Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phân tích nguồn lực và thu nhập của hộ nông dân trồng rừng trên địa bàn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.41 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục các chữ viết tắt

vi

Danh mục bảng biểu

vii

1

MỞ ĐẦU

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài



1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu

2

1.2.1

Mục tiêu chung

2

1.2.2

Mục tiêu cụ thể

2

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

1.3.1

Đối tượng nghiên cứu


2

1.3.2

Phạm vi nghiên cứu

2

2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC VÀ THU
NHẬP HỘ NÔNG DÂN TRỒNG RỪNG

4

2.1

Lý luận chung về hộ nông dân

4

2.1.1

Các khái niệm có liên quan

4

2.1.2


Kinh tế hộ nông dân và hộ nông dân trồng rừng

5

2.1.3

Đặc điểm chung về hộ nông dân

11

2.1.4

Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hộ nông dân

14

2.2

Nguồn lực và thu nhập của hộ nông dân trồng rừng

15

2.2.1

Nguồn lực của hộ nông dân trồng rừng

15

2.2.2


Thu nhập của hộ nông dân trồng rừng

16

2.2.3

Các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập của hộ nông dân trồng rừng

20

2.2.4

Nội dung phân tích nguồn lực và thu nhập của hộ nông dân trồng rừng

23

2.3

Cơ sở thực tiễn

27

2.3.1

Kinh nghiệm của một số nước và khu vực lãnh thổ trên thế giới

27

iii



2.3.2

Kinh nghiệm một số địa phương tại Việt Nam

31

2.3.3

Bài học rút ra đối với tỉnh Hải Dương

33

2.3.4

Tổng quan công trình nghiên cứu có liên quan

33

3

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

35

3.1

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dương

35


3.1.1

Điều kiện tự nhiên, khí hậu

35

3.1.2

Đặc điểm kinh tế - xã hội

36

3.1.3

Khái quát hoạt động quản lý bảo vệ, sản xuất kinh doanh rừng trên địa
bàn tỉnh Hải Dương

42

3.2

Phương pháp nghiên cứu

44

3.2.1

Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu


44

3.2.2

Phương pháp phân tích

45

3.2.3

Hệ thống chỉ tiêu sử dụng trong đề tài

46

4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

48

4.1

Thực trạng hoạt động trồng rừng tại Hải Dương

48

4.1.1

Thực trạng phân bố đất trồng rừng


48

4.1.2

Thực trạng hộ dân trồng rừng

48

4.1.3

Các chương trình dự án hỗ trợ phát triển kinh tế hộ trồng rừng của tỉnh

51

4.2

Phân tích nguồn lực hộ nông dân trồng rừng từ số liệu điều tra

53

4.2.1

Thông tin chung về hộ điều tra

53

4.2.2

Phân tích nguồn lực của hộ trồng rừng qua tiếp cận vốn sinh kế


55

4.3

Phân tích thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trồng rừng

61

4.3.1

Thu nhập và cơ cấu thu nhập của hộ trồng rừng

61

4.3.2

Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trồng rừng

64

4.4

Đánh giá chất lượng nguồn lực và thu nhập của hộ nông dân trồng
rừng trên địa bàn tỉnh

69

4.4.1

Những điểm mạnh chung tại vùng trồng rừng


69

4.4.2

Một số hạn chế của hộ nông dân trồng rừng

70

4.4.3

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

71

iv


4.5

Giải pháp về phát triển nguồn lực và nâng cao thu nhập của hộ nông
dân trồng rừng

73

4.5.1

Dự báo, phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế hộ nông dân trồng rừng

73


4.5.2

Các giải pháp về phát triển nguồn lực và nâng cao thu nhập của hộ
nông dân trồng rừng

76

5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

82

5.1

Kết luận

82

5.2

Kiến nghị

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO

85


PHỤ LỤC

87

v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BQ

Bình quân

BQL

Ban quản lý

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CP


Chi phí

CPI

Chỉ số giá tiêu dùng

DT

Diện tích

ĐT

Đầu tư

ĐVT

Đơn vị tính

GTSX

Giá trị sản xuất

HQSX

Hiệu quả sản xuất

HTX

Hợp tác xã


KT-XH

Kinh tế xã hội

NN

Nông nghiệp

PNN

Phi nông nghiệp

PTNT

Phát triển nông thôn

UBND

Ủy ban Nhân dân

vi


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số thứ tự

Tên bảng

Trang


3.1

Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai tỉnh Hải Dương

37

3.2

Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp đến năm 2020 tỉnh Hải Dương

42

4.1

Phân bổ và sử dụng đất đai của thị xã Chí Linh và huyện Kinh Môn

48

4.2

Số lượng phân loại hộ dân thị xã Chí Linh

49

4.3

Số lượng phân loại hộ dân huyện Kinh Môn

50


4.4

Thông tin cơ bản về chủ hộ điều tra

53

4.5

Đặc điểm về điều kiện sản xuất của các hộ điều tra năm 2014

54

4.6

Phân bố tuổi chủ hộ

55

4.7

Trình độ học vấn của chủ hộ

56

4.8

Phân bố số lần tập huấn, hướng nghiệp

57


4.9

Phân nhóm số thành viên trong hộ (bao gồm chủ hộ)

58

4.10

Phân nhóm tổng diện tích đất của hộ

59

4.11

Phân nhóm vốn tài chính của hộ

60

4.12

Số hoạt động kinh tế chủ hộ tham gia

61

4.13

Thu nhập trung bình của hộ khảo sát

62


4.14

Phân nhóm tổng thu nhập của hộ

63

4.15

Phân nhóm thu nhập bình quân đầu người của hộ điều tra

63

4.16

Diễn giải các biến trong phương trình hồi quy

65

4.17

Mô hình hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ

66

vii


1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Hải Dương là một địa phương
đang chuyển mình với bước phát triển vượt bậc, với mức tăng trưởng cao, thu nhập
cùng mức sống trung bình của người dân trên địa bàn tỉnh đang từng bước nâng cao
rõ rệt. Tuy nhiên có một bộ phận không nhỏ người dân trên địa bàn tỉnh đang có mức
thu nhập tương đối thấp và không ổn định, đặc biệt là các hộ nông dân trồng rừng
trên địa bàn hai huyện miền núi là Chí Linh và Kinh Môn.
Với diện tích đồi núi chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, gồm 16
xã thuộc thị xã Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn, chủ yếu là đồi núi thấp
rất phù hợp với trồng một số loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày và đặc biệt
là cây lấy gỗ. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn tỉnh Hải Dương có 10.850 ha,
trong đó rừng tự nhiên có 2.335 ha, rừng trồng có 8.515 ha. Những năm gần đây,
tỉnh Hải Dương rất chú trọng tới công tác xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập
cho người dân trồng rừng bằng các biện pháp như phát triển kinh tế nông lâm kết
hợp, thúc đẩy kỹ thuật trồng và chăm sóc những diện tích rừng trồng, cùng với kết
hợp với việc tham gia quản lý của người dân đối với các diện tích rừng tự nhiên và
hưởng lợi từ rừng. Cùng với việc chỉ đạo trồng rừng theo đề án phát triển rừng, địa
phương cũng không ngừng khuyến cáo, đầu tư mở rộng thêm những diện tích rừng,
trồng mới và cải tạo những diện tích rừng thưa, rừng cháy hoặc đã khai thác. Những
việc làm đó đã góp phần thay đổi đáng kể đời sống của người dân trồng rừng cũng
như bộ mặt kinh tế địa phương.
Tuy vậy, thực tế cho thấy còn rất nhiều vướng mắc, hạn chế trong quá trình
thực hiện, thu nhập của người dân trồng rừng còn chưa cao, chưa ổn định phần
nhiều do địa phương và các hộ dân chưa xác định rõ các nguồn lực, điều kiện sản
xuất của mình để coi đó là các lợi thế để phát triển sản xuất nâng cao thu nhập.
Nhiều ý kiến cho rằng, người dân đang giảm niềm tin vào kinh tế rừng và có một số
hộ dân đang dần thay thế cây trồng hay chuyển sang các ngành nghề khác.

1



Do vậy, vấn đề đặt ra là cần phải hiểu rõ được thực trạng về điều kiện hay các
nguồn lực phát triển sản xuất của các hộ dân như thế nào, thu nhập cũng như đời
sống của nông dân trồng rừng như thế nào? Từ đó để đưa ra được những giải pháp
nâng cao thu nhập cho người nông dân trồng rừng, củng cố được niềm tin của người
dân vào kinh tế rừng, góp phần phát triển kinh tế và quản lý rừng bền vững trên địa
bàn tỉnh. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Phân
tích nguồn lực và thu nhập của hộ nông dân trồng rừng trên địa bàn tỉnh Hải
Dương”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ nông dân trồng
rừng, để đề xuất được những giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trồng
rừng trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực và thu nhập, hộ nông
dân và hộ nông dân trồng rừng.
- Đánh giá thực trạng nguồn lực sản xuất và thu nhập của hộ nông dân trồng
rừng trên địa bàn tỉnh. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông
dân trên địa bàn khảo sát.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nông dân
trồng rừng trên địa bàn tỉnh.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nông dân trồng rừng, hộ nông dân tham gia trong công tác quản lý
bảo vệ rừng trên địa bàn thị xã Chí Linh và huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới thu nhập của
nông dân trồng rừng tại Hải Dương.

2



- Phạm vi về không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại 3 xã có diện
tích rừng lớn của tỉnh bao gồm: xã Hoàng Hoa Thám, Bắc An của thị xã Chí Linh,
xã Hiệp Hoà của huyện Kinh Môn
- Phạm vi về thời gian: Đề tài thực hiện dựa vào thu thập tài liệu có liên quan
đến nội dung nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2014 và giải pháp đến năm 2020.
.

3


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC VÀ THU NHẬP
HỘ NÔNG DÂN TRỒNG RỪNG
2.1. Lý luận chung về hộ nông dân
2.1.1. Các khái niệm có liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về hộ nông dân
Nông hộ (hộ nông dân) là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông
nghiệp và phát triển nông thôn vì tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông
nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động của nông hộ.
Khi nghiên cứu về hộ, các nhà khoa học và các tổ chức quốc tế đã cho rằng:
Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung
một ngân quỹ (Đỗ Kim Chung và cộng sự, 1997). Như vậy, có thể hiểu rằng những
người sống chung dưới một mái nhà có thể cùng huyết tộc hoặc không cùng huyết
tộc những có chung một cơ sở kinh tế đều được coi là thành viên của hộ.
Theo Chapman Robert and Robert Tripp (2004), nông hộ được định nghĩa là
một hộ gia đình mà các thành viên trong nông hộ sẽ dành phần lớn thời gian cho các
hoạt động nông nghiệp cũng như một số hoạt động liên quan đến thị trường các yếu
tố đầu vào và đầu ra.
Nông hộ là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp, các thành viên có tài sản

chung, cùng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định và là
chủ thể trong các quan hệ sản xuất, kinh doanh.
2.1.1.2. Khái niệm về sản xuất hộ gia đình
Hộ gia đình là một nhóm những người thường có quan hệ gia đình hoặc đôi
khi không có quan hệ gia đình với nhau nhưng cùng sống chung, cùng sở hữu chung
về tài sản và các tư liệu sản xuất, cùng tham gia các hoạt động kinh tế chung và
cùng hưởng thụ những thành quả sản xuất chung của họ.
- Trên ý tưởng của Marx và Tchayanov (Đỗ Kim Chung và cộng sự, 1997)
đặc trưng của sản xuất nông dân để xây dựng khái niệm “phương thức sản xuất gia

4


đình” với những khía cạnh chính sau:
+ Phân công lao động theo giới tính, dựa trên gia đình tối thiểu: một người
đàn ông và một người đàn bà.
+ Quan hệ giữa con người và công cụ được sử dụng có tính cá nhân của anh ta.
+ Sản xuất nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, nên từ đó nảy sinh giới
hạn của những năng lực sản xuất theo quy luật Tchayanov (cân bằng giữa nhu cầu
nỗ lực thêm và lợi ích của những nỗ lực đó).
+ Quyền hạn đối với đồ vật được thực hiện thông qua quyền hạn đối với con
người.
+ Sự lưu thông các sản phẩm gia đình có tính “hướng nội” và ưu thế của giá
trị sử dụng.
- Sản xuất hộ gia đình là một dạng sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ
của các thành viên trong một hộ gia đình nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của
hộ thông qua việc sử dụng vốn và các lao động không lương riêng của hộ. Các nhu
cầu tiêu dùng riêng này của hộ bao gồm nơi ở, các bữa ăn, quần áo mặc và chăm
sóc con cái…

2.1.2. Kinh tế hộ nông dân và hộ nông dân trồng rừng
2.1.2.1. Kinh tế hộ nông dân
Ngay từ Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông
thôn" của Hội nghị lần V Trung ương Đảng khóa VII (1993): "Đảng ta luôn khẳng
định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn". Chính vì thế
trong những năm qua nhất là thời kỳ đổi mới kinh tế, hộ nông dân đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế đất nước và trong công cuộc phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn giàu mạnh, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hộ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là cơ sở của các hình thức
kinh tế phát triển mức độ cao, tập trung hơn (như kinh tế trang trại, các cơ sở của
sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp...). Kinh tế hộ khác với các hình thức kinh tế
khác ở mức độ tập trung các yếu tố sản xuất, nhất là tích tụ vốn gắn với kỹ thuật và
công nghiệp của kinh tế trang trại ở mức cao hơn, tốt hơn để có quy mô sản xuất

5


hàng hóa lớn hơn, với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Cần phân biệt
kinh tế hộ với kinh tế nông hộ. Về bản chất, kinh tế hộ nói chung và kinh tế nông hộ
nói riêng đều là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, hoạt động sản xuất trên cơ sở tư liệu
sản xuất, vốn và lao động của hộ. Kinh tế hộ và kinh tế nông hộ khác nhau ở các
điểm: i) Kinh tế nông hộ có phạm vi hẹp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp; ii) Kinh tế
hộ bao hàm cả kinh tế nông hộ và các loại hộ khác (hộ ngành nghề, hộ nông nghiệp
kiêm ngành nghề, hộ dịch vụ...).
Đại hội Đảng lần VI (tháng 12/1986) đã công nhận kinh tế hộ gia đình là một
trong 3 thành phần kinh tế chủ chốt của nền kinh tế (kinh tế Nhà nước, kinh tế tư
nhân, kinh tế hộ gia đình). Song song với công nhận vai trò của kinh tế hộ gia đình
trong nền kinh tế, trong thời kỳ những năm 1985 - 1990, Nhà nước công nhận
quyền tự chủ của kinh tế hộ trong việc lựa chọn chiến lược sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm và công nhận quyền sử dụng đất đai lâu dài. Trong thời kỳ đổi mới sâu rộng

(1990), những tháo gỡ đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế hộ gia đình
đó là giảm bớt tình trạng : i) Thiếu phương tiện, công cụ sản xuất, máy móc cơ giới;
ii) Thiếu hoặc khó tiếp cận nguồn vật tư nông nghiệp cho thâm canh; iii) Hạn chế
việc tích tụ vốn và ruộng đất canh tác; iv) Hạn chế đầu tư vốn cho nông nghiệp nói
chung và sản xuất lúa nói riêng ; v) Mập mờ trong chính sách sở hữu ruộng đất và
công cụ sản xuất; vi) Việc đầu tư vốn quá thấp cho sản xuất.
Khi nghiên cứu kinh tế hộ cũng cần đặt trong mối quan hệ với các thành
phần kinh tế khác. Ở châu Âu và các nước châu Á, kinh tế hộ là kinh tế cá thể. Ở
nước ta trong "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000, cơ cấu thành
phần kinh tế gồm: "Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản Nhà nước, kinh tế gia đình không phải là một thành phần kinh tế độc lập
nhưng được khuyến khích phát triển". Đại hội VI (1986) thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có (trong đó có hộ
nông dân). Nghị quyết 10 (1988) đã tiến thêm một bước mới trong việc nhận thức
vấn đề xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đại hội Đảng lần IX
(2001): "...thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều

6


thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đến năm 2020
trở thành nước công nghiệp, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam...". Như vậy, chưa thực sự thừa nhận
kinh tế hộ là một thành phần kinh tế độc lập trong nền kinh tế nước ta. Nhưng vì sao
kinh tế hộ lại có tầm quan trọng lại phải nghiên cứu? Xét 3 yếu tố có tính nguyên
tắc và bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: i) Về vấn đề
sở hữu ruộng đất: là loại tư liệu sản xuất quan trọng nhất chưa được công nhận sở
hữu hoàn toàn cho hộ; ii) Về quản lý sản xuất trong kinh tế hộ: Nhà nước vẫn giữ
vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng cho hộ sản xuất, iii) Về phân phối: được

chọn quyền quyết định trong việc tiêu thụ và sử dụng sản phẩm làm ra. Như vậy xét
về quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối thì kinh tế hộ đã từng bước được
xem là cấu thành quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, mặc dù chưa được công nhận là một thành phần kinh tế độc lập, kinh tế hộ
cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành
mạnh và kinh doanh theo pháp luật, không có sự định kiến và kỳ thị.
Kinh tế hộ khác với kinh tế tư nhân: Kinh tế hộ về quy mô sản xuất nhỏ hơn
dựa vào gia đình, các thành viên trong gia đình là nguồn lao động chính, ít thuê
mướn nhân công (chủ yếu là công thời vụ, công tạm thời), dễ thích ứng với những
thay đổi hoàn cảnh kinh tế - xã hội bên ngoài và dễ tồn tại trong mọi phương thức
sản xuất so với các thành phần kinh tế khác. Nhiều ý kiến cho rằng "kinh tế hộ vẫn
là tự phát, chỉ phát triển tới đó rồi dừng lại", "kinh tế hộ không đủ sức đưa nông
nghiệp phát triển lên sản xuất lớn, công nghiệp hóa - hiện đại hóa được", "quy mô
kinh tế hộ quá nhỏ, không có điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật, năng suất lao
động kém", "nông trại gia đình chỉ với quy mô 1-1,5 ha ở các nước công nghiệp
mới (NIC) như Hàn Quốc và Đài Loan đã là cơ sở của nông nghiệp tiên tiến". Kinh
tế trang trại mang tính đột phá giống như kinh tế hộ trước đây. Phải chăng, kinh tế
hộ đã phát triển đến mức "chín muồi" để nhường chỗ cho sự phát triển của các hình
thức kinh tế khác (như kinh tế trang trại) hay kinh tế hộ chỉ phù hợp với nền nông

7


nghiệp quy mô nhỏ, trình độ thấp mà không phù hợp với nông nghiệp hiện đại (quy
mô và trình độ cao)? Đây là những câu hỏi đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam và kinh
tế hộ nông dân trong thời kỳ đổi mới.
Trần Văn Đông (2011), trước đây hộ nông dân phát triển theo con đường
chưa có sự phân công lao động xã hội, chủ yếu duy trì cuộc sống, ổn định nông thôn
"tự sản, tự tiêu" mà hiện nay cần có sự phân công chuyên sâu giữa các hộ, để trở
thành nền kinh tế hộ có chuyên môn hóa, thâm canh hóa, hàng hóa cao độ trên cơ sở

ấy, thực hiện xã hội hóa và nhất thể hóa kinh doanh. Phát triển kinh tế hộ theo con
đường khoán hộ được đi sâu đổi mới theo hướng thâm canh hóa, chuyên môn hóa,
hàng hóa cao sẽ chuyển nền nông nghiệp truyền thống lên nền nông nghiệp hiện đại
vì có những ưu điểm: i) Phát huy tính chủ động và tích cực của từng hộ nông dân,
ii) Phân công lao động chuyên sâu (sản lượng tăng lên, hàng hóa chuyên và đồng
nhất, dần dần hình thành vùng chuyên canh, sản lượng nông sản hàng hóa tăng cao,
đáp ứng nhu cầu thị hiếu và thị trường, giá cạnh tranh). Những tiến trình ảnh hưởng
đến kinh tế hộ: i) Công nghiệp hóa, tăng trưởng và phát triển nông nghiệp, ii) Đô thị
hóa, iii) Cải thiện mạng lưới thông tin, giáo dục.
Như vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế hộ, ngoài khái niệm và
định nghĩa trên về kinh tế hộ còn có một số quan điểm về kinh tế hộ như sau:
- Lâm Quang Huyên (1995) cho rằng: “Kinh tế nông dân” được hiểu là một
hình thức tổ chức kinh tế nông nghiệp chủ yếu dựa vào sức lao động gia đình và
nhằm thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của hộ gia đình như một tổng thể mà không
dựa trên chế độ trả công theo lao động đối với mỗi thành viên của nó. Về mặt kinh
tế, do đặc điểm tự cung, tự cấp và những hạn chế của sức sản xuất gia đình (chủ yếu
là lao động cơ bắp), kinh tế nông dân về cơ bản, nhằm cân bằng khả năng lao động
và nhu cầu tiêu dùng của hộ gia đình mà không nhằm vào hạch toán lợi nhuận như
trường hợp của xí nghiệp tư bản. Do chỉ dựa vào sức lao động gia đình, kinh tế
nông dân bị chi phối bởi tiềm năng lao động của nó tức là bởi tỉ lệ lực lượng lao
động trong mỗi hộ gia đình trên tổng số các thành viên gia đình của nó. Kinh tế
nông dân chỉ phát triển ở thời kỳ mà số người lao động đông hơn số người không

8


lao động trong mỗi hộ gia đình. Do thống nhất đơn vị sản xuất với đơn vị tiêu dùng
là hộ gia đình, nên kinh tế nông dân phát triển theo chu kỳ biến đổi nhân khẩu của
hộ gia đình hơn là theo sự tác động của các nhân tố thuần túy kinh tế kỹ thuật. Mặt
khác, sản xuất gia đình vừa bị thúc đẩy chủ yếu bởi nhu cầu tiêu dùng trong hộ gia

đình vừa bị giới hạn bởi mức độ nặng nhọc của công việc sản xuất nông nghiệp, nên
xu hướng phát triển của nó là ở sự tự khai thác khả năng lao động và tiêu dùng theo
tỉ lệ 1/1. Tuy nhiên đặc điểm sản xuất theo thời vụ đã cản trở tính liên tục của lao
động nông nghiệp (thời kỳ nông nhàn luôn tồn tại), sự cân bằng này luôn bị cản trở
hay không thực hiện được. Tính tự cung, tự cấp của kinh tế hộ gia đình luôn được
duy trì nếu nó không kết hợp được trong bản thân nó các hoạt động sản xuất phi
nông nghiệp.
- Theo Davis, J.R. (2003): Kinh tế hộ nông dân là kinh tế của những hộ gia
đình có quyền sinh sống trên những mảnh đất, sử dụng chủ yếu sức lao động gia
đình. Sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn và tham gia ở
mức độ không hoàn hảo vào hoạt động của thị trường”.
- Kinh tế hộ gia đình mô tả các hoạt động kinh tế tập thể của các hộ gia đình.
Thông thường kinh tế hộ gia đình được gọi là khối kinh tế hộ để phân biệt các khối
kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp và nước ngoài.
- Từ các quan điểm lý thuyết nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về kinh tế
hộ như sau:
+ Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế điển hình của nông dân. Trước
nhu cầu tiêu dùng và tăng thêm thu nhập nên các thành viên trong hộ (có quan hệ
huyết thống hoặc không cùng huyết thống) cùng nhau tham gia sản xuất để tạo ra
thu nhập ở các thời gian và không gian khác nhau.
+ Do tính chất tự cung tự cấp của kinh tế hộ nên các khoản thu nhập từ các
hoạt động sản xuất và kinh doanh chủ yếu nhằm để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng.
Hoạt động sản xuất trong kinh tế hộ bao gồm cả hoạt động nông nghiệp và phi
nông nghiệp còn tiêu dùng bao gồm cả tiêu dùng thực phẩm và phi thực phẩm.

9


2.1.2.2. Kinh tế hộ nông dân trồng rừng
Hộ nông dân là tổ chức kinh tế cơ bản trong nông nghiệp, ra đời rất sớm trong

lịch sử và tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất, nhiều chế độ xã hội. Sự bền
vững, đặc điểm và vai trò của kinh tế hộ nông dân đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu.
Theo Đỗ Kim Chung (1997), kinh tế hộ nông dân là một loại hình kinh tế đặc
biệt, nó có thể thích ứng và tồn tại trong mọi phương thức sản xuất xã hội, sự khác
biệt với các hình thức tổ chức sản xuất khác đó là sử dụng sức lao động gia đình là
chính, chính đặc điểm này khiến cho kinh tế hộ nông dân tồn tại ngay khi khủng
hoảng kinh tế, các nhà tư sản và các doanh nghiệp có thể bị phá sản trong khi đó
kinh tế hộ nông dân vẫn tồn tại.
Hộ nông dân tiến hành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp… để phục vụ cuộc
sống và người ta gọi đó là kinh tế hộ gia đình. Kinh tế hộ gia đình là loại hình sản
xuất có hiệu quả kinh tế - xã hội tồn tại và phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn. Kinh tế hộ phát triển tạo ra sản lượng hàng hoá đa dạng, có chất lượng,
giá trị ngày càng cao, góp phần tăng thu nhập cho mỗi gia đình nông dân, cải thiện
đời sống mọi mặt ở nông thôn, cung cấp sản phẩm cho công nghiệp và xuất khẩu,
đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngay từ kinh tế hộ.
Từ những nghiên cứu trên có thể thống nhất kinh tế hộ nông dân được khái
quát trên các nội dung sau: Hộ gia đình nông dân là đơn vị xã hội có chung một cơ
sở kinh tế. Các nguồn lực đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động được
góp thành vốn chung, có chung một ngân quỹ. Cùng sống chung dưới một mái nhà,
ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý
kiến chung của thành viên trong gia đình và quyết định thuộc quyền của chủ hộ.
Bản chất của kinh tế hộ: Đặc trưng bao trùm của kinh tế nông hộ là các thành
viên trong nông hộ làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích kinh tế của bản
thân gia đình mình. Mặt khác kinh tế nông hộ là nền sản xuất nhỏ, mang tính tự
cung, tự túc, hoặc có thể sản xuất hàng hoá với năng suất lao động thấp nhưng có

10



vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp ở các nước đang phát triển
nói chung và nước ta nói riêng, tính tự chủ trong kinh tế nông hộ thể hiện ở những
đặc điểm sau:
- Làm chủ quá trình sản xuất và tái sản xuất trong nông nghiệp.
- Sắp xếp điều hành phân công lao động trong quá trình sản xuất.
- Quyết định phân phối sản phẩm làm ra sau khi đóng thuế cho Nhà nước,
được quyền chọn sử dụng phần còn lại. Nếu có sản phẩn dư thừa hộ nông dân có thể
đem ra thị trường tiêu thụ đó là sản phẩm hàng hoá.
Đặc điểm của kinh tế hộ nông dân: Dựa vào các khái niệm và các đặc trưng của
kinh tế hộ nông dân ta có thể thấy các đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ nông dân là:
- Hoạt động của kinh tế hộ nông dân chủ yếu là dựa vào lao động gia đình hay
là lao động có sẵn mà không cần phải thuê ngoài. Các thành viên tham gia hoạt
động kinh tế hộ có quan hệ gắn bó với nhau về kinh tế và huyết thống.
- Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất không thể thiếu của sản xuất kinh
tế hộ nông dân.
- Người nông dân là người chủ thật sự của quá trình sản xuất.
Như vậy, từ những khái niệm, bản chất và đặc điểm của kinh tế hộ nông dân
có thể thấy kinh tế hộ nông dân trồng rừng cũng là các hoạt động kinh tế của các
hộ nông dân nhưng đối tượng là các hộ nông dân có tham gia hoạt động kinh tế
rừng bao gồm các hộ nông dân trồng rừng sản xuất, và các hộ tham gia quản lý
bảo vệ rừng, hưởng lợi từ rừng. Kết quả hoạt động kinh tế của các hộ nông dân
trồng rừng là kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh rừng, tham gia quản lý
bảo vệ rừng, các hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Do vậy khi nói về kinh tế hộ
nông dân trồng rừng là nói về tổng hợp các hoạt động kinh tế mà hộ dân trồng rừng
tham gia.
2.1.3. Đặc điểm chung về hộ nông dân
- Tổ chức sản xuất, kinh doanh
Việc tổ chức sản xuất chủ yếu trong khuôn khổ các thành viên trong hộ có
cùng huyết thống hoặc có quan hệ họ hàng. Gần như tất các các thành viên trong


11


gia đình đều tham gia trong quá trình sản xuất: trong kinh tế hộ, trước thúc ép
của nhu cầu tiêu dùng, tất cả các thành viên đều tham gia sản xuất với mục tiêu
tạo được thu nhập. Các thành viên trong gia đình không kể tuổi tác, chỉ cần còn
sức lao động đều sẽ tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ví dụ như trong
nhóm các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như các nghề mây tre đan,
thêu tay, trạm khắc gỗ… Hơn nữa việc tổ chức sản xuất của các hộ ở đây dựa
trên các kinh nghiệm được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
- Quy mô sản xuất
Đặc điểm chính của hoạt động sản xuất hộ gia đình là có qui mô nhỏ, sự
phân công lao động giữa các thành viên chỉ ở mức tương đối và các thành viên sẽ
hỗ trợ nhau sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Hoạt động sản xuất của hộ có
thể nằm trong một hệ thống sản xuất lớn hơn, vì vậy sự phát triển của kinh tế hộ
một phần sẽ phụ thuộc vào đầu ra của hệ thống sản xuất lớn này. Ngoài ra, qui mô
sản xuất còn phụ thuộc một phần rất lớn vào các yếu tố nội tại của hộ và các nguồn
lực hỗ trợ sản xuất như số lao động, mặt bằng, vốn...
- Phân công lao động
Sự phân công lao động chỉ mang tính chất tương đối. Do kinh tế hộ có tính
chất là không yêu cầu phải đạt được lợi nhuận tối đa hay hạch toán lãi lỗ quá chi tiết
như các doanh nghiệp mà chỉ cốt tạo thu nhập, thỏa mãn các tiêu dùng và do có
quan hệ huyết thống hoặc họ hàng nên sẽ không có sự phân công lao động theo cấp
bậc và mệnh lệnh hành chính như các doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn có một sự phân
công ngầm giữa lao động chính và lao động phụ, giữa thành viên nắm giữ kinh tế
(người nắm giữ các khoản chi, tiêu chính và có thể không phải chủ hộ) và các thành
viên còn lại trong hộ. Ngoài ra sự phân công lao động trong hộ gia đình còn phù
thuộc rất lớn vào sức khỏe và trình độ tay nghề của thành viên tham gia sản xuất.
- Sự đa dạng và chất lượng sản phẩm

Sản phẩm do kinh tế hộ làm ra rất đa dạng. Sự đa dạng ở đây thể hiện về các
loại hình sản phẩm và hình thức của sản phẩm. Về mặt chất lượng thì các sản phẩm
do kinh tế hộ làm ra có chất lượng không đồng đều và rất khó quản lý chất lượng.

12


Trong nội tại một hộ thì chất lượng sản phẩm như nhau nhưng chất lượng sản phẩm
giữa các hộ thường rất khác nhau vì cách sản xuất và kỹ năng tay nghề của các hộ hoàn
toàn khác nhau. Ngành hàng thủ công mỹ nghệ là một ngành hàng có thể nhìn thấy rất
rõ đặc điểm này và đây vừa là điểm mạnh và vừa là điểm yếu của ngành hàng.
- Trình độ học vấn, trình độ tay nghề
Trình độ học vấn, trình độ tay nghề của người lao động không cao và không
đồng đều trong các hộ nông dân ở nông thôn. Đa phần các thành viên trong hộ gia
đình đều có trình độ văn hóa trung bình (thường là học hết cấp 2 là thôi học). Do
sản xuất hộ gia đình là sản xuất dựa trên kinh nghiệm và thông qua tự học là chính
nên trình độ lao động là không đồng đều giữa các thành viên trong hộ gia đình.
Trình độ tay nghề của các hộ là một yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất
trong sản xuất ra sản phẩm của các hộ.
- Sản xuất kinh doanh không ổn định
Do bản chất của người nông dân còn có tư duy tiểu nông, chạy theo lợi
nhuận trước mắt và "không nghĩ dài" nên rất hay thay đổi các quyết định của mình
trong sản xuất và tiêu thụ sản phầm. Điều này thể hiện rất rõ trong cả sản xuất nông
nghiệp và phi nông nghiệp. Ví dụ như đang trồng cây này nhưng nghe cây kia có
thể cho lợi nhuận cao hơn liền phá bỏ cây đang trồng để trồng loại cây mới...
- Linh hoạt về không gian và thời gian
Hoạt động sản xuất và kinh doanh trong ngày diễn ra trong khung thời gian
và không gian linh hoạt, đặc biệt là đối với các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp
tự làm. Đối với hoạt động này, các thành viên trong hộ sẽ chủ động lựa chọn thời
gian và không gian thích hợp để sản xuất và lấy mục tiêu chính là tạo ra sản phẩm

cuối cùng tốt nhất có thể theo hạn định đã đề ra. Đặc điểm này được thể hiển rất rõ
trong sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống. Tính linh hoạt của
kinh tế hộ còn thể hiện ở việc đa dạng hóa sản xuất để tạo thu nhập. Một hộ có thể
tham gia một vài hoạt động phi nông nghiệp (tự làm) bên cạnh nông nghiệp, chưa
kể đến có thành viên của hộ vẫn tham gia hoạt động phi nông nghiệp làm thuê khác.

13


2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hộ nông dân
- Trình độ kỹ năng, tay nghề của các thành viên trong hộ
Như đã phân tích ở trên về đặc điểm sản xuất của kinh tế hộ, có thể thấy
trình độ kỹ năng tay nghề của các thành viên trong hộ đóng vai trò quyết định về
năng suất, chất lượng sản phẩm. Nếu trình độ tay nghề của hộ càng cao thì càng sản
xuất được nhiều sản phẩm trong một đơn vị thời gian. Hơn nữa trình độ sản xuất
cao, sẽ sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt hơn, bán được giá cao hơn và cho
thu nhập tốt hơn.
- Các nguồn lực hỗ trợ sản xuất
Các nguồn lực sản xuất đóng hai vai trò chính trong sản xuất kinh tế hộ. Một
là giúp hộ sản xuất ổn định và mở rộng được qui mô sản xuất. Hai là góp phần nâng
cao năng suất lao động của hộ. Ví dụ trang thiết bị, máy móc phụ trợ càng tốt thì hộ
càng có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm. Các nguồn lực hỗ trợ ở đây còn phải kể đến
các nguồn lực của cộng đồng ví dụ như hệ thống hạ tầng cơ sở như: điện, nước,
đường giao thông…
- Thị trường đầu ra
Đây là một yếu tố quyết định trong mọi ngành sản xuất và cũng đúng cho
kinh tế hộ. Bản chất của kinh tế hộ là tham gia vào thị trường không hoàn hảo, nhất
là khi nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn. Vì vậy các hộ này sẽ bị tác động rất lớn
khi thị trường đầu ra có biến động dù cho là biến động nhỏ.
- Các chính sách của Nhà nước

Sự phát triển của các thành phần kinh tế đều cần có môi trường pháp lý để
vận hành. Có một nguyên tắc bất di bất dịch trong nền kinh tế thị trường là môi
trường pháp lý càng thuận lợi thì sẽ khuyến khích cho các thành phần kinh tế càng
phát triển. Một chính sách được ban hành đúng lúc, mục tiêu nhắm đến đúng chỗ
cần phải cải thiện hoặc khắc phục trong hệ thống kinh tế sẽ cho một tác động rất
lớn. Kinh tế hộ là một trong ba thành phần kinh tế chính của một quốc gia tất nhiên
không thể nằm ngoài sự chi phối của nguyên tắc này. Có thể lấy chính sách Khoán
10 làm ví dụ, từ khi chính sách này ra đời, nó đã có tác động rất lớn đến sự phát

14


triển của kinh tế hộ nông dân ở nước ta.
- Các quyết định về các hoạt động kinh tế
Các quyết định thực hiện các hoạt động kinh tế để tăng thu nhập cho gia đình
cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hộ dù đó là hộ sản xuất nông
nghiệp hay sản xuất phi nông nghiệp. Sơ đồ dưới đây cho thấy quyết định các hoạt
động kinh tế của hộ là một trong các mắt xích chính đưa các hộ tham gia sản xuất
trong các nghề phi nông nghiệp. Các quyết định này được đưa ra từ bản thân các
chủ hộ, dựa trên các suy nghĩ và phân tích của cá nhân chủ hộ, dựa trên các nguồn
lực của hộ cũng như là các thông tin và các yếu tố hỗ trợ khác từ cộng đồng nơi hộ
sinh sống.
2.2. Nguồn lực và thu nhập của hộ nông dân trồng rừng
2.2.1. Nguồn lực của hộ nông dân trồng rừng
2.2.1.1. Lao động của hộ gia đình
Lao động của gia đình là nguồn lực cơ sở của các hộ gia đình và nông trại, là
yếu tố cơ bản nhằm phân biệt kinh tế hộ gia đình với các doanh nghiệp, công ty.
Lao động gia đình của nông hộ được xác định là tất cả những người trong gia
đình có khả năng lao động và sẵn sàng tham gia lao động sản xuất sản phẩm hàng
hoá hay dịch vụ để cung cấp cho gia đình và xã hội. Lao động gia đình của nông hộ

gồm những người trong độ tuổi lao động và cả những người ngoài độ tuổi lao động
có thể tham gia lao động khi cần thiết. Lao động của gia đình không loại trừ lao
động đổi công, lao động thuê mướn hoặc đi làm thuê vào thời vụ lao động như thời
điểm làm đất, thu hoạch...
Xác định lao động gia đình của hộ nông dân cần chú ý đến trình độ lao động,
tay nghề lao động, đặc biệt là lao động tiềm năng, tức những người đang học nghề,
hoặc chưa đến tuổi lao động còn đi học...
2.2.1.2. Đất đai
Bất kỳ hộ nông dân nào cũng đều có quyền sở hữu đất đai hoặc được nhà nước
phân chia đất đai để sản xuất. Việc phân chia đất đai cho người nông dân không
theo một tiêu chuẩn thị trường nhất định, đây là thuộc tính quan trọng đối với mọi

15


nông dân. Đặc điểm này phân biệt người nông dân với người lao động không có đất
đai hoặc công nhân đô thị.
Cần thiết đối với hộ nông dân là phải hiểu rõ từng loại ruộng đất cụ thể, diện
tích, chất đất, vị trí địa lý, địa hình, điều kiện các yếu tố phục vụ như thuỷ lợi, giao
thông, thời tiết khí hậu, quản lý... Xác định rõ từng thửa đất mà hộ nông dân đang
và sẽ sử dụng là rất quan trọng trong việc bố trí sản xuất kinh doanh của hộ.
2.2.1.3. Tiền vốn và trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh
Tiền vốn và trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh là một trong 3 yếu tố
nguồn lực quan trọng trong sản xuất kinh doanh của nông hộ. Tuy nhiên, đối với
các hộ nông dân, việc phân biệt rõ ràng lượng tiền vốn và trang thiết bị phục vụ sản
xuất kinh doanh và phục vụ tiêu dùng gia đình là rất khó, đặc biệt là việc xác định
lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình do sự khó xác định công
lao động của gia đình bỏ vào sản xuất kinh doanh. Đây là một đặc điểm nữa để phân
biệt hộ nông dân với các doanh nghiệp hoặc công ty.
Cần phải xác định rõ lượng tiền vốn và trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh

doanh của hộ. Trên cơ sở đó, xác định chính xác và đầy đủ các yếu tố nguồn lực
phục vụ sản xuất, từ đó xây dựng được kế hoạch sản xuất kinh doanh chính xác và
hợp lý.
2.2.1.4. Kỹ thuật sản xuất
Sản xuất hộ nông dân không thể tách rời những tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ vì nó tạo ra sản phẩm năng suất cao và chất lượng tốt. Cải tiến kỹ thuật
cho phép mở rộng quy mô sản xuất tăng khối lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất
hạ giá thành sản phẩm và tăng thu nhập cho người dân.
2.2.2. Thu nhập của hộ nông dân trồng rừng
Khi nghiên cứu thu nhập của hộ nông dân trồng rừng chúng tôi thường đề cập đến:
- Tổng thu của hộ là toàn bộ giá trị nhận được từ các nguồn thu bằng tiền của
hộ dân chủ yếu là từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, rừng, làm thuê, ngành nghề thủ
công, dịch vụ, nguồn thu từ ngân sách và các nguồn thu khác trong một khoảng thời
gian thường tính là 1 năm.

16


+ Các khoản thu đó có thể bao gồm có thu hiện vật và thu bằng tiền, thu từ sản
xuất kinh doanh và thu ngoài sản xuất kinh doanh. Thu trong sản xuất kinh doanh là
thu từ sản xuất, làm thuê, lương,... Thu từ ngoài sản xuất kinh doanh là các nguồn từ
nước ngoài gửi về, từ anh em họ hàng, từ các hợp đồng kinh tế.
- Tổng chi của hộ là toàn bộ chi phí bằng tiền mà hộ bỏ ra bao gồm chi cho
sản xuất và chi cho tiêu dùng.
+ Chi sản xuất bao gồm chi phí vật chất và chi phí khác bằng tiền để sản xuất
ra sản phẩm (chi phí khả biến mua ở bên ngoài).
+ Chi tiêu dùng là các khoản chi ngoài sản xuất phục vụ cho đời sống hàng
ngày của hộ.
- Thu nhập thực tế hay còn gọi là thực thu của hộ: bằng tổng thu trừ đi các chi
phí cho sản xuất của hộ.

- Tiết kiệm của hộ bằng tổng thu trừ đi toàn bộ chi phí bao gồm cả chi sản xuất
và chi tiêu dùng của hộ. Thu nhập thực tế mới phản ánh đúng và có liên quan đến
đời sống của người dân. Nếu hộ dân thực hiện được hạch toán kinh tế hộ thì cần
thiết tính được thực thu hay thu nhập thực tế từ sản xuất kinh doanh bằng cách:
Tổng thu - chi phí khả biến = Tổng thu nhập ròng
Tổng thu nhập ròng - tổng chi phí bất biến = Thu nhập thực tế
Thu nhập thực tế - trả lãi tiền vay = Thực kiếm
Thực kiếm + Thu từ các hoạt động khác = Thực thu của hộ
• Thu nhập của hộ nông dân trồng rừng bao gồm:
* Thu nhập từ nông nghiệp: Bao gồm thu từ trồng trọt (thu từ cây lương thực,
thực phẩm như lúa, ngô, khoai, sắn thu trồng cây ăn quả như vải, nhãn, hồng xiêm,
bưởi, mít; thu từ trồng cây công nghiệp như chè, cà phê, sắn); thu từ chăn nuôi (trâu
bò, lợn, gà, dê,...).
* Thu nhập từ trồng rừng: bao gồm thu từ khai thác lâm sản và lâm sản ngoài
gỗ (gỗ, củi, tre nứa, song, mây, thu hái cây thuốc, ong rừng...), thu từ các hoạt động
trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng...
* Thu nhập từ thuỷ sản bao gồm nuôi cá, ếch, ba ba, rắn...

17


* Thu nhập phi nông nghiệp bao gồm:
Thu nhập từ ngành nghề thủ công truyền thống bao gồm sản phẩm mây tre
đan, chế biến dược liệu, dệt vải...
Thu nhập từ dịch vụ du lịch sinh thái bao gồm thu từ bàn hàng, phục vụ ăn ở,
phục vụ tham quan văn hoá truyền thống bản làng, hướng dẫn du lịch...
Thu nhập phi nông nghiệp còn lại bao gồm: cắt tóc, làm thuê, thợ nề, thợ mộc,
chạy xe ôm...
Thu nhập khác bao gồm: lương hưu, trợ cấp...
• Vai trò của thu nhập

Mức sống dân cư cao hay thấp, sự phân hóa giàu nghèo, chênh lệch giữa hộ
giàu và hộ nghèo... phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là mức thu
nhập của từng hộ gia đình. Thu nhập quyết định quy mô và cơ cấu tiêu dùng của hộ
gia đình.
• Các hướng nâng cao thu nhập
Tăng thu nhập có thể được chia thành các hợp phần sau:
- Tăng thu nhập từ trồng trọt:
+ Mở rộng diện tích: Có thể bằng khai hoang phục hoá hay giảm thời gian để
hoang của đất.
+ Tăng hệ số sử dụng ruộng đất: tăng số vụ trong năm bằng cách áp dụng các
giống cây có thời gian sinh trưởng ngắn hơn, hay bằng cách tăng số vụ trong năm.
+ Tăng năng suất: năng suất cao hơn thường được tính bằng sản lượng trên
một đơn vị diện tích gieo trồng, nâng cao năng suất đi liền với việc sử dụng nhiều
hơn hoặc hiệu quả hơn đầu vào hiện đại, kiểm soát nước tưới tốt hơn và hoặc
phương pháp canh tác tốt hơn.
+ Giá nông sản cao hơn: Điều này có thể có được nhờ sự tự do hoá thương mại,
hạ tầng nông thôn tốt hơn hoặc sự phối hợp tốt hơn giữa nông dân với người mua.
- Đa dạng hoá cây trồng: ngay cả khi giá cả, năng suất cây trồng, hệ số sử dụng
ruộng đất và diện tích không thay đổi, người nông dân vẫn có thể tăng thu nhập bằng
cách chuyển đổi từ cây có giá trị kinh tế thấp (đặc trưng là cây lương thực) sang cây

18


cây trồng có giá trị cao hơn (đặc trưng là cây hàng hoá).
- Tăng thu nhập từ lâm nghiệp: đây là một nguồn thu quan trọng của người
dân vùng núi, thu từ lâm nghiệp là các giá trị thu được từ sản phẩm của rừng. Điều
quan trọng là thu nhập từ lâm nghiệp phải là thu nhập bền vững.
- Tăng thu nhập từ dịch vụ: mô hình du lịch sinh thái rất có tương lai khi đời
sống người dân các khu vực thành thị ngày càng nâng cao.

- Tăng thu nhập từ công nghiệp: một số ngành công nghiệp có thể phát
triển ở những vùng miền núi như khai khoáng, khai thác than, đá, nguyên liệu...
• Hướng nâng cao thu nhập có thể khái quát lại thành:
1. Nâng cao thu nhập theo hướng chuyển sang các hoạt động có giá trị cao
hơn: là quá trình người nông dân chuyển từ cây trồng và hoạt động có giá trị thấp
sang cây trồng và hoạt động có giá trị cao hơn. Ba chỉ số đo lường là tỷ lệ hộ tham
gia vào hoạt động phi trồng trọt, tỷ lệ hộ trồng cây phi lương thực và tỷ lệ diện tích
dành cho cây phi lương thực.
2. Tác động đến các yếu tố đầu vào nhằm tăng năng suất, sản lượng, chất
lượng, tăng vụ, tiếp cận thị trường tăng giá cả nông sản hàng hóa.
3. Đa dạng nguồn thu nhập: có nghĩa là số lượng nguồn thu nhập tăng lên làm
cho tổng thu nhập tăng lên.
Nâng cao thu nhập với ý nghĩa thương mại hóa: những năm gần đây hướng
nâng cao thu nhập này càng được quan tâm và áp dụng rộng rãi. Nâng cao thu nhập
được xem như là quá trình chuyển từ sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp các cây
lương thực chủ yếu sang sản xuất nhiều loại hàng hóa nông sản hơn và hoạt động
phi nông nghiệp. Chúng ta có thể xác định được mức đo lường nâng cao thu nhập
với ý nghĩa thương mại hóa.
+ Thứ nhất: “Thương mại hóa cây trồng” được xác định bằng tỷ trọng giá trị
cây trồng đem bán và trao đổi so với tổng giá trị cây trồng sản xuất được.
+ Thứ hai: “Thương mại hóa nông nghiệp” được xác định bằng tỷ lệ sản phẩm
nông nghiệp (gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp) đem bán và trao
đổi so với tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp sản xuất được.

19


+ Thứ ba là “Thương mại hóa thu nhập” được xác định dưới dạng tổng thu
nhập bằng tiền mặt so với tổng thu nhập của hộ.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập của hộ nông dân trồng rừng

2.2.3.1. Các yếu tố nguồn lực sản xuất của hộ
Hộ nông dân muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nông lâm nghiệp
thì vấn đề có tính quyết định trước tiên là các yếu tố sản xuất bao gồm đất đai, lao
động, cơ sở vật chất như tư liệu sản xuất và tiền vốn, các yếu tố này quyết định kết
quả sản xuất kinh doanh của từng hộ.
- Đất đai là yếu tố sản xuất không thể thay thế trong hoạt động sản xuất nông
lâm nghiệp. Nếu quỹ đất nhiều, chất đất tốt, cơ cấu đất đai phong phú thì
càng có điều kiện sản xuất thuận lợi cho hộ nông dân lựa chọn phương thức canh
tác phù hợp. Nếu quỹ đất nhỏ, chất đất không màu mỡ sẽ gây trở ngại đến quá trình
sản xuất của hộ.
- Lao động là yếu tố sản xuất không thể thiếu được của bất kỳ quá trình sản
xuất xã hội nào. Khi nghiên cứu yếu tố lao động phải kể đến số lượng và chất lượng
của lao động. Chất lượng lao động thể hiện ở trình độ học vấn để có khả năng tiếp thu
khoa học kỹ thuật, đó là kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm tập quán sản xuất được tích
luỹ từ lâu đời. Số lượng lao động là yếu tố mặt lượng bao gồm số thành viên trong gia
đình hộ nông dân có khả năng lao động. Nó chi phối đến kết quả sản xuất của nông
hộ, đặc biệt là những vùng chậm phát triển thì nhân tố lao động là nhân tố cơ bản để
tạo ra của cải vật chất cho gia đình. Ở vùng núi cao, vốn không nhiều, đất đai rộng
lao động sẽ là nguồn lực chính góp phần duy trì và phát triển kinh tế nông hộ.
- Vốn là điều kiện rất quan trọng trong sản xuất. Vốn có thể mua những tư liệu
sản xuất khác cần thiết. Đối với hộ nông dân miền núi, khái niệm sử dụng đồng vốn
sao cho có hiệu quả là khá xa lạ.
- Tư liệu lao động là một yếu tố quan trọng, nếu có tư liệu lao động tốt, có khả
năng cơ giới hoá cao, người nông dân sẽ đỡ vất vả năng xuất lao động tăng, góp
phần tăng thu nhập đáng kể cho hộ. Những năm gần đây các hộ có điều kiện cơ khí
hoá trang bị thêm như máy bơm, máy tuốt lúa... nhằm giảm nhẹ công việc nặng

20



×