Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Thực trạng bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái ngoại nuôi theo mô hình trang trại tại huyện bình giang, tỉnh hải dương và thử nghiệm điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.28 KB, 73 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục các chữ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục hình

viii

MỞ ĐẦU

1

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU


3

1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn cái

3

1.1.1. Bộ phận sinh dục bên trong

3

1.1.2. Cơ quan sinh dục bên ngoài

6

1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái

7

1.2.1. Sự thành thục về tính

7

1.2.2. Sinh lý quá trình thụ tinh

8

1.2.3. Sinh lý quá trình mang thai

8


1.2.4. Sinh lý quá trình đẻ

10

1.3. Bệnh Viêm tử cung ở lợn nái (Metritis)

12

1.3.1. Nguyên nhân của bệnh Viêm tử cung

12

1.3.2. Hậu quả của bệnh Viêm tử cung

13

1.3.3. Các thể viêm tử cung

15

1.3.4. Chẩn đoán bệnh Viêm tử cung

17

1.4. Một số vi khuẩn thường gặp ở dịch tử cung

20

1.4.1. Escherichia coli


20

1.4.2. Staphylococcus

20

1.4.3. Streptococcus

21

1.4.4. Salmonella

22

1.5. Thuốc kháng sinh trong phòng và điều trị bệnh sinh sản

22

1.6. Sử dụng PGF2α trong điều trị viêm tử cung

25

iii


1.7. Tình hình nghiên cứu bệnh Viêm tử cung trên thế giới và Việt Nam

27

1.7.1. Trên thế giới


27

1.7.2. Tại Việt Nam

27

Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

30

2.1. Đối tượng, địa điểm nghiên cứu

30

2.2. Nội dung nghiên cứu

30

2.2.1. Xác định tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại

30

2.2.2. Xác định ảnh hưởng của bệnh Viêm tử cung đến một số chỉ tiêu sinh
sản của đàn lợn nái ngoại

30

2.2.3. Sự biến đổi về vi khuẩn học trong dịch tử cung của lợn nái ngoại


30

2.2.4. Thử nghiệm điều trị bệnh Viêm tử cung bằng các phác đồ điều trị

31

2.3. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu

31

2.3.1. Nguyên liệu nghiên cứu

31

2.3.2. Phương pháp nghiên cứu

32

2.4. Phương pháp xử lý số liệu

35

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

36

3.1. Tình hình mắc bệnh Viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại các trang
trại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương

36


3.1.1. Tình hình mắc bệnh Viêm tử cung ở lợn nái ngoại tại các trang trại
theo dõi

37

3.1.2. Tình hình mắc bệnh Viêm tử cung của lợn nái ngoại qua các lứa đẻ

40

3.1.3. Tình hình mắc bệnh Viêm tử cung của lợn nái ngoại ở các giai đoạn sinh sản

43

3.2. Ảnh hưởng của bệnh Viêm tử cung đến một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn
lợn nái ngoại

45

3.2.1. Thời gian động dục lại và số lần phối giống của lợn nái ngoại mắc
bệnh Viêm tử cung

46

3.2.2. Khả năng sinh sản và chất lượng đàn con của lợn nái ngoại viêm tử cung

49

3.2.3. Khả năng tăng trọng của đàn lợn con cai sữa được sinh ra từ lợn nái
ngoại bình thường và lợn nái ngoại bị Viêm tử cung

iv

51


3.3. Một số nghiên cứu về vi khuẩn học trong dịch tử cung của lợn nái ngoại

54

3.3.1. Thành phần vi khuẩn trong dịch tử cung lợn nái ngoại bình thường và
lợn nái ngoại bị bệnh Viêm tử cung

54

3.3.2. Tính mẫn cảm của các vi khuẩn phân lập được từ dịch Viêm tử cung ở
lợn nái ngoại với một số thuốc kháng sinh và hóa học trị liệu

56

3.3.3. Thử nghiệm điều trị đàn lợn nái ngoại mắc Viêm tử cung thể viêm nội mạc

58

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

64

TÀI LIỆU THAM KHẢO

66


v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Acid Deoxyribo Nucleic

DNA

Axít ribonucleic

RNA

Cộng sự

Cs

Escherichia coli

E. coli

Folliculo Stimuling hormone

FSH

Giờ


h

Gonadotropin - Reseasing hormone

GnRH

Hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa

MMA

Lutein hormone

LH

Micrô

µ

Milimét

mm

Miligam

mg

Mililiter

ml


Para amino benzoic acid

PABA

Prostaglandin F2 alpha

PGF2α

Số mẫu khảo sát

n

Thể trọng

TT

Trung bình

TB

Vi khuẩn

VK

vi


DANH MỤC BẢNG
STT


Tên bảng

Trang

2.1. Kháng sinh chuẩn với tính mẫn cảm của vi khuẩn

32

3.1. Tỷ lệ đàn lợn nái ngoại mắc bệnh Viêm tử cung ở 4 trang trại

39

3.2. Tỷ lệ đàn lợn nái ngoại mắc bệnh Viêm tử cung theo lứa đẻ

41

3.3. Tỷ lệ đàn lợn nái ngoại mắc bệnh Viêm tử cung ở các giai đoạn sinh sản

43

3.4. Thời gian động dục lại và số lần phối giống của lợn nái ngoại bị Viêm tử cung 47
3.5. Khả năng sinh sản và chất lượng đàn con của lợn nái ngoại bị Viêm tử cung 50
3.6. Khả năng tăng trọng của đàn lợn con cai sữa được sinh ra từ lợn nái ngoại
bình thường và lợn nái ngoại bị Viêm tử cung

52

3.7. Thành phần vi khuẩn có trong dịch tử cung lợn nái ngoại bình thường và
lợn nái ngoại bị bệnh Viêm tử cung


54

3.8. Tính mẫn cảm của các vi khuẩn phân lập được từ dịch viêm tử cung lợn nái
ngoại với một số thuốc kháng sinh và hóa học trị liệu

57

3.9. Thử nghiệm điều trị Viêm nội mạc tử cung và khả năng sinh sản của lợn nái
ngoại sau khi khỏi bệnh

61

vii


DANH MỤC HÌNH
STT
1.1

Tên Hình
Sơ đồ cơ chế thần kinh - thể dịch điều khiển quá trình đẻ

viii

Trang
11


MỞ ĐẦU

• Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi lợn là nghề sản xuất truyền thống đã có từ rất lâu đời, nó chiếm vị
trí quan trọng trong tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi ở nước ta. Do đời
sống người dân ngày một tăng cao nên đòi hỏi ngành chăn nuôi lợn không những
đáp ứng về số lượng mà phải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về khẩu vị người tiêu
dùng. Để đáp ứng nhu cầu trên ngành chăn nuôi lợn có nhiều mô hình khác nhau,
nhưng để đem lại hiệu quả kinh tế cao thì chúng ta phải kể đến mô hình chăn nuôi
công nghiệp.
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam. Hải
Dương nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp. Vùng đất Hải Dương đã luôn gắn bó với ngành chăn nuôi từ lâu,
đặc biệt là ngành chăn nuôi lợn. Từ xưa, chăn nuôi lợn chủ yếu được phát triển theo
mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ, tận dụng các phế phẩm nông nghiệp. Cho đến nay, chăn
nuôi lợn dần được thay thế theo mô hình chăn nuôi tập trung tại các trang trại với số
lượng lớn, kỹ thuật dần được nâng cao hơn. Cùng với nhu cầu sử dụng thịt lợn ngày
càng tăng cao, chăn nuôi lợn nái ngoại sinh sản cũng không ngừng phát triển nhằm
đáp ứng đủ số lượng con giống.
Tuy nhiên, trong chăn nuôi lợn nói chung và nuôi lợn nái ngoại nói riêng,
dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn. Hiện nay, trong số các bệnh
thường gặp chúng tôi đặc biệt quan tâm đến bệnh Viêm tử cung trên lợn, bệnh đang
khá phổ biến và ngày càng trở thành một nỗi lo đáng ngại, chúng gây ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe, sức sinh sản, khả năng duy trì nòi giống và hiệu quả chăn nuôi.
Bệnh Viêm tử cung không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản
của lợn mẹ mà còn gây mất sữa ở lợn mẹ, lợn con thiếu sữa sẽ còi cọc, dễ mắc các
bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa từ đó làm tăng tỷ lệ tử vong ở đàn lợn con. Nếu
không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh Viêm tử cung có thể dẫn đến các
bệnh kế phát như Viêm vú, Rối loạn sinh sản, Chậm sinh, Vô sinh phải loại thải nái
ngoại sinh sản.

1



Từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu bệnh Viêm tử cung ở đàn lợn nái
ngoại nuôi theo mô hình trang trại và tìm ra các biện pháp trị bệnh là rất cần thiết.
Chính vì mục đích quan trọng đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Thực
trạng bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái ngoại nuôi theo mô hình trang trại tại
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và thử nghiệm điều trị".
• Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng bệnh Viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại sinh sản
nuôi tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
- Đánh giá được sự ảnh hưởng của bệnh Viêm tử cung đến một số chỉ tiêu sinh
sản của đàn lợn nái ngoại.
- Xác định được thành phần vi khuẩn trong dịch rỉ viêm.
- Đưa ra được một số phác đồ điều trị bệnh Viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại.

2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn cái
Cơ quan sinh dục của lợn cái được chia thành hai bộ phận: Bộ phận sinh dục
bên trong (buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo) và bộ phận sinh dục bên
ngoài (tiền đình, âm hộ, âm vật).

1.1.1. Bộ phận sinh dục bên trong
a. Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của lợn gồm một đôi nằm trong xoang chậu, được treo ở cạnh
trước dây chằng rộng và các mạch quản nuôi dưỡng. Buồng trứng bị giữ chặt lại ở
đầu trước sừng tử cung nhờ một dây thừng gồm nhiều sợi cơ trơn gọi là dây chằng

buồng trứng hay dây chằng tử cung - buồng trứng.
Buồng trứng được bao bọc bởi một màng liên kết sợi chắc như màng bọc
dịch hoàn. Bên trong mô buồng trứng gồm hai miền: Miền vỏ và miền tủy. Miền vỏ
sinh ra các loại nang trứng (noãn bao) ở những giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi
nang trứng là một túi chứa tế bào trứng bên trong. Miền tủy ở giữa buồng trứng
gồm mô liên kết sợi xốp chứa các sợi cơ trơn, mạch máu, thần kinh và lâm ba.
(Phạm Thị Xuân Vân, 1982). Miền vỏ đặc biệt quan trọng đối với chức năng sinh
dục, vì ở đó xảy ra quá trình trứng chín và rụng trứng. Trên buồng trứng có các
noãn bao ở các giai đoạn khác nhau, tầng ngoài cùng là những noãn bao sơ cấp
phân bố tương đối đều, tầng trong là những noãn bao thứ cấp đang sinh trưởng, khi
noãn bao chín sẽ nổi lên bề mặt buồng trứng.
Buồng trứng có hai chức năng cơ bản là tạo giao tử cái và tiết các hormon:
oestrogen, progesterone, oxytoxin, relaxin và inhibin. Các hormon này tham gia
điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn cái. Oestrogen cần thiết cho sự phát triển của tử
cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng tiết ra duy trì sự
mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để nuôi dưỡng thai, ức chế sự co
thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của tuyến vú.

3


Oxytoxin được tiết chủ yếu bởi phần sau của tuyến yên nhưng cũng được tiết
bởi thể vàng của buồng trứng khi lợn gần sinh, nó làm co thắt tử cung trong lúc sinh
đẻ và cũng làm co thắt cơ trơn của tuyến vú để thải sữa. Ở lợn, relaxin do thể vàng
tiết ra để gây giãn nở xương chậu, làm giãn và mềm cổ tử cung do đó mở rộng cơ
quan sinh dục khi gần sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự phân tiết FSH từ tuyến
yên, do đó ức chế sự phát triển nang noãn theo chu kỳ (Trần Thị Dân, 2004).
b. Ống dẫn trứng (Oviductus)
Theo Trần Tiến Dũng và cs., (2002), ống dẫn trứng còn gọi là vòi Fallop,
nằm ở màng treo buồng trứng. Một đầu của ống dẫn trứng thông với xoang bụng,

gần sát buồng trứng có hình loa kèn, trên loa kèn hình thành một cái tán rộng và lô
nhô không đều. Đầu còn lại của ống dẫn trứng thông với mút sừng tử cung, là một
cái ống nhỏ ngoằn ngoèo. Cấu tạo ống dẫn trứng chia thành 3 lớp: lớp ngoài là lớp
sợi liên kết, lớp giữa là lớp cơ, lớp trong là lớp niêm mạc.
Ống dẫn trứng có đường kính rất nhỏ, chỉ to lên về kích thước vào thời kỳ
con cái động dục và đón nhận trứng. Phần loa kèn có chức năng hứng trứng khi
trứng rụng và đưa vào trong ống dẫn trứng. Ống dẫn trứng tiết ra dịch tiết; nhu động
của lông mao ở thành ống dẫn trứng giúp tinh trùng và trứng tiến gần nhau, hoạt
hoá hai tế bào ở đó. Ống dẫn trứng là nơi thụ tinh (1/3 phần trên ống dẫn trứng).
Khả năng nhu động của cơ thành ống dẫn trứng giúp trứng đã thụ tinh di chuyển
đến tử cung và làm tổ ở đó.
c. Tử cung (Uterus)
Tử cung là nơi làm tổ của hợp tử, nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng,
trên bàng quang và niệu đạo trong xoang chậu. Tử cung được cố định tại chỗ nhờ sự
bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm 2 sừng thông với một thân và
cổ tử cung: sừng tử cung dài 50 - 1000cm, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng.
Thân tử cung rất ngắn chỉ dài 3 - 5cm. Cổ tử cung lợn dài 10 - 18cm, có
thành dày, hình trụ, có các cột thịt xếp theo kiểu cài răng lược, thông với âm đạo.
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: Lớp tương mạc, lớp cơ trơn, lớp
nội mạc.
4


- Lớp tương mạc là lớp màng sợi dai, chắc, phủ mặt ngoài tử cung và nối tiếp
vào hệ thống dây chằng.
- Lớp cơ trơn gồm cơ vòng rất dày ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài. Giữa 2
tầng cơ chứa tổ chức liên kết sợi đàn hồi và mạch quản, đặc biệt là nhiều tĩnh mạch
lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi hướng làm thành mạng vừa
dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dày và khoẻ nhất trong cơ thể. Do vậy, nó có đặc

tính co thắt (Đặng Đình Tín, 1986).
Theo Trần Thị Dân (2004), trương lực co càng cao (tử cung trở nên cứng),
khi có nhiều oestrogen trong máu và trương lực co giảm (tử cung mềm) khi có
nhiều progesterone trong máu. Vai trò của cơ tử cung là góp phần vào sự di chuyển
của tinh trùng và chất nhày trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài khi sinh đẻ.
Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone,
nhờ vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung.
- Lớp nội mạc tử cung là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp tế
bào biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung. Nhiều tế
bào biểu mô kéo dài thành lông rung, khi lông rung động thì gạt những chất nhày
tiết ra về phía cổ tử cung. Trên niêm mạc có các nếp gấp. Lớp nội mạc tử cung có
nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển và duy trì sự
sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng
của oestrogen, các tuyến tử cung phát triển từ lớp màng nhày, xâm nhập vào lớp
dưới màng nhày và cuộn lại. Tuy nhiên, các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết
tối đa khi có tác dụng của progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tuỳ
theo giai đoạn của chu kỳ động dục.
d. Âm đạo (Vagina)
Là ống đi từ cổ tử cung đến âm hộ. Đầu trước âm đạo dính vào cổ tử cung,
đầu sau thông ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là
màng trinh đậy lỗ âm đạo.
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối, đồng thời là bộ
phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các chất dịch từ tử cung.
5


Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo
liên kết với các cơ ở cổ tử cung.

- Lớp niêm mạc âm đạo ở trên bề mặt có nhiều thượng bì gấp nếp dọc.
Âm đạo là cơ quan giao cấu, nơi tinh dịch được phóng ra và đọng lại ở đó.
Theo Đặng Đình Tín (1986), âm đạo lợn dài 10-12cm.

1.1.2. Cơ quan sinh dục bên ngoài
a. Tiền đình (Vestibulum vaginae)
Là phần lõm phình ra ngăn cách giữa âm đạo và âm hộ. Tiền đình bao gồm:
- Màng trinh là một nếp gấp gồm hai lá niêm mạc. Ở giữa có sợi đàn hồi, ở
trước nhìn vào âm đạo, ở sau liên quan với âm hộ.
- Lỗ niệu đạo ở sau màng trinh.
- Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo, cấu tạo tương tự giống
như thể hổng ở bao dương vật của con đực nhưng bị âm đạo tách ra làm đôi. Ngoài
ra tiền đình còn có một số ít tuyến tiền đình ở phần bụng. Tuyến này sắp thành hai
hàng chéo hướng về âm vật.
b. Âm hộ (Vulva)
Âm hộ của lợn nằm dưới hậu môn và ngăn cách với nó bởi vùng hội âm, bao
gồm hai môi lớn và hai môi nhỏ.
Hai môi lớn nằm ngoài cùng, đối xứng về hai phía, hình trái tim hay lá trầu,
có sắc tố đen. Vào thời kỳ động dục và khi sắp đẻ, hai môi lớn sung huyết, mọng
nước, sưng to hơn bình thường và có màu hồng tươi. Cuối thời kỳ động dục và khi
đã đẻ xong, hai môi lớn hết sung huyết, nhỏ dần và thâm lại. Dưới niêm mạc của hai
môi lớn có nhiều tuyến tiết mồ hôi và chất nhờn.
Phía trong của hai môi lớn là hai môi nhỏ, luôn có màu hồng tươi tắn và sự
mềm mại được giữ thường xuyên bởi dịch nhờn. Phía trên của hai môi nhỏ thu hẹp
dần, các nếp gấp xếp lại hình thành nên âm vật (Clitoris)
Khoảng giữa của âm hộ có lỗ thông với âm đạo gọi là âm môn (khe sinh dục,
cửa mình).
6



c. Âm vật (Clitoris)
Âm vật có cấu tạo tương tự giống như dương vật nhưng thu nhỏ lại. Dài
khoảng 4-5 cm. Trên âm vật có nếp da tạo thành mũ âm vật, phía dưới bẻ quặp
xuống là nơi tập trung nhiều đầu mút dây thần kinh. Âm vật được phủ bởi lớp niêm
mạc có chứa các đầu mút thần kinh cảm giác, lớp thể hổng và tổ chức liên kết bao
bọc gọi là mạc âm vật. Về cấu tạo, âm vật có da, lớp tế bào và mạc âm vật.
1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng đặc
trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Những đặc điểm đó được
duy trì qua các thế hệ và luôn củng cố, hoàn thiện thông qua quá trình chọn lọc. Ngoài
ra đặc điểm sinh lý sinh dục còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như: Ngoại cảnh,
chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, sử dụng,…Để đánh giá đặc điểm sinh lý sinh dục của
lợn nái, người ta thường tập trung nghiên cứu các chỉ tiêu theo dõi sau đây:

1.2.1. Sự thành thục về tính
Thành thục về tính là tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và có khả
năng sinh sản. Lúc này cơ quan sinh dục như buồng trứng, tử cung, âm đạo,… của
con cái đã phát triển tương đối hoàn chỉnh để bắt đầu bước vào hoạt động sinh sản.
Các đặc tính sinh dục phụ xuất hiện đầy đủ, trứng rụng lần đầu có khả năng thụ thai,
lúc này con vật có phản xạ sinh dục hay xuất hiện động dục.
Theo A.A Xuxoep (1985), sự thành thục về tính của gia súc được đặc trưng
bởi hàng loạt những thay đổi bên trong và bên ngoài cơ thể, đặc biệt là sự biến đổi
bên trong của cơ quan sinh dục. Sự thành thục về tính có ý nghĩa rất lớn, là điều
kiện cho sinh sản, một bản năng của gia súc cái.
Tùy thuộc vào từng loài gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về tính
khác nhau. Thời gian thành thục về tính của lợn cái khoảng 6 tháng, giới hạn giao
động 4-8 tháng. Ngoài ra thành thục về tính còn phụ thuộc vào giống, thời tiết khí
hậu, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, cá thể,… và chịu sự chi phối điều khiển của thần
kinh, thể dịch.


7


Mặt khác, tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi tuổi thành thục về thể
vóc, nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính thì vẫn tiếp tục sinh trưởng lớn
lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi, không nên cho gia súc sinh sản quá
sớm vì: Nếu phối giống sớm khi cơ thể mẹ chưa thành thục về thể vóc sẽ có ảnh
hưởng xấu như trong thời gian có chửa có sự phân tán chất dinh dưỡng ưu tiên cho
sự phát triển bào thai, ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng của cơ thể mẹ do đó sự
phát triển của bào thai cũng bị ảnh hưởng. Kết quả mẹ yếu, con nhỏ. Ngược lại cũng
không nên cho gia súc phối giống quá muộn vì ảnh hưởng tới thế hệ sau của chúng.

1.2.2. Sinh lý quá trình thụ tinh
Khi gia súc đã thành thục về tính thì những biểu hiện về sinh dục của con
đực và con cái ngày càng mạnh mẽ. Quá trình thụ tinh xảy ra khi tế bào trứng gặp
tinh trùng, tạo ra một sự kết hợp phức tạp giữa hai loại tế bào sinh dục đực và tế bào
sinh dục cái. Có hai hình thức thụ tinh là thụ tinh trực tiếp và thụ tinh nhân tạo.
Theo Trần Tiến Dũng và cs., (2002), thụ tinh trực tiếp là quá trình giao phối giữa
gia súc đực và gia súc cái, tinh dịch của con đực đi vào đường sinh dục con cái để tế
bào trứng và tinh trùng kết hợp với nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng tạo ra một tế
bào mới là hợp tử. Thụ tinh nhân tạo là trường hợp dùng tinh dịch của con đực đã
pha loãng bơm vào đường sinh dục của con cái để tinh trùng kết hợp với trứng tạo
thành hợp tử.
Trong chăn nuôi, phương pháp thụ tinh nhân tạo đã cải tạo được giống gia
súc, giảm số đầu giống vật nuôi, nâng cao hiệu suất sử dụng đực giống, phòng các
bệnh truyền lây qua tiếp xúc. Đây là biện pháp kỹ thuật hữu hiệu để thúc đẩy
nghành chăn nuôi phát triển. Tuy nhiên, nếu công tác chăm sóc thú y kém nó sẽ là
con dao hai lưỡi.

1.2.3. Sinh lý quá trình mang thai

Mang thai là một hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể cái, nó được bắt đầu
từ khi thụ tinh cho đến khi sinh đẻ xong.
Sau khi thụ tinh, hợp tử làm tổ ở 2 sừng tử cung và phát triển thành thai.
Thời gian mang thai của lợn khoảng 110-118 ngày, trung bình là 114 ngày (Trần
8


Tiến Dũng và cs., 2002). Cùng với quá trình phát triển của bào thai, nhau thai, thể
vàng, cơ quan sinh dục nói riêng và toàn bộ cơ thể mẹ nói chung xuất hiện nhiều
biến đổi sinh lý khác nhau. Những biến đổi đó là điều kiện cần thiết để bào thai
được hình thành, phát triển trong tử cung và quá trình sinh đẻ được bình thường.
Khi gia súc có thai, kích tố của thể vàng và nhau thai làm thay đổi cơ năng
hoạt động của một số tuyến nội tiết khác. Trong quá trình bào thai phát triển, nhất là
giai đoạn sau, nếu khẩu phần ăn của mẹ không đảm bảo đầy đủ đạm, khoáng,
nguyên tố vi lượng, vitamin thì không những bào thai phát triển không bình thường
mà sức khoẻ con mẹ nói chung cũng giảm sút nhiều (Trần Tiến Dũng và cs., 2002).
Khi gia súc có thai, toàn bộ tử cung xuất hiện những thay đổi về cấu tạo, tính
chất, vị trí, khối lượng, thể tích,... Dây chằng tử cung được dài ra nên đầu mút sừng
tử cung và buồng trứng được đưa về phía trước và phía dưới. Hệ tuần hoàn ở cơ
quan sinh dục được tăng cường, lượng máu đến cung cấp cho niêm mạc tử cung rất
nhiều nên niêm mạc được phát triển và dày lên. Niêm mạc tử cung hình thành nhau
mẹ. Khối lượng tử cung khi có thai tăng gấp 5-20 lần so với khi không có thai, kích
thước và thể tích tăng gấp hàng trăm lần. Mỗi một tế bào được phát triển dài thêm
7-11 lần và dày hơn 3-5 lần so với khi không có thai. Ở lợn mức độ phát triển và
tăng sinh của tử cung phụ thuộc vào số lượng của bào thai và thường là phát triển ở
cả hai sừng (Trần Tiến Dũng và cs., 2002).
Cổ tử cung có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bào thai phát triển bình
thường. Cổ tử cung được khép kín hoàn toàn, niêm mạc và các nếp nhăn phát triển
dày lên. Những tế bào thượng bì đơn tiết tăng cường tiết dịch đặc, có tác dụng đóng
nút cổ tử cung. Niêm dịch này lúc đầu có màu trắng trong, về sau chuyển thành màu

vàng nâu, số lượng và độ dính cũng được tăng dần, có phản ứng toan yếu. Ngoài ra,
trong thời gian có thai, ống dẫn trứng hầu như không được phát triển to lên, nó có
tính chất đặc biệt là thay đổi về mặt cấu tạo tổ chức học, các nếp nhăn niêm mạc
được co nhỏ lại, niêm mạc xung huyết và lòng ống được mở rộng.

9


1.2.4. Sinh lý quá trình đẻ
Theo Trần Tiến Dũng và cs., (2002), gia súc cái mang thai trong một thời
gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác động
của hệ thống thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào
thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá trình này gọi là quá trình
sinh đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có các triệu chứng biểu hiện: trước khi đẻ 1 - 2 tuần,
nút niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh dính và chảy ra ngoài. Trước
khi đẻ 1 - 2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những thay đổi: âm môn
phù to, nhão ra và sung huyết nhẹ, đầu núm vú to, bầu vú căng to, sữa bắt đầu tiết.
Quá trình sinh đẻ của gia súc cái do co bóp của tử cung, cơ thành bụng, sức
rặn toàn thân đẩy thai, màng nhau thai cùng với nước thai ra ngoài. Qúa trình sinh
đẻ được chia ra 3 thời kỳ.
Thời kỳ mở cổ tử cung: Thời kỳ này bắt đầu từ khi tử cung có cơn co bóp
đầu tiên đến khi cổ tử cung mở ra hoàn toàn. Ở lợn nái, thời kỳ mở cổ tử cung kéo
dài từ 3-4 giờ, đối với lợn nái đẻ lứa đầu thì thời kỳ mở cổ tử cung ngắn hơn.
Thời kỳ đẻ: Bắt đầu từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn và kết thúc khi thai lọt ra
ngoài. Thời gian đẻ của lợn phụ thuộc vào khoảng cách các thai ra và số lượng thai
trong tử cung gia súc mẹ.
Thời kỳ sổ nhau: Khi thai đã thành thục thì quan hệ sinh lý giữa mẹ và nhau
thai không còn cần thiết nữa, lúc này thai đã trở thành như một ngoại vật trong tử
cung nên được đưa ra ngoài bằng động tác đẻ. Sau khi thai lọt ra khỏi đường sinh

dục gia súc mẹ một thời gian, con mẹ trở nên yên tĩnh nhưng tử cung vẫn co bóp và
tiếp tục những cơn rặn, mỗi lần co bóp từ 1,5 - 2,0 phút, thời gian giữa 2 lần co bóp
là 2 phút, nhưng cường độ yếu hơn. Sau khi sổ thai khoảng 2 - 3 giờ tử cung co nhỏ
lại, thành tử cung dày, trên bề mặt có nhiều nếp nhăn. Trong thời gian này tử cung
tiếp tục co bóp và thu nhỏ dần về thể tích, nhưng màng niệu và màng nhung mao thì
không co lại được nên tử cung đẩy ra ngoài. Trong quá trình đẩy màng nhau thai ra,
do đặc tính của tử cung co bóp từ mút sừng tử cung cho đến thân tử cung, nên màng
nhau thai bong ra sẽ được lộn trái, phần ở mút sừng tử cung ra trước sau đó bong
10


dần xuống sừng tử cung, thân tử cung và ra ngoài. Sau khi thai ra hết toàn bộ
khoảng 10-15 phút nhau thai mới ra. Sau khi đẻ một thời gian niêm mạc tử cung có
hiện tượng tái sinh. Trong vòng vài ngày đầu sau khi đẻ, sản dịch chảy ra có màu
hồng rồi chuyển sang vàng nhạt sau cùng là trong suốt, sản dịch hết sau khi đẻ 2-3
ngày. Lúc đầu sản dịch chảy ra không có vi khuẩn, về sau sản dịch chảy ra có vi
khuẩn xâm nhập nhưng cơ thể mẹ không có biến đổi, nhưng nếu sản dịch chảy ra
kéo dài thì tử cung sẽ bị bệnh.
Sau khi đẻ thể tích tử cung nhỏ lại, thành tử cung dày lên, sự biến đổi này là
do các sợi cơ co lại, các tổ chức liên kết biến đổi. Hai sừng tử cung buông thõng
vào xoang bụng, độ cong của tử cung cũng không rõ như gia súc đẻ ít lần hoặc chưa
đẻ lần nào. Do đó những gia súc già yếu, đẻ nhiều lần thì tử cung co lại rất kém.
Thời gian đẻ kéo dài hay ngắn tùy từng loài gia súc, ở lợn thường từ 2 - 6 giờ,
nó được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi bào thai cuối cùng ra ngoài.
Cơ chế điều khiển quá trình đẻ được tóm tắt theo sơ đồ:
Ngoại cảnh kích thích

Vỏ não

Ngoại cảnh ức chế


Thùy trước tuyến yên

Vùng dưới đồi
Buồng trứng
Tế bào hạt
Thể vàng

Oestrogen

Progesterone

Sừng tử cung

Prostaglandin

Hình1.1. Sơ đồ cơ chế thần kinh - thể dịch điều khiển quá trình đẻ
11


1.3. Bệnh Viêm tử cung ở lợn nái (Metritis)

1.3.1. Nguyên nhân của bệnh Viêm tử cung
Theo Đặng Thanh Tùng (2006), viêm tử cung ở lợn nái là một trong những
tổn thương cơ quan sinh dục của lợn nái sau khi sinh, ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng sinh sản, làm mất sữa, lợn con không có sữa sẽ còi cọc, suy dinh dưỡng, chậm
phát triển. Lợn nái chậm động dục trở lại, không thụ thai, có thể dẫn đến vô sinh,
mất khả năng sinh sản.
Cũng theo Đặng Thanh Tùng (2006), bệnh Viêm tử cung ở lợn nái thường do
các nguyên nhân sau.

- Thiếu sót về dinh dưỡng quản lý
+ Khẩu phần thiếu hay thừa protein trước hoặc trong thời kỳ mang thai ảnh
hưởng đến viêm tử cung.
+ Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột, gây đẻ khó, phải can thiệp bằng tay
gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng viêm tử
cung kế phát.
+ Ngược lại thiếu dinh dưỡng, lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm không
chống lại được sự xâm nhập của vi trùng cũng gây viêm tử cung.
- Tiểu khí hậu chuồng nuôi
+ Thời tiết quá nóng hay quá lạnh trong thời gian đẻ cũng dễ đưa đến viêm
tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cs., (2002), viêm tử cung là một quá trình vật lý
thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ
chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh
hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh
Văn Kháng (2000), bệnh Viêm tử cung xảy ra do các nguyên nhân sau.

12


- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương
pháp thụ tinh nhân tạo làm xây sát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được
vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm.
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc
mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền
sang cho con khoẻ.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau, xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung.
- Do kế phát từ các bệnh truyền nhiễm như Sẩy thai truyền nhiễm, Phó
thương hàn, bệnh Lao,... gây viêm.

- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước, trong và sau
đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện xâm
nhập vào gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng nhiễm
trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động dục (vì lúc đó
cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và Viêm tử cung
là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Lê Văn Năm, 1997).
Theo F. Mada và C. Neva (1995), bệnh Viêm tử cung và các bệnh ở đường
tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong
âm đạo và việc gây viêm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra. Nhiễm khuẩn tử cung
qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ quan nào đó có kèm theo bại
huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối đã bị Viêm tử cung.

1.3.2. Hậu quả của bệnh Viêm tử cung
Tử cung là bộ phận quan trọng của cơ quan sinh dục, nơi thai làm tổ và được
đảm bảo mọi điều kiện để thai phát triển. Mọi quá trình bệnh lý ở tử cung đều ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản. Hậu quả của Viêm tử cung làm cổ tử cung bị
tắc, khi gia súc động dục niêm dịch không thoát ra được.

13


Theo Trần Tiến Dũng và cs., (2002); Trần Thị Dân (2004), khi lợn nái bị
Viêm tử cung sẽ dẫn đến một số hậu quả sau.
Sảy thai: Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai sự
co thắt của cơ tử cung giảm dưới tác dụng của progesteron, nhờ vậy phôi có thể
bám chặt vào tử cung.
Khi bị Viêm tử cung cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết
nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng
bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc

thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng.
Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesteron nữa, do đó hàm lượng
progesteron trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực cơ của tử cung tăng nên gia
súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
- Lợn mẹ bị viêm tử cung, bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi
thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesteron giảm nên khả
năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít,
thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc thai chết lưu.
- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai
đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường
sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E. coli. Vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức
chế sự phân tiết kích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn
sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa thay đổi nên lợn con bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại.
Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn
tại, vẫn tiếp tục tiết progesteron.
Progesteron ức chế thùy trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát
triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được.

14


Theo F. Madec và C. Neva (1995), ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà
người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn Viêm tử cung lúc sinh đẻ là: chảy
mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh
hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt
tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo
dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Ngoài ra,
viêm tử cung là một trong những nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm

cho tỷ lệ lợn con cai sữa thấp. Đặc biệt, nếu Viêm tử cung kèm theo Viêm bàng
quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.

1.3.3. Các thể viêm tử cung
Theo Đặng Đình Tín (1986), bệnh Viêm tử cung thường được chia làm 3 thể:
Viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung và thể viêm tương mạc tử cung.
a. Viêm nội mạc tử cung (Endometritis)
Theo Nguyễn Văn Thanh (1999); Black W.G (1983); Debois C.H.W (1989),
viêm nội mạc tử cung là viêm tầng trong cùng, lớp niêm mạc của tử cung. Đây là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm khả năng sinh sản của gia súc
cái, tăng các bệnh ở cơ quan sinh dục. Bệnh viêm nội mạc tử cung thường xảy ra
sau khi gia súc đẻ nhất là các trường hợp đẻ khó phải can thiệp làm cho niêm mạc
tử cung bị tổn thương. Sau đó các vi khuẩn Streptococcus, Staphylococcus, E. coli,
Brucella, Salmonella tác động gây viêm nội mạc tử cung.
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), bệnh Viêm nội mạc tử
cung có thể chia làm 2 loại.
Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ, chỉ gây tổn thương ở niêm
mạc tử cung. Ở thể viêm này thân nhiệt hơi cao, ăn kém, lượng sữa giảm. Con vật
có trạng thái đau đớn nhẹ, có khi con vật cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ
âm hộ chảy ra hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ
chức chết. Khi con vật nằm xuống dịch viêm thải ra ngày càng nhiều hơn.

15


- Viêm nội mạc tử cung thể màng giả, tổ chức niêm mạc đã bị hoại tử tổn
thương lan sâu xuống dưới tầng cơ của tử cung và chuyển thành viêm hoại tử. Ở thể
viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử. Con vật có triệu chứng toàn thân rõ:
thân nhiệt tăng cao, lượng sữa giảm, có khi hoàn toàn mất sữa, kế phát viêm vú, ăn
uống giảm. Con vật đau đớn, luôn rặn, lưng và đuôi cong. Từ cơ quan sinh dục luôn

thải ra ngoài hỗn dịch: dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức hoại tử,
niêm dịch.
b. Viêm cơ tử cung (Myometritis puerperalis)
Viêm cơ tử cung là viêm tầng giữa, lớp cơ vòng và cơ dọc tử cung. Bệnh
thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung: Niêm mạc bị thấm dịch thẩm xuất, vi
khuẩn xâm nhập, viêm phát triển sâu làm các tế bào tổ chức bị phân giải, hệ thống
mạch quản và lâm ba quản bị tổn thương. Các lớp cơ và một ít lớp tương mạc bị
hoại tử.
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), lợn nái bị bệnh này
thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: Thân nhiệt tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn
uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất hẳn. Mép âm đạo tím thẫm, niêm mạc âm đạo
khô, nóng, màu đỏ thẫm. Gia súc biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ
quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh
tổ chức thối rữa nên có mùi tanh, thối. Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá
trình thụ thai và sinh đẻ lần sau. Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
c. Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis puerperalis )
Viêm tương mạc tử cung là viêm tầng ngoài cùng của tử cung, thường kế
phát từ viêm cơ tử cung.
Thể viêm này thường tiến triển cấp tính với các triệu chứng cục bộ và toàn
thân điển hình. Lúc đầu lớp tương mạc này có màu hồng rồi chuyển sang màu đỏ
sẫm, rồi trở nên sần sùi, mất tình trơn bóng. Các tế bào hoại tử bong ra, dịch thẩm
xuất tăng tiết.

16


Trường hợp viêm nặng, lớp tương mạc dính với các tổ chức xung quanh dẫn
đến viêm mô tử cung, viêm phúc mạc (Nguyễn Văn Thanh, 2009).
Theo Đặng Đình Tín (1986), lợn nái bị mắc thể bệnh này có biểu hiện triệu
chứng toàn thân: Nhiệt độ tăng cao, mạch nhanh, con vật ủ rũ, mệt mỏi, uể oải, đại

tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Lượng sữa rất ít hoặc mất hẳn, thường
kế phát viêm vú. Con vật luôn biểu hiện trạng thái đau đớn khó chịu, lưng và đuôi
cong rặn liên tục. Từ âm hộ thải ra rất nhiều hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có
màu nâu và mùi thối khắm, khi kích thích vào thành bụng thấy con vật phản xạ đau
rõ hơn, rặn nhanh hơn, từ âm hộ dịch chảy ra nhiều hơn. Trường hợp một số vùng
của tương mạc đã dính với các bộ phận xung quanh thì có thể phát hiện được trạng
thái thay đổi về vị trí và hình dáng của tử cung, có khi không tìm thấy một hoặc hai
buồng trứng.
Thể viêm này thường kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết, huyết nhiễm
mủ. Nếu điều trị kịp thời thì bệnh thường chuyển thành thể viêm mạn tính, thành
ngoài tử cung thường dính với các tổ chức xung quanh, vị trí các bộ phận của cơ
quan sinh dục bị thay đổi, quá trình thụ tinh và sinh đẻ lần sau gặp nhiều khó khăn,
có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng sinh sản.

1.3.4. Chẩn đoán bệnh Viêm tử cung
Để chẩn đoán bệnh Viêm tử cung thường dựa vào những triệu chứng lâm
sàng để chẩn đoán bệnh. Ngoài ra, theo Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004),
lợn nái bị viêm tử cung còn có những biểu hiện mất sữa, âm đạo có những dịch tiết
không bình thường 3-4 ngày sau khi đẻ. Nếu sau khi đẻ, kiểm tra âm đạo sẽ thấy
những miếng nhau thai sót hay thai chết lưu ở tử cung, mùi hôi đặc biệt.
Theo F. Madec và C. Neva (1995), bệnh Viêm tử cung thường biểu hiện vào
lúc đẻ và thời kỳ tiền động đực vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có
thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200ml hoặc hơn
nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu
xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kỳ sau
17


sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mạn tính thường gặp
trong thời kỳ cho sữa. Các hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi bệnh

viêm nội mạc tử cung.
Tuy nhiên cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ đôi khi có những
mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của
nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể do
viêm bàng quang có mủ gây ra.
Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra
thì có thể do Viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kì động đực thì có thể bị nhầm
lẫn.
Như vậy việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với
một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp
xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên kết hợp
với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác. Mỗi thể viêm
khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới
khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do Viêm tử cung gây ra
cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm, từ đó đưa ra phác đồ điều trị ngắn nhất,
chi phí điều trị thấp nhất.
Để chẩn đoán người ta dựa vào những triệu chứng điển hình ở cục bộ cơ
quan sinh dục và triệu chứng toàn thân như dịch viêm và thân nhiệt.
Thân nhiệt là một trị số hằng định ở động vật cấp cao. Theo Nguyễn Đức
Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), thân nhiệt của lợn bình thường trung bình là 39oC.
Dịch viêm là sản phẩm được tiết ra tại ổ viêm bao gồm nước, thành phần hữu
hình và các chất hòa tan.

18


Bảng 1.1. Các chỉ tiêu chẩn đoán Viêm tử cung

STT


Các chỉ tiêu để
phân biệt

Viêm nội mạc

Viêm cơ

Viêm tương
mạc

1

Sốt

Sốt nhẹ

Sốt cao

Sốt rất cao

2

Màu dịch viêm

Trắng xám, sữa

Hồng, nâu đỏ

Nâu, rỉ sắt


3

Mùi

Tanh

Tanh thối

Thối khắm

4

Phản ứng đau

Đau nhẹ

Đau rõ

Đau rất rõ

5
6

Phản ứng co cơ
tử cung

Phản ứng co giảm

Bỏ ăn


Phản ứng co rất
yếu

Bỏ ăn một phần

Bỏ ăn hoàn

hoặc hoàn toàn

toàn

Phản ứng co mất
Bỏ ăn hoàn toàn

Đối với lợn nái sau khi đẻ có thể dựa theo cách tính điểm dưới đây.
Số ngày chảy mủ, được tính từ ngày đầu tới ngày thứ năm sau khi sinh, 1
ngày = 1 điểm.
Bỏ ăn từ ngày đầu tới ngày thứ 5 sau khi sinh, 1 ngày = 1 điểm nếu bỏ ăn
một phần tính ½ điểm.
Ngưỡng thân nhiệt để tính sốt và số ngày bị sốt là 39,80C, 1ngày =1 điểm.
Tổng số điểm được dùng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh như sau.
Tổng số điểm < 1 điểm: không có vấn đề gì.
Tổng số điểm từ 2-5 điểm: mắc bệnh nhẹ.
Tổng số điểm > 6 điểm: bệnh nghiêm trọng.
Do đó việc chẩn đoán bệnh Viêm tử cung đúng khoa học, thường xuyên phải
theo dõi vì mủ chảy ra ở âm hộ chỉ mang tính chất thời điểm và có khi Viêm tử
cung nhưng không sinh mủ.

19



×