1
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN)
đòi hỏi phải có con người mới hội tụ những phẩm chất cần thiết, được xây
dựng trên nền tảng đạo đức cách mạng (ĐĐCM), trong đó, đội ngũ cán bộ có
vị trí, vai trò rất quan trọng. Vì thế, xây dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ nói
chung, cán bộ quân đội nói riêng để đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn
đất nước trong giai đoạn hiện nay đã trở thành vấn đề thường xuyên và cấp bách.
Hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, đội ngũ cán bộ quân sự
địa phương (QSĐP) Quân khu 5 luôn trau dồi phẩm chất ĐĐCM, đây là một
trong những nhân tố cơ bản, đảm bảo cho Quân khu luôn hoàn thành tốt nhiệm
vụ công tác quốc phòng, quân sự địa phương (QP,QSĐP). Hiện nay, trước sự
phát triển về yêu cầu nhiệm vụ, đòi hỏi phẩm chất ĐĐCM của đội ngũ cán bộ
QSĐP Quân khu 5 phải được xây dựng, nâng lên tầm cao mới.
ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 là kết quả tổng hợp của
nhiều hoạt động, trong đó có sự phủ định biện chứng ảnh hưởng của tư tưởng
triết học Nho giáo, bởi lẽ: tuy là sản phẩm của xã hội Trung Hoa cổ đại,
nhưng Nho giáo lại có mặt rất sớm ở Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm trong
đời sống tinh thần, đạo đức của nhân dân ta. Hiện nay, mặc dù Nho giáo
không còn cơ sở kinh tế - xã hội để tồn tại, song với tư cách là một học thuyết
về chính trị- xã hội và đạo đức được tiềm ẩn trong văn hoá truyền thống dân
tộc, những tàn dư của nó vẫn còn ảnh hưởng nhất định, cả tích cực lẫn tiêu
cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, qua đó ảnh hưởng đến xây
dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5.
Xác định đúng thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo, đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của nó đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân
khu 5 là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, không chỉ đáp ứng yêu cầu
2
xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP, hoàn thành tốt nhiệm vụ công
tác QP,QSĐP của Quân khu 5, mà còn góp phần tích cực vào sự nghiệp xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng, phát triển đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
Chương 1
THỰC CHẤT ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO
GIÁO ĐẾN XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUÂN SỰ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN KHU 5 HIỆN NAY
1.1 Quan niệm về ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây
dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương Quân khu
5
1.1.1 Nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Nho giáo
Nho giáo ra đời vào thế kỷ VI tr.CN, tư tưởng triết học của nó là hệ thống
quan điểm về tự nhiên, xã hội và con người, về lẽ sống và cách ứng xử của
con người với tự nhiên, xã hội và giữa con người với nhau. Đây là sản phẩm
văn hoá đặc thù của xã hội Trung Hoa cổ đại, gắn liền với tên tuổi của Khổng
Tử.
Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo có nguồn gốc từ quan niệm của dân
gian Trung Hoa. Khổng tử đã hệ thống lại những tư tưởng đó và khái quát
thành học thuyết, gồm các tác phẩm: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc và viết sách
Xuân Thu để tỏ rõ quan điểm của mình (nền tảng của Ngũ Kinh). Các thế hệ
học trò kế tiếp đã dựa vào quan điểm ấy để viết sách Luận Ngữ, Đại Học,
Trung Dung, Mạnh Tử (Tứ thư). “Tứ thư” và “Ngũ kinh” đã trở thành kinh
điển của Đạo Nho, là con đường mà đi theo đó, nhân loại sẽ đạt tới một xã hội
hoà mục, một thế giới đại đồng giống như thời Tây Chu.
Kinh điển Nho giáo chủ yếu phản ánh thực trạng của xã hội Trung Hoa,
vì thế, nó xuất hiện và tồn tại với tư cách là một học thuyết về chính trị - xã
hội và đạo đức rõ nét hơn với tư cách của một tôn giáo. Đặc điểm nổi bật của
3
Nho giáo là triết lý về “thiên mệnh” và “nhân sinh” được thể hiện một cách sâu sắc.
“Thiên mệnh” luôn được gắn chặt với “nhân sinh”, cái vĩ đại của “nhân sinh”
được thăng hoa vào “thiên mệnh”, làm cho “thiên mệnh” và “nhân sinh” hoà
hợp, quyện vào nhau thành một thể thống nhất, tuy bình thường nhưng vĩ đại,
tuy thực tế nhưng lại rất cao xa [01,tr26].
Tư tưởng triết học Nho giáo thể hiện trên các phương diện cơ bản sau
đây:
Tư tưởng về thế giới quan:
Nho giáo cho trời đất và vạn vật là nhất thể, lưu hành khắp vũ trụ, theo cái
lẽ tương đối, tương điều hoà mà sinh sinh hoá hoá. Trong vũ trụ luôn có cái lý
vô hình, linh diệu là Thái cực. Con người không thể biết rõ chân tính và chân
tướng của thiên lý (lẽ trời), song qua sự biến hoá của vạn vật mà biết được
thiên lý với hai thể khác nhau là động và tĩnh. Động là dương, tĩnh là âm.
Dương lên đến cực độ lại biến ra âm, âm lên đến cực độ lại biến ra dương, hai
thể ấy luôn gắn bó với nhau, tác động, chuyển hoá lẫn nhau mà sinh ra trời đất,
vạn vật.
Khởi điểm của tạo hoá là do âm và dương biến hoá, đạo của trời đất cũng
khởi đầu từ sự biến hoá ấy, bởi vì “Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi,
lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”: đạo Dịch có Thái cực, Thái
cực sinh ra hai nghi, hai nghi sinh ra bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ
(Dịch: Hệ từ thượng). Dịch là biến đổi, trong trời đất không có cái gì là bất biến.
Nguồn gốc của sự biến đổi là do động và tĩnh, cứng và mềm, tức là âm và dương
tương tác lẫn nhau, như Nho giáo đã đúc kết “Cương nhu tương thôi nhi sinh
biến hoá”: cứng mềm đun đẩy nhau mà sinh ra biến hoá (Dịch: Hệ từ thượng).
Đạo của trời đất (thiên lý) có khởi đầu rất đơn giản nhưng càng biến đổi thì càng
phức tạp. Vạn vật sinh sinh, hoá hoá vô cùng vô tận, song căn nguyên của nó
cũng bởi do âm dương tương tác lẫn nhau mà thôi. Do đó, hiểu được lẽ âm
4
dương là hiểu được vạn vật, biết được lẽ giản dị ấy thì biết được cái lý của thiên
hạ [22,tr38-40].
Theo Nho giáo, “Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ
thần chi hội, ngũ hành chi tú khí giã”: người là cái đức của trời đất, là sự giao
hoà của âm dương, là sự hội tụ của quỷ thần, là cái khí tinh tú của ngũ hành
(Lễ ký: Lễ vận, IX). Trời đất sinh ra người, người bẩm thụ hoàn toàn cái đức
của trời nên sáng suốt hơn các loài khác. Nhờ đó mà con người hiểu được
phải trái, hay dở và cùng với trời đất chiếm được địa vị tôn quý trong vũ trụ,
vì thế đạo người phải theo đạo Trời mà tiến hoá. Vả lại, người luôn được Trời
giám sát “Hoàng hỹ Thượng đế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu
dân chi mạc”: đức Thượng đế rất lớn, soi xuống đất rõ ràng, xem xét bốn
phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp (Kinh Thư: Thiên cáo), nên
người phải kính và sợ Trời, phải lấy phép tắc tự nhiên của Trời làm mô phạm
cho mình và xem thiên luân là nhân luân, thiên đạo là nhân đạo. Hơn nữa, do
“Thiên sinh chúng dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bĩnh di, hiếu thị ý đức”: Trời
sinh ra dân có hình phép, dân giữ tình thường, muốn có đức tốt (Kinh Thư:
Thiên cáo) nên người phải lấy Trời làm gốc và phải theo cái bản tính của Trời
đã phú cho để ứng xử hợp với đạo Trời [22,tr08-10].
Nho giáo rất coi trọng sự sinh của trời đất nên lấy bốn cái đức lớn của
trời là nguyên, hanh, lợi, trinh để nói lên sự sinh thành của vạn vật. “Nguyên
giả thiện chi trưởng giã, hanh giả gia chi hội giã, lợi giả nghĩa chi hoá giã,
trinh giả sự chi cán giã”: nguyên là đầu mối của điều thiện, hanh là tụ hội
mọi cái tốt đẹp, lợi là sự hoà hợp với điều nghĩa, trinh là gốc của mọi sự
(Dịch: Văn ngôn truyện). Vì cái đức của trời đất là sự sinh, nên đạo người
phải theo đạo trời đất mà bồi dưỡng sự sinh. Từ bốn đạo lớn của trời đất mà
con người có bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí. Nguyên là nhân đứng đầu các điều
thiện, hanh là lễ tụ hội các cái đẹp, lợi tức là nghĩa định rõ các phận cho điều
hoà, trinh là trí giữ vững cái chính để làm gốc mọi sự. Bởi vậy, Nho giáo
5
quan niệm “Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi
vật túc dĩ hoà nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự”: quân tử có nhân là đủ làm cho
người trưởng thành, hội các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là
đủ làm hoà cái nghĩa, biết cái trinh chính mà cố giữ là đủ làm gốc cho mọi sự
(Dịch: Văn ngôn truyện). Vì thế, nhân là đầu mối của thiện, là chủ sự sinh của
trời đất.
Nho giáo cho rằng, Trời là chủ thể của vũ trụ, có ý chí lớn để khiến sự
biến hoá trong thế gian cho hợp lẽ điều hoà. Cái ý chí ấy được gọi là “Thiên
mệnh” hay “Đế mệnh”. Một khi Trời đã định thì con người không thể cưỡng
lại được, vì thế “Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã”: không biết mệnh trời thì
không đáng là người quân tử (Luận ngữ: Nghiêu viết, XX). Thành hay bại của
công việc, thịnh hay suy của thế cục đều do mệnh Trời. Một khi đã biết mệnh
Trời thì phải làm cho phải đạo và phải “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu
nhân, cư dị dĩ sĩ mệnh”: trên không oán trời, dưới không trách người, cứ bình
dị mà đợi mệnh (Trung dung). Tuy nhiên, khi lưu hành theo Thiên lý, bao giờ
con người cũng thể hiện năng lực của mình, hành động một cách sáng suốt,
không nhu nhược hay an bài đợi mệnh, con người phải tự thân phấn đấu liên
tục theo quan niệm “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”: việc hành
động của trời rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không nghỉ
(Dịch: Tượng, thượng truyện) [22,tr55-57].
Nho giáo xem quỷ thần là khí thiêng của trời đất, tuy con người không thể
nhìn thấy, nghe thấy, nhưng quỷ thần vẫn luôn ở quanh họ. “Dương dương hồ
như tại kỳ thượng, như tại kỳ tả hữu”: quỷ thần dường như ở trên đầu, bên trái
bên phải ta (Trung dung). Do vậy, con người phải tỏ thái độ “Tế thần như thần
tại”: tế thần như có thần ở đó (Luận ngữ: Bát dật, III). Tế quỷ thần là lấy sự tận
thành để tỏ lòng tôn kính chứ không phải để cầu phúc cho riêng mình. Con
người ở đời cứ theo lẽ phải mà làm thì sẽ được quỷ thần chứng giám, hà tất
phải nay cầu mai nguyện. Những việc mà chính nhân quân tử làm đã bao hàm sự
6
cầu nguyện, nếu là người bất nhân bất nghĩa, làm những điều trái đạo, mắc tội với
Trời thì dẫu có cầu nguyện quanh năm cũng không ích gì, vì “Hoạch tội ư thiên,
vô sở đảo giã”: Phải tội với Trời thì còn cầu nguyện vào đâu được (Luận ngữ:
Bát dật, III). Nho giáo còn cho rằng, “thần” tức là “thành” (thành thực) nằm ngay
trong lòng của mỗi con người. Một khi con người khiêm tốn, thành thực thì “thần”
luôn hiện hữu trong họ, lúc ấy “nhân”, “thần” hoà hợp làm một. Con người tu
dưỡng đạt được điều đó thì sẽ thấy âm dương không khoảng cách, sinh tử là
chuyện thường tình và có quan hệ mật thiết với nhau [01,tr44].
Trời đất và quỷ thần không hề thiên vị, người và vạn vật sinh ra trong thế
gian cùng bẩm thụ lý khí của Trời, nên Trời và người có thể cảm ứng được
“thiên nhân tương dữ”, vả lại “Duy thiên vô thân, khắc kính duy thân, quỷ
thần vô thường hưởng, hưởng vu khắc thành”: Trời không thân với ai, chỉ
thân với người hay kính, quỷ thần không chứng giám cho ai, chỉ chứng giám
cho kẻ hay thành (Kinh Thư: Thái giáp hạ), có kính và thành mới làm cho trời
đất, quỷ thần cảm động được. Vì thế, Nho giáo quan niệm “Quân tử uý thiên
mệnh”: người quân tử sợ mệnh Trời (Luận ngữ: Quý thị, XVI). Con người có
sợ Trời, có giữ lòng kính cẩn thì mới giữ được cái tâm ngay thẳng để làm
những điều nhân nghĩa, hiếu đễ. Như vậy, kính và thành là cái gốc luân lý của
Nho giáo. Có kính thì mới giữ được bản tính của mình cho thuần nhất và có
thành thì người với Trời và quỷ thần mới tương cảm được với nhau.
Đạo Trời là chí thiện, chí mỹ nên đạo người phải theo đạo Trời, muốn
theo đạo Trời, trước hết phải theo đạo thành, bởi lẽ “Thành giả thiên chi đạo
giã, thành chi giả nhân chi đạo giã”: thành thực là đạo Trời, giữ cho được
thành thực là đạo người (Trung dung). Thành là bản tính tự nhiên của thiên lý,
cái tính ấy luôn chân thực, có thể sinh sinh, hoá hoá nuôi dưỡng muôn vật.
Con người một khi đạt đến bậc chí thành thì có thể giúp ích cho việc hoá dục
của trời đất và đạo làm người sẽ có ý nghĩa rất sâu xa.
7
Những nội dung trên cho thấy, Trời đất và quỷ thần có vai trò quan trọng
trong thế giới quan Nho giáo, vừa duy vật, vừa duy tâm, vừa vô thần, vừa hữu
thần, song yếu tố duy tâm nổi trội hơn. Thời gian càng về sau thế giới quan
Nho giáo càng đậm nét duy tâm thần bí do được bổ sung những tư tưởng triết
học của Phật giáo và Đạo giáo.
Tư tưởng về nhân sinh quan:
Mục đích chủ yếu của Nho giáo là “tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương
Văn Võ”, đề cao “lễ nhạc” và “nhân nghĩa”, chủ xướng đạo “trung thứ” và
đạo “trung dung”, chủ trương thi hành “đức trị” và “nhân chính”, coi trọng
giáo dục luân lý cũng như sự tu tâm, dưỡng tính cho con người, nên nhân sinh
quan Nho giáo thể hiện khá rõ nét và giữ vị trí trung tâm trong học thuyết này.
Nổi bật trong nhân sinh quan Nho giáo là triết thuyết về đạo lý làm người
sao cho phù hợp với tôn ti trật tự trong xã hội phong kiến. Do quan niệm bản
chất tâm lý, đạo đức của con người là “nhân”, nên Nho giáo coi “nhân” là
xuất phát điểm, là yếu tố cốt lõi tạo nên các phạm trù khác, liên quan chặt chẽ
với nhau. Trong đó, ba phạm trù “nhân”, “lễ” và “chính danh” có ý nghĩa
quan trọng nhất, tạo nên một triết lý nhân sinh có bản sắc hết sức độc đáo.
Theo Nho giáo, “nhân” là chuẩn mực đạo đức hoàn thiện nhất nên luôn
đề cao “đức nhân”, bản thể hoá “đạo nhân”. Các chuẩn mực đạo đức khác
như: lễ, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu… đều là biểu hiện của “nhân”. “Nhân” mang
tính nhân loại, đại biểu cho con người, để con người tự giác phân biệt với cầm
thú. Do vậy, Nho giáo không chỉ yêu cầu con người đối với đồng loại của
mình phải có nhân ái, mà còn phải đạt đến Thiên đức. Điều này chứng tỏ nhân
sinh quan Nho giáo luôn gắn chặt với thế giới quan [15,tr19-20]. Nho giáo
còn quan niệm, tuy thực hiện “nhân ái” là việc riêng của mỗi người, nhưng do
con người sống trong xã hội, nên “nhân ái” luôn được thực hiện trong mối
quan hệ giữa người với người, qua đó mà thể hiện “nhân đức”. Vì thế, đạo
“trung thứ” của Nho giáo luôn lấy vấn đề này làm phương hướng thiết yếu
nhất. Nội dung của nó bao gồm hai phương diện, một là “Kỷ sở bất dục vật
8
thi ư nhân”: cái gì mình không muốn thì không làm cho người (Luận ngữ: Vệ
Linh công XV), hai là “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”: cái
mà mình thành lập thì cũng lập cho người, mình thành đạt thì cũng giúp người
khác thành đạt (Luận ngữ: Ung giã, VI). “Trung” là sự tận tâm, tận lực đến
mức cao nhất để thành người toàn vẹn. “Thứ” là sự suy bụng ta ra bụng
người, là sự đồng cảm để hiểu được hoàn cảnh của người khác. Đạo “trung
thứ” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa người với người, yêu
cầu con người trong mọi lời nói và việc làm phải tuân theo “nhân ái”. Đồng
thời, thông qua thực hiện nhân ái mà đạt đến một sự cảm thông chan hoà để có
được một khung cảnh lý tưởng: “Thiên hạ quy tụ ở nhân ái”. Như vậy, công
dụng của đạo “trung thứ” được thể hiện qua thành tựu “nhân đức”, nó không
chỉ thích hợp với bên dưới mà còn thích hợp cả với bề trên. Đó là đạo “một lẽ
mà quán thông tất cả” của Nho giáo. Bởi thế, Nho giáo yêu cầu “Quân quân,
thần thần, phụ phụ, tử tử”: vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con (Luận
ngữ: Nhan Uyên, XII) và “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”: vua lấy
lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua (Luận ngữ: Bát dật, III). Có thể nói, đạo
“trung thứ” là bậc thềm nhập đức của sự tu dưỡng cá nhân, là chuẩn mực cơ bản
để xử lý các quan hệ nhân luân [15,tr91]. Bên cạnh đó, Nho giáo còn nhấn
mạnh: “làm điều nhân là do mình”, qua đó nêu cao tính tự chủ đạo đức của con
người, có tác dụng chỉ đạo khai thác thế giới nội tại của nhân cách và khơi dậy
khả năng thông qua tự tu dưỡng đạo đức để hoàn thiện nhân cách của từng cá
nhân. Chính điều này đã thể hiện trí tuệ nhân sinh từ “nội thánh” đến “ngoại
vương” của học thuyết ấy [15,tr27-28]. Để đạt “nhân”, Nho giáo khuyên con
người phải thực hiện 5 điều cơ bản theo quan niệm “Năng hành ngũ giả ư thiên
hạ vi nhân hỹ. Viết cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc
chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân”: làm
được năm điều trong thiên hạ là nhân, đó là cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung thì
không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì được tin cậy, mẫn thì có
9
công lao, huệ thì khiến được người (Luận ngữ: Dương hoá, XVII). Như vậy,
“nhân” là kết tinh cao nhất trong triết lý nhân sinh, là cơ sở lý luận cho đường lối
“đức trị” của Nho giáo.
Nho giáo cho rằng, để thi hành đường lối “đức trị” thì phải thi hành “lễ”;
bởi vì, “nhân” được biểu hiện trước hết thông qua “lễ”, “lễ” là phương tiện để
đạt tới điều “nhân” và là căn nguyên quan trọng tạo nên sự ổn định của xã
hội. Nhờ có lễ mà hành vi của con người luôn có chừng mực, lúc nào cũng
phù hợp với đạo trung. “Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi
vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giảo”: cung kính mà không có lễ thì phiền
phức, cẩn thận mà không có lễ thì sợ hãi, dũng mà không có lễ thì loạn, trực
mà không có lễ thì vội vã (Luận ngữ: Thái bá, XIII). Vì thế, Nho giáo yêu cầu
“Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”: Không trông
điều trái lễ, không nghe điều trái lễ, không nói điều trái lễ, không làm điều trái
lễ (Luận ngữ: Nhan Uyên, XII). Hơn nữa, trong xã hội mỗi người đều có một
chức năng, địa vị nhất định, trong mối quan hệ nhất định, với một “danh” cụ
thể, muốn thực hiện đúng “lễ” thì một mặt phải nắm được “lễ”, mặt khác phải
xác định đúng vị trí và danh phận của mình (“chính danh”), bởi lẽ, “Chính giả
chính giã, tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính”: chính trị là làm mọi việc cho
ngay thẳng, bề trên mà lấy ngay thẳng để khiến thì ai dám không ngay thẳng
(Luận ngữ: Nhan Uyên, XII), hơn nữa “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ
thân bất chính, tuy lệnh bất tòng”: mình ngay chính thì không sai khiến người
ta cũng làm, mình không ngay chính thì tuy có sai khiến cũng không ai theo
(Luận ngữ: Tử Lộ, XIII). Vả lại, muốn chính danh thì phải lấy “lễ” làm chuẩn
mực và phải hành động sao cho tương xứng giữa “thực” với “danh”. Danh thực tương xứng vừa là điều kiện, vừa là kết quả của việc thực hiện đúng “lễ”.
Vì thế, “chính danh” cũng là con đường để đạt tới điều “nhân”.
Nho giáo quan niệm “thiện” cũng là bản chất của con người, thể hiện qua
các đức lớn là: “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “trí”, “tín”, được bắt nguồn từ “tứ đoan”
10
(bốn đầu mối của thiện, còn gọi là “thiện đoan”); “thiện” là bản nguyên tinh
thần, là đức “tính” do trời phú cho con người; nó luôn biến đổi vì chịu tác động
của môi trường xã hội; bản tính “thiện” còn được xuất phát từ “tâm” của con
người và cái “tâm” ấy cũng do trời phú. Hơn nữa, trong mỗi người, bên cạnh
“tính” và “tâm” còn có “khí”, vì “khí” lưu hành khắp vũ trụ, ngưng tụ lại tạo nên
vạn vật và con người; “tâm”, “tính” là phần tinh thần điều khiển cái “khí”, còn
“khí” là phần vật chất để cho “tâm” và “tính” cư ngụ, hai phần ấy được điều hoà
thì con người mới tồn tại. Vì thế, Nho giáo khuyên mọi người tích cực tu dưỡng
đạo lý nhằm làm cho cái tâm sâu rộng, cái trí sáng suốt, cái khí điều hoà, với
mục đích chủ yếu là để bảo tồn tính “thiện”.
Nhân sinh quan Nho giáo luôn chú trọng đến ý nghĩa và giá trị sinh mệnh
cá nhân trong quan hệ giữa người với người. Theo Nho giáo, con người có năm
mối quan hệ chính (ngũ luân): vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn;
từng mối quan hệ phải được giải quyết theo tiêu chí riêng trong ngũ thường.
Ngũ thường là kỷ cương của nhân luân, nó không chỉ là năm dáng vẻ của đức
thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), mà còn là chuẩn mực giải quyết các quan hệ nói
trên theo yêu cầu: vua nhân tôi trung, cha hiền con hiếu, chồng biết điều vợ nghe
lẽ phải, anh tốt em ngoan, bạn bè tín nghĩa; trong đó, Nho giáo đặc biệt coi trọng
quan hệ vua tôi và quan hệ cha con. Trong quan hệ vua tôi, Nho giáo yêu cầu
nhà vua phải có đức, có tài, thương yêu dân như con, dân phải đối với vua
như cha mẹ mình; vì thế, nội dung phạm trù “trung” của quan hệ này đòi hỏi
phải có sự tận tuỵ và thành tâm, thật ý của mỗi người trong quá trình thực
hiện. Trong quan hệ cha con, Nho giáo đề cao phạm trù “hiếu” và lấy cái “tâm”
để đánh giá mức độ hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, vì hiếu thảo không
chỉ là phụng dưỡng, mà trước hết là phải có thái độ thành kính. Như vậy, để
thực hiện tốt “trung”, “hiếu” phải trên cơ sở hai chiều: vua có nhân thì tôi mới
trung, cha có từ thì con mới có hiếu, bề trên có rộng rãi thì bề dưới mới kính
trọng.
11
Là học thuyết mang đậm màu sắc đạo đức, mục đích của Nho giáo là
muốn mỗi người đều trở thành một người quân tử (quân: cai trị, quân tử: người
cai trị), nối gót theo thánh nhân để đạt đến đỉnh cao của nhân luân. Theo Nho
giáo, muốn thành quân tử thì trước hết phải “tu thân” để đạt ba yếu tố: “đạt
đạo” thông qua ứng xử “trung dung”, “đạt đức” thông qua hành vi chuẩn
mực và “đạt trí” thông qua học tập. “Tu thân” xong phải “tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” theo phương châm: “đức trị” - người cầm quyền phải nêu gương, cảm
hoá người dưới bằng đạo đức, “lễ trị” - người cầm quyền cai trị bằng cách duy
trì các chuẩn mực mà con người phải tuân theo, “văn trị” - người cầm quyền
phải coi trọng văn hiến để thu phục nhân tâm. Do đó, Nho giáo luôn phê phán
các phương pháp trị nước theo tư tưởng “pháp trị”, “khiêm ái”, “vô vi” và cho
rằng, để thuận đạo trời và hợp lòng người thì nhà cầm quyền phải thi hành “nhân
chính” với tinh thần cốt lõi là “trọng nhân”, “trọng dân”, dùng nhân nghĩa để trị
nước, người cầm quyền phải theo ý dân để định ra đường lối theo tinh thần
“Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi. Thử chi vị dân chi phụ mẫu”:
phải thích cái thích của dân, phải ghét cái ghét của dân. Thế mới là cha mẹ dân.
Đồng thời phải “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”: lo
trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” (Đại học).
Như vậy, từ “nhân” đến “nhân trị” trong nhân sinh quan Nho giáo đã thể
hiện đường lối trị nước của học thuyết này. Nho giáo đã xây dựng nên một
khuôn mẫu tư tưởng lý luận khá đặc sắc về an bang trị quốc, đó là chủ nghĩa
“đức trị”. Trong đó luân lý và chính trị có sự liên quan mật thiết, luân lý là nền
tảng của chính trị, chính trị là tiếp tục của luân lý. Theo Nho giáo, một khi cá
nhân chú trọng tu dưỡng đạo đức, tuân theo luân lý thì cũng ảnh hưởng đến
người khác và xã hội, đó cũng là việc chính sự. Nho giáo còn đề ra phương châm
“trị quốc bằng đức, điều hành bằng lễ” nhằm làm cho vua, bề tôi và dân chúng
đạt đến sự hài hoà nhất thể, ai cũng phải phát huy đầy đủ tác dụng của họ, và yêu
cầu “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”: từ vua quan
12
cho đến thứ dân đều phải lấy tu dưỡng bản thân làm gốc (Đại học) [15,tr118123]. Đây cũng là nét độc đáo của triết lý phương Đông so với các học thuyết
phương Tây.
Tư tưởng về phương pháp luận nhận thức:
Tuy triết học Nho giáo chủ yếu bàn về nhân sinh, nhưng trong học thuyết
ấy vẫn hàm chứa tư duy triết học logic thể hiện phương pháp luận nhận thức,
trong đó thuyết “Trung dung” là tư duy chủ đạo, xuyên suốt [06,tr163].
Vốn tin chắc tình mẫu tử của nhân loại không thể mất đi, từ đó suy ra các
mối quan hệ con người bị băng hoại trong thời loạn cũng có thể cứu vãn
được, cùng với quan niệm phải theo đạo “trung dung” để luôn giữ cho được
“trung” và “hoà”, vì “trung hoà” là ngôi vị của trời đất, là nguồn nuôi dưỡng
vạn vật. Do đó, Nho giáo đã đưa quan niệm “trung hoà” vào vận dụng trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội và xem đạo “trung dung” là nguyên tắc thực
tiễn, là lý tưởng tối cao để đối nhân xử thế và lập quốc trị dân.
Theo Nho giáo, đạo “trung dung” đại diện cho một loại đức tính tối cao
(bên cạnh đức nhân và đức trí), đại biểu cho trí tuệ uyên thâm của quân tử.
Trung là không thái quá, không thiên lệch và cũng không bất cập. Dung là sự
bình thường, không dịch đổi. Có trung thì có chính đạo của thiên hạ, có dung
thì có định lý của thiên hạ. Trung dung là lấy đạo thường “không thái quá cũng
không bất cập” làm định lý và chính đạo của thiên hạ [15,tr74]. Trung luôn bao
hàm hoà, đã có trung ắt có hoà, có hoà thì mới trung, nhờ có trung và hoà mà
trời đất mới đứng vững, vạn vật mới sinh sôi. “Trung giã giả, thiên hạ chi đại
bản giã; hoà giã giả, thiên hạ chi đạt đạo giã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên,
vạn vật dục yên”: trung là gốc lớn của thiên hạ, hoà là cái đạo của thiên hạ.
Đạt trung hoà thì trời đất định vị, vạn vật hoá dục (Trung dung). Trung là gốc
của trời đất, người bẩm thụ cái tính của trời nên đương nhiên là người có
trung. “Duy hoàng thượng đế, giáng trung vu hạ dân, nhược hữu hằng tính”:
Hoàng thượng đế giáng cái trung xuống cho hạ dân, dân có cái trung ấy như
13
có tính thường (Kinh Thư: Thang cáo). Vì thế, Nho giáo yêu cầu hành vi của
con người phải thích hợp, không bất cập, không thái quá, đây cũng là đặc
điểm cơ bản của phương pháp luận triết học Nho giáo.
Cũng theo Nho giáo, muốn “trung hành” ắt phải có “thời trung” (biến hoá).
“Trung dung” tuy là chính đạo và là định lý của thiên hạ nhưng nó không nhất
thành bất biến. Nó cũng hài hoà theo từng thời điểm, không ngừng tuỳ thời
mà tiến cho hợp lý. Tư tưởng “thời trung” còn có ý nghĩa “thông quyền đạt
biến”, yêu cầu con người vận dụng vào cuộc sống phải linh hoạt, không máy
móc, giáo điều. Trong đối nhân xử thế, một mặt phải tuân thủ sự vừa phải,
không thái quá và bất cập, mặt khác hy vọng với những sự khác biệt, thậm chí
đối lập mà có được sự hài hoà tương hỗ “hoà mà bất đồng”. Như vậy, đạo
“trung dung” của Nho giáo nhằm đem lại sự hài hoà giữa mình với người, giữa
người với trời đất, tạo nên sự quán thông giữa con người với tự nhiên [15,tr8587].
Mặt khác, từ quan niệm xem “hiếu đễ” là xuất phát điểm của “nhân ái” và
của quan hệ hài hoà, dựa trên lập luận “một người làm con trong gia đình mà
không có hiếu thì ra ngoài xã hội không thể trở thành một người bạn tốt và
càng không thể là một bề tôi trung được”, nên Nho giáo cho rằng, tiêu chuẩn
phải, trái của trung dung là “lễ”, nguyên tắc thực thi của nó là lấy “lễ” để tiết
chế “trung” và lấy “trung” để giữ “lễ”. “Trung dung” là phương pháp, “hài
hoà” là biểu hiện, “nhân” và “lễ” là nội dung. Vì thế, Nho giáo yêu cầu “Đệ tử
nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu
dư lực, tắc dĩ học văn”: mỗi người trong gia đình trước hết phải hiếu kính với
cha mẹ, hoà thuận với anh em; khi ra ngoài trước hết phải có hiếu với tông tộc,
tôn trọng hàng xóm; được vậy rồi thì mới nói đến chuyện kết giao bạn hữu và
tham gia chính sự để vỗ yên dân lành (Luận ngữ: Học nhi, I). Hơn nữa, xuất
phát từ quan niệm xem con người là trung tâm của vũ trụ, nên Nho giáo cho
rằng, để cải tạo xã hội thì vấn đề đầu tiên là phải cải tạo con người, trước hết là
14
xây dựng cho được một mẫu người hài hoà, trong đó các tiêu chí “lễ” và
“nhân” phải đạt ở mức hoàn mỹ, đó là mẫu người quân tử có khả năng tu
dưỡng cao, suy nghĩ rộng, giữ nguyên tắc, biết tiến thoái, không bất cập và
cũng không thái quá cả trong nhận thức và hành động. Một khi có được con
người hài hoà thì tất yếu sẽ có quan hệ con người và quốc gia hài hoà, trái lại
thì ngược lại. Để trở thành con người hài hoà thì phải có phẩm chất toàn diện
cả ba mặt: đạo đức, kiến thức và thực tiễn, trong đó, đạo đức có tầm quan
trọng hàng đầu. Vì thế, Nho giáo đòi hỏi mỗi người, bên cạnh thực hiện “lễ”
còn phải tích cực học tập. Từ yêu cầu này mà Nho giáo đã trở thành một học
thuyết đầu tiên của Trung Hoa cổ đại đưa ra quan niệm về giáo dục theo tư
tưởng “trung dung”, thể hiện được những nội dung cơ bản của nhận thức luận.
Riêng về phương pháp giáo hoá, Nho giáo chủ trương trước hết phải dạy
những điều đơn giản, sau đó dần dần dạy đến những điều phức tạp. “Tiên chi
dĩ Thi Thư, nhi đạo chi dĩ hiếu đễ, thuyết chi dĩ nhân nghĩa, quan chi dĩ lễ
nhạc, nhiên hậu thành chi dĩ văn đức”: trước hết dùng Thi Thư mà dạy, rồi
lấy hiếu đễ mà dẫn dắt người ta, lấy nhân nghĩa mà giảng dụ, lấy lễ nhạc
khiến người ta xem xét, sau cùng mới lấy văn đức để dạy cho nên người
(Khổng Tử gia ngữ: Đệ tử hạnh, XII), bởi vì “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư
Nhạc”: Thi làm cho ý chí hứng khởi, lễ sửa sang cho phẩm cách đứng đắn,
nhạc điều hoà cho tính tình hoàn hảo (Luận ngữ: Thái bá, VII). Khi dạy điều
gì cũng phải khơi dậy tính năng động tư duy của người học, người học phải
cố gắng suy nghĩ để tìm hiểu vấn đề thì sự học mới vững chắc, ngược lại thì
“Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản,
tắc bất phục giã”: nếu không ham hiểu biết thì không dạy cho, không nói ra
được thì không bày cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra
được ba góc kia thì không dạy nữa (Luận ngữ: Thuật nhi, VII).
Theo Nho giáo, việc dạy học có hai phần. Phần công truyền nói về luân
thường đạo lý để dạy cho mọi người. Phần tâm truyền nói về những điều cao
xa, chỉ dạy riêng cho người có tư chất đặc biệt, người học phải tự học để hiểu
15
lấy, người dạy không nhất thiết phải giảng giải nhiều. Hơn nữa, con người ai
cũng có sẵn cái tính giống nhau do trời phú cho, nhưng vì tập nhiễm lâu ngày
nên khác nhau, chỉ có tính của bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không hề thay
đổi. Thế nhưng, trong xã hội, bậc thượng trí và kẻ hạ ngu luôn là số ít, phần
đông là hạng trung nhân có thể dạy bảo được, nên Nho giáo chủ trương “Hữu
giáo vô loại”: dạy cho tất cả mọi người (Luận ngữ: Vệ Linh công, XV).
Cũng theo Nho giáo, để nâng hiệu quả dạy học thì cả người dạy lẫn người
học đều phải tuân theo chuẩn mực đức độ của thánh hiền. Người dạy phải
luôn tự sửa mình, giữ lấy cái tâm của mình cho chính, vì “mình cong queo thì
không thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được”, càng không được xấu
hổ khi học hỏi người dưới, biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, như
thế mới là biết…. Người học phải chuyên tâm, từ chí, khiêm tốn, cầu tiến, cần
mẫn, không tự thoả mãn, phải quan sát nhiều, nghe nhiều, hỏi nhiều, có tư
duy sáng tạo, ôn cũ biết mới, học đi đôi với hành, hành lễ trước rồi mới học
văn. “Tiên học lễ, hậu học văn” là kết luận của Nho giáo rút ra từ quan niệm
đó.
Nho giáo dựa vào các tiêu chí đức hạnh “nhân”, “trí”, “dũng” để phân biệt
quân tử với tiểu nhân, đức hạnh đó phải được biểu hiện bằng sự nhất quán giữa
lời nói và việc làm, bằng sự xác định nguyên do của công việc và bày tỏ thái độ
trong hành động. Trong Luận ngữ chữ “nhân” được đề cập 109 lần, “quân tử”
được đề cập 107 lần [15,tr44]. Con người dẫu bần cùng, khổ sở nhưng có đức
hạnh thì vẫn là người quân tử, người kém đức hạnh thì dù có quyền tước cao
sang cũng là kẻ tiểu nhân. Với kẻ sĩ, Nho giáo cũng phân chia nho quân tử và
nho tiểu nhân. Nho quân tử là người học đạo thánh hiền để tự sửa mình thành
người có phẩm hạnh, trong hoàn cảnh nào cũng không trái đạo. Nho tiểu nhân
là người mượn tiếng học đạo thánh hiền để cầu danh, cầu lợi, miệng tuy nói
đạo đức mà bụng thì luôn tìm mưu tính kế để làm những việc bất nhân, bất
16
nghĩa. Vì thế Nho giáo yêu cầu “Nhữ vi quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho”:
nên làm nho quân tử, không nên làm nho tiểu nhân (Luận ngữ: Ung dã, VI).
Tư tưởng “trung dung” trong phương pháp luận nhận thức Nho giáo còn
được biểu hiện ở thái độ của con người đối với trời đất, quỷ thần và quan
niệm về phương pháp quản lý, điều hành đất nước như đã trình bày ở các
phần trên. Thực chất của tư tưởng “trung dung” là chủ trương “cầm hai đầu
mà dùng ở giữa”, là sự trừu tượng cao độ của lý tưởng hài hoà. Đó là thái độ
luôn giữ ở lập trường trung chính, không thiên lệch bên nào, không những
không phản đối sự tồn tại của hai đầu mà còn tiếp thu những nhân tố hợp lý
của hai đầu để ổn định chỉnh thể. Biểu hiện ở con ngưòi là: “văn”, “chất” phải
hài hoà, cung kính không thái quá, ham muốn phải chừng mực, tâm thế luôn
ổn định…
Tóm lại, tư tưởng triết học Nho giáo tuy mâu thuẫn về mặt thế giới quan và
thừa nhận đường lối chính trị đẳng cấp, nhưng lại chứa đựng triết lý hành động
đầy tính nhân văn, nặng đức nhẹ hình, khuyến khích tu thân để đạt tới xã hội thái
bình thịnh trị, nên nó là triết học nhập thế, hành động, giàu ý nghĩa nhân sinh,
được gọi là “Nội thánh, ngoại vương chi đạo”. Đến nay, phương châm trị quốc
của Nho giáo không còn phù hợp, nhưng đạo lý làm người theo học thuyết ấy có
mặt vẫn còn nguyên giá trị. Mặt khác, nhờ triết lý đối nhân xử thế hài hoà nên dù
trải qua những lúc thăng trầm, nhưng Nho giáo vẫn luôn xuất hiện trong các
triều đại phong kiến, để lại dấu ấn không chỉ trong sách vở mà cả trong cuộc
sống của nhiều thế hệ ở các quốc gia phương Đông, trong đó có Việt Nam.
1.1.2 Tính tất yếu ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây
dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương Quân khu
5
Nho giáo ảnh hưởng đến đời sống xã hội Việt Nam
Từ khi giành được độc lập dân tộc, các vương triều phong kiến Việt Nam
luôn lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng để củng cố chế độ tông pháp và duy
17
trì vương quyền của mình. Trong thời gian các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn
trị vì (từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XX), vai trò của Nho giáo đối với xã hội
Việt Nam ngày càng tăng, Nho giáo được tôn là quốc giáo, Nho học được xem
là nội dung cơ bản của nền giáo dục nước nhà. Vai trò của Nho giáo ở Việt
Nam bắt đầu bị suy giảm khi thực dân Pháp bãi bỏ hoàn toàn nền giáo dục
Nho học vào năm 1919 và nó chính thức bị hạ bệ vào năm 1945 cùng với sự
tiêu vong của triều đình nhà Nguyễn.
Đã từng có nhiều ý kiến khác nhau khi đề cập đến vai trò của Nho giáo
trong lịch sử dân tộc ta. Có người cho rằng, do tính chất lạc hậu và bảo thủ
nên Nho giáo Việt Nam đã kìm hãm sự phát triển của đất nước lúc có cơ hội
vào cuối thế kỷ XIX, đến nỗi đất nước ta phải cam chịu thất bại trước sự xâm
lược của đế quốc Pháp. Người khác lại cho rằng, Nho giáo Việt Nam đã giáo
dục con người tư duy theo lối giáo điều, bắt chước. Có người còn khẳng định,
nền quân chủ ở nước ta vừa mang tính ngoại sinh, vừa mang tính lạc hậu, do
vay mượn của “cửa Khổng sân Trình”, nên Việt Nam không có sáng tạo mà
chỉ có vay mượn, chỉ có áp dụng và thích nghi. Những ý kiến trên đây chỉ
đúng phần nào khi xem xét ảnh hưởng bởi mặt tiêu cực của Nho giáo. Xét
một cách tổng thể thì Nho giáo Việt Nam trong một số giai đoạn cũng đã có
vai trò tích cực nhất định như thúc đẩy sự xuất hiện của chế độ phong kiến
trung ương tập quyền, một xu thế tất yếu ở thế kỷ XI. Các nhà nho yêu nước
của Việt Nam trong lịch sử đã biết sử dụng các yếu tố tích cực của Nho giáo
để đoàn kết quần chúng chống giặc ngoại xâm. Một số nhà nho Việt Nam có
tinh thần dân tộc đã lợi dụng nhiều tư tưởng trong Nho giáo để đấu tranh với
kẻ cầm quyền phương Bắc, đòi sự tôn trọng và công bằng trong quan hệ… Ngoài
ra, sau khi nắm vững Nho giáo, người Việt Nam đã nâng tư duy của mình lên
trình độ tư duy của khu vực Đông Á, và do đó, đã từng tranh luận với người
Trung Quốc đương thời về những vấn đề có liên quan tới quyền lợi dân tộc mình
18
và những vấn đề chung của khu vực. Đó là những thực tế không thể phủ nhận!
[42,tr58-59].
Điều cần nhấn mạnh ở chỗ, tuy là một quốc gia trong “vành đai Nho giáo”,
chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của học thuyết ấy, song với tinh thần độc
lập tự chủ và lòng tự hào tự tôn dân tộc, người Việt Nam đã chủ động tiếp thu
tinh hoa văn hoá của kẻ xâm lược với âm mưu muốn đồng hoá mình để chống
lại sự xâm lược và làm thất bại âm mưu đen tối đó, điều này đã tỏ rõ sức
mạnh nội sinh của dân tộc ta, sức mạnh ấy được bắt nguồn từ khả năng luôn
biết tự bồi đắp, tự nâng mình lên ngang tầm thời đại. Bên cạnh đó, do xâm
nhập vào nước ta từ lâu nên tư tưởng triết học Nho giáo đã ăn sâu, bám rễ
trong tâm thức người Việt, góp phần tạo nên những giá trị văn hoá truyền
thống dân tộc. Hiện nay, dù chỉ tồn tại với tư cách là một học thuyết chính trị
- xã hội và đạo đức, nhưng tư tưởng triết học của Nho giáo vẫn ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống tinh thần, đạo đức của nhân dân và cán bộ ta. Đội
ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 không thể nằm ngoài thực trạng đó, do vậy,
quá trình xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ này luôn chịu sự tác động vừa
tích cực, vừa tiêu cực bởi ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo.
Quan niệm về xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5
Cán bộ QSĐP Quân khu 5 là những sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp
giữ chức như sĩ quan công tác ở các Bộ Chỉ huy quân sự (CHQS) tỉnh, các
Ban CHQS huyện và tương đương trên địa bàn QK, phần lớn đã qua đào tạo ở
các nhà trường Quân đội, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu hoạt
động trong lĩnh vực QP,QSĐP, giữ vai trò nòng cốt trong tổ chức xây dựng
nền quốc phòng toàn dân (QPTD), xây dựng LLVT nhân dân, xây dựng và
tích trữ các tiềm lực quốc phòng, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh nhân dân ở
địa phương… Để hoàn thành tốt chức trách được giao, một trong những vấn
đề có tính cấp thiết thường xuyên đặt ra là ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP
Quân khu 5 phải được quan tâm xây dựng, đáp ứng tốt với yêu cầu nhiệm vụ.
19
Là cán bộ của Đảng, hoạt động trong lĩnh vực quân sự, nên đạo đức của
đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 trước hết phải là ĐĐCM của cán bộ quân
đội với những chuẩn mực cơ bản như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát:
“Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân”; “Đề cao tính kỷ luật”; “Dũng
cảm trong chiến đấu”; “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; “Yêu thương
đồng chí đồng đội”; “Tinh thần quốc tế trong sáng”… Trong đó chuẩn mực
“Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân” là đặc trưng nổi bật nhất. Mặt
khác, chức năng, nhiệm vụ và tính chất đặc thù trong lĩnh vực công tác
QP,QSĐP ở một trong những địa bàn chiến lược trọng điểm của đất nước cũng
đòi hỏi đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 phải có những chuẩn mực đạo đức
đặc thù, cụ thể là:
Hoạt động trên địa bàn có 44 dân tộc anh em cùng sinh sống, phong tục,
tập quán của từng dân tộc luôn có sự khác biệt, lại phải tham gia giải quyết
nhiều công việc liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân…,
đòi hỏi cán bộ QSĐP Quân khu 5 không chỉ quán triệt sâu sắc và gương mẫu
chấp hành, mà còn phải thật sự tôn trọng nhân dân, xây dựng tác phong gần
dân, thực sự có thái độ cầu thị trong việc “học dân” để “hiểu dân” một cách
tường tận, nói đi đôi với làm, luôn ý thức nêu gương trước nhân dân và cán bộ
chiến sĩ trong đơn vị; qua đó, nâng chất lượng công tác dân vận, vận động
quần chúng nhân dân trên địa bàn thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách,
quy định của cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao ở một địa bàn rộng và
phức tạp, có diện tích gần 1/4 cả nước, vừa có biên giới, hải đảo, vừa có thành thị,
nông thôn, trung du và miền núi, lại thường xuyên xảy ra nhiều điểm nóng liên
quan đến các vấn đề nhạy cảm hiện nay như vấn đề dân tộc và tôn giáo, nhất là
trước yêu cầu giải quyết theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động
trái pháp luật của “Tin Lành Đềga” và vấn đề ly khai của một số dân tộc bản địa ở
Tây Nguyên, đòi hỏi cán bộ QSĐP Quân khu 5 phải luôn tận tâm, tận lực, phát
20
huy cao tinh thần trách nhiệm trong việc tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa
phương xây dựng các chủ trương, chính sách liên quan đến nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương và có tính khả thi
cao.
Điều kiện công tác và sinh hoạt gần dân, luôn phải trực tiếp tiếp xúc với
nhiều thành phần, nhiều đối tượng, dễ bị tiêm nhiễm bởi những thói hư, tật xấu
của một bộ phận nhân dân, thường xuyên chịu sự tác động mạnh mẽ bởi các hiện
tượng tiêu cực, nhất là dễ bị sự lôi cuốn, sa ngã vào các tệ nạn xã hội hiện đang có
chiều hướng gia tăng…, đòi hỏi cán bộ QSĐP Quân khu 5 phải luôn kiên định lập
trường giai cấp công nhân, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm và
kiên quyết đấu tranh thắng lợi trước hết với chính mình trong mọi tình huống, tích
cực tham gia xây dựng địa bàn chính trị an toàn và đời sống văn hoá ở các khu
dân cư có liên quan, thiết thực góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Các yêu cầu xây dựng đạo đức nêu trên là một thể thống nhất, có mối
quan hệ biện chứng, luôn luôn tác động và ảnh hưởng lẫn nhau tạo thành hệ
thống các chuẩn mực đạo đức cơ bản của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5.
Vì thế, trong xây dựng ĐĐCM, cán bộ QSĐP Quân khu 5 phải luôn coi trọng
bồi dưỡng, rèn luyện để đạt được các chuẩn mực đạo đức một cách toàn diện
và đồng bộ, không nên coi nhẹ một chuẩn mực nào.
Xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 là hoạt động có
mục đích, có tổ chức hướng tới hoàn thiện các phẩm chất cần thiết, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ QP,QSĐP trên địa bàn Quân khu. Đó là sự thống nhất biện
chứng thông qua tác động của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan trong quá trình giáo dục, rèn luyện, xây dựng ĐĐCM; là quá trình hoạt
động tự giác của mỗi tổ chức và từng cá nhân nhằm nâng cao nhận thức, củng
cố tình cảm, tăng cường niềm tin, khả năng tự điều chỉnh hành vi, thói quen
đạo đức của cán bộ, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và đáp ứng tốt
với yêu cầu nhiệm vụ được giao.
21
Tiếp cận theo phương pháp hệ thống thì phẩm chất ĐĐCM của đội ngũ
cán bộ Quân đội nói chung, cán bộ QSĐP Quân khu 5 nói riêng, không “nhất
thành bất biến” mà là hệ thống “mở”, luôn có sự kế thừa, lọc bỏ, bổ sung và
phát triển. Hơn nữa, theo quan điểm toàn diện thì trong xây dựng đã bao hàm
cả sự phát triển. Vì thế, xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5
là một dạng vận động đặc biệt, theo xu hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Đó là một quá trình khách
quan, là sự “tự thân vận động” với nguồn gốc, động lực là sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập tồn tại trong mỗi cán bộ, trong từng tổ chức, là quá trình mà
trạng thái tiến lên được thông qua các bước “nhảy vọt” để chuyển hoá từ
“lượng” sang “chất” và ngược lại, quá trình đó không phải theo con đường
thẳng tắp hay một chu kỳ khép kín, mà theo con đường “xoáy ốc”, có thể có
bước tụt lùi tạm thời nhưng cái mới sẽ ra đời, chiến thắng cái cũ, có yếu tố
dường như lặp lại cái cũ nhưng ở trình độ cao hơn.
Từ cấu trúc của đời sống đạo đức và đòi hỏi của thực tiễn, yêu cầu xây
dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 hiện nay cần tập trung
vào những vấn đề cơ bản là: giáo dục nâng cao nhận thức về các giá trị, chuẩn
mực cơ bản của ĐĐCM, làm cơ sở xây dựng tình cảm, niềm tin và ý thức rèn
luyện hoàn thiện nhân cách; xây dựng phẩm chất ĐĐCM, trong đó đặc biệt
chú trọng tăng cường bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường, lòng trung
thành vô hạn với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, mục tiêu chiến đấu
của quân đội nói chung, Quân khu 5 nói riêng; xây dựng phương pháp, tác
phong rèn luyện ĐĐCM, trong đó đặc biệt chú ý nâng cao khả năng tự rèn
luyện, tự điều chỉnh hành vi đạo đức, thường xuyên thể hiện tính thống nhất
giữa lời nói và việc làm, luôn nêu gương về đạo đức.
Như vậy, thực chất của quá trình xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ
QSĐP Quân khu 5 hiện nay là quá trình phát hiện và đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn giữa các yếu tố tích cực và tiêu cực, giữa các giá trị và phản giá
22
trị đạo đức, giữa bảo tồn gắn với phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, hạn chế tiến tới loại bỏ những giá trị truyền thống chỉ phù hợp với
thực tiễn trước đây nhưng nay đã lạc hậu, không còn phù hợp nữa, nhằm xây
dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 luôn đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Trong quá trình đó, nổi lên mâu thuẫn giữa yêu cầu xây dựng
ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 với những tác động đa chiều
của các hình thái ý thức xã hội tàn dư, lạc hậu còn đan xen tồn tại trong môi
trường kinh tế, chính trị, xã hội đang có những diễn biến phức tạp và không
thuần nhất; mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao phẩm chất ĐĐCM của đội ngũ
cán bộ QSĐP Quân khu 5 với thực trạng đạo đức của họ trong hiện tại. Chính
vì thế, xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 là quá trình
thống nhất giữa hai mặt: một mặt cần tiếp nhận và phát triển những giá trị đạo
đức tiến bộ, tích cực; mặt khác, phải đấu tranh loại bỏ các yếu tố tiêu cực, phi
đạo đức trong từng tập thể và cá nhân. Trong đó có những yếu tố tiêu cực bởi
ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo.
Những vấn đề có tính quy luật trong sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học
Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5
Đội ngũ cán bộ, sỹ quan của Quân đội ta nói chung, cán bộ QSĐP Quân
khu 5 nói riêng, đều được đào tạo trong nền giáo dục mới - nền giáo dục cách
mạng. Quá trình xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 luôn
được sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
như phần trên đã đề cập, Nho giáo với tư cách là một học thuyết về chính trị xã hội và đạo đức đang tồn tại khách quan, tiềm ẩn trong các giá trị văn hoá
truyền thống dân tộc, nên tư tưởng triết học của nó vẫn còn ảnh hưởng đến
quá trình xây dựng ĐĐCM của họ. Điều này đã đặt ra một trong những yêu
cầu cấp thiết là phải phủ định biện chứng ảnh hưởng của tư tưởng triết học
Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 hiện
nay.
23
Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội
ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 là sự tác động, chi phối của thế giới quan, nhân
sinh quan và phương pháp luận nhận thức Nho giáo, gây nên những biến đổi nhất
định, vừa tích cực, vừa tiêu cực đối với nhận thức, tình cảm, niềm tin và hành vi
đạo đức của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5; đồng thời vừa tạo thuận lợi, vừa
gây khó khăn trong quá trình xây dựng ĐĐCM của họ. Đây là sự đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, phản ánh
mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thông qua kết quả xây
dựng các yếu tố cấu thành đời sống ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân
khu 5.
Tính chất và mức độ ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây
dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 phụ thuộc vào những vấn
đề có tính quy luật sau đây:
Một là, tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến xây dựng ĐĐCM của
đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 phụ thuộc vào chất lượng công tác quản lý,
giáo dục chính trị - tư tưởng của tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ chức
quần chúng. Mỗi cán bộ QSĐP Quân khu 5 hiện đang là thành viên của một hay
nhiều tổ chức. 100% cán bộ là đảng viên, luôn chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ
chức đảng và tổ chức chỉ huy ở đơn vị công tác, trong đó 36,5% là thành viên
của các tổ chức quần chúng, phần lớn là đoàn viên Công đoàn quốc phòng (phụ
lục 1). Một khi các tổ chức nói trên được xây dựng trong sạch, vững mạnh,
phát huy tốt các chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt là chức năng quản lý, giáo dục
và giám sát, thì sẽ làm cho đội ngũ cán bộ này vừa nâng cao ý thức đạo đức,
củng cố niềm tin, tình cảm đạo đức, biết trọng danh dự và luôn đánh thức
lương tâm, vừa không có điều kiện tiếp xúc với các tệ nạn xã hội và cũng
không có cơ hội thực hiện các hành vi sai trái ảnh hưởng xấu đến phẩm chất
đạo đức. Cốt lõi của vấn đề này là phát huy hiệu quả tổng hợp của nhiều hoạt
động, nhiều phương thức giáo dục khác nhau. Qua đó, hệ tư tưởng của Đảng sẽ
24
phát huy tốt vai trò, tác động tích cực đến quá trình xây dựng phẩm chất
ĐĐCM của cán bộ; các hành vi sai trái xuất phát từ ảnh hưởng tiêu cực của các
hệ tư tưởng tàn dư, trong đó có tư tưởng triết học Nho giáo sẽ được ngăn chặn
kịp thời. Điều này cho thấy, tính chất và mức độ ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân
khu 5 luôn tỷ lệ nghịch với chất lượng công tác quản lý, giáo dục của các tổ
chức nói trên. Ngược lại, một khi làm tốt công tác quản lý, giáo dục thì những
tinh hoa tư tưởng triết học Nho giáo sẽ ảnh hưởng tích cực đến xây dựng
ĐĐCM của họ.
Hai là, tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến xây dựng ĐĐCM của
đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 phụ thuộc vào khả năng tự giáo dục, tự rèn
luyện, tự điều chỉnh hành vi cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội,
trên cơ sở phẩm chất ĐĐCM vốn có của từng cán bộ. Hiệu quả giáo dục của
chủ thể quản lý sẽ không cao nếu không được kết hợp chặt chẽ với khả năng
tự giáo dục của đối tượng. Tự giáo dục là khả năng chủ quan hoá khách quan,
được thể hiện thông qua quá trình tự ý thức, rèn luyện, điều chỉnh hành vi đạo
đức dựa trên niềm tin đạo đức cá nhân và luôn chịu tác động bởi sức mạnh ám
thị của phong tục tập quán, của dư luận xã hội và sự dằn vặt của lương tâm.
Khả năng này có tác dụng như một phương thuốc đề kháng, tạo nên sự miễn
dịch cho đời sống đạo đức của mỗi người, chống lại sự xâm nhập của các yếu
tố phi đạo đức hình thành bởi những ảnh hưởng tiêu cực của các hệ tư tưởng
khác, trong đó có tư tưởng triết học Nho giáo. Mặt khác, một khi phẩm chất
đạo đức cần thiết của cán bộ QSĐP Quân khu 5 được xây dựng đúng mức từ
trước, thì trong hiện tại và tương lai, việc kế thừa, phát triển phẩm chất đạo
đức ấy sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Điều này cho thấy, một khi ĐĐCM của đội
ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 được quan tâm xây dựng thường xuyên, khả
năng tự giáo dục, tự rèn luyện của họ luôn được đề cao, thì những ảnh hưởng
25
tích cực của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của họ sẽ được
phát huy, những ảnh hưởng tiêu cực sẽ được hạn chế thấp nhất.
Ba là, tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến xây dựng ĐĐCM của
đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 phụ thuộc vào tính chất môi trường sống,
hoạt động và công tác của họ. Rõ ràng, trong tính hiện thực của nó, phẩm
chất đạo đức của con người là sản phẩm tổng hoà của các quan hệ xã hội. Các
quan hệ xã hội ấy được nảy sinh, biểu hiện và phải được giải quyết trong một
môi trường nhất định, có ý nghĩa quyết định đến nhân cách của mỗi con
người. Nếu như môi trường sống, hoạt động và công tác của đội ngũ cán bộ
QSĐP Quân khu 5 được xây dựng trong sạch, lành mạnh, thì những ảnh
hưởng tích cực của Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của họ sẽ được phát huy,
tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho họ giữ vững và tăng cường các phẩm chất
đạo đức cần thiết. Ngược lại, nếu môi trường ấy không được quan tâm xây
dựng đúng mức, thì những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học Nho
giáo sẽ gây khó khăn lớn trong quá trình xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ
này.
Tóm lại, tư tưởng triết học Nho giáo đang còn ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần, đạo đức của nhân dân ta và nhân các địa phương trên địa bàn Quân
khu 5, qua đó tác động đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP của
Quân khu là hiện tượng khách quan. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu một
cách nghiêm túc để có nhận thức đúng và thái độ ứng xử khoa học, góp phần
xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ này luôn ngang tầm với sự phát triển
của yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới.
1.2 Đặc điểm ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương Quân khu 5
1.2.1 Tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến xây dựng đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương Quân khu 5 là tư
tưởng triết học Nho giáo đã được Việt Nam hoá