Lưu Thị Tuyết đã
đưa một cách toàn diện cụ thể về nội dung pháp luật ưu đãi về thuế TNDN từ đó đưa ra
nhưng số liệu thuế một cách rõ ràng và dễ hiểu. Tác giả cũng đưa ra những đánh giá việc
thực hiện pháp luật ưu đãi thuế một cách toàn diện ở cả mặt tích cực và tiêu cực trên
phạm vi cả nước. Cuối cùng những giải pháp cho việc hoàn thiện thuế thu nhập doanh
nghiệp cũng được tác giả xét ở trên cả phương diện nội dung pháp luậtvề mặt quy định và
công tác triển khai thực hiện. Như vậy có thể thấy đề tài nghiên cứu của tác giả Lưu Thị
Tuyết đã có cái nhìn vừa bao quát lại cụ thể từ đó có những đóng góp nhất định vào công
tác làm luật và thi hành luật của các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên nhìn vào thời
điểm năm 2012 mà tác giả nghiên cứu có thể thấy rất nhiều sự khác biệt cả về kinh tế,
chính trị hay xã hội so với thời điểm hiện tại. Về mặt kinh tế, cuối năm 2015, Việt Nam đã
hoàn thành việc kí kết để tham gia vào Cộng đồng kinh tế Asean ( viết tắt là AEC) cũng
như Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương TPP. Về mặt pháp luật, Chính
phủ và Bộ Tài Chính ban hành sửa đổi các thông tư nghị định qua các năm mà mới nhất là
Thông tư 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 để sửa đổi và bổ sung những thông tư, nghị
định được ban hành vào năm 2013, 2014 và các năm trước đó. Như vậy xét về nhiều mặt
những nghiên cứu của tác giả đã không còn thực sự phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được
sự thay đổi của kinh tế- xã hội.
Ngoài ra còn có rất nhiều các tác phẩm được đăng trên tạp chí tài chính có liên quan
đến chủ đề ví dụ như “ Ưu đãi thuế TNDN- Một số vấn đề đặt ra” của tác giả Nguyễn Văn
Phụng. Tác giả đã có cách phân tích và đánh giá hết sức sâu sắc về vấn đề là nguồn tài

liệu rất hữu ích để tham khảo về mặt lý luận. Tuy nhiên do sự bó hẹp trong dung lượng
của một bài báo mà tác giả chưa chỉ ra được các thực trạng với các số liệu cụ thể cho nên
vẫn còn mặt hạn chế nhất định. Đồng thời còn các tác phẩm trong và ngoài nước về cùng
chủ đề với số lượng phong phú tuy nhiên có thể nói là tính cấp thiết với đề tài là chưa cao.
1.2.Định hướng nghiên cứu đề tài của tác giả

Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã tiếp tục tiếp thu mặt lí luận về pháp
luật ưu đãi thuế TNDN của các tác giả trước cùng những vấn đề lí luận có liên quan như
pháp luật về thuế TNDN hay ưu đãi thuế TNDN dựa trên tinh thần khách quan về vấn đề
nghiên cứu. Trong phần này tác giả chủ yếu thông qua cách định nghĩa, phân tích và tổng


9

hợp để đưa ra các khái niệm có tính bao quát nhất. Tuy nhiên, không dừng lại ở việc tiếp
thu, ở phần thực trạng tác giả đã phân tích các quy định pháp luật về ưu đãi thuế TNDN
hiện hành ở Việt Nam một cách cụ thể nhất theo cách nhìn nhận phù hợp với bối cảnh
thời đại- sự thay đổi về kinh tế - xã hội của đất nước nói riêng và trên toàn thế giới nói
chung. Trên cơ sở tổng hợp các số liệu sau khi áp dụng pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp trong thực tiễn tác giả đã đưa ra các đánh giá về ưu điểm và hạn chế của
pháp luật về ưu đãi thuế TNDN trong nước hiện nay. Bằng phương pháp thống kê và xử
lý sô liệu tác giả đã đưa ra một số các số liệu cụ thể về ưu đãi thuế TNDN sau khi pháp
luật về ưu đãi thuế TNDN được đưa vào thực hiện trên phạm vi cả nước. Tác giả đưa ra 2
bảng số liệu về việc thu nộp thuế TNDN vào NSNN cùng với ưu đãi thuế ở hai khoảng
thời gian, đó là năm 2009- 2010 và năm 2014- 2015. Tác giả chủ định đưa ra 2 bảng số
liệu như vậy để có thể có những số liệu cụ thể để từ đó đánh giá rõ ràng về hiệu quả cũng
như hạn chế về việc thực hiện pháp luật về ưu đãi thuế TNDN trên phạm vi cả nước. Với
các số liệu thực tế này chúng ta sẽ có cái nhìn cụ thể nhất về hệ thống các quy định pháp
luật về ưu đãi thuế TNDN hiện hành. Nhận thức được những hạn chế còn tồn tại, tác giả
đã chủ động đề ra một số các giải pháp cụ thể để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ưu đãi

thuế TNDN trong các quy định cũng như ở cả công tác triển khai thực hiện để thực sự phù
hợp với các đường lối, quan điểm mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, phù hợp với hoàn cảnh
kinh tế xã hội trong nước cũng như bối cảnh hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh
tế Việt Nam hiện nay.


10

CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI THUẾ THU
NHẬP DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP
2.1. Một số vấn đề lí luận về thuế thu nhập doanh nghiệp
2.1.1. Khái niệm thuế thu nhập doanh nghiệp
Theo từ điển Wikipedia về Thuế thu nhập thì “Thuế thu nhập là thuế đánh vào thu
nhập của cá nhân và pháp nhân”[33]. Trong hệ thống thuế ở các quốc gia, thuế thu nhập
là loại thuế áp dụng có tính phổ biến và rất được coi trọng, đặc biệt là ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển. Sự ra đời của thuế thu nhập bắt nguồn từ các lý do chính sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập đảm
bảo công bằng xã hội.
Thứ hai, sự ra đời của thuế thu nhập còn bắt nguồn từ nhu cầu tài chính của nhà
nước, nhà nước nào cũng cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, cùng với xu
thế phát triển kinh tế xã hội, khả năng mang lại thu nhập cho mỗi người ngày càng cao,
nhà nước tìm thấy khả năng huy động nguồn tài chính to lớn cho mình thông qua thuế thu
nhập.


11

Thứ ba, thuế thu nhập là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt động
kinh tế - xã hội.

Trong hệ thống luật thực định về thuế ở các nước, thuế thu nhập được phân chia
thành hai loại là thuế TNDN và thuế thu nhập cá nhân. Việc phân chia thuế thu nhập
thành hai loại thuế nêu trên là căn cứ vào đối tượng nộp thuế thu nhập.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế
doanh nghiệp theo thuế suất được quy định và doanh nghiệp phải có trách nhiệm khai
báo, nộp thuế đầy đủ, kịp thời cho nhà nước. Tuy nhiên, luật các nước không có sự đồng
nhất trong việc xác định phạm vi đối tượng nộp thuế. Chẳng hạn, Luật Thuế thu nhập
công ty của Thụy Điển quy định: “Các công ty, các chủ thể kinh doanh có số vốn từ
50.000 Curon trở lên và có lao động làm thuê thì được coi là đối tượng nộp thuế thu nhập
công ty”. Còn Bộ luật thuế thu nhập công ty của Thái Lan quy định: “Đối tượng nộp thuế
thu nhập công ty chỉ bao gồm các công ty và các tổ chức hùn vốn có tư cách pháp nhân”.
Pháp luật Mỹ, Nhật quy định: “Chủ thể kinh doanh là các tổ chức kinh tế thì phải nộp
thuế thu nhập công ty”. Trong khi đó pháp luật thuế TNDN của Việt Nam lại quy định đối
tượng nộp thuế TNDN là các tổ chức, cá nhân kinh doanh có thu nhập. Như vậy, ở Việt
Nam cá nhân kinh doanh, hộ gia đình có thu nhập từ kinh doanh cũng là đối tượng nộp
thuế TNDN.
Thuế TNDN ở các nước đều quy định tính thu nhập chịu thuế trong một khoảng
thời gian xác định là năm tài chính. Thu nhập chịu thuế được tính trên cơ sở là doanh thu
trừ chi phí hợp lý cộng với các khoản thu nhập khác. Đa số các nước đều áp dụng thuế
suất thuế thu nhập công ty theo tỷ lệ phần trăm cố định để đảm bảo công bằng và thuận
lợi trong công tác quản lý thu nộp thuế. Đồng thời, thuế thu nhập công ty ở các nước đều
có quy định về chế độ ưu đãi thuế, miễn giảm thuế. Tuy nhiên do chính sách, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia là khác nhau mà các nước có sự quy định về
ưu đãi thuế cho ngành nghề, lĩnh vực đầu tư khác nhau. Ở Việt Nam, thuế TNDN cũng có
quy định về mức thuế suất ưu đãi, về các trường hợp được miễn, giảm thuế cho các đối
tượng kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư theo chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.


12


2.1.2. Đặc điểm thuế thu nhập doanh nghiệp
Thứ nhất, thuế TNDN là thuế trực thu, đối tượng nộp thuế TNDN là các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đồng thời là người chịu
thuế.
“Thuế trực thu là thuế điều tiết vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế”[35].
Là một loại thuế trực thu, thuế TNDN mang đầy đủ các đặc điểm các đặc điểm của một
loại thuế trực thu, đó là đối tượng nộp thuế theo luật định đồng nhất với người phải chịu
thuế tức là thuế thu trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế.
Thứ hai, thuế TNDN phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
hoặc các nhà đầu tư. Thuế TNDN được xác định trên cơ sở thu nhập chịu thuế, nên chỉ
khi các doanh nghiệp, các nhà đầu tư kinh doanh có lợi nhuận mới phải nộp thuế TNDN.
Về nguyên tắc, loại thuế này có tính đến khả năng của ngừơi nộp thuế, có nghĩa là
chủ thể có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn, còn chủ thể có thu nhập thấp hơn
thì sẽ nộp ít hơn.
Thứ ba, thuế TNDN là thuế khấu trừ trước thuế thu nhập cá nhân. Thu nhập mà các cá
nhân nhận được từ các hoạt động đầu tư như lợi tức cổ phần, lãi tiền gửi ngân hàng, lợi
nhuận do góp vốn liên doanh, liên kết là phần thu nhập sau khi nộp thuế TNDN. Do vậy,
thuế TNDN cũng có thể coi là một biện pháp quản lí thu nhập cá nhân.
Thuế TNDN đánh vào phần thu nhập từ hoạt động kinh doanh của các công ty trước
khi chia cho những người góp vốn. Thuế TNDN đánh vào phần thu nhập mà những người
góp vốn nhận được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN mà họ đầu tư vào. Vì vậy,
thu nhập đã chịu thuế TNDN khi đem chia cho những người góp vốn sẽ được khấu trừ
phần thuế TNDN đã nộp khi tính thuế TNDN hoặc không chịu thuế nữa.
Thứ tư, tuy là thuế thuế trực thu nhưng thuế TNDN không gây phản ứng mạnh mẽ
bằng thuế thu nhập cá nhân.
2.2. Một số vấn đề lí luận về pháp luật ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
2.2.1. Khái niệm ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Một trong các mục tiêu cơ bản mà hệ thống chính sách thuế các nước bắt buộc phải
đảm bảo hướng tới là đảm bảo tính cạnh tranh của hệ thống thuế trong điều kiện nền kinh

tế thế giới ngày càng có xu hướng toàn cầu hóa. Cạnh tranh về thuế là một quá trình mà ở
đó các nước ban hành các chính sách thuế có lợi thế so sánh nhằm thu hút nguồn lực, lao
động và các yếu tố kinh tế khác từ bên ngoài vào nước mình, hoặc đồng thời để hạn chế
sự di chuyển nguồn lực từ trong nước ra nước ngoài. Mặc dù, có rất nhiều quyết định ảnh


13

hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư tuy nhiên phải khẳng định rằng ưu đãi thuế đã
chiếm giữ một vai trò không hề nhỏ trong việc tác đến quyết định của các nhà đầu tư.
Chính sách ưu đãi thuế không những thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với các đối
tượng nộp thuế khi họ gặp các rủi ro khách quan dẫn đến tổn thất tài sản hoặc thu nhập,
thể hiện sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế mà quan trọng hơn
nữa chính sách ưu đãi thuế là công cụ để nhà nước quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội.
Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư theo 2 nhóm:

1. Sự minh bạch, đơn giản, ổn định,

Các yếu tố
liên quan đến
thuế
Các yếu tố ảnh
hưởng đến
quyết định của
các nhà đầu tư

chắc chắn khi thực hiện các Luật
thuế và quản lý thuế
2. Thuế suất
3. Các ưu đãi thuế


1. Độ lớn của thị trường
2. Khả năng tiếp cận nguồn nguyên liệu

Các yếu
ngoài thuế

thô: tài nguyên thiên nhiên, nguồn

tố
3.
4.
5.
6.

cung cấp năng lượng
Trình độ lao động
Khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng
Chi phí vận chuyển
Khả năng tiếp cận thị trường đầu ra
của sản phẩm(nhu cầu tiêu dùng cao,
chí phí xuất khẩu thấp)

7. Sự ổn định chính trị
8. Sự ổn định kinh tế vĩ mô
9. Chi phí tài chính


14


Hình 1 : Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư[24]
(Theo Tax incentives for Investment – A global Perspective: experiences in MENA
and non- MENA countries –OECD).
Ưu đãi thuế là biện pháp được sử dụng một cách phổ biến giữa các quốc gia, đặc
biệt các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Mục tiêu cơ
bản của việc áp dụng các hình thức ưu đãi thuế là nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài; ưu
tiên phát triển một số ngành, vùng, lĩnh vực; khuyến khích xuất khẩu; hoặc có thể nhằm
giải quyết các khó khăn tạm thời, cấp bách trước mắt về vốn cho doanh nghiệp…
Theo từ điển Wikipedia thì “ưu đãi thuế là các quy định về thuế của một quốc gia
nhằm khuyến khích, thúc đẩy một số hoạt động kinh tế đặc biệt”.[33]
Theo các nhà kinh tế thuộc quỹ tiền tệ quốc kinh tế IMF thì “ưu đãi thuế là các
biện pháp nhằm khuyến khích các hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động đầu tư”.[24]
Theo từ điển Collins thì cho rằng “Ưu đãi thuế chính là việc chính phủ cho phép
giảm trừ một số tiền thuế nào đó cho một nhóm người cụ thể hoặc một tổ chức cụ thể.”
Tuy nhiên, theo từ điển kinh doanh thì lại cho rằng ưu đãi thuế là việc miến hay
giảm thuế cho một hoạt động nào đó như việc đầu tư mang tính chất vốn trong một giai
đoạn nhất định.
Như vậy, trong tất cả các khái niệm ưu đãi thuế đều được hiểu là việc khuyến
khích tạo điều kiện cho người nộp thuế. Việc khuyến khích này có thể nhằm mục tiêu
cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài hoặc có thể nhằm hỗ trợ sự phát triển cho một
hoặc một số hoạt động kinh tế nào đó trong nội địa một quốc gia. Ưu đãi thuế có thể thực
hiện trong một thời gian dài hoặc một giai đoạn nhất định.
2.2.2. Khái niệm pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Pháp luật là hệ thống các quy tắc hành vi, quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.[35]
Theo như lí luận về ưu đãi thuế TNDN thì ta có thể hiểu một các chung nhất về ưu đãi
thuế TNDN là các biện pháp nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế TNDN cho các nhà đầu
tư, khuyến khích và thu hút đầu tư mà Nhà nước dành cho những DN hoặc những nhóm



15

DN nhất định (ưu đãi về thuế suất, thời gian miễn giảm...) so với những đối tượng chịu
thuế khác trong cùng điều kiện nhất định.
Do vậy pháp luật về ưu đãi thuế TNDN được hiểu là hệ thống các quy định về những
biện pháp, những lợi thế về thuế do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được nhà nước
đảm bảo thực hiện nhằm giảm bớt gánh nặng thuế TNDN cho các nhà đầu tư, mà Nhà
nước dành cho những DN hoặc những nhóm DN nhất định (ưu đãi về thuế suất, thời
gian miễn giảm...) so với những đối tượng chịu thuế khác trong cùng điều kiện nhất định.
Pháp luật ưu đãi thuế TNDN được coi là một bộ phận trong chiến lược khuyến
khích phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Khi nói đến chiến lược của
một đất nước là nói về quan điểm, cách nhìn nhận chính thống của nhà nước đó về một
lĩnh vực, một hoạt động trong một giai đoạn nhất định. Các quan điểm chính thống của
nhà nước thuộc phạm trù ý chí. Để cụ thể hoá các quan điểm chính thống này, nhà nước
thông qua hình thức các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.
Trong mỗi quốc gia khác nhau, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật cũng khác
nhau. Do vậy, khi nghiên cứu pháp luật về ưu đãi thuế TNDN của mỗi nước cần phải xuất
phát từ những quy định cụ thể của nước đó về văn bản quy phạm pháp luât.
Cũng như pháp luật về thuế TNDN, nội dung điều chỉnh của pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN cũng bao hàm một cách tổng quát, đầy đủ các vấn đề có liên quan. Đề cập đến đầu
tiên của pháp luật về ưu đãi thuế TNDN là các quy định về điều kiện áp dụng ưu đãi thuế
TNDN; các mức thuế suất ưu đãi đối với từng đối tượng cụ thể được quy định, thời gian
được hưởng ưu đãi hay trình tự và thủ tục thực hiện…
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
2.3.1. Đường lối chính sách của Đảng Cộng sán Việt Nam
Theo điều 4 Hiến pháp 1992 có sửa đổi và bổ sung năm 2013 “Đảng Cộng sản Việt
Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng”[34]. Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh
tế - xã hội thông qua việc ban hành các đường lối, chính sách, quan điểm làm định hướng
cho mọi khía cạnh, mọi lĩnh vực quan trọng của đời sống kinh tế xã hội. Đường lối, chính


16

sách của Đảng có thể coi như kim chỉ nam cho các cơ quan chức năng của bộ máy nhà
nước trong việc ban hành, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật để tạo ra sự
thống nhất đồng bộ. Do vậy, pháp luật chính là sự cụ thể hóa các đường lối chính sách của
Đảng, đặc biệt pháp luật về ưu đãi thuế TNDN chính là sự cụ thể hóa các chính sách quan
điểm của Đảng về kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, khi xem xét đến các nhân tố chi phối đến
pháp luật ưu đãi về thuế TNDN chúng ta không thể không xét đến sự ảnh hưởng của các
quan điểm, đường lối của Đảng.
Thuế được đặt ra nhằm mục đích hình thành nguồn tài chính tập trung để sử dụng
cho mục đích chi tiêu công cộng. Vì vậy, việc đặt ra các loại thuế, mức thuế suất để đạt
đến một tỷ lệ huy động nhất định hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của nhà nước tức các
quan điểm đường lối mà Đảng đã thông qua. Cùng với một mục tiêu tối thượng là phát
triển kinh tế, xây dựng đất nước, nhưng trong nhìn nhận và đánh giá của mình, nhà nước
cho rằng nên hỗ trợ ngành này, địa phương này, hạn chế ngành kia, địa phương kia để có
được một nhịp độ phát triển và một cơ cấu kinh tế tối ưu. Những nhận định và đường lối
chính trị này được thể hiện thông qua các luật thuế, các quy định pháp luật về ưu đãi thuế.
Các luật thuế nói chung, pháp luật ưu đãi thuế TNDN nói riêng phải thể hiện được các
quan điểm chính trị, đường lối chính sách Đảng và của nhà nước trên từng lĩnh vực, trong
từng thời kỳ để đảm bảo việc điều hành đất nước thông suốt.
2.3.2. Các cam kết quốc tế Việt Nam tham gia hoặc kí kết
Mối tương quan với các cam kết quốc tế về thuế và các Hiệp định về thuế chỉ phát
sinh trong hệ thống thuế của một nước khi nước đó tham gia hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế. Đây là yếu tố mới phát sinh trong hệ thống, tuy nhiên chúng có tác động lớn đến
hệ thống pháp luật thuế của nước đó. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các nước

phải chấp nhận những điều khoản về thuế mà các tổ chức thương mại, tài chính chi phối
để áp dụng chung. Bên cạnh đó, để tránh xung đột pháp lý trong việc áp dụng các luật
thuế đối với các công dân của các nước khác trên lãnh thổ nước mình, hoặc công dân của
nước mình trên lãnh thổ nước khác, các nước tiến hành ký các Hiệp định song phương về
thuế. Việc ký kết các hiệp định và cam kết về thuế buộc các nước phải điều chỉnh hệ
thống pháp luật thuế nội địa cho tương thích. Đây chính là nguồn luật mới của hệ thống
pháp luật thuế nước sở tại. Ngoại trừ một số trường hợp không thể đưa vào nội luật, còn


17

lại nội dung các cam kết phải được thể hiện trong hệ thống pháp luật thuế để cho mọi đối
tượng nộp thuế đều có thể nắm bắt và thực thi. Dù cho các cam kết về thuế trong các Hiệp
định cũng như Cam kết quốc tế không là ý muốn của nhà nước, nhưng khi đã chấp thuận
những cam kết này, thì nhà nước đó đương nhiên xem đó là ý chí của mình. Vì vậy, về
mặt nào đó, có thể xem hệ thống các cam kết quốc tế về thuế cũng là một bộ phận bổ trợ
của hệ thống pháp luật thuế nói chung và hệ thống pháp luật ưu đãi thuế nói riêng trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Các mối quan hệ giữa các yếu tố (Luật đầu tư hay Luật quản lý thuế…) trong tương
quan hệ thống, các yếu tố có mối quan hệ tác động qua lại khăng khít với nhau. Để hệ
thống hoạt động ổn định, các nhà nước thường quy định quy tắc ứng xử giữa các mối
quan hệ trong hệ thống. Trong hệ thống pháp luật thuế, việc quy định các mối quan hệ
này thường được cụ thể hoá trong Luật ứng xử hay Luật quản lý thuế. Tùy theo nhận định
về hệ thống thuế mà các nội dung trong Luật ứng xử hay Luật quản lý thuế được thiết kế.
Tuy nhiên, nội dung cốt lõi không thể thiếu được là quy định mối quan hệ giữa bộ máy
thu thuế với đối tượng nộp thuế .
Các cam kết quốc tế và các Hiệp định về thuế đã áp đặt các quan điểm chính trị
của các quốc gia khác trong khối liên kết, hoặc bên ký kết lên hệ thống chính sách
thuế(đặc biệt là các quy định pháp luật về ưu đãi thuế TNDN), buộc quốc gia tham gia hội
nhập phải điều chỉnh chính sách thuế của mình theo xu hướng ưu tiên cho những cam kết

về thuế chung. Các chính sách thuế quan và thuế nội địa của các nước phải sửa đổi lại cho
phù hợp với các cam kết quốc tế (như các cam kết gia nhập AFTA, WTO, APEC, TPP,
AEC...).
2.3.3. Trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Điều này thể hiện ở chỗ thuế được đánh trên phần lớn các hoạt động kinh tế, các
hoạt động tạo ra GDP hàng năm cho đất nước. Do vậy, việc ban hành các quy định pháp
luật về thuế phải gắn liền với các điều kiện kinh tế cụ thể của từng hoạt động. Do đó, kinh
tế là cơ sở của thuế. Trên cơ sở kinh tế, các quy định pháp luật về thuế nói chung, pháp
luật về ưu đãi thuế TNDN nói riêng được xây dựng mới mang tính chất khả thi cao. Việc
ban hành các quy định pháp luật về ưu đãi thuế TNDN không gắn kết với điều kiện kinh
tế của từng hoạt động sẽ làm cho các hoạt động kinh tế hỗn loạn và làm chậm đà phát


18

triển. Một chính sách ưu đãi thuế TNDN tốt là vừa huy động được nguồn tài chính dồi
dào vào NSNN nhưng cũng vừa tạo điềukiện để cho các hoạt động kinh tế phát triển.
Những yếu tố kinh tế thường tác động đến các quy định pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình
quân đầu người, giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường, sự biến động của Ngân sách,
tỷ giá hối đoái...
Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố kinh tế đối với pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN để thấy rõ hơn về bản chất kinh tế của thuế và quán triệt quan điểm việc xây dựng
các quy định pháp luật về ưu đãi thuế TNDN phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể
của nền kinh tế và dựa trên các chính sách phát triển kinh tế từng thời kỳ của mỗi quốc
gia.
2.3.4. Phẩm chất đạo đức và năng lực của đội ngũ cán bộ ngành thuế và doanh
nghiệp
Theo quan điểm Mác-xít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm
một hệ thống các quan điểm, quan niệm, quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Như vậy

đạo đức chính là nhu cầu tất yếu khách quan, nhưng lại là vấn đề có tính lịch sử. Nó còn
tồn tại một cách tất yếu khách quan nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi, quan hệ ứng xử của
con người với nhau trong xã hội. Là những cán bộ ngành thuế- đại diện cho quyền lực của
Đảng và Nhà nước chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân thì phẩm chất của họ
cần vững vàng và trong sáng hơn ai hết. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường và mở
cửa, trước sự cám dỗ của tiền và vật chất, trước những hành động chống phá của các thế
lực thù đich nếu không có một phẩm chất đạo đức thực sự trong sạch thì rất có thể dẫn
đến những hành vi sai lệch làm cho pháp luật về ưu đãi thuế TNDN không phát huy được
đúng vai trò của nó, thậm chí sẽ trở thành công cụ để một số ít những cá nhân thoái hóa
kiếm lợi cho bản thân. Tuy nhiên, ngược lại nếu tất cả đội ngũ cán bộ ngành thuế đều có
một phẩm chất đạo đức trong sáng kết hợp với năng lực đào tạo chuyên môn giỏi thì sẽ có
những tác động hết sức tích cực đối với với ban hành cũng như thực hiện những quy định
pháp luật về ưu đãi thuế TNDN.


19

Xét về chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thuế thì doanh nghiệp cũng chính là
một nhân tố có những tác động quan trọng tới việc thực thi pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN. Sự tác động này được thể hiện qua việc doanh nghiệp có tích cực chủ động tìm
hiểu những quy định pháp luật về ưu đãi thuế TNDN hay không. Sự tác động này được
thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tham gia vào quan hệ pháp luật về thuế với thái độ
như thế nào tức là tích cực hay tiêu cực. Nếu doanh nghiệp nhận thức đúng về các quy
định trong pháp luật về ưu đãi thuế TNDN, tuân thủ theo đúng nghĩa vụ và hưởng đúng
những quyền lợi mà mình được hưởng thì những quy định pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN sẽ từ văn bản mà đi vào thực tế cuộc sống một cách hiệu quả và thiết thực nhất.
2.4. Vai trò của pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
2.4.1. Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tạo điều kiện và cơ sở pháp
lí quan trọng cho việc ổn định nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của ngân sách nhà
nước

Pháp luật về ưu đãi thuế TNDN bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu
thuế của nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của chủ thể đủ điều kiện theo quy định. Điều này có
nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có được khi các bên thực hiện đúng quy định của pháp luật ưu
đãi thuế TNDN.
Trước hết cần khẳng định nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu
NSNN. Nhà nước ban hành pháp luật về ưu đãi thuế TNDN và ấn định các mức thuế ưu
đãi đối với các pháp nhân cụ thể. Cũng như Luật nói chung, pháp luật ưu đãi thuế TNDN
có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội về thuế. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất
của sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu- nộp thuế nhằm tạo quỹ NSNN. Việc các chủ thể
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật về ưu đãi thuế TNDN đã
tạo ra nguồn thu tài chính quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân
sách. Như vậy, nguồn thu từ ưu đãi thuế TNDN nói riêng và nguồn thu từ thuế nói chung
đã có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu NSNN.
Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết.


20

Điều này đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật ưu đãi về thuế
TNDN.
2.4.2. Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp được sử dụng như một
công cụ để điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của
nhà nước
Ngoài việc huy động nguồn thu cho NSNN, pháp luật về ưu đãi thuế TNDN còn có
vai trò quan trọng trong việc điều tiết kinh tế vĩ mô. Là một bộ phận của hệ thống pháp
luật Việt Nam, pháp luật về ưu đãi thuế TNDN đóng vai trò là công cụ để điều tiết vĩ mô
của nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật về ưu đãi thuế TNDN, Nhà
nước thực hiện việc thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều
tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lí, điều tiết tới mọi mặt của đời sóng kinh

tế- xã hội. Bằng hệ thống pháp lật về ưu đãi thuế TNDN, Nhà nước thể hiện ý chí của
mình đối với việc phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng
xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, các cá nhân có thể tồn tại và vận động
theo nhu cầu và lợi ích của chính mình. Điều này có thể tổn thương đến trật tự xã hội
cũng như định hướng của từng nhà nước trong từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.
Giải quyết vấn đề này pháp luật thuế nói chung và pháp luật về ưu đãi thuế TNDN nói
riêng có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt động, vào quyết định đầu tư
của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp
luật về ưu đãi thuế TNDN, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế
mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước pháp luật về
ưu đãi thuế TNDN có những quy định khác nhau giữa nghĩa vụ nộp thuế của các đối
tượng ưu tiên và các đối tượng hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng đến cơ cấu tìm
kiếm thu nhập của vực các đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng vốn chu
chuyển từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật về ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp của các quốc gia trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu
trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, các mức thuế suất ưu đãi
đối với các đối tượng cụ thể khác nhau đều có thể tác động đến các ngành nghề, qua đó
đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế.


21

2.4.3. Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ góp phần đảm
bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội
Hệ thống pháp luật về ưu đãi thuế TNDN mói nhất được áp dụng thống nhất chung
cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình
đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi pháp nhân cũng như thể
nhân. Sự bình đẳng công bằng đó được thể hiện thông qua các chính sách động viên giống
nhau giữa các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạch định giống
nhau đảm bảo công bằng xã hội.

Hệ thống pháp pháp luật về ưu đãi thuế TNDN bao gồm các quy định về những biện
pháp, những lợi thế về thuế do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được nhà nước đảm
bảo thực hiện nhằm giảm bớt gánh nặng thuế TNDN cho các nhà đầu tư, mà Nhà nước
dành cho những DN hoặc những nhóm DN nhất định (ưu đãi về thuế suất, thời gian miễn
giảm...) so với những đối tượng chịu thuế khác trong cùng điều kiện nhất định. Thông qua
các quy định này các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sẽ nhận thức được quyền và
lợi ích hợp pháp của mình để thực hiện đúng những nghĩa vụ và những quyền lợi của
mình. Từ đó sự bình đẳng trong xã hội được đảm bảo dưới sự điều tiết của Nhà nước.
Có thể khẳng định pháp luật về ưu đãi thuế TNDN có vai trò quan trọng trong việc
giúp nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của mình. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn
chế khoảng cách giàu nghèo, góp phần thực hiện công bằng bình đẳng xã hội. Bằng
những quy định của pháp luật về ưu đãi thuế TNDN, nhà nước phát huy trách nhiệm của
mỗi cá thể với cộng đông xã hội.
2.4.4. Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp quản lí các hoạt động thu
nộp thuế
Từ phương diện quản lí Nhà nước, pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
được xem như một công cụ hữu hiệu trong việc quản lí các hoạt động thu, nộp thuế nhằm
khai thác vai trò tích cực đồng thời hạn chế các tiêu cực của hoạt động này. Xuất phát từ
bản chất của quan hệ thuế là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự
bản thân nó đã là một “ mảnh đất màu mỡ” làm nảy sinh các hoạt động xã hội tiêu cực,
làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN nhà nước đã đưa ra các giới hạn hành lang, thiết lập các hàng rào pháp lí để các


22

chủ thể có thể dựa vào đó mà hoạt động đúng theo quy định của pháp luật. Vượt qua
khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chế tài theo đúng các quy định đã ban
hành.
Tóm lại, pháp luật về ưu đãi thuế TNDN nói riêng và pháp luật về thuế nói chung ra

đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác,
pháp luật về ưu đãi thuế TNDN ra đời là do đòi hỏi của chính các quan hệ thuế. Đến lượt
mình, pháp luật về ưu đãi thuế TNDN lại tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát
sinh, phát triển theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn. Trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật về ưu đãi thuế TNDN có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc kiến tạo một môi trường chính trị, kinh tế- xã hội ổn định, tiến bộ, làm nền
tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công.
2.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về pháp luật ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp và bài học đối với Việt Nam
2.5.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về pháp luật ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp


Malaysia
Tại Malaysia, hệ thống pháp luật về ưu đãi thuế đối với hoạt động đầu tư được quy

định tại Luật Thuế Thu nhập năm 1967, Luật Hải quan năm 1967, Luật Thuế hàng hoá
năm 1972, Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt năm 1976, Luật Khuyến khích đầu tư năm 1986,
Luật Các khu tự do năm 1990. Các Luật này quy định các hoạt động đầu tư trong các lĩnh
vực: sản xuất, nông nghiệp, du lịch (bao gồm cả khách sạn), dịch vụ, nghiên cứu phát
triển, giáo dục đào tạo và bảo vệ môi trường.
Ưu đãi thuế dành cho lĩnh vực sản xuất gồm 2 loại: ưu đãi dành cho DN đi tiên phong
(Pioneer Status: PS) và hỗ trợ cho hoạt động đầu tư (Investment Tax Allowance: ITA).
Các ưu đãi này được cấp cho DN trên cơ sở giá trị gia tăng của hoạt động sản xuất, công
nghệ áp dụng, hay mức độ liên kết công nghiệp mà dự án đầu tư đem lại. Các dự án được
hưởng ưu đãi được coi là các hoạt động hay sản phẩm khuyến khích đầu tư.
DN đạt các tiêu chuẩn của DN đi tiên phong (được xác nhận thuộc ngành công nghiệp
mũi nhọn) sẽ được giảm 70% thuế TNDN trong vòng 5 năm. Theo đó, DN chỉ phải nộp



23

30% số thu nhập chịu thuế bắt đầu từ ngày đi vào sản xuất (Production Day), ngày mà số
lượng sản phẩm đạt ít nhất 30% công suất.
Ngoài ưu đãi dành cho DN đi tiên phong, nhà đầu tư có thể nộp đơn đăng ký được
hưởng chế độ ITA (dự án đầu tư công nghệ cao, công nghệ mới). Nếu được chấp thuận,
DN sẽ được hưởng mức trợ cấp 60% đối với chi phí mua sắm trang thiết bị (nhà xưởng,
máy móc và các trang thiết bị cho dự án) trong vòng 5 năm kể từ ngày bắt đầu bỏ vốn đầu
tư mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất, nhưng tối đa không quá 70% thu nhập tính
thuế trong năm.
Nếu không muốn hưởng ITA, DN có thể thay thế bằng 70% thu nhập chịu thuế kể từ
khi ITA có hiệu lực. Các khoản hỗ trợ DN chưa hưởng có thể được chuyển sang năm tiếp
theo cho đến khi sử dụng hết. Phần còn lại 30% thu nhập chịu thuế sẽ được áp dụng mức
thuế tương đương mức thuế áp dụng với DN cùng ngành.Ngoài các ưu đãi cơ bản như
trên, DN đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất còn được hưởng một số ưu đãi đặc thù theo
ngành như: (i) Ưu đãi dành cho việc chuyển các hoạt động sản xuất vào địa bàn ưu đãi
đầu tư; (ii) Ưu đãi dành cho DN công nghệ cao; (iii) Ưu đãi dành cho các dự án chiến
lược có tầm quan trọng quốc gia; (iv) Ưu đãi cho DN vừa và nhỏ; (v) Ưu đãi đối với các
dự án có tính chất liên kết công nghiệp; (vi) Ưu đãi cho công nghiệp sản xuất máy móc và
thiết bị; (vi) Ưu đãi dành cho công nghiệp chế biến vùng cọ nguyên liệu. Ngoài ra, còn có
một số ưu đãi khác dành cho lĩnh vực sản xuất như hỗ trợ tái đầu tư, hỗ trợ mua sắm trang
thiết bị để duy trì chất lượng nguồn điện (nhằm giảm chi phí sản xuất cho DN do sự cố
mất điện gây ra.
• Philippines

Tại Philippines, các DN trong nước bị đánh thuế trên thu nhập thịu thuế ròng toàn
cầu. Các DN nước ngoài là đối tượng cư trú bị đánh thuế trên thu nhập chịu thuế ròng
phát sinh từ Philippines và các DN nước ngoài không cư trú bị đánh thuế trên thu nhập
gộp phát sinh từ Philippines. Các DN trong nước và nước ngoài đều chịu thuế suất 35%
(trước năm 2009) và 30% (từ năm 2009). Lỗ kinh doanh ròng có thể được chuyển sang 3

năm sau để bù trừ các khoản thu nhập tương lai trong các năm đó. Lỗ kinh doanh ròng
được định nghĩa là số chênh lệch của các khoản được trừ so với lãi gộp của cả năm tính


24

thuế. Lỗ ròng có thể được chuyển sang các năm sau nếu lỗ phát sinh trong năm mà DN
được miễn hoặc nếu có sự thay đổi về chủ sở hữu. Đối với một số trường hợp miễn thuế
đặc biệt, từ năm tính thuế thứ tư sau khi DN trong nước và DN nước ngoài là đối tượng
cư trú bắt đầu hoạt động kinh doanh, các DN này phải nộp một khoản thuế TNDN tối
thiểu nếu số thuế này vượt quá số thuế tính theo cách tính thuế thông thường. Số thuế
TNDN tối thiểu này là 2% của lãi gộp.
Các DN trong nước và nước ngoài đăng ký với Ban đầu tư theo đạo luật đầu tư theo
nhiều hạng mục có thể được hưởng ưu đãi thuế TNDN và miễn thuế đối với một số loại
thuế và thuế quan nhất định. Các DN đóng tại các khu vực kinh tế đặc biệt đã đăng ký với
cơ quan quản lý vùng kinh tế Philippines hoặc các vùng kinh tế đặc biệt có thể được
hưởng ưu đãi thuế thu nhập hoặc áp dụng theo một cơ chế thuế đặc biệt, theo đó chỉ phải
chịu mức thuế suất 5% tính trên thu nhập gộp thay cho tất cả các loại thuế trung ương và
địa phương.
Lợi nhuận chuyển từ một chi nhánh về trụ sở chính chịu thuế suất 15%. Loại thuế này
tính trên toàn bộ lợi nhuận chuyển hoặc được ghi nhận để chuyển mà không được trừ
thuế. Thuế này không áp dụng cho các lợi nhuận thu được từ các hoạt động đã đăng ký
với Cơ quan quản lý vùng kinh tế Philippines (PEZA). Lãi cổ phần, lãi từ tiền vay, tiền
bản quyền, tiền cho thuê và các khoản thu nhập tương tự của một DN nước ngoài có
nguồn từ Philippines không được coi là lợi nhuận của chi nhánh, trừ khi thực tế có liên
quan đến việc tiến hành thương mại hoặc kinh doanh tại Philippines.


Một số nước khác
Các nước khác trong khu vực, mặc dù có thuế suất phổ thông cao hơn nước ta nhưng


lại có nhiều chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế hơn. Đơn cử, Indonesia thuế suất là 30%
nhưng thực hiện miễn thuế đối với DN mới thành lập thuộc một số ngành, ưu đãi thuế
theo danh mục do Tổng cục Thuế ban hành; Ưu đãi đối với vùng khó khăn nhằm khai
thác nguồn lực tại địa phương hoặc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương;
Đối với vùng khó khăn, cho phép giảm tối đa 5% giá trị tài sản thực tế đã đầu tư trong 6
năm.Tương tự như vậy, Thái Lan là nước có điều kiện đầu tư tốt hơn Việt Nam cũng đều
thực hiện nhiều chính sách ưu đãi thuế TNDN hơn nước ta. Đó là: giảm 50% số thuế


25

TNDN phải nộp trong 5 năm; được trừ 2 lần chi phí vận tải, điện, nước; được trừ vào thu
nhập chịu thuế tối đa 25% chi phí đầu tư hạ tầng trong 10 năm kể từ khi phát sinh thu
nhập. Thuế suất thuế TNDN là 30%, các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh có thể được
phép chuyển sang năm sau trong giai đoạn năm (05) năm, không được phép chuyển lỗ về
năm trước. Thái Lan ưu đãi thuế đối với các vùng kém phát triển, cần khuyến khích đầu
tư.
2.5.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Từ việc vận dụng pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của một số nước
trên thế giới, chúng ta có thể rút ra những nhận xét chung và coi đó là bài học kinh
nghiệm cơ bản để có thể hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế TNDN một cách thành công
nhất:
Một là, các nước trên thế giới hầu như đều có chính sách miễn giảm thuế để khuyến
khích đầu tư và cạnh tranh, thu hút các nguồn vốn đầu tư quốc tế, xây dựng dây chuyền
sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái , nâng cao
năng lực sản xuất. Việt Nam cần có sự so sánh tuy nhiên sự so sánh cũng chỉ mang tính
chất ước lệ vì còn có sự khác biệt giữa các quốc gia về thuế suất ưu đãi do việc áp dụng
các phương pháp tính thuế khác nhau.
Hai là, thuế là nguồn tài chính vững chắc để xây dựng cơ sở hạ tầng, là điều kiện để

phát triển kinh tế xã hội đáp ứng nhu cầu chi tiêu của quốc gia, nhu cầu công cộng tối
thiểu của xã hội tùy theo từng điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia đó. Trong
giai đoạn hiện nay, cạnh tranh về thuế không kém phần gay gắt so với cạnh tranh về kinh
tế. Khi một quốc gia mà hệ thống pháp luật về thuế chưa thực sự đạt đến mức hoàn chỉnh
thù việc giảm thuế suất thuế TNDN chính là chính sách được nhiều quốc gia theo đuổi
thực hiện.
Ba là, phải chú trọng đến công tác tuyên truyền hướng dẫn pháp luật về ưu đãi thuế
TNDN nói riêng cũng như pháp luật về thuế nói chung nhằm nâng cao ý thức chấp hành
của mọi công dân. Tăng cường quản lý hóa đơn, sổ sách chứng từ kế toán làm cơ sở cho
việc hạch toán khấu trừ thuế được chính xác, tránh tình trạng gian lận thuế. Đồng thời,
trong qua trình triển khai thực hiện chúng ta phải có kế hoạch chi tiết cụ thể phù hợp với


×