Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Pháp Luật chung về tín ngưỡng, tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (38.65 KB, 6 trang )

Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện hành và những định hướng trong xây dựng
Luật tín ngưỡng, tôn giáo
1. Pháp luật hiện hành về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Hiến pháp năm 1992 quy định về Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: “Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo
được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều
70) và giao trách nhiệm cho Quốc hội trong việc "quyết định chính sách tôn giáo của
Nhà nước" ( khoản 5 Điều 84), Chính phủ có nhiệm vụ “thực hiện chính sách tôn
giáo” (khoản 9 Điều 112).

Theo đó, để thể chế hóa quy định của Hiến pháp về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân và xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
trong thời kỳ đổi mới cũng như yêu cầu thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo bảo đảm quán triệt các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp năm
1992, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI
đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (thông qua ngày 18/6/2004 và có hiệu
lực kể từ ngày 15/11/2004). Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều
của Pháp lệnh và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 thay thế Nghị định
số 22/NĐ-CP.

Đây là những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cũng như quy định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện các chính sách tôn giáo. Bên cạnh
đó, các văn bản pháp luật khác cũng đã có các quy định điều chỉnh các hoạt động liên
quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo tinh thần của Điều 70 Hiến pháp 1992



như Bộ luật dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật cư trú, Luật
Hôn nhân gia đình, Luật Phòng chống HIV/AIDS...

Nội dung của Pháp lệnh đã quán triệt, thể chế hóa những quan điểm, chủ trương,
chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; kế thừa, phát triển những
quy định phù hợp, mang tính khả thi của các văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo được
ban hành trước đó cũng như khắc phục những hạn chế, bất cập của các quy định;
bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế điều chỉnh về quyền con người trong
đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà đặc biệt là những Điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Pháp lệnh cũng thể hiện chính sách dân chủ, tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ
chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương, điều lệ của các tôn
giáo. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với việc quản lý các hoạt động tôn
giáo được quy định cụ thể theo hướng cải cách các thủ tục hành chính như về thời
gian, trình tự, thẩm quyền giải quyết của các cấp chính quyền,... trên cơ sở tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động.

Pháp lệnh và các Nghị định cũng đã quy định cụ thể về sinh hoạt tôn giáo của người
nước ngoài với các nội dung như bảo đảm cho người nước ngoài theo học tại các
trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam, quy định về
việc tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo được mời tổ chức, cá
nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để tiến hành các hoạt động quốc tế liên
quan đến tôn giáo; việc giảng đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam của chức sắc, nhà tu
hành là người nước ngoài; tôn trọng quyền tự do tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo của cá
nhân hoặc sinh hoạt tập trung của người nước ngoài khi vào Việt Nam, Nhà nước tạo
điều kiện để người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo
tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định cụ

thể việc tham gia hoạt động tôn giáo, khoá đào tạo tôn giáo ở nước ngoài, việc


phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử của tổ chức, cá nhân tôn giáo
Việt Nam.

Có thể nhận thấy, hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được hoàn
thiện hơn, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân. Điều này được minh chứng bởi số lượng tín đồ, chức sắc, số lượng các
tổ chức tôn giáo và đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng sôi động. Về
mặt tổ chức, ngoài các tổ chức tôn giáo đã được công nhận từ trước như Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc), Nhà nước đã lần lượt xem xét và công nhận về tổ chức cho một số tổ chức tôn
giáo đủ điều kiện theo quy định pháp luật, trước năm 2006 có 16 tổ chức tôn giáo
(thuộc 06 tôn giáo) được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật của Nhà nước, đến nay đã có 38 tổ chức tôn giáo được đăng ký
hoạt động hoặc công nhận về tổ chức. Điều đó đã làm lành mạnh hoá các quan hệ
tôn giáo và hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của tín đồ và tổ chức tôn giáo, vì
lợi ích chung của toàn xã hội trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập và
giao lưu quốc tế. So với các văn bản quy phạm pháp luật trước đây, Pháp lệnh và
Nghị định số 22/NĐ-CP, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP đã thể hiện tinh thần cởi mở,
thông thoáng của Nhà nước trong cách ứng xử với các tôn giáo.

2. Những quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu xây dựng Luật tín
ngưỡng, tôn giáo

Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp năm
1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như sau:

"Điều 24



1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật."

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định: "Quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng".

Đây là những sửa đổi, bổ sung rất quan trọng, đặt ra cho việc sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cần phải cụ thể hoá các quy
định, nội dung, tinh thần của Hiến pháp, bảo đảm hơn nữa quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của mọi người và phù hợp với Công ước quốc tề về quyền dân sự, chính trị.
Theo đó, Luật tín ngưỡng và tôn giáo sẽ được ban hành để thay thế Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo và cần bổ sung các nội dung cơ bản, phù hợp với thực tiễn, cụ thể:

- Luật ghi nhận và cụ thể hoá chủ thể của quyền tín ngưỡng, tôn giáo là "mọi người"
mà không chỉ là "công dân". Đồng thời khẳng định rõ quyền theo hoặc không theo
một tôn giáo nào của cá nhân, không ai được xâm phạm tới quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và nghiêm cấm ép buộc theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo để xâm hại tới Nhà nước, công dân và quyền của tổ chức tôn giáo.

- Bổ sung quy định về quyền và giới hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quy định
cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bị giới hạn trong những trường hợp cần



thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng". Quy định này là cần thiết để bảo đảm Nhà nước tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trong một tổng thể
chung về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người
khác. Các quy định này cũng đã được Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị của
Liên hợp quốc ghi “quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn
bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng,
sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người
khác” (khoản 3 Điều 18 Công ước).

- Bổ sung quy định về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước
ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, theo đó xác định quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo là quyền của mọi cá nhân, người nước ngoài sinh sống, làm việc tại Việt
Nam cũng được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo (bao gồm quyền sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại cơ sở tôn giáo
hoặc các địa điểm hợp pháp khác; hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành là
người nước ngoài; việc tổ chức cuộc lễ, giảng đạo của người nước ngoài tại cơ sở tôn
giáo ở Việt Nam hoặc các địa điểm hợp pháp khác; người nước ngoài theo học tại các
trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.

- Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ
chức tôn giáo, nhất là đối với các tôn giáo mới cần phải đăng ký hoạt động tôn giáo
và trách nhiệm bảo đảm tôn trọng, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo mới hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật và theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.
Đồng thời, nghiên cứu để quy định hợp lý về các vấn đề thành lập, chia, tách, sáp
nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo (cấp trung ương hoặc trực thuộc); thành lập trường,
giải thể trường, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo; phong
chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển

chức sắc trong tôn giáo; trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết để hạn chế tối đa sự
can thiệp của Nhà nước vào hoạt động nội bộ của tổ chức tôn giáo, tôn trọng và bảo
đảm quyền tự chủ và quyết định các vấn đề nội bộ của tổ chức tôn giáo.


- Quy định cụ thể các chính sách về tôn giáo thể hiện chủ trương Nhà nước khuyến
khích và tạo điều kiện bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo vì lợi ích công cộng, lợi
ích cộng đồng, lợi ích quốc gia như bảo hộ tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo;
bảo đảm giao quyền sử dụng đất nơi có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng
gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo
những người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác
của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động được sử dụng ổn định lâu dài.

- Quy định rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với các hoạt động từ thiện,
nhân đạo của các tổ chức tôn giáo, bao gồm hoạt động quyên góp; hoạt động trong
các lĩnh vực giáo giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội của cơ sở tín
ngưỡng, tổ chức tôn giáo.

- Quy định rõ các hành vi nghiêm cấm và xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ
chức tôn giáo phải do luật quy định. Đây là một trong những quyền tự do cơ bản
nhất của con người, có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp tới các vấn đề tư tưởng của
công dân, các vấn đề về phát huy truyền thống, đạo lý, thuần phong mỹ tục của dân
tộc, đất nước, góp phần bảo đảm sự đóng góp tích cực của các tổ chức tôn giáo vào
ổn định đất nước, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ dân tộc, chống
phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.

- Nghiên cứu để quy định hợp lý về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo phù hợp
với mô hình, hệ thống tổ chức tương đối phức tạp và khác biệt của các tổ chức tôn
giáo, bảo đảm sự thuận lợi trong các giao dịch, quan hệ của tổ chức tôn giáo với các

cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan tới hoạt động tôn giáo.



×