Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, bệnh lý lâm sàng và biện pháp phòng trừ bệnh giun đũa bê nghé trên địa bàn huyện hà trung tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.74 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
------------------------o0o--------------------------

PHẠM VĂN PHƯƠNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ,
BỆNH LÝ LÂM SÀNG VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
BỆNH GIUN ĐŨA BÊ NGHÉ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÀ
TRUNG TỈNH THANH HOÁ

CHUYÊN NGÀNH: THÚ Y
MÃ SỐ: 60.64.01.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS-TS. NGUYỄN VĂN THỌ

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng cho bảo
vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm
ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả


Phạm Văn Phương

ii


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự quan tâm,
chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè; sự
động viên khích lệ của gia đình để tôi hoàn thành luận văn này. Nhân dịp này tôi xin
được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS -TS. Nguyễn Văn Thọ đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong
quá trình hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi xin cảm ơn lãnh đạo UBND huyện Hà Trung, Trạm thú y huyện Hà Trung
và Trường trung cấp Nông Lâm Thanh Hóa, đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Phạm Văn Phương

iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. ii
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... iii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................ vii
DANH MỤC CÁC HÌNH ..................................................................................... viii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.......................................................................... 2
3.1. Ý nghĩa khoa học .......................................................................................... 2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn .......................................................................................... 2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU................................................................... 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ............................................................................ 3
1.1.1 Đặc điểm sinh học của giun đũa ký sinh ở bê, nghé................................ 3
1.1.2. Dịch tễ học của bệnh giun đũa bê, nghé .............................................. 9
1.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh giun đũa bê, nghé ............... 12
1.1.4. Chẩn đoán bệnh giun đũa bê, nghé.................................................... 15
1.1.5. Biện pháp phòng trị bệnh. ................................................................. 17
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước .................................................. 19
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 19
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ....................................................... 20
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 24
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu ................................................................ 24
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu. .................................................................. 24
2.3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................. 25
2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, bệnh lý lâm sàng bệnh giun
đũa bê, nghé ở hai xã của huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa. .............. 25
2.3.2. Bệnh lý và lâm sàng của bê, nghé bị bệnh giun đũa............................. 25

iv


2.3.3. Nghiên cứu biện pháp phòng, trị bệnh giun đũa bê, nghé.................... 25
2.4. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu............................................. 26
2.4.1. Bố trí điều tra và phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh

giun đũa bê, nghé ở hai xã của huyện tỉnh Thanh Hóa. ...................... 26
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu bệnh lý và lâm sàng của bê, nghé bị
bệnh giun đũa. ......................................................................................... 31
2.4.3. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu biện pháp phòng
trị bệnh giun đũa bê, nghé. ..................................................................... 32
2.5. Phương pháp xử lý số liệu.......................................................................... 34
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................ 35
3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê, nghé ở hai xã
của huyện Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hóa. .............................................. 35
3.1.1. Nghiên cứu tình hình nhiễm giun đũa bê, nghé. ................................... 35
3.1.2. Nghiên cứu sự phát triển của trứng giun đũa bê, nghé và sự tồn
tại của trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh. ......................................... 46
3.2. Biểu hiện lâm sàng của bệnh giun đũa bê, nghé. ........................................ 51
3.2.1. Ảnh hưởng của giun đũa trong hội chứng tiêu chảy của bê, nghé. .......... 51
3.2.2. Tỷ lệ bê, nghé có biểu hiện lâm sàng khi bị bệnh giun đũa. ................ 53
3.3. Nghiên cứu và đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun đũa bê nghé. ........... 54
3.3.1. Khả năng diệt trứng và trứng giun đũa bê, nghé có sức gây bệnh
của thuốc sát trùng. ................................................................................. 54
3.3.2. Nghiên cứu công thức ủ phân có khả năng sinh nhiệt cao để diệt
trứng giun đũa bê nghé ........................................................................... 56
3.3.3. Hiệu lực thuốc tẩy giun đũa bê, nghé. ................................................... 59
3.3.4. Đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun đũa cho bê, nghé. .................... 60
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................... 62
1. KẾT LUẬN................................................................................................... 62
2. ĐỀ NGHỊ: ..................................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 63

v



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AS :
cs

Ánh sáng
:

cộng sự

Nxb :

Nhà xuất bản

TT :

Thể trọng

TN :

Thí nghiệm

g :

gam

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT


Tên bảng

3.1

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê, nghé tại hai xã Hà Toại và Hà

Trang

Lĩnh của huyện Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hóa.........................................35
3.2

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa bê nghé theo mùa vụ .............................37

3.3

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa bê nghé theo tuổi. .................................39

3.4

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa bê, nghé theo địa hình ..........................41

3.5

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa bê nghé theo tính biệt............................42

3.6

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa bê nghé theo tình trạng vệ sinh
trong chăn nuôi ...........................................................................................43


3.7

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa ở bê và ghé ...........................................45

3.8

Tình trạng ô nhiễm trứng giun đũa bê nghé ở chuồng trại và khu vực
xung quanh chuồng trâu, bò. .......................................................................46

3.9

Sự phát tán trứng giun đũa bê nghé ở khu vực bãi chăn thả trâu, bò ............47

3.10

Sự phát triển của trứng giun đũa bê, nghé trong phân thành trứng có
sức gây bệnh. ..............................................................................................48

3.11

Khả năng tồn tại của trứng giun đũa bê, nghé có sức gây bệnh trong
phân ............................................................................................................50

3.12

Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa bê, nghé bình thường và tiêu chảy ......... 51

3.13


Tỷ lệ bê nghé có biểu hiện lâm sàng của bệnh giun đũa. .............................53

3.14

Khả năng diệt trứng và trứng giun đũa bê, nghé có sức gây bệnh của
thuốc sát trùng. ...........................................................................................55

3.15

Sự tăng nhiệt và tác dụng diệt trứng giun đũa bê nghé của công thức ủ 1 ........ 56

3.16

Sự tăng nhiệt và tác dụng diệt trứng giun đũa bê nghé của công thức ủ 2 ........ 57

3.17

Tổng hợp khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun đũa bê nghé
của 2 công thức ủ ........................................................................................58

3.18

Hiệu lực của một số thuốc tẩy giun đũa bê, nghé ........................................59

vii


DANH MỤC CÁC HÌNH
STT


Tên hình

Trang

1.1

Cấu tạo giun đũa bê nghé Neoascaris vitulorum .......................................... 4

3.1

Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê nghé theo mùa vụ trong năm ..................... 38

3.2

Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê, nghé theo lứa tuổi..................................... 40

3.3

Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê nghé theo tình trạng vệ sinh ...................... 44

3.4

Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê, nghé bình thường và tiêu chảy............... 52

viii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây việc phát triển đàn trâu , bò về cả số lượng lẫn

chất lượng là một vấn đề quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho người
tiêu dùng, ổn định nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống xã hội. Tuy nhiên, các
bệnh xảy ra ở lứa tuổi bê, nghé đã gây ảnh hưởng rất lớn đến công tác phát triển
chăn nuôi trâu bò, trong đó phải kể đến bệnh giun đũa bê nghé.
Bệnh giun đũa bê nghé nói riêng và bệnh ký sinh trùng nói chung không gây
thành ổ dịch lớn như các bệnh do vi khuẩn và virus, Nhưng nó thường kéo dài âm
ỉ, làm giảm năng suất chăn nuôi, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát
triển của bê nghé.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs. (1982), giun đũa Toxocara Vitulorum gây
tiêu chảy chiếm tỷ lệ cao trong tổng số bê nghé sinh ra, tỷ lệ chết có thể tới
38,97% trong tổng số bê nghé bị bệnh.
Bệnh giun đũa là bệnh khá phổ biến ở bê nghé của nước ta. Bệnh thường
phát vào vụ đông - xuân, ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi. Bê nghé ở miền núi nhiễm
giun đũa cao hơn trung du và đồng bằng.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1999), Phan Địch Lân và cs. (2005),
bệnh do giun Toxocara vitulorum gây ra, chúng ký sinh trong ruột non của bê
nghé và gây ra các tác hại như: gây tổn thương ruột non, một số cơ quan (gan,
phổi,…) do ấu trùng di hành, giun lấy chất dinh dưỡng làm cho bê nghé gầy còm,
chậm lớn. Ngoài ra, giun đũa còn tiết độc tố làm cho bê nghé bị trúng độc, sốt cao,
ỉa chảy, gầy sút và dễ chết nếu không được điều trị kịp thời.
Thanh Hóa là một tỉnh có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển chăn nuôi trâu
bò, bê, nghé. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về bệnh giun đũa bê
nghé và biện pháp phòng trị vẫn chưa được chú ý. Vì vậy, bê nghé ở các địa phương của
tỉnh Thanh Hóa còn bị bệnh phân trắng nhiều, gây thiệt hại kinh tế đáng kể. Trong mấy
năm gần đây, điều kiện tự nhiên và thời tiết khí hậu ở nước ta nói chung và ở các tỉnh
miền trung nói riêng có nhiều biến đổi. Điều đó có thể ảnh hưởng và làm thay đổi quy

1



luật sinh tồn của ký sinh trùng, từ đó ảnh hưởng đến đặc điểm dịch tễ của bệnh.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế chăn nuôi ở tỉnh Thanh Hóa và
những vấn đề đề cập ở trên, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu đặc một số
đặc điểm dịch tễ, bệnh lý lâm sang và biện pháp phòng trừ bệnh giun đũa bê
nghé trên địa bàn huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa".
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu để bổ sung những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ học
của bệnh giun đũa bê nghé trong điều kiện sinh thái hiện nay.
- Xây dựng quy trình phòng chống bệnh giun đũa bê nghé để hạn chế tỷ lệ
nhiễm giun đũa, giảm thiệt hại do bệnh giun đũa gây ra, góp phần phát triển chăn
nuôi trâu bò.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài làm hoàn thiện hơn những thông tin khoa học về bệnh
giun đũa bê nghé tại một số địa phương của tỉnh Thanh Hóa, đồng thời là cơ sở
khoa học để xây dựng quy trình phòng trị bệnh giun đũa cho bê nghé.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở để khuyến cáo người chăn nuôi trâu bò áp dụng
biện pháp phòng trị bệnh giun đũa cho bê nghé, nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm giun
đũa, hạn chế thiệt hại do giun đũa gây ra, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa.

2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1 Đặc điểm sinh học của giun đũa ký sinh ở bê, nghé
1.1.1.1. Phân loại vị trí giun đũa bê nghé trong hệ thống động vật.

Bệnh giun đũa do loài giun Neoascaris vitulorum (Goeze, 1782), hay
còn có tên gọi khác là Toxocara vitulorum thuộc họ Anisakidae gây ra.
Theo Phan Thế Việt và cs. (1977), giun đũa bê nghé có vị trí trong hệ thống
phân loại động vật học như sau:
Nghành Nemathelminthes Schneider, 1873
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân Lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Ascaridida Skrjabin et Schulz, 1940
Phân bộ Ascaridina Skrjabin, 1915
Họ Anisakidae Skrjabin et Karokhin, 945
Giống Neoascaris Travassos, 1927
Loài Toxocara vitulorum Goeze, 782.
1.1.1.2. Đặc điểm hình thái của Toxocara vitulorum.
Theo Phạm Văn Khuê và cs. (1996); Nguyễn Thị Kim Lan và cs. 1999),
giun tròn Toxocara vitulorum có thân màu vàng nhạt, đầu có ba lá môi, rìa của
những môi này có răng cưu , thực quản dài 3 - 4,5 mm, chỗ nối tiếp với ruột
phình thành dạ dày nhỏ, vòng thần kinh và lỗ bài tiết ở ngang nhau phần đầu. Giun
đực không có cánh đuôi, dài 13 - 15 cm, rộng nhất 0,35 cm, đuôi dài 0,21 - 0,46
mm, thon tròn, trước và sau hậu môn ở phía bụng có 20 - 27 gai, có một đôi gai
giao hợp dài 0,95 - 1,20 mm. Giun cái dài 19 - 23 cm, chỗ rộng nhất là 0,5 cm, âm
hộ ở khoảng 1/8 trước thân, đuôi hình nón dài 0,37 - 0,42 mm, đuôi có nhiều gai
bao phủ. Trứng giun hơi tròn, có vỏ với nhiều chỗ lõm nhỏ, dài 0,080 - 0,090 mm,
rộng 0,070 - 0,075 mm.

3


Hình 1.1. Cấu tạo giun đũa bê nghé Toxocara vitulorum
(theo MOZGOVOI, DAVTIAN).
a) Miệng: 1- Đỉnh đầu; 2- Môi phía lưng;

3- Môi phía cạnh giáp bụng.
b) Đầu đuôi: 1- Đoạn đầu; 2- Gai giao hợp;
3- Đoạn đuôi con cái (phía cạnh). c)1. Đoạn thân trước; 2.3. trứng.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978), Phan Địch Lân và cs
(2005), giun đũa Toxocara vitulorum (Goeze 1782) ký sinh ở bê nghé có kích
thước: Giun đực ở nghé dài 13 - 15 cm, đường kính 0,3 cm; ở bê dài 14 - 16 cm.
Giun cái ở nghé dài 19 - 23 cm, đường kính 0,5 cm, trứng 70 - 75 x 80 - 90 µm;
giun cái ở bê dài 20 - 26 cm, trứng 75 - 85 x 90 - 100 µm. Vị trí âm hộ của giun
cái là 1/8 phần trước thân.
Phan Lục (2005) cho biết, giun đũa có kích thước to , vàng nhạt , dài 13 - 22
cm,, trên đầu có 3 môi. Thực quản hình ống dài, phần cuối có chỗ phình to ra gọi là dạ

4


dày giả. Xung quanh lỗ hậu môn của giun đực có nhiều gai chồi, có hai gai giao hợp to
bằng nhau. Trứng có 4 lớp vỏ màu nhạt, lớp ngoài cùng lỗ chỗ Như tổ ong, trứng dài
0,08 - 0,09 mm, rộng 0,07 - 0,75 mm.
Các nghiên cứu trên phù hợp với các tài liệu mô tả của Orlov (1970), Euzeby
(1981) Nhưng có khác với tài liệu mô tả của Skrjabin (1950), Neveu - Lemaire
(1952), Soulsby (1965), Drozdz (1967) là âm hộ giun cái ở 1/6 trước thân.
Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) đã mô tả cấu tạo của giun đũa: Giun đực dài
110 - 189 mm, rộng nhất 3,52 - 4,81 mm; đuôi dài 0,21 - 0,46 mm, thon dần về
cuối mút; thực quản dài 4,49 mm; gai sinh dục dài 0,57 - 1,19 mm, có màng mỏng
bao bọc ; ở phía trước hậu môn có 20 - 27 nhú xếp thành 2 hàng, sau hậu môn có 5
đôi nhú, đôi nhú thứ nhất kép. Giun cái dài 151 - 200 mm, rộng 4,0 - 5,7 mm; đuôi
hình nón, phủ nhiều gai, dài 0,37 - 0,42 mm; gần mút đuôi có 2 nhú bên; lỗ sinh
dục nằm ở phần trước cơ thể, cách mút đầu khoảng 1/10 - 2/10 chiều dài cơ thể;
trứng hình cầu kích thước 0,076 - 0,095 x 0,065 - 0,080 mm.
Theo những nghiên cứu của Taira và Fujita (1991) từ năm 1982 - 1988, về

giun tròn ở hai huyện Kyushu và Okinawa, Nhật bản. Hai tác giả đã nghiên cứu 7
giun đũa đực và 21 giun đũa cái về hình thái học, cho thấy độ dài trung bình của
giun đực là 15,64 cm (14,0 - 18,0 cm), giun cái 25,75 cm (16,5 - 34,0 cm). Thân
trắng đục và mềm. Trứng giun dài 81,6µm và rộng 71,8µm, bề mặt vỏ trứng trơn
nhẵn, không nhăn nheo.
Prokopic J. và Sterba J. (1989) đã quan sát giun đũa Neoascaris vitulorum
trên kính hiển vi điện tử, thấy cấu trúc bề mặt của giun gồm môi, răng, gai nhỏ và
phần đuôi; ở giun non răng hình nón và nhọn chúng dài hơn khi tuổi giun tăng lên.
Theo mô tả của Urquhart G.M. và cs. (1996) thì giun đũa T. viturlorum là
ký sinh trùng đường ruột lớn nhất của ở bê nghé, giun cái dài có thể đến 30,00 cm.
Giun đũa có thân dày, màu hơi hồng khi còn sống, và lớp biểu bì khá trong suốt
nên có thể nhìn thấy được các cơ quan nội tạng. trứng giun đũa có một lớp vỏ
dày và trong suốt.
1.1.1.3. Đặc điểm vòng đời của Toxocara vitulorum.
Vòng đời của giun đũa bê nghé không cần ký chủ trung gian. Davtian (1934 -

5


1937) làm thí nghiệm: cho bê nuốt trứng giun đũa có sức gây bệnh thì sau 43 ngày có
thể thấy giun đũa trưởng thành và con non ở cơ thể bê. Ngoài ra, nếu cho bò mẹ trước
khi đẻ 124 - 192 ngày nuốt trứng giun có súc gây bệnh thì bê đẻ ra 20 - 31 ngày trong
phân đã có trứng giun đũa. Điều đó chứngtỏ giun đũa bê, nghé có thể qua máu truyền
vào bào thai. Ở trâu mẹ thời kỳ chửa đầu nuốt trứng giun cảm nhiễm thì tất cả nghé đẻ
ra đều bị nhiễm giun qua nhau thai. Giun đũa bê, nghé nhiễm vào cơ thể bằng 2 con
đường nhiễm trực tiếp và nhiễm qua bào thai. (Nguyễn Hùng Nguyệt và cs, 2008).
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978), trứng giun thải ra môi
trường ở thời kỳ đầu là trứng không cảm nhiễm. Skjabin và Schulz (1973) cho
biết, sự phát triển của trứng đến giai đoạn cảm nhiễm kéo dài 12 - 13 ngày ở nhiệt
độ 28-300C và 17-19 ngày ở nhiệt độ 250C.

Chẩn đoán bằng cách xét nghiệm phân tìm trứng giun Toxocara vitulorum
hoặc trên cơ sở phát hiện thấy giun tự thải ra ở trong phân.
Phạm Sỹ Lăng (2005) cũng cho biết, bệnh giun đũa bê nghé lây
nhiễm qua 2 con đường:
- Qua đường tiêu hóa do bê nghé ăn phải trứng giun đũa cảm nhiễm.
- Ấu trùng từ máu trâu bò mang thai xâm nhập vào bào thai.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1962), trứng giun đũa ra ngoài thiên nhiên gặp
nhiệt độ nóng ẩm thích hợp thì phát triển thành phôi thai: ở nhiệt độ 15 – 170C thì
phải 38 ngày, ở nhiệt độ 19 – 220C thì phải sau 20 ngày. Nếu để phân khô đi hoặc
ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học thì trứng sẽ ngừng phát dục. Dưới ánh
nắng trực tiếp mùa hè thì một tuần, nếu ở sâu trong đất thì 12 - 15 ngày phôi chết,
mùa đông phân khô thì sau một tháng phôi bị diệt.
Vichitr Sukhapesna (1982) đã nghiên cứu 10 trâu bò mẹ nhiễm Strongyloides
papillosus và Toxocara vitulorum cùng với bê nghé kể từ khi bê nghé được sinh ra.
Tác giả cho rằng trâu bò mẹ là nơi chứa mầm bệnh chính làm cho bê nghé con bị
nhiễm S. papillosus và T. vitulorum. Bê nghé đã bị nhiễm S. papillosus qua bú sữa từ
trâu bò mẹ , và nhiễm T. vitulorum qua nhau thai.
Nghé đẻ ra sau 14 ngày đã có trứng giun trong phân (tức là có giun
trưởng thành trong ruột) chứng tỏ nghé bị nhiễm bệnh từ trong bào thai.

6


Giun đũa có chu kỳ phát triển trực tiếp, không qua ký chủ trung gian. Giun
trưởng thành sống trong ruột non của bê nghé đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, gặp
điều kiện thuận lợi thì phát triển thành phôi thai trong trứng.
Trứng có phôi thai là trứng đã có sức gây bệnh. Sau đó trứng này lại vào cơ
thể con vật theo thức ăn, nước uống. Khi mới theo phân ra ngoài trứng không phân
chia. Tuỳ theo điều kiện nhiệt độ và độ ẩm bên ngoài, thời gian trứng phát triển
thành trứng cảm nhiễm có khác nhau.


Hình 1.2. Sơ đồ vòng đời của Toxocara vitulorum
Theo Soulsby (1965), ở nhiệt độ tối ưu 28 – 300C, thời gian này là 7 ngày; ở
0

25 C cần 10 - 11 ngày, ở 15 – 180C cần trên 28 ngày. Trứng giai đoạn cảm nhiễm có
chứa ấu trùng, có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh.
Galila A.B. và cs. (1990) cho biết, ở 250C trứng giun đũa phát triển thành
trứng chứa ấu trùng sau 7 ngày. Kết quả trên giống với nghiên cứu của Refuerzo
và cs. (1952); Enyenihi (1969) tại 270C. Nhưng theo báo cáo của Schwartz (1922)
là mất 10 - 12 ngày ở 250C để phát triển thành trứng chứa ấu trùng. Giai đoạn thứ
hai của trứng chứa ấu trùng đã được quan sát thấy ở vào ngày thứ 11 và có 91%
trứng được phát triển đến giai đoạn này vào ngày 15 ngày. Tawkif (1970) báo
cáo rằng mất 9 ngày ở 26 – 280C để phát triển đến giai đoạn trứng chứa ấu trùng.
Irfan và Sarwar (1954) đã nghiên cứu ở Pakistan, trứng phát triển đến giai

7


đoạn cảm nhiễm sau 11 ngày ở 260C; trứng sẽ bị thoái hoá nếu để ở nhiệt độ
300C; ở 100C trứng ngừng phát triển.
Euzeby (1981) đã theo dõi ở Malaixia cho biết, với nhiệt độ 15 – 170C, cần
38 ngày để trứng phát triển thành trứng có khả năng gây bệnh. Theo Orlov (1970),
ở nhiệt độ 300C cần hai tuần, ở nhiệt độ 250C cần ba tuần. Refuerzo và Jemenez
(1954) đã quan sát sự phát triển của trứng giun ở Philippin cho biết, ở nhiệt độ
170C phôi bắt đầu hình thành vào ngày thứ sáu, hoàn thành vào ngày thứ 9 và có
khả năng gây bệnh ở ngày thứ 13 - 15.
Trứng giun cảm nhiễm có sức đề kháng cao với một số hoá chất cũng như
yếu tố vật lý. Khi trứng ở trong phân thì trứng có sức đề kháng cao đối với một số
chất sát trùng.

Refuerzo và Jemenez (1954) đã làm thí nghiệm về sức đề kháng của trứng
giun đũa ở Philippin, thấy trứng có sức đề kháng kém dưới ảnh hưởng trực tiếp
của ánh nắng mặt trời. Trứng trong phân thì tồn tại lâu hơn và còn phụ thuộc vào
khối lượng cục phân. Nước nóng có tác dụng diệt phôi thai rất nhanh, nếu ở trong
phân thì tác dụng hạn chế; trong nước nóng 90 – 1000C, trứng đã phân lập ra bị
hỏng sau 2 giây, phôi bị huỷ, Nhưng nếu ở trong phân thì chỉ ở lượt ngoài trứng
bị hỏng.
Đối với một số chất sát trùng thông thường như: Lysol 2%, Zyphen 4 - 5%,
sau 17 - 20 giây phôi bị huỷ hoàn toàn, nhưng ở trong phân thì phôi không bị diệt.
Phạm Chức (1980) cũng cho biết, Lysol 5% diệt trứng giun đũa trong 1 giờ; Axit
phêníc 5% diệt trứng trong thời gian 45 phút đến một giờ.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978), trứng giun đũa phát dục
thành phôi thai trong khoảng 20 ngày ở nhiệt độ 19 – 220C, Nhưng phải cần 38
ngày ở nhiệt độ 15 - 17oC.
Dương Công Thuận và cs. (1986) đã lấy phân của bê nghé bị nhiễm giun
đũa có nhiều trứng, trộn với nước để giữ ẩm, cho vào đĩa Pettri, để ở nhiệt độ
trong phòng khoảng 15 – 220C (tháng 10 - 11), thấy trứng phát triển thành phôi
thai sau 20 ngày, ở nhiệt độ 15 – 170C phôi hình thành sau 38 ngày.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) cho biết, con cái đẻ trứng ở ruột

8


non, theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp trứng phát triển thành trứng có
khả năng gây bệnh (nhiệt độ 15 – 170C cần 38 ngày, 19 – 220C cần 20 ngày, 250C
cần 10 - 12 ngày, 28 – 300C cần 65 ngày, nhưng khi nhiệt độ đến 34 – 350C thì
trứng không phát triển).
Theo Nguyễn Hùng Nguyệt và cs. (2008), trứng giun đũa bê, nghé có sức
đề kháng với điều kiện ngoại cảnh, chỉ bị diệt ở nhiệt độ 450C trở lên và ánh nắng
mặt trời chiếu trực tiếp.

Sau khi trứng giun cảm nhiễm vào cơ thể trâu, bò mẹ, dưới tác dụng của
dịch vị và dịch ruột non, ấu trùng nở ra và từ ruột non theo mạch máu vào gan,
qua tim lên phổi, ấu trùng đến tim trái và từ đó vào đại tuần hoàn. Phần lớn ấu
trùng đều theo mạch máu đến các mô và phủ tạng, ở đó nó đóng kén và có thể
sống từ 5 đến 6 tháng hay hơn. Trường hợp trâu bò cái nhiễm phải trứng giun
trong thời gian chửa thì ấu trùng có thể qua hệ tuần hoàn của nhau thai đến bào
thai, hoặc có thể trâu bò cái nhiễm trong thời gian không chửa, ấu trùng đóng kén
ở mô và phủ tạng, khi trâu, bò chửa ấu trùng thoát ra khỏi kén theo mạch máu đến
nhau thai và vào bào thai.
Kén của ấu trùng có thể thấy ở nhiều mô và phủ tạng của trâu, bò mẹ như:
cơ, thận, não, gan, phổi. Ấu trùng có thể sống ở đó 6 tháng. Ở con vật không chửa,
quá thời gian 6 tháng ấu trùng chết. Ở con vật chửa trong vòng 6 tháng, ấu trùng
chui ra khỏi kén đi vào nhau thai.
Ở bào thai ấu trùng sống trong gan. Theo Augustine (1972) và Noda (1954)
ấu trùng sống không biến đổi trong suốt thời kỳ bào thai còn ở trong tử cung. Theo
Spent (1958), thời kỳ cuối trước khi đẻ ấu trùng có thể từ gan lên phổi biến thái
một lần. Nhưng nói chung, ở mọi trường hợp, chỉ sau khi bê, nghé được đẻ ra, ấu
trùng mới tiếp tục biến thái sau khi hoàn thành một đợt di hành qua phổi, khí
quản, ruột giống Như sự di hành của giun đũa lợn, xuống ruột, giun lớn lên nhanh
chóng và phát triển thành giun trưởng thành đẻ trứng .
1.1.2. Dịch tễ học của bệnh giun đũa bê, nghé
Bệnh giun đũa bê, nghé do Toxocara vitulorum gây ra, thường xảy ra hầu
khắp các nơi trên thế giới.

9


Travassos và Lacombe (1959) đã điều tra ở Braxin và cho biết, giun đũa
Toxocara vitulorum là loại phổ biến ở nghé, ít thấy hơn ở bê.
Swain G.D. (1987) cho biết, đã kiểm tra 12 nghé ở Ấn Độ, thấy 4 con có

Toxocara vitulorum, có con có tới 400 giun trong ruột. Tripathi J.C. (1967) cũng
cho biết, bê nghé ở Ấn Độ thường bị giun đũa ký sinh.
Theo Vichitr Sukhapesna (1981), bê, nghé nhiễm giun đũa Toxocara
vitulorum chủ yếu qua bào thai và sữa.
Ranatunga (1960) điều tra ở Srilanka, tại nông trại Ridiyagana, thấy nhiều
nghé có trứng giun trong phân ở lứa tuổi 10 - 26 ngày sau khi đẻ. Theo tác giả, tỷ lệ
nghé chết về bệnh này còn cao hơn bệnh do cầu trùng gây ra.
Muangyai M. (1989) thông báo rằng, giun đũa bê, nghé Toxocara
vitulorum là một trong những ký sinh trùng chủ yếu gây bệnh cho bê, nghé.
Theo Pandey V.S. và cs. (1990), kiểm tra phân của 20 bê nghé
trong giai đoạn 15 - 20 ngày tuổi ở đồng cỏ Zimbabwe, thấy trứng giun có trong
phân, số trứng đếm được từ 257 - 19821 trứng /gam phân.
Akyol C.V. (1993) cho biết, bê ở khu vực Barsa (Thổ Nhĩ Kỳ) bị nhiễm
Toxocara vitulorum phổ biến qua việc kiểm tra trứng trong phân. Ấu trùng cũng
được tìm thấy trong mẫu sữa. Đồng cỏ là nơi có nhiều trứng giun nên làm bê,
nghé bị nhiễm bệnh nhanh. Tỷ lệ nhiễm bệnh giữa các vùng sinh thái khác nhau là
khác nhau.
Một thông báo khác cho biết, ở Braxin nghé bị nhiễm giun đũa với tỷl ệ 58%
ở tuần tuổi thứ nhất ; 87,5 % ở tuần tuổi thứ 2; 96 % ở tuần tuổi thứ 3 và 100% ở
tuần thứ 4. Hầu hết bị nhiễm qua bào thai, một số ít truờng hợp nhiễm qua sữa. Bê,
nghé phát bệnh trong độ tuổi 3 - 17 tuần tuổi (Barbosa và Correa, 1989).
Starke W.A., Machado R.Z., Becchara G.H. và Zocoller M.C. (1996) đã
kiểm tra 75 mẫu phân bê, nghé từ 9 - 115 ngày tuổi, thấy có 86,7% bê, nghé nhiễm
giun đũa. Số lượng trứng cao nhất khi 45 ngày tuổi.
Wen Y.L. và cs, (1986) đã phát hiện 99 con nghé nhiễm giun đũa trong số
245 nghé ở 7 làng của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Tỷ lệ nhiễm giun đũa của
nghé đực cao hơn nghé cái (43,02% so với 38,03%).

10



Theo Roberts J.A. (1990), tỷ lệ chết của nghé trong 6 tháng đầu sau khi
sinh ở vùng Đông Nam Á tới 30% do giun Toxocara vitulorum và S. papillosus.
Gupta và cs. (1985) cho biết, trong 1626 bê ở bang Haryana (Ấn Độ) có
55,8% bị nhiễm ký sinh trùng, bao gồm: giun móc 44,2%; giun đũa 15,2%; giun
đầu gai 6,2%. Tỷ lệ nhiễm trong mùa thu (62,8%) cao hơn trong mùa xuân
(54,2%), mùa hè (52,4%) và mùa đông (52,2%). Trong 2411 nghé ở Bang
Haryana có 62,9% nhiễm ký sinh trùng, trong đó giun đũa là 29,1%; giun móc
20,7%; giun đầu gai 9,2% và cầu trùng 5,2%. Tỷ lệ nhiễm trong mùa thu (69,8%)
và mùa hè (67,8%), cao hơn mùa xuân (51,9%) và mùa đông (56,3%).
Kết quả điều tra cho thấy, có trường hợp bê mắc bệnh sớm nhất là 15 ngày
(Lee - Nigeria, 1959), nghé là 10 ngày (Ranatuga, 1960). Theo Orlov (1970), sau
3 tháng tuổi bê có hiện tượng tự thải giun đũa.
Ở Việt Nam, bệnh giun đũa bê, nghé là một bệnh rất phổ biến. Nghé có
triệu chứng đặc trưng là phân có màu trắng, nên nhân dân thường gọi là bệnh
"Nghé ỉa cứt trắng". Năm 1923, Phạm Văn Long đã thông báo về một ca bệnh trên
nghé. Nhưng đến đầu năm 50, bệnh này mới thực sự được chú ý vì nó gây thiệt
hại lớn cho đàn trâu sinh sản ở miền núi.
Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) cho biết, do ảnh hưởng của
khí hậu thời tiết nên mầm bệnh lưu truyền từ mùa này sang mùa khác. Trứng
giun đũa có phôi thai có thể tồn tại từ mùa đông này qua mùa đông năm sau,
gặp đợt nghé đẻ ra chúng sẽ nhiễm vào nghé, gây bệnh tạo thành vùng "nghé ỉa
cứt trắng".
Do tập tính sinh sản của trâu, bò miền núi phía bắc nước ta là đẻ vào mùa
đông khô lạnh, thiếu cỏ, thiếu nước nên bệnh giun đũa bê, nghé gây tác hại nhiều
đối với nghé sơ sinh.
Theo Lê Đăng Đảnh và cs. (2004) thì bệnh giun đũa bê là bệnh phổ biến ở
nước ta, tuổi bê dễ mắc bệnh là 20 - 35 ngày sau khi đẻ, chưa thấy bò trưởng thành
mắc bệnh. Ở nghé nếu mắc phải giun đũa thì mẫn cảm hơn là ở bê và có thể bị
chết do tiêu chảy.

Phùng Quốc Quảng và cs. (2006) cho biết, bệnh giun đũa ở bê phổ biến ở

11


lứa tuổi 20 - 25 ngày sau khi đẻ. Bệnh phân bố khắp nơi trên thế giới .Ở nước ta,
bệnh thường phát vào mùa rét, tại các vùng nuôi bò thuộc đồng bằng trung du,
miền núi. Bệnh phổ biến hơn ở miền núi vì bê thường thả rông đi theo mẹ đi ăn.
Tô Du (2005) cho biết, bệnh giun đũa ở bê, nghé hay mắc từ 15 - 60 ngày
tuổi vì trong đất nền chuồng , hoặc ngoài bãi cỏ có dính trứng giun đũa , bê nghé
khi gặm cỏ liếm phải rồi mắc bệnh. Bệnh thường gặp nhiều ở nghé đẻ vào vụ
Đông - Xuân.
Bệnh giun đũa bê, nghé thường thấy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở các
vùng chăn nuôi trâu bò thuộc miền núi, trung du, đồng bằng và ở các cơ sở chăn
nuôi trâu bò sữa (Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 1999).
Nguyễn Hùng Nguyệt và cs. (2008) cho biết bê ng hé nuôi ở vùng núi bị
bệnh giun đũa nhiều hơn so với vùng trung du và đồng bằng. Ở nước ta bê nghé
thường bị bệnh vào tháng 12, 1, 2 hàng năm (vụ Đông - Xuân), do trâu bò thường
đẻ vào các tháng 11, 12, 1. Bê, nghé mắc bệnh giun đũa sớm nhất là 14 ngày tuổi,
nhiều nhất ở lứa tuổi 30 - 45 ngày tuổi và muộn nhất ở 65 ngày tuổi, trâu bò không
mắc bệnh.
Qua điều tra liên tục 6 vụ đông xuân (từ 1954 - 1960) trên hàng nghìn nghé
tại xã Hoà Phú, Phúc Thịnh (Chiêm Hoá - Tuyên Quang), xã Minh Sơn (Ngọc Lặc
- Thanh Hoá), xã Phượng Tiến (Định Hoá - Thái Nguyên), Đỗ Dương Thái và
Trịnh Văn Thịnh (1978) thấy, tỷ lệ nghé ốm do giun đũa chiếm tới 38 - 44% so
với số nghé đẻ ra, số nghé chết về bệnh chiếm tới 25 - 50% số nghé ốm.Như vậy,
mỗi năm số nghé chết về giun đũa chiếm 20% số nghé đẻ ra.
1.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh giun đũa bê, nghé
1.1.3.1. Cơ chế sinh bệnh.
Khi bê nghé nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh, sau 43 ngày có thể

thấy giun đũa trưởng thành ở ruột non bê, nghé.Trong thời kỳ ấu trùng giun đũa di
hành đến một số khí quan Như phổi, gan. Khi giun trưởng thành ở ruột non số
lượng nhiều, vít chặt làm tắc ruột non, có khi làm thủng ruột hoặc chui vào ống
dẫn mật, gan.
Giun còn tiết chất độc làm cho bê, nghé bị trúng độc, gây ỉa chảy, gầy

12


sút nhanh. Giun lấy chất dinh dưỡng làm bê nghé gầy yếu (Phạm Văn Khuê và
Phan Lục, 1999) Giun đũa Toxocara vitulorum cũng Như các loài giun sán khác,
ngoài tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, còn gây tổn thương niêm
mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có trong đường tiêu hoá (E.coli,
Salmonella, Proteus...) xâm nhập gây rối loạn quá trình phân tiết, viêm ruột và
tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính.
Ngoài ra, giun đũa còn gây viêm ruột cata, một số ít bị biến đổi hoại tử ở
gan. Giun ở trong ống dẫn mật gây viêm có mủ, viêm do tổn thương ở phổi cũng
được phát hiện. Gia súc non mắc bệnh giun đũa bị viêm ruột thứ phát có thể chết
đến 80%.
Đặc điểm chủ yếu của bệnh là gây tiêu chảy song không liên tục, có sự xen
kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt, bê nghé có biểu
hiện nôn từng cơn, kém ăn, thể trạng sa sút. Nếu không phát hiện sớm và điều trị
kịp thời bê nghé chết rất nhanh.
Theo Chu Thị Thơm và cs. (2006), ấu trùng sau khi xâm nhập vào cơ thể bê
nghé, ấu trùng di hành gây tổn thương nhiều cơ quan. Chúng đem theo nhiều vi
khuẩn, virus gây các truyền nhiễm kế phát. Giun chiếm đoạt nhiều chất dinh
dưỡng, tiết độc tố đầu độc vật chủ làm bê, nghé gầy yếu, ỉa chảy, ỉa phân trắng .
Do giun có kích thước lớn, khi ký sinh với số lượng lớn thường gây tắc ruột, thủng
ruột, tắc ống mật.
Nguyễn Hùng Nguyệt và cs. (2008) cho biết giun đũa ký sinh trong ruột

non bê, nghé sẽ gây ra các tác động:
- Tác động cơ giới : Ấu trùng di hành làm tổn thương gan, phổi. Giun
trưởng thành dùng các lá môi vào niêm mạc ruột và gây tổn thương niêm mạc
ruột, viêm cata, ảnh hưởng đến tiêu hóa, sữa không tiêu hóa bị vón lại.
Sữa này bị vi khuẩn lên men phân hủy, sinh ra nhiều sản phẩm của quá trình
phân hủy protit. Vì vậy, khi phân ra ngoài có màu trắng sữa, lỏng và có mùi thối
khắm. Số lượng giun đũa nhiều sẽ gây tắc, thủng ruột, gây viêm phúc mạc.
- Tác động do độc tố: giun đũa ký sinh ở bê, nghé sẽ tiết độc tố làm cho con
vật trúng độc.

13


- Tác động chiếm đ oạt chất dinh dưỡng: giun đũa lấy dinh dưỡng làm
Cho bê, nghé gầy còm.
1.1.3.2. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích.
Bệnh tiến triển ngắn nhất là 5 ngày, dài nhất là 48 ngày, phổ biến là 11
- 30 ngày. Nghé thường chết vào 7 - 16 ngày sau khi phát bệnh. Thời gian tiến triển
của bệnh dài hay ngắn phụ thuộc vào tuổi, sức khỏe của gia súc, cách nuôi dưỡng.
Theo Nguyễn Văn Thiện và cs. (1977), bê, nghé bị bệnh giun đũa có dáng
đi lù đù, đầu cúi, lưng cong đuôi cụp, bụng ỏng, có khi con vật nằm một chỗ
không theo mẹ. Bệnh nặng bê, nghé gầy rạc, xù lông, mắt lờ đờ, chảy nước mắt có
nhử, mũi khô, thân nhiệt khoảng 40 - 410C. Con vật mệt mỏi, đứng lên nằm
xuống, ỉa phân lúc đầu táo hoặc lổn nhổn, màu đen, dần dần chuyển thành màu
trắng, lỏng.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978), con vật ăn kém, ỉa chảy,
đôi khi táo bón, chướng hơi, đi lại không yên, đau bụng, ho, co giật. Trường hợp
tự thải giun hay được điều trị thì các triệu chứngsẽ mất đi, ở thể mãn tính bệnh kéo
dài 2 - 3 tháng.
Phạm Xuân Dụ (1971) cho biết, bệnh ỉa chảy ở bê một phần do giun đũa và

bệnh viêm phổi, một phần do giun phổi.
Phan Địch Lân (1986) đã thông báo bê Zê bu mắc bệnh giun đũa ở Nông
trường Phú Mẫn (Hà Sơn Bình) có triệu chứngỉa chảy, ủ rũ, nằm liệt tại chỗ và có
con chết.
Dương Công Thuận và Nguyễn Văn Lốc (1986), Phạm Sỹ Lăng và cs
(2002) cho biết bê, nghé mắc bệnh thường lù đù, chậm chập, đầu cúi, lưng cong,
bụng to, lông xù lên, kheo và đuôi dính phân bẩn, phân có mùi tanh khắm, màu
trắng ngà.
Chu Thị Thơm và cs. (2006) cho biết về lâm sàng của bệnh giun đũa bê
nghé: bệnh xảy ra phổ biến ở bê, nghé từ 11 - 30 ngày tuổi. Bê, nghé ủ rũ, lù khù,
chậm chạp đầu cúi, lưng cong, đuôi cụp, thường chết vào ngày thứ 7 - 16. Lúc đầu
còn theo mẹ, khi bệnh nặng nghé bỏ bú, không theo mẹ, nằm một chỗ, thở yếu,
đau bụng, nằm ngửa dãy dụa, đạp chân lên phía trước bụng. Có khi nghe rõ tiếng

14


sôi bụng. Bê, nghé gấy sút nhanh chóng, da khô, lông dựng, mắt lờ đờ, niêm mạc
nhợt nhạt, mũi khô, hơi thở thối.
Phân màu trắng, mùi rất thối, con vật ỉa chảy nặng, ỉa vọt cần câu, phân dính ở
khuỷu chân và xung quanh hậu môn. Có thể xem đây là một triệu chứng điển hình
giúp cho việc chẩn đoán xác định bệnh giun đũa bê, nghé.
Theo Usanakorkul S. (1987), khoảng 10 - 30% nghé ở Thái Lan bị chết
trước khi chúng được cai sữa. Hầu hết chúng bị chết bởi nguyên nhân là ký sinh
trùng. Nghé nhiễm bệnh giun đũa và giun lươn qua đường sữa. Trứng của giun
đũa có trong phân bê, nghé từ 21 - 131 ngày tuổi. Cường độ nhiễm cao nhất trong
khoảng 21 - 35 ngày. Khi có số lượng giun lớn bê, nghé bệnh có triệu chứng kém
ăn, ỉa chảy và thiếu máu.
Hossain M.I. và cs. (1988) đã thông báo, Toxocara vitulorum đã được tìm
thấy ở 296/350 nghé (84,57%) với triệu chứng chậm phát triển, còi cọc, thiếu máu,

ỉa chảy và mất nước.
Aumont và cs. (1991) cho biết, giun đũa Toxocara vitulorum là ký sinh
trùng chính của bê trong 2 tháng tuổi và làm giảm khối lượng từ sơ sinh đến giai
đoạn cai sữa khoảng 10,5kg.
Theo Srivastava A.K., Sharma D.N. (1981), ở Muthura - Ấn Độ, 16 trong
90 nghé 1 tháng tuổi đã có 500 - 700 trứng giun đũa trong 1 gam phân, có những
triệu chứng biếng ăn, gày còm, xù lông, táo bón, ỉa chảy, phân hôi thối, lưng
cong, đau bụng và dáng đi cứng nhắc.
Mổ khám thấy ruột non viêm cata, có nhiều giun đũa ký sinh, có thể tạo
thành búi làm tắc ruột. Sữa bị vón cục, màu trắng, có mùi khó chịu, gạt lớp sữa,
chất chứa và giun đũa ra thấy niêm mạc có nhiều vết loét. Có trường hợp bị thủng
ruột, chất chứa lọt ra xoang bụng gây viêm phúc mạc. Ngoài ruột non, có thể thấy
giun đũa ở các bộ phận: dạ cỏ, dạ múi khế. Biến đổi hoại tử ở gan, thấy giun ở
trong ống dẫn mật, viêm có mủ ở vỏ thận và viêm do tổn thương ở phổi.
1.1.4. Chẩn đoán bệnh giun đũa bê, nghé
Chẩn đoán bệnh giun đũa Toxocara vitulorum ở bê nghé dựa vào triệu
chứng lâm sàng, các thông tin về dịch tễ học, xét nghiệm mẫu phân bê nghé bằng

15


phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa, kết hợp mổ khám kiểm tra bệnh
tích ở ruột non cho phép chẩn đoán chính xác bệnh.
* Đối với bê nghé sống:
Theo nhiều tác giả, việc chẩn đoán bệnh giun đũa Toxocaras vitulorum ở
bê nghé có thể căn cứ vào những đặc điểm dịch tễ học: vùng và mùa phát bệnh, tỷ
lệ nhiễm bệnh, tuổi mắc bệnh...
Phạm Văn Khuê và cs. (1996) Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1999) [9] cho
biết, bệnh giun đũa bê nghé thường mắc nhiều nhất ở miền núi, bệnh thường phát
nhiều vào tháng 12, 1, 2. Tuổi mắc bệnh sớm nhất là 14 ngày, tuổi càng cao thì tỷ lệ

nhiễm càng giảm, tới 3 - 4 tháng tuổi thì không bị nhiễm. Trâu, bò không mắc bệnh
này. Đây chính là những điều tra cơ bản để sơ bộ chẩn đoán bệnh. Triệu chứng lâm
sàng đáng chú ý như: phân màu trắng rất thối, nếu bệnh nặng bê nghé ỉa vọt cần
câu, phân dính ở xung quang hậu môn và khuỷu chân...là những dấu hiệu hết sức
quan trọng để chẩn đoán bệnh giun đũa bê, nghé.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng, đặc điểm dịch tễ học của
bệnh thì chưa chẩn đoán chính xác được bệnh gì, vì có rất nhiều bệnh ký sinh
trùng có biểu hiện giống nhau. Chính vì vậy, xét nghiệm phân tìm trứng giun đũa
Toxocaras vitulorum là căn cứ quyết định kết quả chẩn đoán bệnh. Các phương
pháp thường dùng là phương pháp Fullerborn, Darling, có thể dùng phương pháp
đếm trứng giun trong 1 gam phân bằng buồng đếm Mc. Master để xác định mức
độ nhiễm giun đũa nặng hay nhẹ.
* Đối với bê, nghé chết:
Mổ khám, quan sát những biến đổi bệnh tích trong đường tiêu hoá của bê,
nghé, tìm giun đũa trưởng thành ở ruột non.
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), áp dụng phương pháp mổ khám
toàn diện của Skriabin K.I. (1982). Phương pháp mổ khám có thể phát hiện tất cả
các loài giun sán ký sinh trong cơ thể bê nghé. Phương pháp này được đánh giá là
phương pháp chẩn đoán bệnh chính xác nhất, không những xác định được tỷ lệ
nhiễm, cường độ nhiễm, mà còn quan sát được những tổn thương ở đường tiêu
hoá do giun sán gây ra.

16


1.1.5. Biện pháp phòng trị bệnh.
Phùng Quốc Quảng và cs. (2006) đã đưa ra phương pháp phòng bệnh giun
đũa cho bê nghé như sau:
- Để chủ động phòng bệnh, sau khi đẻ 7 - 10 ngày, cần cho bê nghé uống một
trong số các thuốc tẩy giun như: Piperazin, Hexachloretan, Mebenvet... uống một lần

trong một buổi sáng. Khi uống bắt bê nghé nhịn đói.
- Cho bò mẹ ăn uống tốt để có đủ sữa cho con bú, kết hợp vệ sinh chuồng
trại, môi trường, cho uống nước sạch, giữ chuồng nuôi ấm và khô ráo. Tập trung
phân ủ để diệt trứng giun.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Lê Thị Tài (1997), Piperazin, Mebendazol,
Tetramisol, Thiabendazol có tác dụng rất tốt khi sử dụng để tẩy giun đũa cho
bê, nghé.
Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) cho biết, trong bệnh giun đũa
Toxocara vitulorum của bê, người ta dùng Santonin với liều 0,02 g/kg TT, cho
uống thuốc tẩy kèm theo.
Balabakian X.P. (1956) đã ứng dụng có kết quả dung dịch Natri sunfat 10%
với liều 4,0 g cho 1 kg thể trọng để tẩy giun đũa cho bê, cho uống qua ống cao su
và phễu.
Theo Robert J.A. (1989), hiệu quả tẩy giun đũa bê, nghé của Pyrantel là
100%; Febentel là 100%; Levamisol (7,5 mg/kg TT cho uống) là 83%, Levamisol
tiêm (0,1 ml/kg TT) là 73%, Piperazine là 57%.
Nguyễn Văn Thiện và cs. (1977) đã dùng 8 hạt cau tươi giã nhỏ, trộn với
20 gam bột diêm sinh, hoà với 1/3 lít nước hơi ấm, cho uống vào buổi sáng trong
3 ngày liền; hoặc một nắm vỏ xoan (50 gam) giã nhỏ, trộn với 2 gam muối, hoà
với 1/3 lít nước ấm, để lắng, gạn lấy nước cho uống vào buổi sáng, 3 ngày liền;
hoặc 2 đến 3 lá đu đủ non giã nhỏ, hoà với 1/3 lít nước, cho uống vào buổi sáng ba
ngày liền. Có thể cho uống 3 ml tinh dầu giun trộn với 60 ml dầu đu đủ, cho uống
một lần vào buổi sáng. Cũng có thể cho uống Phenothiazine 1,5 - 2,0 gam/ngày
trong ba ngày, hoặc Piperazin 0,2 - 0,3 gam/kg TT.
Lê Đăng Đảnh và cs. (2004) cho biết, để chủ động phòng trị bệnh giun đũa bê
nghé ngay sau khi sinh , chúng ta dùng một số thuốc đặc trị bệnh giun đũa cho bê, nghé

17



×