Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đôi nét về tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của cư dân Mã Châu.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.33 KB, 70 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Là một sinh viên năm thứ tư, đã được trang bị tương đối đầy đủ kiến
thức của chuyên ngành Lịch sử Văn hoá, tôi phải hoàn thành luận văn tốt nghiệp
và cũng là bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu.
Tôi có may mắn là được người hướng dẫn Luận văn tốt nghiệp của tôi -
TS Lâm Mỹ Dung gợi ý và tạo mọi điều kiện cho tôi vào Duy Xuyên - Quảng
Nam để tìm hiểu về đời sống văn hoá của một làng nghề truyền thống ở đây.
Lần đầu tiên đặt chân đến miền Trung và với mục đích tìm hiểu về đời
sống văn hoá của một làng nghề, do kiến thức cá nhân còn ít ỏi và điều kiện thời
gian thực tế hạn hẹp, nên dù đã có được sự chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý tận tình
của thầy cô và bạn bè trong quá trình tìm kiếm tư liệu và cũng như khi hoàn
thành luận văn nhưng luận văn vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong có
sự chỉ dẫn, góp ý thêm.
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin cảm ơn các thầy cô của Bộ
môn Lịch sử Văn hoá và Khoa Lịch Sử, trường ĐH KHXH&NV HN - nơi tôi đã
và đang học tập; cảm ơn Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên, đặc biệt là chú
Dương Đức Quí và chị Nguyễn Thị Tuyết; cảm ơn thầy Nguyễn Chiều đã góp ý
và cung cấp tư liệu cho tôi; cảm ơn Ban dân chính, các cụ phụ lão và bà con
thôn Châu Hiệp đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian tôi thực tập ở đây.
Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với TS Lâm Mỹ Dung -
giáo viên hướng dẫn của tôi - người đã dẫn dắt và chỉ bảo cho tôi không chỉ
trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp này.
1
1. Mục đích nghiên cứu
Người Việt từ xưa (và cho đến nay) đa phần là nông dân. Môi trường
sống của họ là Nông thôn - Nông nghiệp - Xóm làng. Phổ xã hội Việt Nam
truyền thống là Gia đình - Họ hàng - Làng nước. Trong tiến trình lịch sử dân tộc,
làng xã có một vai trò hết sức to lớn. Nó là tế bào sống của xã hội Việt Nam, là
môi trường sinh tụ và hoạt động của nông dân Việt Nam. Mỗi bước thăng trầm
của dân tộc thường để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống làng xã.
Làng nghề truyền thống là nguồn tài sản quý giá của đất nước cần được


bảo tồn và phát triển. Tài sản đó không chỉ mang ý nghĩa kinh tế - xã hội mà còn
thể hiện nền văn hoá, văn minh độc đáo của dân tộc Việt Nam. "Những làng
nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ trăm ngàn năm) "dân biết
mặt, nước biết tên", tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục ngữ... trở thành di
sản văn hoá dân gian"[36.372].
Sau một thời gian mai một, hiện nay làng nghề đã và đang được quan
tâm phát triển. Sự đổi mới cơ chế quản lý cũ sang cơ chế thị trường với sự điều
tiết của nhà nước từ Đại hội VI (năm 1986) đã tạo ra bước ngoặt quan trọng,
thúc đẩy sự phát triển sản xuất nói chung và các ngành nghề truyền thống nói
riêng. Sự phát triển của làng nghề, đặc biệt là những ngành nghề mới trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) nông thôn là một xu hướng tất
yếu khách quan. Nhưng hiện nay vẫn còn không ít các làng nghề chưa phục hồi
được sản xuất, nhiều nghề bị mai một, đội ngũ nghệ nhân ngày càng suy giảm.
Các làng nghề cũng đang đứng trước những khó khăn thách thức như là thị
trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn vốn, trang thiết bị công nghệ...[2.235]. Vì vậy
vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu các làng nghề truyền thống, phải có một cái nhìn
2
toàn thể về nó. Từ đó mới có thể hoạch định những phương hướng, cách thức
bảo tồn và phát triển làng nghề trong giai đoạn hiện nay.
Bảo tồn làng nghề truyền thống cũng chính là bảo tồn các giá trị văn
hoá dân tộc. Muốn bảo tồn và phát triển các làng nghề thì trước hết, chúng ta
phải tìm hiểu những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề. Bởi "văn hoá"
được coi "là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội" như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ
Đảng (Khoá VII) đã đề ra. Những yếu tố truyền thống đó kết hợp với những yếu
tố hiện đại như thế nào và vai trò của nó trong sự phát triển của làng nghề? Như
vậy mới có thể bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình
CNH-HĐH một cách có hiệu quả. Đây cũng chính là mục đích của luận văn tốt
nghiệp "Làng dệt Mã Châu - xưa và nay".
Khi đặt Xưa (truyền thống - theo cách hiểu thông thường là những giá

trị văn hoá từ xưa để lại) và Nay (hiện đại), tôi không có ý định so sánh, mà dựa
trên tinh thần "ôn cố tri tân" (tìm cũ để biết mới). Bởi chỉ có hiểu biết sâu sắc về
làng nghề và những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề thì khi gia nhập
vào công cuộc CNH-HĐH chúng ta mới có thể phát huy tốt vai trò của làng
nghề mà không làm mất đi những giá trị văn hoá riêng đặc sắc của nó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Làng xã là đối tượng nghiên cứu của Khoa học Lịch sử và nhiều ngành
khoa học khác với diện nghiên cứu đa dạng và phong phú. Đến nay việc nghiên
cứu đã đạt được nhiều kết quả. Các công trình nghiên cứu chung hoặc mang tính
chất chuyên khảo về làng nghề cũng đã được nhiều người công bố.
Làng dệt Mã Châu và làng xã vùng Duy Xuyên- Quảng Nam nói
chung, vì nhiều lý do, việc nghiên cứu mới có những kết quả chung có tính chất
3
khái quát, ít có những công trình nghiên cứu chuyên sâu. Và về làng nghề Mã
Châu chỉ có một số bài viết chung, gián tiếp đề cập đến.
- Bài viết: Câu ca làng nghề của Văn Thành Lê đăng trên tạp chí Văn
hoá Quảng Nam số 18 tháng 12.1999. Trên cơ sở tìm hiểu nghề dệt ở Duy
Xuyên, ông nói đến ảnh hưởng của nghề dệt với đời sống cư dân ở đây.
- Bài báo: Duy Xuyên ngày mai xanh lại những biền dâu? của
Hoàng Thơ trên báo Quảng Nam chủ nhật ngày 9.3.2003. Từ những số liệu của
nghề dâu tằm ở Duy Xuyên trong những năm gần đây, tác giả khẳng định khả
năng phát triển của nghề dệt ở vùng này.
- Bài viết: Ông Cửu Diễn - người du nhập kỹ thuật dệt mới vào Duy
Xuyên (tư liệu của chị Nguyễn Thị Tuyết - Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên)
nói về sự cải tiến kỹ thuật dệt ở Duy Xuyên hồi đầu thế kỷ XX.
3. Các nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn, tôi đã sử dụng những nguồn tư liệu sau:
3.1. Tư liệu chữ viết
3.1.1. Thư tịch cổ gồm có:
- Thuỷ kinh chú [9]

- Đại Việt sử ký toàn thư [3]
- Phủ biên tạp lục [8]
- Đại Nam nhất thống chí [19]
- Đồng Khánh địa dư chí [5]
3.1.2. Tư liệu chữ viết sưu tầm tại địa phương gồm có:
- Quy ước văn hoá thôn Châu Hiệp [20]
- Dự thảo tộc ước làng mã Châu [1]
- Tóm tắt lược sử các chư phái tộc làng Mã Châu [32]
4
- Gia phả họ Phạm thôn Mã Châu Thượng (chữ Hán)
- Gia phả họ Trịnh thôn Mã Châu Đông (cả phần chữ Hán và bản dịch)
3.2.Tư liệu điền dã
Trong điều kiện làng nghề Mã Châu mới chỉ có những bài nghiên cứu
chung, mang tính chất nền tảng bước đầu, chưa có sự đi sâu, tìm hiểu toàn diện
thì tư liệu điền dã là một nguồn tư liệu quan trọng giúp tôi thu thập thông tin để
phục vụ cho luận văn. Phương pháp điền dã được sử dụng để lấy những loại
thông tin:
- Nghề dệt truyền thống (với những công đoạn trông dâu, nuôi tằm,
ươm tơ, dệt lụa).
- Phong tục tập quán và sinh hoạt văn hoá của cư dân làng Mã Châu.
- Các hoạt động trao đổi, buôn bán...
Trong đó nguồn tư liệu hồi cố của các cụ già trong làng là một nguồn
tư liệu vô cùng quý báu vì luận văn chủ yếu nghiêng về khía cạnh văn hoá của
làng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp nghiên cứu đã được tôi sử dụng để hoàn thành
luận văn gồm:
Phương pháp điền dã dân tộc học và phương pháp phỏng vấn được sử
dụng trong thời gian khảo sát và sưu tầm tư liệu tại địa phương. Đây là những
phương pháp chủ yếu được tôi sử dụng để thu thập tư liệu phục vụ cho luận văn.

Dựa trên những nguồn tư liệu thu thập được tôi đã sử dụng phương
pháp so sánh, phân tích và tổng hợp tư liệu. Từ đó hệ thống hoá những tư liệu đã
thu thập được để đưa vào hoàn thành luận văn.
5
Phương pháp tiếp cận liên ngành là phương pháp quan trọng được tôi
sử dụng từ khi khảo sát điền dã lấy tư liệu cho tới khi hoàn thành luận văn. Bởi
văn hoá làng là "một phức thể thống nhất trong đa dạng"[36.25] cần được tiếp
cận và nghiên cứu từ nhiều hướng.
5. Bố cục luận văn
Luận văn gồm có ba phần: Phần mở đầu (6 trang); Phần nội dung (52
trang) và phần kết luận (3 trang).
Nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên-lịch sử, xã hội và con
người.
- Chương 2: Làng nghề truyền thống.
- Chương 3: Đôi nét về tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của
cư dân Mã Châu.
Ngoài ra luận văn còn có phần tài liệu tham khảo, sách dẫn và phụ lục
gồm 20 trang.
6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-LỊCH SỬ,
XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI

1.1. Điều kiện tự nhiên
Làng Mã Châu (theo tên địa giới hành chính là thôn Châu Hiệp) thuộc
thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nằm cách thành phố
Đà Nẵng 30 km đi theo Quốc lộ 1A, đoạn từ Đà Nẵng đi Tam kỳ - Quảng Nam.
Vị trí địa lý của làng Mã Châu, phía Tây tiếp giáp sông Cầu Chìm (một
đoạn của sông Bà Rén, vì ở đoạn sông này có cây cầu Chìm bắc qua sông nên
gọi như vậy), bên kia sông là Ngũ xã Trà Kiệu. Phía Đông - Nam giáp làng Mậu

Hoà cũng cách nhau ở nhánh thượng lưu sông Bà Rén. Phía Bắc tiếp giáp với
làng Trung Lương (thôn Xuyên Tây 1) lấy đường gianh giới là con đường tỉnh
lộ 610 (chạy từ Bàn Thạch đến Mỹ Sơn). Mã Châu nằm ở phía đỉnh tam giác
đồng bằng châu thổ Duy Xuyên, nơi chia dòng giữa hai con sông Thu Bồn và Bà
Rén.
Làng Mã Châu có tổng diện tích đất tự nhiên là 126 ha, trong đó diện
tích đất nông nghiệp là 46 ha, diện tích đất thổ cư là 43 ha, phần còn lại là diện
tích ao hồ, sông suối và đất bồi ở ven sông. Với 560 hộ, dân số là 2692 người.
Quảng Nam là vùng đất có nhiều sông ngòi >1km/1km2 nhưng sông
ngòi ở đây ngắn và dốc "từ nguồn suối núi rừng đến vịnh cửa sông đổ ra biển chỉ
7
cỏch nhau khong 100 - 150 km ng chim bay. Nc sụng thng trong xanh
v nh th cú ngha l ớt phự sa v nhng ng bng do chỳng to thnh thỡ
khụng ln. Tuy nhiờn so vi Bỡnh Tr Thiờn Trung Trung b, t Qung ng
ct nỳi lựi vo trong hn vỡ th m ng bng li rng ra, ng thi cũn phỏt
trin sõu vo trong vựng i ngc theo cỏc thung lng sụng nh. Chớnh vỡ th
m t Qung nỳi - i - ng bng dớnh lin vi nhau khỏ cht"[37.424].
Qung Nam cú hai ngun sụng ln l sụng Vu Gia v sụng Thu Bn gp nhau
ti vựng Giao Thu (i Lc) v n Duy Xuyờn thỡ chia thnh hai nhỏnh cựng
ra ca i l nhỏnh sụng Thu Bn phớa Bc v nhỏnh sụng B Rộn phớa
Nam nh hn.
Sụng Thu Bn bt ngun t nỳi Ngc Linh (cao 2.859m), nm giỏp
gia huyn Tr My v Kon Tum, ni cú lng ma trung bỡnh 4000 mm/nm
[26.34]. Do vy, sụng Thu Bn v Vu Gia l hai dũng sụng ln ó hp lu vi
nhau bi p nờn vựng t ai trự phỳ in Bn, i Lc, Duy Xuyờn... nhng
cng v phớa ụng cng pha nhiu cỏt bin v phi chu nh hng ca thu
triu. Nhng vựng khỏc nh ng bng sụng Ly Ly, Tam K, t pha nhiu cỏt
v nghốo hn t vựng sụng Thu Bn, do sụng nh, nc l khụng ln, phự sa
khụng nhiu, khụng nc ti cho rung ng v mựa hn [37.418-431]. Nú
ó c tng kt trong cõu th dõn gian:

t Qung Nam cha ma ó thm
1
Do tớnh cht sụng ngũi nh vy m t ai õy xa kia phn ln l
t khụ cn, nc ti tiờu cho ng rung hon ton ph thuc vo "nc tri".
Duy ch cú vựng h lu cỏc sụng, c bit l h lu sụng Thu Bn (vựng Duy
1
GS Trần Quốc Vợng đã mô hình hoá miền Trung thành một hình hộp chữ nhật và mỗi xứ,
vùng là những hình hộp chữ nhật ngang với những thành tố: Núi đồi - Đèo - Sông - Đầm phá -
Cảng ven sông, ven biển - Hải đảo và các thành tố Núi - Biển - Sông - Đèo tuy có yếu tố chia
cắt các vùng miền song lại mang yếu tố gạch nối nhiều hơn [37.309-340].
8
Xuyên, Điện Bàn) nhờ phù sa hàng năm bồi đắp nên hai bên bờ sông tạo thành
những đồng ruộng phì nhiêu thuận lợi cho việc canh tác, trồng trọt, nhất là trồng
lúa, trồng dâu [22.202].
Huyện Duy Xuyên nằm dọc về phía bờ Nam sông Thu Bồn, địa hình
trải dài từ núi ra biển, có bốn nhánh sông lớn là Vu Gia, Thu Bồn, Bà Rén và
Trường Giang. Đất đai ở đây được thừa hưởng nguồn phù sa dồi dào từ thượng
nguồn các nhánh sông Thu Bồn đổ về làm cho màu mỡ, dần dần đẩy lùi nước
biển từ bãi cát Tây An, xã Duy Trung tạo thành những giải đất phì nhiêu kéo dài
từ miếu Thành Hoàng Mã Châu cho đến Phụng Châu, Long Châu, Triều Châu...
của xã Duy Phước, Duy Vinh ngày nay. Làng Mã Châu với địa thế ở đỉnh tam
giác châu lại được bao quanh bởi sông Bà Rén nên hàng năm, sau mỗi mùa lũ đã
nhận được một lượng phù sa đáng kể, rất thuận lợi cho sự phát triển nghề nông
tang ở đây.
Nói chung, địa hình ở Duy Xuyên đồi núi, sông hồ, đầm phá gắn kết
với nhau khá chặt chẽ. Vùng đồng bằng sông Thu Bồn sông hồ lầy lội, đi ghe
thuyền tiện hơn đi chân. Việc đặt tên các xứ đất ở Mã Châu: Đồng Rẫy, Lục
Nhơn, Bàu Trước, Bàu Tự, Bàu Răm, Bàu Mạn, Bàu Tỉnh, Bàu Khế, Bàu Chùa,
đất bồi xóm bãi (Thượng tự phù sa đồng canh xứ)... cũng đã phần nào nói nên
điều này.

Mã Châu trong bối cảnh Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung thuộc đới
khí hậu Á xích đạo, với lượng cân bằng bức xạ 95 kcal/cm2/năm (tổng nhiệt độ
9500°C). Đất Quảng Nam nằm trong gianh giới vĩ tuyến 14°B đến 16°B, không
có mùa khô rõ rệt do tác dụng bức chắn của khối núi Bắc Kon Tum. Cũng vì vậy
mà trong mùa gió Đông Bắc, Quảng Nam vẫn giữ được một lượng mưa đáng kể.
Nhiệt độ trung bình các tháng đều >20°C nên ở Quảng Nam không có mùa
Đông lạnh. Mùa mưa ở đây "lệch pha" so với hai đầu Nam Bắc, bắt đầu từ tháng
9
9, tháng 10, giảm dần về cuối năm và kết thúc vào tháng 1. Từ tháng 5 đến tháng
8, do ảnh hưởng của gió Lào làm khí hậu khô nóng. Đại Nam nhất thống chí,
mục Quảng Nam tỉnh chép: "Khí trời nóng nực, nhiều lạnh ít mưa; chất đất phù
bạc, nhiều khô hạn ít màu mỡ. Hết tháng chạp thì gió Đông nổi, tiết kinh chập thì
mưa xuân phần; gió Nam mạnh về mùa Hạ, gió Bắc rét về mùa Đông; mùa Thu
gió mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt), mưa Đông hết
lụt thì bãi sông bằng (mùa Đông sau khi mưa lụt thì bãi sông bằng phẳng tức là
hết kỳ mưa lụt)... Thỉnh thoảng cũng có gió bão"[19.337].
Do ảnh hưởng của khí hậu Á xích đạo nên thành phần sinh vật mang
nhiều đặc điểm Mã Lai, Iđônêsia...
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng Mã Châu.
Làng Mã Châu (mà theo tên hành chính là thôn Châu Hiệp, xã Duy An
cũ hay thi trấn Nam Phước mới thành lập năm 1995) trong bối cảnh toàn vùng
Duy Xuyên và mở rộng hơn là xứ Quảng - Quảng Nam là vùng đất có truyền
thống lịch sử lâu đời. Nó đã được GS Trần Quốc Vượng khái quát: "Ở xứ Quảng
- Quảng Nam - Việt Nam lại có sự xếp tầng (stratigraphi) xếp lớp văn hoá, quá
trình lắng đọng - trầm tích (sédimentation) văn hoá qua diễn trình lịch sử kể từ
dưới lên trên:
7 - Văn hoá Quảng Nam hiện đại.
6 - Văn hoá Kinh - Việt.
5 - Văn hoá Chămpa - Ấn.
4 - Văn hoá Sa Huỳnh - Đại Lộc.

3 - Văn hoá tiền Sa Huỳnh (Bàu Trám, Phúc Hoà).
2 - Văn hoá Bãi Ông (Cù Lao Chàm).
10
1 - Văn hoá Bàu Dũ hậu Hoà Bình (hay truyền thống Hoà Bình)...
[22.35].
Năm 1981 di chỉ Khảo cổ học Bàu Dũ thuộc thời đại đá mới ở thôn Bút
Đông, xã Tam Xuân, huyện (nay là thị xã) Tam Kỳ được phát hiện và khai quật.
Bàu Dũ là một di chỉ cồn sò điệp, căn cứ vào cấu tạo tầng văn hoá,
được xếp vào loại hình di tích đống rác bếp. Bàu Dũ có nhiều nét tương tự với
văn hoá Hoà Bình ở miền Bắc (có niên đại 15000 đến 8-6000 năm cách ngày
nay) bởi kỹ thuật chế tác và công cụ đá; và di tích văn hoá Quỳnh văn ở ven
biển Nghệ An (đầu thời đại đá mới) ở hình thức mộ táng (huyệt tròn, trôn người
bó gối trong đống vỏ sò điệp).
Những hiện vật khai quật được ở Bàu Dũ cho biết nền kinh tế của cư
dân Bàu Dũ là kinh tế săn bắt (bắn), hái lượm theo phổ rộng của hệ sinh thái bờ
biển. Địa bàn cư trú của họ là những vùng cửa sông ven biển. Tại đây đã thu
lượm được một số lượng lớn xương cốt động vật và vỏ nhuyễn thể (nhưng chưa
thấy di cốt của loài vật đã được thuần dưỡng) cho thấy trước đây vùng này là
vùng rừng xen lẫn với những trảng cỏ rộng lớn và những bàu nước ngọt như
Bàu Dũ, Bàu Mê, Bàu Trám... [33].
Quảng Nam hiện nay vẫn là nơi phân bố dày đặc nhất những di tích
khảo cổ học của văn hoá Sa Huỳnh. Tính riêng ở huyện Duy Xuyên đã phát hiện
hàng chục di chỉ trong vòng vài năm gần đây. Những di tích này được phát hiện
ở những khu vực sinh thái đa dạng: núi, đồi, gò, ven sông... với mật độ chum mộ
và đồ tuỳ táng dày đặc. Đa số các di tích phân bố ở trên những cồn cát cổ, dọc
theo các con sông Thu Bồn và Bà Rén.
Các di tích Sa Huỳnh ở Duy Xuyên tìm thấy, đặc biệt phân bố rất dày
đặc ở các cồn cát cổ ven theo bờ Nam sông Bà Rén, thuộc khu vực thôn Mậu
11
Hoà, xã Duy Trung (tức là cách làng Mã Châu hiện nay một bờ sông) như: gò

Mả Vôi, gò Miếu Ông (đã được khai quật), gò Tây An, gò Cấm, gò Bờ Rang, gò
Bà Hòm, gò Ông Nhan... [14].
Mộ táng Sa Huỳnh ở đây có nhiều táng thức khác nhau, với những loại
hình: mộ chum, mộ vò và mộ huyệt đất, nhưng phổ biến nhất là mộ chum.
Chum mộ hình cầu với những kiểu biến thể ở miệng, thân, đáy thành hình trái
xoan, trái đào, hình trứng... mộ chum kép (chum đôi lồng nhau), với nắp đậy
hình nón cụt hoặc hình lồng bàn. Đồ gốm ở đây rất đa dạng về loại hình cũng
như hoa văn trang trí như: nồi, bát bồng, đèn, cốc chân cao, bình, vò... với đồ án
hoa văn phức tạp kết hợp khắc vạch, tô màu... Khiếu thẩm mỹ của người Sa
Huỳnh rất phong phú được thể hiện qua cách sử dụng đồ trang sức với những
chất liệu: mã não, thuỷ tinh, vàng, đá, nephrit... Bộ sưu tập đồ đồng và đồ sắt
cũng rất phong phú với những loại hình: rìu, lao, dao, đục... Các hiện vật tìm
được đã cho thấy ở đây từ rất sớm, người Sa Huỳnh đã mở rộng giao lưu văn
hoá với các vùng khác. Bộ sưu tập đồ đồng ở gò Mả Vôi cho thấy sự giao lưu
với văn hoá Đông Sơn, còn bộ sưu tập đồ đồng ở gò Dừa lại cho thấy sự giao
lưu mạnh mẽ với văn hoá Hán [14.32].
Kết quả nghiên cứu còn cho biết cư dân Sa Huỳnh là cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước ở vùng đồng bằng duyên hải. Họ đã biết trồng lúa và một
số loại cây lương thực khác như: khoai, sắn, lạc, đậu... Có thể cây lấy sợi như
bông, đay, gai đã được cư dân Sa Huỳnh trồng để phát triển nghề dệt sợi. Các
dọi xe sợi đã nói lên sự phát triển của nghề thủ công này trong văn hoá Sa
Huỳnh. Việc buôn bán trao đổi của họ cũng rất phát triển. Nghề đi biển đã được
người Sa Huỳnh biết đến và yếu tố biển đã ăn sâu vào đời sống của họ. Do vậy
cốt lõi của nghệ thuật Sa Huỳnh là miêu tả thiên nhiên mà chủ yếu là biển cả
[35.445]. Trong đó Hội An với vai trò của một cảng thị sơ khai là minh chứng
12
cho s giao thng v giao lu vn hoỏ gia Sa Hunh v nhng nn vn hoỏ
khỏc qua ng bin.
Trờn nn tng vn hoỏ bn a, k tha nhng di sn t vn hoỏ Sa
Hunh, tip thu nhng nh hng ca vn hoỏ n , cựng nhiu yu t khỏc

ca cỏc nn vn hoỏ lỏng ging, dõn tc Chm trờn chng ng di 14 th k
ó sỏng to nờn nn vn hoỏ riờng, c ỏo ca mỡnh.
Chmpa cú niờn i khi u vo cui th k II theo th tch c Trung
Quc. Gn lin vi s kin nm 192 Khu Liờn ni dy chng nh Hỏn, lp nc
Lõm p ( vựng t Qung Nam ngy nay)
2
. ú l vng quc Chmpa ca
ngi Chm vi ụ thnh S T (Simhapura), nay l Tr Kiu - Duy Xuyờn. Ti
õy, trờn ngn nỳi Bu Chõu - gia kinh ụ Tr Kiu, trong mt ln i in dó
t u thp k 80, GS Trn Quc Vng ó "n ng" ra mụ hỡnh quy hoch
cỏc tiu quc Chmpa nh sau:
Nỳi Sụng Thu Bn
Tõy Thỏnh a Thnh S T Cng th Hi An Bin ụng Tin
cng
M Sn (Simhapura) (Chmpapura) (Cự Lao Chm)
Trong ú sụng bin, sụng nc l yu t kt ni gia cỏc thnh t trờn
[37.322].
2
Thời Sơ Bình nhà hậu Hán (190 - 192) Khu Liên, một công tào huyện Tợng Lâm đã lợi dụng
lúc nhà Hán suy yếu, nổi dậy chiếm quận Nhật Nam và xng Vua ở Tợng Lâm-một huyện cực
Nam của quận Nhật Nam, lập ra nớc Lâm ấp. Tên Lâm ấp có thể do bắt nguồn từ chữ Tợng
Lâm (rừng voi). Còn tên Chămpa thì không biết ra đời từ khi nào, bia ký sớm nhất nhắc đến
tên này là bia đợc lập vào thế kỷ VI [33.9-10].
13
Duy Xuyờn vi din tớch 27.533 ha vi a hỡnh tri di t Tõy sang
ụng theo hỡnh hp ch nht vi phc th a hỡnh Nỳi - i - ng bng -
Duyờn hi - Bin vi yu t kt ni l dũng sụng Thu Bn, ó mang trong mỡnh
Thỏnh a M Sn - trung tõm tụn giỏo ca tiu vựng Amaravõti (Qung nam),
m theo GS Trn Quc Vng thỡ ngoi chc nng tụn giỏo, thỏnh a M Sn
cũn cú chc nng giao lu kinh t, vn hoỏ gia Chmpa v cỏc dõn tc thiu s

vựng nỳi; Kinh ụ Tr Kiu (Simhapura) ni úng ụ ca Vng quc
Chmpa t th k III n th k IX - X. Vic khai qut thnh Tr Kiu ó c
Khoa S trng H KHXH&NV H Ni tin hnh (ln mt nm 1989 v ln
hai vo thỏng 3 nm 2003). Kt qu nghiờn cu cho thy õy l ngụi thnh c
xõy dng bng gch u tiờn Vit Nam vi mt k thut xõy thnh rt cao
3
;
Vựng ng bng Duy Xuyờn t ai mu m do c cỏc con sụng Vu Gia -
Thu Bn bi p, thun li cho s phỏt trin nụng nghip v cỏc con sụng Thu
Bn - B Rộn li cung cp nc ti cho vựng ng bng nờn vic canh tỏc
nụng nghip õy thun li, khụng phi ph thuc vo "nc tri" nh nhng
vựng ng bng khỏc Qung Nam; Sụng Thu Bn l si dõy ni lin nỳi Chỳa
- kinh ụ Tr Kiu vi cng th Hi An (i Chiờm hi khu - Chmpapura) v
xa hn na l Cự Lao Chm - hũn o tin tiờu ca nhng c dõn vựng bin theo
kiu liờn kt:
Ai v nhn vi nu/bn ngun
Mớt non/mng le gi xung, cỏ chun gi lờn.
Mó Chõu cũn mt ging Chm c m ngi dõn õy gi l "ging
bn tr". Trong lũng ging c kố ỏ hỡnh trũn, sõu hn 6m, di ỏy ging
c úng bn cõy g lim chng st. Phớa trờn thnh ging c lm hỡnh
3
Theo ý kiến của thầy Nguyễn Chiều và cô Lâm Mỹ Dung trong cuộc khai quật thành Trà
Kiệu vào tháng 3 năm 2003 do Khoa Sử - ĐH KHXH&NV Hà Nội và Phòng Văn hoá huyện
Duy Xuyên - Quảng Nam tiến hành.
14
vuông với bốn cây trụ đá ở bốn góc cao khoảng 1m, kết hợp với tám thanh đá
ngang dài khoảng 80cm tạo thành một bộ khung và bốn phía được ghép bốn
phiến đá. Nước giếng trong và ngọt, người dân trong làng cho đến gần đây vẫn
còn sử dụng nước ở giếng này. Ở xung quanh giếng còn rải rác những mảnh vỡ
của một số viên gạch Chăm.

Vùng đồng bằng Duy Xuyên - Quảng Nam là nơi đã có dấu tích cư dân
sinh sống từ lâu đời. Tuy nhiên chỉ khi có người Việt di cư đến "vùng đất mới"
(ùng với người Chăm), "khai hoang" lập nghiệp, thì mới hình thành nên làng
Việt với những tên làng, tên xã như hiện nay.
Xứ Quảng - Quảng Nam trước kia vốn là vùng đất của Vương quốc
Chămpa nhưng trong quá trình "Nam tiến" của mình, người Việt đã để lại đây
những dấu ấn từ rất sớm trong lịch sử. Đại cương Lịch sử Việt Nam (tập 1) đã
ghi lại: "Năm 982 sau khi đánh bại quân Tống. Lê Hoàn quyết định đem quân
đánh Chămpa, tiến thẳng đến kinh đô, phá huỷ thành trì rồi rút quân về"[40.26].
Lịch sử Chămpa cũng đã lưu lại trường hợp người Việt là Lưu Kế Tông - quân
Quản Giáp trong quân đội đi đánh Chiêm Thành của Lê Hoàn đã trốn ở lại,
chiếm ngôi vua Chămpa từ năm 986 đến năm 988, khi vua Chămpa Inđravarman
chết vào năm 986 [12.26].
Năm 1069 Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành,vua Chiêm
Ruđravarman II phải cắt ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (nay là Quảng
Bình và Bắc Quảng Trị) cho nhà Lý. Đến thời Trần, năm 1305 vua Trần (Nhân
Tông) gả Huyền Chân Công Chúa cho vua Chămpa là Chế Mân và thu nhận lễ
vật là hai châu Ô, Rí (nay là đất Thừa Thiên). Năm 1402 nhà Hồ đánh Chiêm,
Chiêm dâng đất Chiêm Động, Hồ Quý Ly bắt phải dâng cả đất Cổ Luỹ (từ
Quảng Nam đến Phú Yên) và đặt bốn châu Thăng - Hoa - Tư - Nghĩa. "Lại bắt
người dân có của mà không có ruộng ở các lộ khác đem vợ con vào ở, để khai
15
khẩn đất ở những châu ấy, bởi vì khi vua Chiêm nhường đất Chiêm Động và Cổ
Luỹ, người CHiêm đều bỏ đất ấy mà đi cả"[34.184].
GS Trần Quốc Vượng đã nhận xét quá trình "Nam tiến" của người Việt
có chiến tranh, có chết chóc nhưng không hề có sự khu trục người Chàm ra khỏi
vùng Thuận Hoá - Quảng Nam. Lịch sử đã ghi lại nhiều cuộc hôn nhân Việt -
Chăm (đặc biệt là thời kỳ đầu, người Việt vào đây chủ yếu là đàn ông - những
người lính thú, những phạm nhân bị đi đày viễn xứ (tội lưu viễn châu) họ đã kết
hôn với những phụ nữ người Chăm), có nhiều dòng họ Việt gốc Chàm (Ông,

Ma, Chà, Chế...) và thậm chí cho đến nay vẫn tồn tại các ốc đảo người Việt gốc
Chăm ở Quảng Nam [37.447].
Tuy nhiên trên thực tế những vùng đất đó vẫn là đất của Chămpa và nó
chỉ thực sự được sát nhập vào Đại Việt với sự kiện năm 1470 Lê Thánh Tông
đánh Chiêm Thành và lập nên đạo thừa tuyên thứ 13 là Đạo thừa tuyên Quảng
Nam.
Theo Nguyễn Xuân Hồng và Trần Thị Thu Hà thì ở Quảng Nam có
những đợt di dân lớn sau:
1 - Đợt di dân theo Huyền Trân Công Chúa.
2 - Đợt di dân theo cuộc viễn chinh của Lê Thành Tông.
3 - Đợt di dân từ miền Bắc vào khi Nguyễn Hoàng vào Trấn thủ xứ
Thuận Quảng vào giữa thế kỷ XVII (chủ yếu là người Thanh - Nghệ - Tĩnh.
TG).
4 - Đợt di dân từ Quy Nhơn và miền Nam ra thời Tây Sơn và thời đầu
Vương triều Nguyễn.
5 - Di dân từ miền Bắc vào năm 1954, 1955.
6 - Di dân từ Huế vào thập kỷ 60 và sau ngày giải phóng.
16
Trong cỏc t di dõn ú thỡ t di dõn thi k cỏc chỳa Nguyn l ln
nht, t v ỏng quan tõm nht. Bi vỡ nú gúp phn quan trng trong vic hỡnh
thnh nờn din mo ca c dõn vựng Thun Qung [22.102].
Duy Xuyờn thỡ mnh t ni ngi Vit t chõn n u tiờn (theo
ti liu a phng) l Tr Kiu, vo nm 1470. Tc l quõn binh theo Lờ Thỏnh
Tụng i ỏnh Chiờm li khai hoang lp lng. n nay Ng Xó Tr Kiu vn
cũn lu gi c bn o sc phong nm Khi nh th 9 cho Tin hin,
Th th tin hin v Hu hin ó cú cụng khai c lp xó [10].
Mó Chõu tri qua hai cuc chin tranh chng Phỏp - M, c dõn ly tỏn,
ri li "chng mờ tớn" nờn nhng t liu v lng ó b tht lc khụng cũn. Tuy
nhiờn theo hi c ca cỏc c gi thỡ lng Mó Chõu c lp ra sau lng Tr Kiu
gn mt th k v cú liờn quan n 13 v Hu hin Tr Kiu (ti Tr Kiu nm

1578)
4
, thi im ra i ca lng vo khong gia th k XVI. Thi im ny
cng phự hp vi ln di dõn "Bc a tựng vng" ca Nguyn Hong vo vựng
Thun Qung nm 1558
5
.
Mó Chõu c bao bc bi sụng B Rộn, li c dũng sụng Thu Bn
bi p phự sa hng nm nờn ngay sau khi ngi Vit n ó lp nờn nhng lng
xúm trự phỳ. Ngi Vit khi n vựng t ny, khi lp lng thng t tờn theo
th t, theo nhng gỡ mỡnh mong c hoc l ly tờn lng quờ c ca h. Tờn
lng Mó Chõu ( ) cú l c t theo th t, tc l mnh t hỡnh
con nga, cng nh mt s lng khỏc ly tờn Long Chõu - mnh t hỡnh con
4
13 vị Hậu hiền có công khai canh lập xã Trà Kiệu đợc Sắc phong năm Khải Địng thứ 9 gồm:
Lê Đức Khoan, Nguyễn Văn Xứ, Nguyễn Văn Đơng, Phạm Văn Hoa, Nguyễn Viết Tuế, Lê
Phớc Đệ, Đoàn Công Khúc, Nguyễn Viết Dũng, Lê Văn D, Đặng Ngọc Đài, Trơng Văn Tốt,
Lê Văn Hợp, Nguyễn Cảnh Vạn [10].
5
Năm 1558 để tránh sự ám hại của ngời anh rể là Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng đã xin vào làm
Trấn thủ Thuận Hoá, một vùng đất đầy khó khăn hiểm trở với hi vọng "Hoành sơn nhất đái,
vạn đại dung thân". Trịnh Kiểm lúc đó đang có ý định loại bỏ ảnh hởng của họ Nguyễn, thấy
đây là vùng đất ngèo, đầy rẫy khó khăn nên đã đồng ý.
17
rng, Phng Chõu - mnh t hỡnh chim Phng, Bu Chõu - hũn ngc bỏu,
Hon Chõu - viờn ngc trũn...
Vỡ c dõn vựng ny trự mt nờn thi Minh Mng ci cỏch hnh chớnh
ó chia lng Mó Chõu thnh bn thụn l Mó Chõu ụng, Mó Chõu Thnh, Mó
Chõu Tõy v Mó Chõu Thng thuc tng ụng An, huyn Duy Xuyờn. S
phõn chia a gii hnh chớnh õy vo thi Minh Mng ch yu da vo

ngun t liu hi c ca cỏc c gi trong lng do ngun t liu ch vit ca lng
trc cỏch mng thỏng 8 khụng cũn
6
.
ng Khỏnh a d chớ, mc huyn Duy Xuyờn, tnh Qung Nam v
Phỳ ý ca h Trnh (õy l bn Phỳ ý ch Hỏn duy nht cũn gi li c nguyờn
vn. H Phm thụn Mó Chõu Thng cng cũn Phỳ ý ch Hỏn nhng ch cũn
mt phn nh), bn ch Hỏn hin c lu trong nh th h Thnh thụn Mó
Chõu ụng, son vo nm Duy Tõn th 2 thỡ Mó Chõu gm bn thụn (ụng -
Thnh - Tõy - Thng) thuc tng ụng An
7
, huyn Duy Xuyờn, ph in Bn,
tnh Qung Nam.
Ho bỡnh lp li lng Mó Chõu cú tờn hnh chớnh l thụn Chõu Hip
thuc xó Duy An (t 1995 i thnh th trn Nam Phc), huyn Duy Xuyờn.
õy ó din ra quỏ trỡnh cng c gia ngi Vit vi ngi Chm,
trong ú yu t Vit gi vai trũ ch o v xuyờn sut chiu di lch s, ngi
Vit ó dn dn "Vit hoỏ" ngi Chm, nhng ng thi cng hp th nhng
nột vn hoỏ c sc ca ngi Chm õy to thnh mt vựng vn hoỏ c
ỏo vn hnh trờn c tng Chm v c ch Vit.
6
Cũng thời này, làng Trà Kiệu đợc chia thành 5 thôn: Đông, Nam, Tây, Thợng và Trung;
Làng Thi Lai cũng đợc chia thành: Thi Lai Tây, Thi Lai Đông và Thi Lai Thợng... Nó cũng
phù hợp với những ghi chép trong Đồng Khánh địa d chí, mục Duy Xuyên - Quảng Nam.
7
Tổng Đông An có 20 xã, thôn, giáp: Mã Châu Thợng, Mã Châu Thành, Mã Châu Đông, Mã
Châu Tây, Thi Lai Tây, Thi Lai Đông, Thi Lai Thợng, Trung Lơng, An Lân, Cầu Bá, Hoà Mỹ,
Cổ Tháp, Trung Mỹ, Trung Thái, Nam Yên, Cổ Yên, Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, giáp
Tây Đông Yên [5].
18

1.3. Xã hội và con người.
Nguồn gốc cư dân tạo nên làng mạc xứ Quảng từ thế kỷ XV về sau,
ngoài một bộ phận cư dân Chăm lưu lại thì nguồn bổ xung chủ yếu là cư dân từ
nhiều làng quê khác nhau ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ di chuyển vào mà đông đảo
nhất là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Các đợt di dân khá quy mô, có tổ chức thời
Lê, thời Chúa Nguyễn bao gồm nhiều thành phần khác nhau trong xã hội. Dù ở
giai tầng nào, họ vẫn mang theo trong mình những tập quán, nếp sống ở những
làng quê cũ. Họ cùng góp những vốn liếng riêng của mỗi làng quê đó để xây
dựng lên một cấu trúc làng xóm, một nối làm ăn, một nền văn hoá cộng đồng
mới. Sự kế thừa, giao lưu và tiếp nhận các di sản văn hoá từ cộng đồng Chăm,
sự tổng hợp của sắc thái các làng quê xứ Bắc, Bắc Trung Bộ tạo nên diện mạo
của làng mạc xứ Quảng [21.128-129].
Cách thức bố trí của làng Mã Châu đại thể, giống các làng Việt ở châu
thổ Bắc Bộ nhưng thoáng hơn. Trong quá trình sinh sống cư dân Mã Châu đã tổ
chức thành 9 xóm theo khu vực cư trú là: tứ Phú (Phú Khương, Phú Thuận, Phú
Bình, Phú Hoà), tứ Bình (Bình Khương, Bình Thuận, Bình Yên, Bình Hoà) và
Hợp Thành. Các xóm xếp cạnh nhau thành những ô bàn cờ và tách nhau bằng
những lối đi tương đối thẳng. Mỗi xóm có một cuộc sống riêng của nó với một
sự cộng cảm riêng, kết tinh lại quanh việc thờ phụng ở miếu của mỗi xóm. Tên
xóm thể hiện ước vọng bình dị của những người dân làng Mã Châu phú yên, phú
thuận, bình khương, bình hoà... và ở đây xóm đơn thuần chỉ là một đơn vị văn
hoá, một đơn vị tụ cư chứ không phải là một đơn vị hành chính hay đơn vị kinh
tế.
Bộ máy lý dịch thời Trung - Cận đại ở Mã Châu cũng tương đối giống
làng xã ở Bắc Bộ với các chức danh:
19
- Lý trưởng: là người về nguyên tắc, được uỷ quyền và thay mặt dân
làng giao tiếp với chính quyền phong kiến. Lý trưởng phụ trách chung về các
mặt chia ruộng, thu thuế và các việc liên quan đến vấn đề hành chính.
- Hương Kiểm (Trương Tuần, Tuần Châu ở Bắc Bộ): là người đặc trách

đảm bảo an ninh trật tự cho làng xóm bằng cách chủ yếu là tổ chức canh gác,
tuần tra...
- Hương Mục (Thủ Bạ): đảm trách vấn đề dân số của làng.
- Hương Bộ (Thủ Bạ): đảm trách vấn đề ruộng đất.
Các tầng lớp xã hộ ở Mã Châu trên đại thể, có ba tầng lớp chính là:
+ Quan viên - chức sắc: là những người có bằng cấp hoặc chức tước
của chính quyền phong kiến.
+ Lão nhiêu: là những người già cả trong làng.
+ Dân đinh: là những người dân ở làng, hầu như khôngg phân biệt dân
ngụ cư. Nếu một người đến làng lập nghiệp, dựng nhà, lấy vợ, sinh con, tự
nguyện tham gia các sinh hoạt và tuân thủ các sinh hoạt của làng thì chậm nhất
đến đời con anh ta là được nhận vào làng và trở thành "người làng".
Từ sau khi đất nước thống nhất thì mô hình quản lý làng xã ở Mã Châu
(ũng như những làng xã khác trong cả nước) là sự kết hợp giữa bộ máy hành
chính, chính quyền (Ban dân chính thôn, chi bộ Đảng...) và những tổ chức đoàn
hội tập thể (Hội cựu chiến binh, hội phụ lão, hội phụ nữ, hội nông dân tập thể,
đoàn thanh niên...) đã tạo nên sự đoàn kết nhất trí cao trong toàn thôn làng.
Mã Châu nằm trong vùng đất mới của Đại Việt, người Việt đi "khai
hoang, lập nghiệp" vào đây có nhiều lý do: là lưu binh, do ngèo khó, những
người hưởng ứng việc mộ dân vào vùng đất mới của nhà nước phong kiến,
những người phạm tội bị đi đày (tội lưu)... Họ ở những làng quê khác nhau,
20
cựng vo sinh sng ni thiờn nhiờn khc nghit vỡ vy h phi vt ln vi t
nhiờn trong mu sinh. Trong khi ú hnh trang ca h vo vựng t mi cú l
khụng cú gỡ khỏc hn l ngh lc cng ci, tớnh cỏch ngang tng v lũng tin vo
sc mỡnh, tin vo tng lai. H qu ca nú l ngi dõn õy dng cm v cn
cự, bn tớnh gin d, thng thn v tụn trng s tht. H l nhng ngi dõn i
lp nghip nờn sng ci m v phúng khoỏng hn. i Nam nht thng chớ ó
nhn xột v c dõn vựng Qung Nam: "Tc a xa x, ớt kim thỳc, hỏt xng
khụng tic ca, n mc tt lt l, thờu dt tinh khoộ, sa tru khụng kộm gỡ

Qung ụng"[19.399]. V c dõn Duy Xuyờn nhỡn chung "Phong tc kim
c m quờ mựa, n gin d ớt vn hỏo. Cũn nh cỏc l hụn, tang, t, hi hố,
yn m... thỡ tu ni theo tc nhng vn gi l ý" v "khi gp vic khỏnh h thỡ
nhng ngi giu cú, phn nhiu hay thớch hỏt xng th thn"[5].
L nhng con ngi nhng min quờ khỏc nhau, vỡ iu kin sinh tn
nờn h phi tp hp ti õy. Vỡ vy h luụn mang trong lũng tõm trng hoi c:
Chiu chiu ra ng ngừ sau
Trụng v quờ m rut au chớn chiu.
Bi "ngi Vit thớch sng trong mt mụi trng trong ú quan h mỏu
m, quan h xúm ging c duy trỡ cho dự iu ny cn th mt phn quan h
cụng vic"[17.63]. Trong mụi trng mi ngi dõn õy li cng on kt gn
bú vi nhau hn "nhõn dõn trong hy, h khi gp cú l th thn, cỳng pht hoc
hụn tang... bao gi cng theo sc mỡnh m lm, giỳp ln nhau"[5].
Mó Chõu trong bi cnh x Qung vi truyn thng "Ng phng t
phi"
8
vn t trc l t cú hc, l t cú l [22.38]. "Hc trũ chm hc hnh,
nụng phu chm ng rung, siờng sn xut m ớt em cho; vui lm vic ngha, st
8
"Ngũ phụng tề phi": Khoa thi Đình năm Mậu Tuất 1898 niên hiệu Thành Thái, năm ngời ở
Quảng Nam đi thi đều đỗ cao là: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn (Tiến sĩ), Ngô Tuân, D-
ơng Hiển Tiến (Phó bảng).
21
sng vic cụng"[19.339]. Mó Chõu t trc v cho n hin nay, vic hc
hnh vn luụn c t nờn hng u, dự õy ó cú ngh dt. Khụng hc c
na thỡ mi chuyn sang lm ngh khỏc. Cng cú trng hp nh nghốo quỏ
khụng th nuụi con em n hc nờn phi b d, nhng a s l nu cũn cú th thỡ
cho con i hc ch khụng bt i lm ngh quỏ sm. V trong lch s, t thi
Thiu Tr tr i, lng Mó Chõu cng cú nhiu ngi C nhõn v mt ngi
ừ Phú bng. Trong ú dũng h Phm l dũng h cú truyn thng hc hnh nht

lng vi nhiu i cha con, anh em tip ni nhau t
9
.
õy cng l mnh t giu truyn thng yờu nc. Ngay t giai on
cỏch mng 1930-1931, trờn a bn thụn ó thnh lp c chi b ng cng
sn gm 8 ng viờn do H Duy T lm Bớ th, ó lónh o nhõn dõn trong
thụn, phi hp cựng nhõn dõn c nc ng lờn chng gic. Trong thi k
khỏng chin chng Phỏp, chựa Ba Phong, Miu Nh (trong chin tranh ó b phỏ
mt, hin ch cũn nn c)... l nhng a im an ton nuụi du nhng ng chớ
hot ng cỏch mng nh: Vừ Chớ Cụng, Phm Vn ng, H Mõn , Vừ Tn
Bn...
9
Theo số liệu thống kê cha đầy đủ của ông Nguyễn Hiền Tâm, ngời làng đã su tầm và cung
cấp cho tôi thì ở Mã Châu có 11 ngời đỗ Cử nhân là: Phạm Thanh Chân, Huỳnh Kim Minh (đỗ
năm Thiệu Trị 1:1841), Trần Minh Hớng, Phạm Thanh Nhã (Thiệu Trị 6: 1846), Trần Thiện
(Tự Đức 14: 1861), Phạm Thanh Thục (Tự Đức 17:1864), Lơng Văn Bá (Tự Đức 23: 1873),
Phan Thanh Nghiêm (Tự Đức 26: 1837), Phạm Cung Lơng (Kiến Phúc 1: 1884), Vũ Thức
(Thành Thái 9:1897), Phạm Thanh Túc (Thành Thái 12: 1900).
Riêng Phạm Thanh Nhã lại đỗ Phó bảng Khoa Tân Hợi thời Tự Đức thứ 4; giữ chức
Tri huyện Duy Xuyên, Huấn đạo Duy Xuyên, Tri huyện Hơng Trà, Giám sát ngự sử, Viên
ngoại lang bộ Lại.
22
Chương 2: LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
2.1. Sông Thu Bồn - Bà Rén với đời sống của cư dân Mã Châu.
23
Xuất phát từ đỉnh Ngọc Linh đổ ra cửa Đại, sông Thu Bồn là cái gạch nối,
nối liền Thánh địa Mỹ Sơn - Kinh đô Trà Kiệu và cảng thị Hội An của
thiểu quốc Amaravâti - Chămpa xưa kia; là con đường giao lưu Kinh tế -
Văn hoá - Xã hội giữa "miền xuôi" và "miền ngược"; và trong lòng đất trên
đôi bờ các con sông Thu Bồn - Bà Rén còn ẩn chứa nhiều di tích thuộc văn

hoá Sa Huỳnh như Quế Lâm, Bình Yên (Quế Phước), Quế Lộc, Phú Đa,
Thu Bồn, Mậu Hoà, Hậu Xá... đó là các khu cư trú cổ, các khu mộ chum có
niên đại cách ngày nay khoảng 2000 đến 2500 năm.
Quảng Nam có bốn dòng sông lớn, ba bắt nguồn từ Hoà Vang, một từ
nguồn Thu Bồn, Quế Sơn; đều chảy đến thôn Giao Thuỷ huyện Diên Phúc thì
hợp dòng. Đến huyện Duy Xuyên thì chia dòng: sông Bà Rén ở phía Nam và
sông Thu Bồn ở phía Bắc cùng chảy cửa Đại - Hội An. Đại Nam nhất thống chí
chép: "Sông Dưỡng Mông ở cách huyện Quế Sơn hai dặm về phía Bắc ra từ
nguồn Chiên Đàn (nguồn sông Thu Bồn- TG) qua địa giới huyện Lê Dương, đến
bãi Thi Lai huyện Duy Xuyên thì thành một nhánh riêng đến xã Dưỡng Mông.
Tục gọi là sông Bà Rén, chạy về phía Đông Nam qua chợ Thi Lai rồi chuyển sang
Đông đổ vào sông Bàn Thạch"[19.362-363]. Sông Bàn Thạch (Trường Giang)
lại chảy về phía Đông đổ ra cửa Đại Chiêm.
Làng Mã Châu nằm ở đoạn thượng lưu sông Bà Rén và đây là con sông
có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến đời sống của cư dân Mã Châu. Sông Thu
Bồn - Bà Rén bồi đắp phù sa tạo nên vùng đồng bằng phì nhiêu Duy Xuyên,
Điện Bàn... "ruộng đồng rộng rãi, các thứ lúa xanh tốt"[16.337]. Ở đây từ rất
sớm sử cũ đã ghi lại lúa hai vụ, tằm tám lứa tơ một năm. Sách Thuỷ kinh chú
chép: "Ruộng gọi là "Bạch điền" (ruộng trắng) thì giống lúa trắng, tháng 7 đốt
rẫy thì tháng 10 có lúa chín; ruộng gọi là "Xích điền" (ruộng đỏ) thì giống lúa
đỏ, tháng chạp làm thì tháng tư có lúa chín; người ta gọi lúa hai mùa là thế. Còn
24
như có nơi nảy mầm, hoa màu thay lúa, lúa sớm lúa muộn tháng nào cũng tốt.
Cày giống công nhiều, mà thu hoạch lợi ít, vì mùa màng chóng chín. Gạo không
phân tán ra ngoài nên trong nước thường nhiều gạo. Việc tằm tang thì một năm
tám lứa kén chín. Trong bài Tam đô phú bảo là tơ tám lứa tằm là thế"[9.114].
Đại Nam nhất thống chí cũng ghi lại ở đây: "thổ nghi mùa màng thì có
năm bậc; ruộng Hạ thì mùa Đông cấy, mùa Hạ gặt; ruộng Thu thì mùa Hạ cấy,
mùa Đông gặt; ruộng Hạ, ruộng Thu (ở miền Trung và Nam thì ruộng Hạ là
ruộng Mùa, ruộng Thu là ruộng Chiêm, khác với miền Bắc - chú thích của người

dịch) đã gặt về mùa Hạ lại gặt về mùa Thu... Phần nhiều theo thời tiết mà cày
cấy"[19.338].
Mã Châu với vị trí sát sông Bà Rén nên có thuận lợi chủ động được
nước tưới, việc nông tang ít phải phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết. Người Việt
vào đây đã kết hợp hệ thống thuỷ lợi của người Việt và người Chăm để đưa
nước vào đồng ruộng. Họ đặt ở sông những guồng quay nước dùng sức trâu
hoặc sức người kéo, đưa nước từ kênh mương vào chứa ở những ao chứa nước
được đào ở góc đầu mỗi thửa ruộng và sau đó người ta dùng gầu tre để tát nước
vào ruộng. Hệ thống kênh mương ở đây có từ rất sớm, "nước trời" là một nguồn
nước quan trọng nhưng không phải là chủ yếu. Sau này, khi có điện, người dân
ở đây đã chuyển sang dùng máy bơm nước bằng dầu và sau đó là xây dựng
những trạm bơm; Xây dựng và sửa chữa lại hệ thống kênh mương để "dẫn thuỷ
nhập điền". Hệ thống thuỷ lợi hiện nay đã đảm bảo cung cấp đủ nước tưới cho
các thửa ruộng và một phần cho các bãi đất trồng màu.
Về giống lúa, trước đây người Chăm và sau đó là người Việt vào đây
đều cấy giống lúa Chiêm, bởi giống lúa này chịu hạn tốt nhưng cho năng suất
thấp. Khi hệ thống thuỷ lợi được cải tiến, đồng ruộng ít phải phụ thuộc vào thời
tiết thì ở đây, những giống lúa cho năng suất cao bắt đầu được đem vào sử dụng,
25

×