Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đôi nét về tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của cư dân Mã Châu.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.09 KB, 53 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Là một sinh viên năm thứ t, đã đợc trang bị tơng đối đầy đủ kiến thức của
chuyên ngành Lịch sử Văn hoá, tôi phải hoàn thành luận văn tốt nghiệp và cũng là
bớc đầu làm quen với công việc nghiên cứu.
Tôi có may mắn là đợc ngời hớng dẫn Luận văn tốt nghiệp của tôi - TS
Lâm Mỹ Dung gợi ý và tạo mọi điều kiện cho tôi vào Duy Xuyên - Quảng Nam để
tìm hiểu về đời sống văn hoá của một làng nghề truyền thống ở đây.
Lần đầu tiên đặt chân đến miền Trung và với mục đích tìm hiểu về đời
sống văn hoá của một làng nghề, do kiến thức cá nhân còn ít ỏi và điều kiện thời
gian thực tế hạn hẹp, nên dù đã có đợc sự chỉ bảo, hớng dẫn, góp ý tận tình của
thầy cô và bạn bè trong quá trình tìm kiếm t liệu và cũng nh khi hoàn thành luận
văn nhng luận văn vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong có sự chỉ dẫn,
góp ý thêm.
Để hoàn thành đợc luận văn này, tôi xin cảm ơn các thầy cô của Bộ môn
Lịch sử Văn hoá và Khoa Lịch Sử, trờng ĐH KHXH&NV HN - nơi tôi đã và đang
học tập; cảm ơn Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên, đặc biệt là chú Dơng Đức Quí
và chị Nguyễn Thị Tuyết; cảm ơn thầy Nguyễn Chiều đã góp ý và cung cấp t liệu
cho tôi; cảm ơn Ban dân chính, các cụ phụ lão và bà con thôn Châu Hiệp đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong thời gian tôi thực tập ở đây.
Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với TS Lâm Mỹ Dung -
giáo viên hớng dẫn của tôi - ngời đã dẫn dắt và chỉ bảo cho tôi không chỉ trong
quá trình làm luận văn tốt nghiệp này.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1. Mục đích nghiên cứu
Ngời Việt từ xa (và cho đến nay) đa phần là nông dân. Môi trờng sống
của họ là Nông thôn - Nông nghiệp - Xóm làng. Phổ xã hội Việt Nam truyền
thống là Gia đình - Họ hàng - Làng nớc. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, làng xã
có một vai trò hết sức to lớn. Nó là tế bào sống của xã hội Việt Nam, là môi trờng
sinh tụ và hoạt động của nông dân Việt Nam. Mỗi bớc thăng trầm của dân tộc th-


ờng để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống làng xã.
Làng nghề truyền thống là nguồn tài sản quý giá của đất nớc cần đợc bảo
tồn và phát triển. Tài sản đó không chỉ mang ý nghĩa kinh tế - xã hội mà còn thể
hiện nền văn hoá, văn minh độc đáo của dân tộc Việt Nam. "Những làng nghề ấy
ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ trăm ngàn năm) "dân biết mặt, nớc
biết tên", tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục ngữ... trở thành di sản văn
hoá dân gian"[36.372].
Sau một thời gian mai một, hiện nay làng nghề đã và đang đợc quan tâm
phát triển. Sự đổi mới cơ chế quản lý cũ sang cơ chế thị trờng với sự điều tiết của
nhà nớc từ Đại hội VI (năm 1986) đã tạo ra bớc ngoặt quan trọng, thúc đẩy sự phát
triển sản xuất nói chung và các ngành nghề truyền thống nói riêng. Sự phát triển
của làng nghề, đặc biệt là những ngành nghề mới trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá (CNH-HĐH) nông thôn là một xu hớng tất yếu khách quan. Nhng
hiện nay vẫn còn không ít các làng nghề cha phục hồi đợc sản xuất, nhiều nghề bị
mai một, đội ngũ nghệ nhân ngày càng suy giảm. Các làng nghề cũng đang đứng
trớc những khó khăn thách thức nh là thị trờng tiêu thụ sản phẩm, nguồn vốn,
trang thiết bị công nghệ...[2.235]. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu các làng
nghề truyền thống, phải có một cái nhìn toàn thể về nó. Từ đó mới có thể hoạch
định những phơng hớng, cách thức bảo tồn và phát triển làng nghề trong giai đoạn
hiện nay.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảo tồn làng nghề truyền thống cũng chính là bảo tồn các giá trị văn hoá
dân tộc. Muốn bảo tồn và phát triển các làng nghề thì trớc hết, chúng ta phải tìm
hiểu những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề. Bởi "văn hoá" đợc coi "là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội" nh Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ Đảng (Khoá VII)
đã đề ra. Những yếu tố truyền thống đó kết hợp với những yếu tố hiện đại nh thế
nào và vai trò của nó trong sự phát triển của làng nghề? Nh vậy mới có thể bảo tồn
và phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH-HĐH một cách có hiệu

quả. Đây cũng chính là mục đích của luận văn tốt nghiệp "Làng dệt Mã Châu - xa
và nay".
Khi đặt Xa (truyền thống - theo cách hiểu thông thờng là những giá trị
văn hoá từ xa để lại) và Nay (hiện đại), tôi không có ý định so sánh, mà dựa trên
tinh thần "ôn cố tri tân" (tìm cũ để biết mới). Bởi chỉ có hiểu biết sâu sắc về làng
nghề và những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề thì khi gia nhập vào
công cuộc CNH-HĐH chúng ta mới có thể phát huy tốt vai trò của làng nghề mà
không làm mất đi những giá trị văn hoá riêng đặc sắc của nó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Làng xã là đối tợng nghiên cứu của Khoa học Lịch sử và nhiều ngành
khoa học khác với diện nghiên cứu đa dạng và phong phú. Đến nay việc nghiên
cứu đã đạt đợc nhiều kết quả. Các công trình nghiên cứu chung hoặc mang tính
chất chuyên khảo về làng nghề cũng đã đợc nhiều ngời công bố.
Làng dệt Mã Châu và làng xã vùng Duy Xuyên- Quảng Nam nói chung,
vì nhiều lý do, việc nghiên cứu mới có những kết quả chung có tính chất khái quát,
ít có những công trình nghiên cứu chuyên sâu. Và về làng nghề Mã Châu chỉ có
một số bài viết chung, gián tiếp đề cập đến.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Bài viết: Câu ca làng nghề của Văn Thành Lê đăng trên tạp chí Văn
hoá Quảng Nam số 18 tháng 12.1999. Trên cơ sở tìm hiểu nghề dệt ở Duy Xuyên,
ông nói đến ảnh hởng của nghề dệt với đời sống c dân ở đây.
- Bài báo: Duy Xuyên ngày mai xanh lại những biền dâu? của Hoàng
Thơ trên báo Quảng Nam chủ nhật ngày 9.3.2003. Từ những số liệu của nghề dâu
tằm ở Duy Xuyên trong những năm gần đây, tác giả khẳng định khả năng phát
triển của nghề dệt ở vùng này.
- Bài viết: Ông Cửu Diễn - ngời du nhập kỹ thuật dệt mới vào Duy
Xuyên (t liệu của chị Nguyễn Thị Tuyết - Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên) nói
về sự cải tiến kỹ thuật dệt ở Duy Xuyên hồi đầu thế kỷ XX.
3. Các nguồn t liệu

Để hoàn thành luận văn, tôi đã sử dụng những nguồn t liệu sau:
3.1. T liệu chữ viết
3.1.1. Th tịch cổ gồm có:
- Thuỷ kinh chú [9]
- Đại Việt sử ký toàn th [3]
- Phủ biên tạp lục [8]
- Đại Nam nhất thống chí [19]
- Đồng Khánh địa d chí [5]
3.1.2. T liệu chữ viết su tầm tại địa phơng gồm có:
- Quy ớc văn hoá thôn Châu Hiệp [20]
- Dự thảo tộc ớc làng mã Châu [1]
- Tóm tắt lợc sử các ch phái tộc làng Mã Châu [32]
- Gia phả họ Phạm thôn Mã Châu Thợng (chữ Hán)
- Gia phả họ Trịnh thôn Mã Châu Đông (cả phần chữ Hán và bản dịch)
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3.2.T liệu điền dã
Trong điều kiện làng nghề Mã Châu mới chỉ có những bài nghiên cứu
chung, mang tính chất nền tảng bớc đầu, cha có sự đi sâu, tìm hiểu toàn diện thì t
liệu điền dã là một nguồn t liệu quan trọng giúp tôi thu thập thông tin để phục vụ
cho luận văn. Phơng pháp điền dã đợc sử dụng để lấy những loại thông tin:
- Nghề dệt truyền thống (với những công đoạn trông dâu, nuôi tằm, ơm
tơ, dệt lụa).
- Phong tục tập quán và sinh hoạt văn hoá của c dân làng Mã Châu.
- Các hoạt động trao đổi, buôn bán...
Trong đó nguồn t liệu hồi cố của các cụ già trong làng là một nguồn t
liệu vô cùng quý báu vì luận văn chủ yếu nghiêng về khía cạnh văn hoá của làng.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Những phơng pháp nghiên cứu đã đợc tôi sử dụng để hoàn thành luận văn
gồm:

Phơng pháp điền dã dân tộc học và phơng pháp phỏng vấn đợc sử dụng
trong thời gian khảo sát và su tầm t liệu tại địa phơng. Đây là những phơng pháp
chủ yếu đợc tôi sử dụng để thu thập t liệu phục vụ cho luận văn.
Dựa trên những nguồn t liệu thu thập đợc tôi đã sử dụng phơng pháp so
sánh, phân tích và tổng hợp t liệu. Từ đó hệ thống hoá những t liệu đã thu thập đợc
để đa vào hoàn thành luận văn.
Phơng pháp tiếp cận liên ngành là phơng pháp quan trọng đợc tôi sử dụng
từ khi khảo sát điền dã lấy t liệu cho tới khi hoàn thành luận văn. Bởi văn hoá làng
là "một phức thể thống nhất trong đa dạng"[36.25] cần đợc tiếp cận và nghiên
cứu từ nhiều hớng.
5. Bố cục luận văn
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn gồm có ba phần: Phần mở đầu (6 trang); Phần nội dung (52
trang) và phần kết luận (3 trang).
Nội dung của luận văn đợc chia làm 3 chơng:
- Chơng 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên-lịch sử, xã hội và con ngời.
- Chơng 2: Làng nghề truyền thống.
- Chơng 3: Đôi nét về tín ngỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của c
dân Mã Châu.
Ngoài ra luận văn còn có phần tài liệu tham khảo, sách dẫn và phụ lục
gồm 20 trang.
Chơng 1: khái quát về điều kiện tự nhiên-lịch sử,
xã hội và con ngời
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

1.1. Điều kiện tự nhiên
Làng Mã Châu (theo tên địa giới hành chính là thôn Châu Hiệp) thuộc thị
trấn Nam Phớc, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nằm cách thành phố Đà

Nẵng 30 km đi theo Quốc lộ 1A, đoạn từ Đà Nẵng đi Tam kỳ - Quảng Nam.
Vị trí địa lý của làng Mã Châu, phía Tây tiếp giáp sông Cầu Chìm (một
đoạn của sông Bà Rén, vì ở đoạn sông này có cây cầu Chìm bắc qua sông nên gọi
nh vậy), bên kia sông là Ngũ xã Trà Kiệu. Phía Đông - Nam giáp làng Mậu Hoà
cũng cách nhau ở nhánh thợng lu sông Bà Rén. Phía Bắc tiếp giáp với làng Trung
Lơng (thôn Xuyên Tây 1) lấy đờng gianh giới là con đờng tỉnh lộ 610 (chạy từ Bàn
Thạch đến Mỹ Sơn). Mã Châu nằm ở phía đỉnh tam giác đồng bằng châu thổ Duy
Xuyên, nơi chia dòng giữa hai con sông Thu Bồn và Bà Rén.
Làng Mã Châu có tổng diện tích đất tự nhiên là 126 ha, trong đó diện tích
đất nông nghiệp là 46 ha, diện tích đất thổ c là 43 ha, phần còn lại là diện tích ao
hồ, sông suối và đất bồi ở ven sông. Với 560 hộ, dân số là 2692 ngời.
Quảng Nam là vùng đất có nhiều sông ngòi >1km/1km2 nhng sông ngòi
ở đây ngắn và dốc "từ nguồn suối núi rừng đến vịnh cửa sông đổ ra biển chỉ cách
nhau khoảng 100 - 150 km đờng chim bay. Nớc sông thờng trong xanh và nh thế
có nghĩa là ít phù sa và những đồng bằng do chúng tạo thành thì không lớn. Tuy
nhiên so với Bình Trị Thiên Trung Trung bộ, ở đất Quảng đờng cốt núi lùi vào
trong hơn vì thế mà đồng bằng lại rộng ra, đồng thời còn phát triển sâu vào
trong vùng đồi ngợc theo các thung lũng sông nhỏ. Chính vì thế mà ở đất Quảng
núi - đồi - đồng bằng dính liền với nhau khá chặt"[37.424]. Quảng Nam có hai
nguồn sông lớn là sông Vu Gia và sông Thu Bồn gặp nhau tại vùng Giao Thuỷ
(Đại Lộc) và đến Duy Xuyên thì chia thành hai nhánh cùng đổ ra cửa Đại là nhánh
sông Thu Bồn ở phía Bắc và nhánh sông Bà Rén ở phía Nam nhỏ hơn.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sông Thu Bồn bắt nguồn từ núi Ngọc Linh (cao 2.859m), nằm giáp giữa
huyện Trà My và Kon Tum, nơi có lợng ma trung bình 4000 mm/năm [26.34]. Do
vậy, sông Thu Bồn và Vu Gia là hai dòng sông lớn đã hợp lu với nhau bồi đắp nên
vùng đất đai trù phú Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên... nhng càng về phía Đông
càng pha nhiều cát biển và phải chịu ảnh hởng của thuỷ triều. Những vùng khác
nh đồng bằng sông Ly Ly, Tam Kỳ, đất pha nhiều cát và nghèo hơn đất vùng sông

Thu Bồn, do sông nhỏ, nớc lũ không lớn, phù sa không nhiều, không đủ nớc tới
cho ruộng đồng về mùa hạn [37.418-431]. Nó đã đợc tổng kết trong câu thơ dân
gian:
Đất Quảng Nam cha ma đã thấm
1
Do tính chất sông ngòi nh vậy mà đất đai ở đây xa kia phần lớn là đất
khô cằn, nớc tới tiêu cho đồng ruộng hoàn toàn phụ thuộc vào "nớc trời". Duy chỉ
có vùng hạ lu các sông, đặc biệt là hạ lu sông Thu Bồn (vùng Duy Xuyên, Điện
Bàn) nhờ phù sa hàng năm bồi đắp nên hai bên bờ sông tạo thành những đồng
ruộng phì nhiêu thuận lợi cho việc canh tác, trồng trọt, nhất là trồng lúa, trồng dâu
[22.202].
Huyện Duy Xuyên nằm dọc về phía bờ Nam sông Thu Bồn, địa hình trải
dài từ núi ra biển, có bốn nhánh sông lớn là Vu Gia, Thu Bồn, Bà Rén và Trờng
Giang. Đất đai ở đây đợc thừa hởng nguồn phù sa dồi dào từ thợng nguồn các
nhánh sông Thu Bồn đổ về làm cho màu mỡ, dần dần đẩy lùi nớc biển từ bãi cát
Tây An, xã Duy Trung tạo thành những giải đất phì nhiêu kéo dài từ miếu Thành
Hoàng Mã Châu cho đến Phụng Châu, Long Châu, Triều Châu... của xã Duy Phớc,
Duy Vinh ngày nay. Làng Mã Châu với địa thế ở đỉnh tam giác châu lại đợc bao
1
GS Trần Quốc Vợng đã mô hình hoá miền Trung thành một hình hộp chữ nhật và mỗi xứ,
vùng là những hình hộp chữ nhật ngang với những thành tố: Núi đồi - Đèo - Sông - Đầm phá -
Cảng ven sông, ven biển - Hải đảo và các thành tố Núi - Biển - Sông - Đèo tuy có yếu tố chia
cắt các vùng miền song lại mang yếu tố gạch nối nhiều hơn [37.309-340].
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quanh bởi sông Bà Rén nên hàng năm, sau mỗi mùa lũ đã nhận đợc một lợng phù
sa đáng kể, rất thuận lợi cho sự phát triển nghề nông tang ở đây.
Nói chung, địa hình ở Duy Xuyên đồi núi, sông hồ, đầm phá gắn kết với
nhau khá chặt chẽ. Vùng đồng bằng sông Thu Bồn sông hồ lầy lội, đi ghe thuyền
tiện hơn đi chân. Việc đặt tên các xứ đất ở Mã Châu: Đồng Rẫy, Lục Nhơn, Bàu

Trớc, Bàu Tự, Bàu Răm, Bàu Mạn, Bàu Tỉnh, Bàu Khế, Bàu Chùa, đất bồi xóm bãi
(Thợng tự phù sa đồng canh xứ)... cũng đã phần nào nói nên điều này.
Mã Châu trong bối cảnh Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung thuộc đới
khí hậu á xích đạo, với lợng cân bằng bức xạ 95 kcal/cm2/năm (tổng nhiệt độ
9500C). Đất Quảng Nam nằm trong gianh giới vĩ tuyến 14B đến 16B, không có
mùa khô rõ rệt do tác dụng bức chắn của khối núi Bắc Kon Tum. Cũng vì vậy mà
trong mùa gió Đông Bắc, Quảng Nam vẫn giữ đợc một lợng ma đáng kể. Nhiệt độ
trung bình các tháng đều >20C nên ở Quảng Nam không có mùa Đông lạnh. Mùa
ma ở đây "lệch pha" so với hai đầu Nam Bắc, bắt đầu từ tháng 9, tháng 10, giảm
dần về cuối năm và kết thúc vào tháng 1. Từ tháng 5 đến tháng 8, do ảnh hởng của
gió Lào làm khí hậu khô nóng. Đại Nam nhất thống chí, mục Quảng Nam tỉnh
chép: "Khí trời nóng nực, nhiều lạnh ít ma; chất đất phù bạc, nhiều khô hạn ít
màu mỡ. Hết tháng chạp thì gió Đông nổi, tiết kinh chập thì ma xuân phần; gió
Nam mạnh về mùa Hạ, gió Bắc rét về mùa Đông; mùa Thu gió mát mà hay ma
lụt (các tháng 8, 9, 10 thờng hay ma lụt), ma Đông hết lụt thì bãi sông bằng (mùa
Đông sau khi ma lụt thì bãi sông bằng phẳng tức là hết kỳ ma lụt)... Thỉnh thoảng
cũng có gió bão"[19.337].
Do ảnh hởng của khí hậu á xích đạo nên thành phần sinh vật mang nhiều
đặc điểm Mã Lai, Iđônêsia...
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng Mã Châu.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Làng Mã Châu (mà theo tên hành chính là thôn Châu Hiệp, xã Duy An
cũ hay thi trấn Nam Phớc mới thành lập năm 1995) trong bối cảnh toàn vùng Duy
Xuyên và mở rộng hơn là xứ Quảng - Quảng Nam là vùng đất có truyền thống lịch
sử lâu đời. Nó đã đợc GS Trần Quốc Vợng khái quát: "ở xứ Quảng - Quảng Nam
- Việt Nam lại có sự xếp tầng (stratigraphi) xếp lớp văn hoá, quá trình lắng đọng
- trầm tích (sédimentation) văn hoá qua diễn trình lịch sử kể từ dới lên trên:
7 - Văn hoá Quảng Nam hiện đại.
6 - Văn hoá Kinh - Việt.

5 - Văn hoá Chămpa - ấ n.
4 - Văn hoá Sa Huỳnh - Đại Lộc.
3 - Văn hoá tiền Sa Huỳnh (Bàu Trám, Phúc Hoà).
2 - Văn hoá Bãi Ông (Cù Lao Chàm).
1 - Văn hoá Bàu Dũ hậu Hoà Bình (hay truyền thống Hoà Bình)...
[22.35].
Năm 1981 di chỉ Khảo cổ học Bàu Dũ thuộc thời đại đá mới ở thôn Bút
Đông, xã Tam Xuân, huyện (nay là thị xã) Tam Kỳ đợc phát hiện và khai quật.
Bàu Dũ là một di chỉ cồn sò điệp, căn cứ vào cấu tạo tầng văn hoá, đợc
xếp vào loại hình di tích đống rác bếp. Bàu Dũ có nhiều nét tơng tự với văn hoá
Hoà Bình ở miền Bắc (có niên đại 15000 đến 8-6000 năm cách ngày nay) bởi kỹ
thuật chế tác và công cụ đá; và di tích văn hoá Quỳnh văn ở ven biển Nghệ An
(đầu thời đại đá mới) ở hình thức mộ táng (huyệt tròn, trôn ngời bó gối trong đống
vỏ sò điệp).
Những hiện vật khai quật đợc ở Bàu Dũ cho biết nền kinh tế của c dân
Bàu Dũ là kinh tế săn bắt (bắn), hái lợm theo phổ rộng của hệ sinh thái bờ biển.
Địa bàn c trú của họ là những vùng cửa sông ven biển. Tại đây đã thu lợm đợc một
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
số lợng lớn xơng cốt động vật và vỏ nhuyễn thể (nhng cha thấy di cốt của loài vật
đã đợc thuần dỡng) cho thấy trớc đây vùng này là vùng rừng xen lẫn với những
trảng cỏ rộng lớn và những bàu nớc ngọt nh Bàu Dũ, Bàu Mê, Bàu Trám... [33].
Quảng Nam hiện nay vẫn là nơi phân bố dày đặc nhất những di tích khảo
cổ học của văn hoá Sa Huỳnh. Tính riêng ở huyện Duy Xuyên đã phát hiện hàng
chục di chỉ trong vòng vài năm gần đây. Những di tích này đợc phát hiện ở những
khu vực sinh thái đa dạng: núi, đồi, gò, ven sông... với mật độ chum mộ và đồ tuỳ
táng dày đặc. Đa số các di tích phân bố ở trên những cồn cát cổ, dọc theo các con
sông Thu Bồn và Bà Rén.
Các di tích Sa Huỳnh ở Duy Xuyên tìm thấy, đặc biệt phân bố rất dày đặc
ở các cồn cát cổ ven theo bờ Nam sông Bà Rén, thuộc khu vực thôn Mậu Hoà, xã

Duy Trung (tức là cách làng Mã Châu hiện nay một bờ sông) nh: gò Mả Vôi, gò
Miếu Ông (đã đợc khai quật), gò Tây An, gò Cấm, gò Bờ Rang, gò Bà Hòm, gò
Ông Nhan... [14].
Mộ táng Sa Huỳnh ở đây có nhiều táng thức khác nhau, với những loại
hình: mộ chum, mộ vò và mộ huyệt đất, nhng phổ biến nhất là mộ chum. Chum
mộ hình cầu với những kiểu biến thể ở miệng, thân, đáy thành hình trái xoan, trái
đào, hình trứng... mộ chum kép (chum đôi lồng nhau), với nắp đậy hình nón cụt
hoặc hình lồng bàn. Đồ gốm ở đây rất đa dạng về loại hình cũng nh hoa văn trang
trí nh: nồi, bát bồng, đèn, cốc chân cao, bình, vò... với đồ án hoa văn phức tạp kết
hợp khắc vạch, tô màu... Khiếu thẩm mỹ của ngời Sa Huỳnh rất phong phú đợc thể
hiện qua cách sử dụng đồ trang sức với những chất liệu: mã não, thuỷ tinh, vàng,
đá, nephrit... Bộ su tập đồ đồng và đồ sắt cũng rất phong phú với những loại hình:
rìu, lao, dao, đục... Các hiện vật tìm đợc đã cho thấy ở đây từ rất sớm, ngời Sa
Huỳnh đã mở rộng giao lu văn hoá với các vùng khác. Bộ su tập đồ đồng ở gò Mả
Vôi cho thấy sự giao lu với văn hoá Đông Sơn, còn bộ su tập đồ đồng ở gò Dừa lại
cho thấy sự giao lu mạnh mẽ với văn hoá Hán [14.32].
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kết quả nghiên cứu còn cho biết c dân Sa Huỳnh là c dân nông nghiệp
trồng lúa nớc ở vùng đồng bằng duyên hải. Họ đã biết trồng lúa và một số loại cây
lơng thực khác nh: khoai, sắn, lạc, đậu... Có thể cây lấy sợi nh bông, đay, gai đã đ-
ợc c dân Sa Huỳnh trồng để phát triển nghề dệt sợi. Các dọi xe sợi đã nói lên sự
phát triển của nghề thủ công này trong văn hoá Sa Huỳnh. Việc buôn bán trao đổi
của họ cũng rất phát triển. Nghề đi biển đã đợc ngời Sa Huỳnh biết đến và yếu tố
biển đã ăn sâu vào đời sống của họ. Do vậy cốt lõi của nghệ thuật Sa Huỳnh là
miêu tả thiên nhiên mà chủ yếu là biển cả [35.445]. Trong đó Hội An với vai trò
của một cảng thị sơ khai là minh chứng cho sự giao thơng và giao lu văn hoá giữa
Sa Huỳnh và những nền văn hoá khác qua đờng biển.
Trên nền tảng văn hoá bản địa, kế thừa những di sản từ văn hoá Sa
Huỳnh, tiếp thu những ảnh hởng của văn hoá ấn Độ, cùng nhiều yếu tố khác của

các nền văn hoá láng giềng, dân tộc Chăm trên chặng đờng dài 14 thế kỷ đã sáng
tạo nên nền văn hoá riêng, độc đáo của mình.
Chămpa có niên đại khởi đầu vào cuối thế kỷ II theo th tịch cổ Trung
Quốc. Gắn liền với sự kiện năm 192 Khu Liên nổi dậy chống nhà Hán, lập nớc
Lâm ấp (ở vùng đất Quảng Nam ngày nay)
2
. Đó là vơng quốc Chămpa của ngời
Chăm với đô thành S Tử (Simhapura), nay là Trà Kiệu - Duy Xuyên. Tại đây, trên
ngọn núi Bửu Châu - ở giữa kinh đô Trà Kiệu, trong một lần đi điền dã từ đầu thập
kỷ 80, GS Trần Quốc Vợng đã "đốn ngộ" ra mô hình quy hoạch các tiểu quốc
Chămpa nh sau:
2
Thời Sơ Bình nhà hậu Hán (190 - 192) Khu Liên, một công tào huyện Tợng Lâm đã lợi dụng
lúc nhà Hán suy yếu, nổi dậy chiếm quận Nhật Nam và xng Vua ở Tợng Lâm-một huyện cực
Nam của quận Nhật Nam, lập ra nớc Lâm ấp. Tên Lâm ấp có thể do bắt nguồn từ chữ Tợng
Lâm (rừng voi). Còn tên Chămpa thì không biết ra đời từ khi nào, bia ký sớm nhất nhắc đến
tên này là bia đợc lập vào thế kỷ VI [33.9-10].
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Núi Sông Thu Bồn
Tây Thánh địa Thành S Tử Cảng thị Hội An Biển Đông Tiền cảng
Mỹ Sơn (Simhapura) (Chămpapura) (Cù Lao Chàm)
Trong đó sông biển, sông nớc là yếu tố kết nối giữa các thành tố trên
[37.322].
Duy Xuyên với diện tích 27.533 ha với địa hình trải dài từ Tây sang
Đông theo hình hộp chữ nhật với phức thể địa hình Núi - Đồi - Đồng bằng -
Duyên hải - Biển với yếu tố kết nối là dòng sông Thu Bồn, đã mang trong mình
Thánh địa Mỹ Sơn - trung tâm tôn giáo của tiểu vùng Amaravâti (Quảng nam), mà
theo GS Trần Quốc Vợng thì ngoài chức năng tôn giáo, thánh địa Mỹ Sơn còn có
chức năng giao lu kinh tế, văn hoá giữa Chămpa và các dân tộc thiểu số ở vùng

núi; Kinh đô Trà Kiệu (Simhapura) nơi đóng đô của Vơng quốc Chămpa từ thế kỷ
III đến thế kỷ IX - X. Việc khai quật thành Trà Kiệu đã đợc Khoa Sử trờng ĐH
KHXH&NV Hà Nội tiến hành (lần một năm 1989 và lần hai vào tháng 3 năm
2003). Kết quả nghiên cứu cho thấy đây là ngôi thành đợc xây dựng bằng gạch
đầu tiên ở Việt Nam với một kỹ thuật xây thành rất cao
3
; Vùng đồng bằng Duy
Xuyên đất đai màu mỡ do đợc các con sông Vu Gia - Thu Bồn bồi đắp, thuận lợi
cho sự phát triển nông nghiệp và các con sông Thu Bồn - Bà Rén lại cung cấp nớc
tới cho vùng đồng bằng nên việc canh tác nông nghiệp ở đây thuận lợi, không phải
phụ thuộc vào "nớc trời" nh những vùng đồng bằng khác ở Quảng Nam; Sông Thu
Bồn là sợi dây nối liền núi Chúa - kinh đô Trà Kiệu với cảng thị Hội An (Đại
Chiêm hải khẩu - Chămpapura) và xa hơn nữa là Cù Lao Chàm - hòn đảo tiền tiêu
của những c dân vùng biển theo kiểu liên kết:
3
Theo ý kiến của thầy Nguyễn Chiều và cô Lâm Mỹ Dung trong cuộc khai quật thành Trà
Kiệu vào tháng 3 năm 2003 do Khoa Sử - ĐH KHXH&NV Hà Nội và Phòng Văn hoá huyện
Duy Xuyên - Quảng Nam tiến hành.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ai về nhắn với nậu/bạn nguồn
Mít non/măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên.
ở Mã Châu còn một giếng Chăm cổ mà ngời dân ở đây gọi là "giếng bốn
trụ". Trong lòng giếng đợc kè đá hình tròn, sâu hơn 6m, dới đáy giếng đợc đóng
bốn cây gỗ lim chống sụt. Phía trên thành giếng đợc làm hình vuông với bốn cây
trụ đá ở bốn góc cao khoảng 1m, kết hợp với tám thanh đá ngang dài khoảng 80cm
tạo thành một bộ khung và bốn phía đợc ghép bốn phiến đá. Nớc giếng trong và
ngọt, ngời dân trong làng cho đến gần đây vẫn còn sử dụng nớc ở giếng này. ở
xung quanh giếng còn rải rác những mảnh vỡ của một số viên gạch Chăm.
Vùng đồng bằng Duy Xuyên - Quảng Nam là nơi đã có dấu tích c dân

sinh sống từ lâu đời. Tuy nhiên chỉ khi có ngời Việt di c đến "vùng đất mới" (ùng
với ngời Chăm), "khai hoang" lập nghiệp, thì mới hình thành nên làng Việt với
những tên làng, tên xã nh hiện nay.
Xứ Quảng - Quảng Nam trớc kia vốn là vùng đất của Vơng quốc Chămpa
nhng trong quá trình "Nam tiến" của mình, ngời Việt đã để lại đây những dấu ấn
từ rất sớm trong lịch sử. Đại cơng Lịch sử Việt Nam (tập 1) đã ghi lại: "Năm 982
sau khi đánh bại quân Tống. Lê Hoàn quyết định đem quân đánh Chămpa, tiến
thẳng đến kinh đô, phá huỷ thành trì rồi rút quân về"[40.26]. Lịch sử Chămpa
cũng đã lu lại trờng hợp ngời Việt là Lu Kế Tông - quân Quản Giáp trong quân đội
đi đánh Chiêm Thành của Lê Hoàn đã trốn ở lại, chiếm ngôi vua Chămpa từ năm
986 đến năm 988, khi vua Chămpa Inđravarman chết vào năm 986 [12.26].
Năm 1069 Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành,vua Chiêm Ruđravarman
II phải cắt ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (nay là Quảng Bình và Bắc Quảng
Trị) cho nhà Lý. Đến thời Trần, năm 1305 vua Trần (Nhân Tông) gả Huyền Chân
Công Chúa cho vua Chămpa là Chế Mân và thu nhận lễ vật là hai châu Ô, Rí (nay
là đất Thừa Thiên). Năm 1402 nhà Hồ đánh Chiêm, Chiêm dâng đất Chiêm Động,
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hồ Quý Ly bắt phải dâng cả đất Cổ Luỹ (từ Quảng Nam đến Phú Yên) và đặt bốn
châu Thăng - Hoa - T - Nghĩa. "Lại bắt ngời dân có của mà không có ruộng ở
các lộ khác đem vợ con vào ở, để khai khẩn đất ở những châu ấy, bởi vì khi vua
Chiêm nhờng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ, ngời CHiêm đều bỏ đất ấy mà đi
cả"[34.184].
GS Trần Quốc Vợng đã nhận xét quá trình "Nam tiến" của ngời Việt có
chiến tranh, có chết chóc nhng không hề có sự khu trục ngời Chàm ra khỏi vùng
Thuận Hoá - Quảng Nam. Lịch sử đã ghi lại nhiều cuộc hôn nhân Việt - Chăm
(đặc biệt là thời kỳ đầu, ngời Việt vào đây chủ yếu là đàn ông - những ngời lính
thú, những phạm nhân bị đi đày viễn xứ (tội lu viễn châu) họ đã kết hôn với những
phụ nữ ngời Chăm), có nhiều dòng họ Việt gốc Chàm (Ông, Ma, Chà, Chế...) và
thậm chí cho đến nay vẫn tồn tại các ốc đảo ngời Việt gốc Chăm ở Quảng Nam

[37.447].
Tuy nhiên trên thực tế những vùng đất đó vẫn là đất của Chămpa và nó
chỉ thực sự đợc sát nhập vào Đại Việt với sự kiện năm 1470 Lê Thánh Tông đánh
Chiêm Thành và lập nên đạo thừa tuyên thứ 13 là Đạo thừa tuyên Quảng Nam.
Theo Nguyễn Xuân Hồng và Trần Thị Thu Hà thì ở Quảng Nam có
những đợt di dân lớn sau:
1 - Đợt di dân theo Huyền Trân Công Chúa.
2 - Đợt di dân theo cuộc viễn chinh của Lê Thành Tông.
3 - Đợt di dân từ miền Bắc vào khi Nguyễn Hoàng vào Trấn thủ xứ
Thuận Quảng vào giữa thế kỷ XVII (chủ yếu là ngời Thanh - Nghệ - Tĩnh. TG).
4 - Đợt di dân từ Quy Nhơn và miền Nam ra thời Tây Sơn và thời đầu V-
ơng triều Nguyễn.
5 - Di dân từ miền Bắc vào năm 1954, 1955.
6 - Di dân từ Huế vào thập kỷ 60 và sau ngày giải phóng.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong các đợt di dân đó thì đợt di dân thời kỳ các chúa Nguyễn là lớn
nhất, ồ ạt và đáng quan tâm nhất. Bởi vì nó góp phần quan trọng trong việc hình
thành nên diện mạo của c dân vùng Thuận Quảng [22.102].
ở Duy Xuyên thì mảnh đất nơi ngời Việt đặt chân đến đầu tiên (theo tài
liệu địa phơng) là Trà Kiệu, vào năm 1470. Tức là quân binh theo Lê Thánh Tông
đi đánh Chiêm ở lại khai hoang lập làng. Đến nay Ngũ Xã Trà Kiệu vẫn còn lu giữ
đợc bốn đạo sắc phong đề năm Khải Định thứ 9 cho Tiền hiền, Thứ thế tiền hiền
và Hậu hiền đã có công khai c lập xã [10].
Mã Châu trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp - Mỹ, c dân ly tán, rồi
lại "chống mê tín" nên những t liệu về làng đã bị thất lạc không còn. Tuy nhiên
theo hồi cố của các cụ già thì làng Mã Châu đợc lập ra sau làng Trà Kiệu gần một
thế kỷ và có liên quan đến 13 vị Hậu hiền ở Trà Kiệu (tới Trà Kiệu năm 1578)
4
,

thời điểm ra đời của làng vào khoảng giữa thế kỷ XVI. Thời điểm này cũng phù
hợp với lần di dân "Bắc địa tùng vơng" của Nguyễn Hoàng vào vùng Thuận Quảng
năm 1558
5
.
Mã Châu đợc bao bọc bởi sông Bà Rén, lại đợc dòng sông Thu Bồn bồi
đắp phù sa hàng năm nên ngay sau khi ngời Việt đến đã lập nên những làng xóm
trù phú. Ngời Việt khi đến vùng đất này, khi lập làng thờng đặt tên theo thế đất,
theo những gì mình mong ớc hoặc là lấy tên làng quê cũ của họ. Tên làng Mã
Châu ( ) có lẽ đợc đặt theo thế đất, tức là mảnh đất hình con ngựa, cũng
nh một số làng khác lấy tên Long Châu - mảnh đất hình con rồng, Phụng Châu -
4
13 vị Hậu hiền có công khai canh lập xã Trà Kiệu đợc Sắc phong năm Khải Địng thứ 9 gồm:
Lê Đức Khoan, Nguyễn Văn Xứ, Nguyễn Văn Đơng, Phạm Văn Hoa, Nguyễn Viết Tuế, Lê
Phớc Đệ, Đoàn Công Khúc, Nguyễn Viết Dũng, Lê Văn D, Đặng Ngọc Đài, Trơng Văn Tốt,
Lê Văn Hợp, Nguyễn Cảnh Vạn [10].
5
Năm 1558 để tránh sự ám hại của ngời anh rể là Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng đã xin vào làm
Trấn thủ Thuận Hoá, một vùng đất đầy khó khăn hiểm trở với hi vọng "Hoành sơn nhất đái,
vạn đại dung thân". Trịnh Kiểm lúc đó đang có ý định loại bỏ ảnh hởng của họ Nguyễn, thấy
đây là vùng đất ngèo, đầy rẫy khó khăn nên đã đồng ý.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mảnh đất hình chim Phợng, Bửu Châu - hòn ngọc báu, Hoàn Châu - viên ngọc
tròn...
Vì c dân ở vùng này trù mật nên thời Minh Mạng cải cách hành chính đã
chia làng Mã Châu thành bốn thôn là Mã Châu Đông, Mã Châu Thành, Mã Châu
Tây và Mã Châu Thợng thuộc tổng Đông An, huyện Duy Xuyên. Sự phân chia địa
giới hành chính ở đây vào thời Minh Mạng chủ yếu dựa vào nguồn t liệu hồi cố
của các cụ già trong làng do nguồn t liệu chữ viết của làng trớc cách mạng tháng 8

không còn
6
.
Đồng Khánh địa d chí, mục huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam và Phú
ý của họ Trịnh (đây là bản Phú ý chữ Hán duy nhất còn giữ lại đợc nguyên vẹn.
Họ Phạm ở thôn Mã Châu Thợng cũng còn Phú ý chữ Hán nhng chỉ còn một phần
nhỏ), bản chữ Hán hiện đợc lu trong nhà thờ họ Thịnh ở thôn Mã Châu Đông, đề
soạn vào năm Duy Tân thứ 2 thì Mã Châu gồm bốn thôn (Đông - Thành - Tây -
Thợng) thuộc tổng Đông An
7
, huyện Duy Xuyên, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Hoà bình lập lại làng Mã Châu có tên hành chính là thôn Châu Hiệp
thuộc xã Duy An (từ 1995 đổi thành thị trấn Nam Phớc), huyện Duy Xuyên.
ở đây đã diễn ra quá trình cộng c giữa ngời Việt với ngời Chăm, trong đó
yếu tố Việt giữ vai trò chủ đạo và xuyên suốt chiều dài lịch sử, ngời Việt đã dần
dần "Việt hoá" ngời Chăm, nhng đồng thời cũng hấp thụ những nét văn hoá đặc
sắc của ngời Chăm ở đây để tạo thành một vùng văn hoá độc đáo vận hành trên cơ
tầng Chăm và cơ chế Việt.
6
Cũng thời này, làng Trà Kiệu đợc chia thành 5 thôn: Đông, Nam, Tây, Thợng và Trung;
Làng Thi Lai cũng đợc chia thành: Thi Lai Tây, Thi Lai Đông và Thi Lai Thợng... Nó cũng
phù hợp với những ghi chép trong Đồng Khánh địa d chí, mục Duy Xuyên - Quảng Nam.
7
Tổng Đông An có 20 xã, thôn, giáp: Mã Châu Thợng, Mã Châu Thành, Mã Châu Đông, Mã
Châu Tây, Thi Lai Tây, Thi Lai Đông, Thi Lai Thợng, Trung Lơng, An Lân, Cầu Bá, Hoà Mỹ,
Cổ Tháp, Trung Mỹ, Trung Thái, Nam Yên, Cổ Yên, Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, giáp
Tây Đông Yên [5].
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.3. Xã hội và con ngời.

Nguồn gốc c dân tạo nên làng mạc xứ Quảng từ thế kỷ XV về sau, ngoài
một bộ phận c dân Chăm lu lại thì nguồn bổ xung chủ yếu là c dân từ nhiều làng
quê khác nhau ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ di chuyển vào mà đông đảo nhất là vùng
Thanh - Nghệ - Tĩnh. Các đợt di dân khá quy mô, có tổ chức thời Lê, thời Chúa
Nguyễn bao gồm nhiều thành phần khác nhau trong xã hội. Dù ở giai tầng nào, họ
vẫn mang theo trong mình những tập quán, nếp sống ở những làng quê cũ. Họ
cùng góp những vốn liếng riêng của mỗi làng quê đó để xây dựng lên một cấu trúc
làng xóm, một nối làm ăn, một nền văn hoá cộng đồng mới. Sự kế thừa, giao lu và
tiếp nhận các di sản văn hoá từ cộng đồng Chăm, sự tổng hợp của sắc thái các làng
quê xứ Bắc, Bắc Trung Bộ tạo nên diện mạo của làng mạc xứ Quảng [21.128-129].
Cách thức bố trí của làng Mã Châu đại thể, giống các làng Việt ở châu
thổ Bắc Bộ nhng thoáng hơn. Trong quá trình sinh sống c dân Mã Châu đã tổ chức
thành 9 xóm theo khu vực c trú là: tứ Phú (Phú Khơng, Phú Thuận, Phú Bình, Phú
Hoà), tứ Bình (Bình Khơng, Bình Thuận, Bình Yên, Bình Hoà) và Hợp Thành. Các
xóm xếp cạnh nhau thành những ô bàn cờ và tách nhau bằng những lối đi tơng đối
thẳng. Mỗi xóm có một cuộc sống riêng của nó với một sự cộng cảm riêng, kết
tinh lại quanh việc thờ phụng ở miếu của mỗi xóm. Tên xóm thể hiện ớc vọng
bình dị của những ngời dân làng Mã Châu phú yên, phú thuận, bình khơng, bình
hoà... và ở đây xóm đơn thuần chỉ là một đơn vị văn hoá, một đơn vị tụ c chứ
không phải là một đơn vị hành chính hay đơn vị kinh tế.
Bộ máy lý dịch thời Trung - Cận đại ở Mã Châu cũng tơng đối giống làng
xã ở Bắc Bộ với các chức danh:
- Lý trởng: là ngời về nguyên tắc, đợc uỷ quyền và thay mặt dân làng
giao tiếp với chính quyền phong kiến. Lý trởng phụ trách chung về các mặt chia
ruộng, thu thuế và các việc liên quan đến vấn đề hành chính.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Hơng Kiểm (Trơng Tuần, Tuần Châu ở Bắc Bộ): là ngời đặc trách đảm
bảo an ninh trật tự cho làng xóm bằng cách chủ yếu là tổ chức canh gác, tuần tra...
- Hơng Mục (Thủ Bạ): đảm trách vấn đề dân số của làng.

- Hơng Bộ (Thủ Bạ): đảm trách vấn đề ruộng đất.
Các tầng lớp xã hộ ở Mã Châu trên đại thể, có ba tầng lớp chính là:
+ Quan viên - chức sắc: là những ngời có bằng cấp hoặc chức tớc của
chính quyền phong kiến.
+ Lão nhiêu: là những ngời già cả trong làng.
+ Dân đinh: là những ngời dân ở làng, hầu nh khôngg phân biệt dân ngụ
c. Nếu một ngời đến làng lập nghiệp, dựng nhà, lấy vợ, sinh con, tự nguyện tham
gia các sinh hoạt và tuân thủ các sinh hoạt của làng thì chậm nhất đến đời con anh
ta là đợc nhận vào làng và trở thành "ngời làng".
Từ sau khi đất nớc thống nhất thì mô hình quản lý làng xã ở Mã Châu
(ũng nh những làng xã khác trong cả nớc) là sự kết hợp giữa bộ máy hành chính,
chính quyền (Ban dân chính thôn, chi bộ Đảng...) và những tổ chức đoàn hội tập
thể (Hội cựu chiến binh, hội phụ lão, hội phụ nữ, hội nông dân tập thể, đoàn thanh
niên...) đã tạo nên sự đoàn kết nhất trí cao trong toàn thôn làng.
Mã Châu nằm trong vùng đất mới của Đại Việt, ngời Việt đi "khai hoang,
lập nghiệp" vào đây có nhiều lý do: là lu binh, do ngèo khó, những ngời hởng ứng
việc mộ dân vào vùng đất mới của nhà nớc phong kiến, những ngời phạm tội bị đi
đày (tội lu)... Họ ở những làng quê khác nhau, cùng vào sinh sống ở nơi thiên
nhiên khắc nghiệt vì vậy họ phải vật lộn với tự nhiên trong mu sinh. Trong khi đó
hành trang của họ vào vùng đất mới có lẽ không có gì khác hơn là nghị lực cứng
cỏi, tính cách ngang tàng và lòng tin vào sức mình, tin vào tơng lai. Hệ quả của nó
là ngời dân ở đây dũng cảm và cần cù, bản tính giản dị, thẳng thắn và tôn trọng sự
thật. Họ là những ngời dân đi lập nghiệp nên sống cởi mở và phóng khoáng hơn.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đại Nam nhất thống chí đã nhận xét về c dân vùng Quảng Nam: "Tục a xa xỉ, ít
kiểm thúc, hát xớng không tiếc của, ăn mặc tất lợt là, thêu dệt tinh khoé, sa trừu
không kém gì Quảng Đông"[19.399]. Và c dân ở Duy Xuyên nhìn chung "Phong
tục kiệm ớc mà quê mùa, ăn ở giản dị ít văn háo. Còn nh các lễ hôn, tang, tế, hội
hè, yến ẩm... thì tuỳ nơi theo tục nhng vẫn giữ lễ ý" và "khi gặp việc khánh hỷ thì

những ngời giàu có, phần nhiều hay thích hát xớng thờ thần"[5].
Là những con ngời ở những miền quê khác nhau, vì điều kiện sinh tồn
nên họ phải tập hợp tại đây. Vì vậy họ luôn mang trong lòng tâm trạng hoài cổ:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Bởi "ngời Việt thích sống trong một môi trờng trong đó quan hệ máu
mủ, quan hệ xóm giềng đợc duy trì cho dù điều này cản thở một phần quan hệ
công việc"[17.63]. Trong môi trờng mới ngời dân ở đây lại càng đoàn kết gắn bó
với nhau hơn "nhân dân trong hạy, hễ khi gặp có lễ thờ thần, cúng phật hoặc
hôn tang... bao giờ cũng theo sức mình mà làm, giúp đỡ lẫn nhau"[5].
Mã Châu trong bối cảnh xứ Quảng với truyền thống "Ngũ phụng tề phi"
8
vốn từ trớc là đất có học, là đất có lễ [22.38]. "Học trò chăm học hành, nông phu
chăm đồng ruộng, siêng sản xuất mà ít đem cho; vui làm việc nghĩa, sốt sắng
việc công"[19.339]. ở Mã Châu từ trớc và cho đến hiện nay, việc học hành vẫn
luôn đợc đặt nên hàng đầu, dù ở đây đã có nghề dệt. Không học đợc nữa thì mới
chuyển sang làm nghề khác. Cũng có trờng hợp nhà nghèo quá không thể nuôi con
em ăn học nên phải bỏ dở, nhng đa số là nếu còn có thể thì cho con đi học chứ
không bắt đi làm nghề quá sớm. Và trong lịch sử, từ thời Thiệu Trị trở đi, làng Mã
Châu cũng có nhiều ngời đỗ Cử nhân và một ngời đõ Phó bảng. Trong đó dòng họ
8
"Ngũ phụng tề phi": Khoa thi Đình năm Mậu Tuất 1898 niên hiệu Thành Thái, năm ngời ở
Quảng Nam đi thi đều đỗ cao là: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn (Tiến sĩ), Ngô Tuân, D-
ơng Hiển Tiến (Phó bảng).
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phạm là dòng họ có truyền thống học hành nhất ở làng với nhiều đời cha con, anh
em tiếp nối nhau đỗ đạt
9
.

Đây cũng là mảnh đất giàu truyền thống yêu nớc. Ngay từ giai đoạn cách
mạng 1930-1931, trên địa bàn thôn đã thành lập đợc chi bộ Đảng cộng sản gồm 8
Đảng viên do Hồ Duy Từ làm Bí th, đã lãnh đạo nhân dân trong thôn, phối hợp
cùng nhân dân cả nớc đứng lên chống giặc. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, chùa Ba Phong, Miếu Nhỏ (trong chiến tranh đã bị phá mất, hiện chỉ còn
nền cũ)... là những địa điểm an toàn nuôi dấu những đồng chí hoạt động cách
mạng nh: Võ Chí Công, Phạm Văn Đồng, Hồ Mân Đệ, Võ Tấn Bản...
9
Theo số liệu thống kê cha đầy đủ của ông Nguyễn Hiền Tâm, ngời làng đã su tầm và cung
cấp cho tôi thì ở Mã Châu có 11 ngời đỗ Cử nhân là: Phạm Thanh Chân, Huỳnh Kim Minh (đỗ
năm Thiệu Trị 1:1841), Trần Minh Hớng, Phạm Thanh Nhã (Thiệu Trị 6: 1846), Trần Thiện
(Tự Đức 14: 1861), Phạm Thanh Thục (Tự Đức 17:1864), Lơng Văn Bá (Tự Đức 23: 1873),
Phan Thanh Nghiêm (Tự Đức 26: 1837), Phạm Cung Lơng (Kiến Phúc 1: 1884), Vũ Thức
(Thành Thái 9:1897), Phạm Thanh Túc (Thành Thái 12: 1900).
Riêng Phạm Thanh Nhã lại đỗ Phó bảng Khoa Tân Hợi thời Tự Đức thứ 4; giữ chức
Tri huyện Duy Xuyên, Huấn đạo Duy Xuyên, Tri huyện Hơng Trà, Giám sát ngự sử, Viên
ngoại lang bộ Lại.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng 2: Làng nghề truyền thống
2.1. Sông Thu Bồn - Bà Rén với đời sống của c dân Mã Châu.
Xuất phát từ đỉnh Ngọc Linh đổ ra cửa Đại, sông Thu Bồn là cái gạch nối,
nối liền Thánh địa Mỹ Sơn - Kinh đô Trà Kiệu và cảng thị Hội An của thiểu
quốc Amaravâti - Chămpa xa kia; là con đờng giao lu Kinh tế - Văn hoá - Xã
hội giữa "miền xuôi" và "miền ngợc"; và trong lòng đất trên đôi bờ các con
sông Thu Bồn - Bà Rén còn ẩn chứa nhiều di tích thuộc văn hoá Sa Huỳnh
nh Quế Lâm, Bình Yên (Quế Phớc), Quế Lộc, Phú Đa, Thu Bồn, Mậu Hoà,
Hậu Xá... đó là các khu c trú cổ, các khu mộ chum có niên đại cách ngày nay
khoảng 2000 đến 2500 năm.
Quảng Nam có bốn dòng sông lớn, ba bắt nguồn từ Hoà Vang, một từ

nguồn Thu Bồn, Quế Sơn; đều chảy đến thôn Giao Thuỷ huyện Diên Phúc thì hợp
dòng. Đến huyện Duy Xuyên thì chia dòng: sông Bà Rén ở phía Nam và sông Thu
Bồn ở phía Bắc cùng chảy cửa Đại - Hội An. Đại Nam nhất thống chí chép: "Sông
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dỡng Mông ở cách huyện Quế Sơn hai dặm về phía Bắc ra từ nguồn Chiên Đàn
(nguồn sông Thu Bồn- TG) qua địa giới huyện Lê Dơng, đến bãi Thi Lai huyện
Duy Xuyên thì thành một nhánh riêng đến xã Dỡng Mông. Tục gọi là sông Bà
Rén, chạy về phía Đông Nam qua chợ Thi Lai rồi chuyển sang Đông đổ vào
sông Bàn Thạch"[19.362-363]. Sông Bàn Thạch (Trờng Giang) lại chảy về phía
Đông đổ ra cửa Đại Chiêm.
Làng Mã Châu nằm ở đoạn thợng lu sông Bà Rén và đây là con sông có
ảnh hởng rất lớn và trực tiếp đến đời sống của c dân Mã Châu. Sông Thu Bồn - Bà
Rén bồi đắp phù sa tạo nên vùng đồng bằng phì nhiêu Duy Xuyên, Điện Bàn...
"ruộng đồng rộng rãi, các thứ lúa xanh tốt"[16.337]. ở đây từ rất sớm sử cũ đã
ghi lại lúa hai vụ, tằm tám lứa tơ một năm. Sách Thuỷ kinh chú chép: "Ruộng gọi
là "Bạch điền" (ruộng trắng) thì giống lúa trắng, tháng 7 đốt rẫy thì tháng 10 có
lúa chín; ruộng gọi là "Xích điền" (ruộng đỏ) thì giống lúa đỏ, tháng chạp làm
thì tháng t có lúa chín; ngời ta gọi lúa hai mùa là thế. Còn nh có nơi nảy mầm,
hoa màu thay lúa, lúa sớm lúa muộn tháng nào cũng tốt. Cày giống công nhiều,
mà thu hoạch lợi ít, vì mùa màng chóng chín. Gạo không phân tán ra ngoài nên
trong nớc thờng nhiều gạo. Việc tằm tang thì một năm tám lứa kén chín. Trong
bài Tam đô phú bảo là tơ tám lứa tằm là thế"[9.114].
Đại Nam nhất thống chí cũng ghi lại ở đây: "thổ nghi mùa màng thì có
năm bậc; ruộng Hạ thì mùa Đông cấy, mùa Hạ gặt; ruộng Thu thì mùa Hạ cấy,
mùa Đông gặt; ruộng Hạ, ruộng Thu (ở miền Trung và Nam thì ruộng Hạ là
ruộng Mùa, ruộng Thu là ruộng Chiêm, khác với miền Bắc - chú thích của ngời
dịch) đã gặt về mùa Hạ lại gặt về mùa Thu... Phần nhiều theo thời tiết mà cày
cấy"[19.338].
Mã Châu với vị trí sát sông Bà Rén nên có thuận lợi chủ động đợc nớc t-

ới, việc nông tang ít phải phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết. Ngời Việt vào đây đã kết
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hợp hệ thống thuỷ lợi của ngời Việt và ngời Chăm để đa nớc vào đồng ruộng. Họ
đặt ở sông những guồng quay nớc dùng sức trâu hoặc sức ngời kéo, đa nớc từ kênh
mơng vào chứa ở những ao chứa nớc đợc đào ở góc đầu mỗi thửa ruộng và sau đó
ngời ta dùng gầu tre để tát nớc vào ruộng. Hệ thống kênh mơng ở đây có từ rất
sớm, "nớc trời" là một nguồn nớc quan trọng nhng không phải là chủ yếu. Sau này,
khi có điện, ngời dân ở đây đã chuyển sang dùng máy bơm nớc bằng dầu và sau
đó là xây dựng những trạm bơm; Xây dựng và sửa chữa lại hệ thống kênh mơng để
"dẫn thuỷ nhập điền". Hệ thống thuỷ lợi hiện nay đã đảm bảo cung cấp đủ nớc tới
cho các thửa ruộng và một phần cho các bãi đất trồng màu.
Về giống lúa, trớc đây ngời Chăm và sau đó là ngời Việt vào đây đều cấy
giống lúa Chiêm, bởi giống lúa này chịu hạn tốt nhng cho năng suất thấp. Khi hệ
thống thuỷ lợi đợc cải tiến, đồng ruộng ít phải phụ thuộc vào thời tiết thì ở đây,
những giống lúa cho năng suất cao bắt đầu đợc đem vào sử dụng, ví dụ nh giống
lúa Chiêm III (vụ hè thu), lúa La (vụ đông xuân), các giống lúa lai...
Do chủ động đợc nớc tới nên ở Mã Châu, sau ngày giải phóng đã có thời
kỳ trồng 3 vụ lúa/năm. Sau do thấy quỹ thời gian quay vòng của đất quá nhanh, vì
vậy năng suất và sản lợng lúa thấp nên ngời ta bỏ vụ thứ ba và quay lại trồng 2 vụ
lúa/năm.
Xen kẽ giữa hai mùa lúa, và đặc biệt là ở những bãi bồi ven sôngBà Rén,
ngời dân ở đây trồng những cây hoa màu nh: ngô, khoai, đậu... hoặc/và trồng dâu
để phát triển nghề nuôi tằm, ơm tơ. Nay làng chuyển sang chuyên làm nghề dệt
vải thì thì những bãi bồi đó ngời ta chuyên trồng ngô, đậu với những loại giống
cho năng suất và sản lợng cao nh: giống ngô Bioxit 8,9; ngô VN 10; đậu Côve...
Tuy nhiên việc trồng hoa màu ở các bãi bồi ven sông phải phụ thuộc vào thời tiết
vì hệ thống thuỷ lợi hiện nay mới chỉ đủ cung cấp nớc tới cho các thửa ruộng và
một phần cho các đồng màu.
24

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phân bón dùng trong nông nghiệp, trớc đây ngời ta bón ruộng bằng phân
chuồng, phân xanh và sau là những loại phân "công nghiệp" nh: đạm, lân, kali... ở
đây ngời ta không dùng phân Bắc để bón ruộng nh ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.
Điều này có lẽ liên quan đến vấn đề tâm linh, tín ngỡng của những ngời dân từ
thời mới đi khai hoang lập nghiệp.
Về chăn nuôi, ở đây gà vịt đợc nuôi nhiều. Trâu đợc nuôi chủ yếu để lấy
sức kéo. Hiện nay ngời dân sử dụng máy cày, việc nuôi trâu vì thế cũng dần dần ít
hơn. Bò đợc nuôi để lấy thịt và trong những năm gần đây đang có xu hớng phát
triển ở các hộ nông dân.
Thủ công nghiệp, trớc đây vùng Duy Xuyên có nghề trồng dâu nuôi tằm
và trồng mía đờng nổi tiếng. Từ Gò Nổi đến tận Hà Mật, Thi Lai có nhiều chợ búa
và thị trấn nhỏ, hàng tơ lụa, tuýt xo đến những chợ vải, chợ hàng, lò đờng san sát.
Đời sống của ngời dân ở đây do vậy cũng tơng đối sung túc. Khắp vùng Điện Bàn,
Duy Xuyên trớc kia khắp nơi chỉ thấy cây lúa, cây dâu. Vào thập niên 40, ông Võ
Diễn ở Duy Xuyên chế tạo đợc khung cửi khổ rộng, tạo nên sản phẩm vải đẹp với
những hoa văn mới lạ và năng suất cao hơn trớc kia. Thực ra từ những năm 70 của
thế kỷ XIX, tơ lụa Quảng Nam đã đợc Nguyễn Thành ý mang sang Pháp dự đấu
xảo, mà kỹ thuật dệt từ thời đó đến nay đã có sự khác nhau xa. Ngợc lại, nghề đ-
ờng mía, do thiếu một bộ óc tiên phong nh Võ Diễn để làm đờng cát trắng mịn
hơn nên nghề mía đờng ở đây đã dần dần tàn lụi [22.281].
Cơ cấu bữa ăn của c dân Mã Châu cũng giống nh cơ cấu bữa ăn của ngời
Việt là: Cơm - Rau - Cá. Khác với miền Bắc, ở Mã Châu và miền Trung nói
chung, món rau không luộc lấy nớc mà họ chế biến theo nhiều cách khác nhau nh
xào, nấu... và nếu có luộc rau thì họ cũng không ăn nớc luộc. Nếu nh ở miền Bắc,
rau muống là loại rau phổ biến thì rau lang là loại rau thờng dùng của ngời dân
vùng này và ngoài rau lang còn có các loại rau diếp cá, khổ qua (mớp đắng)... Có
25

×