Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất của các tổ chức được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất quận hà đông, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 98 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục chữ viết tắt

vii

Danh mục bảng

viii

Danh mục hình

ix

MỞ ĐẦU

1

1


Tính cấp thiết của đề tài

1

2

Mục đích, yêu cầu

2

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

1.1 Cơ sở lý luận, ý nghĩa của công tác quản lý Nhà nước về đất đai đối
với các tổ chức

4

1.1.1 Cơ sở lý luận

4

1.1.2 Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác quản lý Nhà nước về đất
đai đối với các tổ chức

9

1.2 Tổng quan quản lý đất đai trong và ngoài nước


10

1.2.1 Ngoài nước

10

1.2.2 Trong nước

13

1.3 Các văn bản, chính sách về giao đất cho các tổ chức sử dụng đất tại
Việt Nam

18

1.3.1 Những quy định hiện hành về giao đất
1.4 Tổng quan về công tác quản lý, sử dụng đất đai của các tổ chức
1.4.1 Tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức trong cả nước
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

19
24
24
36

2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

36

2.2 Nội dung nghiên cứu


36

2.2.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội

36
iv


2.2.2 Tình hình quản lý, sử dụng đất quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

36

2.2.3 Tình hình quản lý sử dụng đất của các tổ chức được nhà nước
giao đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội

36

2.2.4 Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất
của các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền trên
địa bàn quận Hà Đông

36

2.3 Phương pháp nghiên cứu

36


2.3.1 Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp

36

2.3.3 Phương pháp xử lý số liệu sử dụng phần mềm excel

37

2.3.4 Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh

37

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội quận Hà Đông

38
38

3.1.1 Điều kiện tự nhiên

38

3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

42

3.1.3 Đánh giá những thuận lợi, khó khăn của điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc sử dụng đất

47


3.2 Tình hình quản lý, sử dụng đất quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

49

3.2.1 Tình hình quản lý đất đai trên địa bàn quận Hà Đông

49

3.2.2 Hiện trạng sử dụng đất quận Hà Đông

53

3.2.3 Đánh giá chung về tình hình quản lý sử dụng đất đai quận Hà Đông

55

3.2.4 Tình hình sử dụng đất của các tổ chức trên địa bàn quận Hà Đông.

56

3.3 Tình hình quản lý sử dụng đất của các tổ chức được nhà nước giao
đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông

57

3.3.1 Tình hình phân bố các tổ chức được nhà nước giao đất không
thu tiền sử dụng đất theo địa giới hành chính

57


3.3.2 Tình hình sử dụng đất của các tổ chức được nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất theo mục đích sử dụng:

58

3.3.3 Tình hình sử dụng đất của các tổ chức được Nhà nước giao đất
không thu tiền phân theo đối tượng sử dụng
v

60


3.3.4 Đánh giá tình hình quản lý sử dụng đất của các tổ chức được
Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất

61

3.4 Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất của
các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền trên địa bàn
quận Hà Đông

75

3.4.1 Giải pháp về chính sách và pháp luật

75

3.4.2 Giải pháp về thanh tra, kiểm tra

76


3.4.3 Giải pháp về kinh tế

76

3.4.4 Giải pháp về tăng cường quản lý sử dụng đất của các tổ chức
được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
3.4.5 Các giải pháp khác

77
78

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

79

Kết luận

79

Đề nghị

80

TÀI LIÊU THAM KHẢO

81

PHỤ LỤC


83

vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DT

: Diện tích

GCN

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây
gọi chung là Giấy chứng nhận).

KĐT

: Khu đô thị

NN

: Nông nghiệp

SDĐ

: Sử dụng đất

TT


: Thứ tự

TCCT

: Tổ chức chính trị

TCCT- XH

: Tổ chức chính trị - xã hội

TCCT-XH-NN

: Tổ chức chính trị- xã hội – nghề nghiệp

UBND

: Uỷ ban nhân dân

vii


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

1.1


Tình hình đất chưa sử dụng của các tổ chức

34

3.1

Các chỉ tiêu kinh tế giai đoạn 2010-2014

44

3.2

Dân số, Lao động quận Hà Đông qua các năm 2010-2014

45

3.3

Diện tích cơ cấu đất đai năm 2014 của quận Hà Đông

54

3.4

Tình hình sử dụng đất theo đối tượng quản lý, sử dụng

57

3.5


Số lượng các tổ chức được giao đất không thu tiền sử dụng đất
theo địa giới hành chính

3.6

58

Tình hình sử dụng đất của các tổ chức được nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất theo mục đích sử dụng đất

3.7

Tổng số tổ chức, diện tích sử dụng đất của các tổ chức giao đất
không thu tiền sử dụng đất phân theo đối tượng sử dụng

3.8

62

Tổng hợp tình hình sử dụng đất đúng mục đích và không đúng mục
đích của các tổ chức được giao đất không thu tiền sử dụng đất

3.10

63

Tình hình tranh chấp và bị lấn chiếm diện tích của các tổ chức được
giao đất không thu tiền sử dụng đất quận Hà Đông

3.11


60

Tình hình giao đất của các tổ chức được Nhà nước giao đất không
thu tiền sử dụng đất

3.9

59

65

Tình hình cho thuê, cho mượn, chuyển nhượng trái phép diện tích
đất được giao của các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu
tiền sử dụng đất

3.12

66

Những nguyên nhân chính của các tổ chức sử dụng đất không đúng
mục đích được giao trên địa bàn quận Hà Đông

3.13

68

Tình hình đất chưa đưa vào sử dụng của các tổ chức được Nhà
nước giao đất không thu tiền sử dụng đất


viii

70


DANH MỤC HÌNH
Số hình
1.1

Tên hình

Trang

Các loại hình tổ chức chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tiền trả
có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước

28

1.2

Các loại hình tổ chức đang sử dụng đất theo hình thức khác

29

3.1

Sơ đồ vị trí của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

38


ix


MỞ ĐẦU

1 . Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân
cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Nếu không
có đất thì con người không có nơi sinh sống và sẽ không có bất kỳ một ngành sản
xuất nào, một quá trình lao động nào và không thể có sự tồn tại của loài người.
Chính vì tầm quan trọng của đất đai đối với cuộc sống, con người, cần thiết phải
sử dụng vốn đất một cách tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả. Một quốc gia muốn phát
triển kinh tế thì trước hết phải sử dụng nguồn tài nguyên này hợp lý, hiệu quả và
bền vững.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới đất nước với sự hình thành và tham gia
của nhiều thành phần kinh tế đã đặt ra cho cơ quan quản lý đất đai là làm thế nào
để đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất ngày càng gia tăng của các thành
phần kinh tế trên tổng quỹ đất nhất định của đất nước. Đây là vấn đề được Đảng
và Nhà nước hết sức quan tâm, chú trọng giải quyết. Sự quan tâm đó được thể
hiện qua Luật Đất đai và hàng loạt các văn bản của Chính phủ và các Bộ, Ngành
có liên quan với mục đích là quản lý, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài
nguyên đất.
Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
quản lý, sử dụng. Theo kết quả thống kê đất đai tính đến ngày 01/4/2008 thì tổng
diện tích đất các tổ chức đang quản lý, sử dụng là 7.833.142,70 ha, chiếm
23,65% tổng diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó các tổ chức được Nhà nước
cho thuê đất, giao đất có thu tiền và giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Theo quy định của pháp luật đất đai quy định đối với tổ chức có bốn
(04) trường hợp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất. Tuy nhiên,

thực tế thời gian qua việc quản lý và sử dụng của các tổ chức được giao đất
không thu tiền sử dụng đất còn có một số mặt tiêu cực như : do việc được giao
đất không phải nộp tiền sử dụng đất nên thường buông lỏng công tác tự quản lý

1


quỹ đất được giao và thường để tổ chức, cá nhân khác chiếm dụng hoặc lấn
chiếm; Một số tổ chức sử dụng đất không đúng mục đích được giao hoặc sử dụng
không đúng quy hoạch sử dụng đất; Tự ý cho thuê để sử dụng vào mục đích kinh
doanh; Tự ý chuyển nhượng trái phép cho tổ chức, cá nhân sử dụng vào mục đích
khác. Đặc biệt có một số tổ chức tự cấp đất cho cán bộ, công nhân viên làm nhà ở
làm mất ổn định xã hội như tranh chấp, khiếu kiện, gây thất thu cho ngân sách
Nhà nước. Ngoài ra, các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng
đất (đối với trường hợp được giao mới) hoặc đối với trường hợp đang sử dụng
đất nhưng được công nhận như trường hợp giao đất không thu tiền sử dụng đất
không nghiêm túc chấp hành pháp luật về đất đai như kê khai đăng ký, cấp Giấy
chứng nhận ....
Việc quản lý sử dụng đất đối với các tổ chức được giao đất không thu
tiền còn rất nhiều tồn tại cần phải xem xét từ quản lý đến sử dụng và chấp hành
pháp luật về đất đai. Vì vậy việc đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất của các
tổ chức để kịp thời đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao việc sử dụng đất, tránh
việc để lãng phí là việc làm bức thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, đề tài "Thực trạng và giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý sử dụng đất của các tổ chức được Nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất quận Hà Đông, thành phố Hà Nội" được đặt ra với
mong muốn đưa ra những giải pháp thiết thực và tích cực nhằm tăng cường vai
trò nắm chắc, quản chặt quỹ đất của Nhà nước - đại diện chủ sở hữu đối với đất
đai ở nước ta.
2. Mục đích, yêu cầu

2.1. Mục đích
- Đánh giá đúng thực trạng quản lý sử dụng đất của các tổ chức sử dụng
đất được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất
của các tổ chức sử dụng đất được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

2


2.2. Yêu cầu
- Đề tài nghiên cứu trên cơ sở các thông tin, số liệu, tài liệu điều tra phải
trung thực, chính xác, đảm bảo độ tin cậy và phản ánh đúng thực trạng sử dụng
đất của các tổ chức trên địa bàn nghiên cứu.
- Việc phân tích, xử lý số liệu phải trên cơ sở khoa học, có định tính, định
lượng bằng các phương pháp nghiên cứu thích hợp.
- Đánh giá đúng thực trạng, xác định được diện tích đất mà các tổ chức
được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đang quản lý, sử dụng; chỉ ra
được diện tích đất sử dụng sai mục đích, diện tích bị lấn chiếm, chuyển nhượng,
cho thuê trái phép của các tổ chức này.
- Đề xuất kiến nghị trên cơ sở tuân thủ quy định của Luật Đất đai và phù
hợp với đặc điểm của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất
của các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

3


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lý luận, ý nghĩa của công tác quản lý Nhà nước về đất đai đối với các
tổ chức
1.1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Khái quát về đất đai
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn để phân
bố dân cư, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định
"Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo
đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức
và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài".
Điều này một lần nữa được khẳng định tại Hiến pháp Nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do
nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
- Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.
- Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất dược pháp luật
bảo hộ.
- Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp
thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và
được bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình
4



trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên đất đúng mục đích, hợp lý, có
hiệu quả, bảo vệ cảnh quan và môi trường sinh thái sẽ phát huy tối đa nguồn lực
của đất đai, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Theo Luật Đất đai năm 2013, một số khái niệm liên quan đến các tổ chức
quản lý, sử dụng đất được hiểu như sau:
Nhà nước giao Quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là Nhà Nước giao đất)
là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho đối
tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước cho thuê
đất) là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu
cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng thuê quyền sử dụng đất.
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền cho
người sử dụng đất đang sử dụng đất ổn định mà không có nguồn gốc được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với thửa đất
xác định.
Chuyển quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ
người này sang người khác thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng,
thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất và góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu hồi lại quyền sử
dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của
người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.
1.1.1.2. Khái quát, phân loại các tổ chức sử dụng đất
Luật đất đai năm 2013 quy định tổ chức được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất bao gồm:
- Tổ chức trong nước gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội

– nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp công lập và tổ
5


chức khác theo quy định của pháp luật về dân sự (sau đây gọi chung là tổ chức).
- Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức
năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ
chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại
diện của tổ chức liên chính phủ ( Luật đất đai, 2013).
Thông tư số 28/2014/TT-BTNMT của của Bộ Tài nguyên và Môi trường
ngày 02 tháng 6 năm 2014 về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng
sử dụng đất quy định:
1. Loại đối tượng sử dụng đất bao gồm:
a) Hộ gia đình, cá nhân trong nước;
b) Tổ chức trong nước gồm:
- Tổ chức kinh tế gồm các doanh nghiệp và các hợp tác xã;
- Cơ quan, đơn vị của Nhà nước gồm cơ quan nhà nước (kể cả Ủy ban
nhân dân cấp xã); tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị quốc phòng,
an ninh;
- Tổ chức sự nghiệp công lập gồm các đơn vị sự nghiệp do cơ quan có
thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành
lập, có chức năng thực hiện các hoạt động dịch vụ công theo quy định của
pháp luật;
- Tổ chức khác gồm tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
khác (không phải là cơ quan, đơn vị của Nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập,
tổ chức kinh tế);
c) Tổ chức nước ngoài gồm:
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư

nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật về đầu tư;
- Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng
ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức
6


thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của
tổ chức liên chính phủ;
d) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài gồm người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở; doanh nghiệp
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh giữa
người Việt Nam định cư ở nước ngoài với tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước
hoặc doanh nghiệp người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận góp vốn bằng
quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân trong nước sử dụng đất để thực hiện dự
án đầu tư tại Việt Nam;
đ) Cộng đồng dân cư và cơ sở tôn giáo gồm:
- Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng
địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự
có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất
hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng
đất để sử dụng nhằm bảo tồn bản sắc dân tộc, như đất làm đình, đền, miếu, am, từ
đường, nhà thờ họ;
- Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường,
niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức
tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo.
2. Loại đối tượng được Nhà nước giao quản lý đất bao gồm:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã được Nhà nước giao quản lý đất gồm các loại:
Đất chưa giao, chưa cho thuê sử dụng; đất xây dựng các công trình công cộng do
Ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp quản lý (công trình giao thông nông thôn, thủy

lợi nội đồng; quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm của cấp xã); đất sông, suối
trong nội bộ xã; đất mặt nước chuyên dùng không có người sử dụng; đất nông
nghiệp do Nhà nước thu hồi ở khu vực nông thôn trong các trường hợp quy định
tại Khoản 1 Điều 64, các Điểm a, b, c và d tại Khoản 1 Điều 65 của Luật Đất đai
2013;
b) Tổ chức phát triển quỹ đất được Nhà nước giao quản lý đất do Nhà
nước thu hồi theo quy định của pháp luật đất đai;
7


c) Cộng đồng dân cư và tổ chức khác được Nhà nước giao quản lý đất
bao gồm:
- Cộng đồng dân cư được Nhà nước giao quản lý đối với đất lâm nghiệp
để bảo vệ, phát triển rừng theo quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng;
- Tổ chức được Nhà nước giao quản lý đối với đất có công trình công cộng
gồm đường giao thông, cầu, cống từ liên xã trở lên; đường giao, hệ thống thoát
nước, đất có mặt nước chuyên dùng trong đô thị; hệ thống công trình thủy lợi, đê,
đập, sông, suối liên xã trở lên; quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm do các cấp
huyện, tỉnh quản lý; các đảo chưa có người ở; tổ chức được Nhà nước giao đất để
thực hiện dự án đầu tư theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT).
3. Việc giải thích cách xác định đối với từng loại đối tượng sử dụng đất,
đối tượng được Nhà nước giao quản lý đất được thực hiện theo quy định
Người sử dụng đất là người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công
nhận quyền sử dụng đất hoặc đang sử dụng đất chưa được nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất; bao gồm hộ gia đình, cá nhân; tổ chức (trong nước); tổ chức
nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; cộng đồng dân cư và cơ sở
tôn giáo.
Người được giao quản lý đất là tổ chức trong nước, cộng đồng dân cư,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được Nhà nước
giao đất để quản lý trong các trường hợp qui định tại Điều 8 của Luật Đất đai

2013.
Cơ quan, đơn vị của Nhà nước bao gồm cơ quan của Nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị quốc phòng, an ninh; Ủy ban nhân dân
cấp xã.
Tổ chức sự nghiệp công lập gồm các đơn vị sự nghiệp do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập, có
chức năng thực hiện các hoạt động dịch vụ công theo quy định của pháp luật.
Tổ chức khác gồm tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
khác (không phải là cơ quan, đơn vị của Nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập, tổ
chức kinh tế).
8


Tổ chức nước ngoài được Nhà nước giao đất theo quy định của pháp luật,
cho thuê đất; bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức nước
ngoài có chức năng ngoại giao.
Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại
giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc
Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ
chức liên chính phủ được Nhà nước cho thuê đất.
Uỷ ban nhân dân cấp xã là người được Nhà nước giao quản lý đất chưa
giao, chưa cho thuê; đất xây dựng các công trình công cộng do Ủy ban nhân dân
cấp xã trực tiếp quản lý gồm (công trình giao thông, thủy lợi trong nội bộ xã;
quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm); đất sông, ngòi, rạch, suối, đất có mặt
nước chuyên dùng; đất do Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân trong các trường hợp quy định tại các Khoản 1 Điều 64 và các Điểm a, b, c,
d Khoản 1 Điều 65 của Luât Đất đai 2013.
Tổ chức phát triển quỹ đất là tổ chức được thành lập theo quy định tại
Khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP được Nhà nước giao quản lý

đất thu hồi theo quy định tại Khoản 1 Điều 64, các Điểm a, b, c, d Khoản 1
Điều 65 của Luật Đất đai 2013.
1.1.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác quản lý Nhà nước về đất đai đối
với các tổ chức
Đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt và có hạn; mọi hoạt động của con
người đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn bó với đất đai. Tổng diện tích tự nhiên của
một phạm vi lãnh thổ nhất định là không đổi. Nhưng khi sản xuất phát triển, dân
số tăng, quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh thì nhu cầu của con người
đối với đất đai cũng ngày càng gia tăng. Có nghĩa cung là cố định, cầu thì luôn có
xu hướng tăng. Điều này dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt giữa những người sử
dụng đất và giữa các mục đích sử dụng đất khác nhau. Vì vậy để sử dụng đất có
hiệu quả và bền vững, quản lý đất đai được đặt ra như một nhu cầu cấp bách và cần
thiết. Quản lý đất đai đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất trong cả nước. Việc
9


quản lý nhằm kết hợp hiệu quả giữa sở hữu và sử dụng đất trong điều kiện hệ thống
pháp luật nước ta quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai. Mặt khác, quản lý đất đai còn có
vai trò quan trọng trong việc kết hợp hài hòa các nhóm lợi ích của Nhà nước, tập thể
và cá nhân nhằm hướng tới mục tiêu phát triển. Công tác quản lý đất đai dựa trên
nguyên tắc quan trọng nhất là sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững. Do đó quản
lý, sử dụng đất đai là một trong những hoạt động quan trọng nhất của công tác quản
lý hành chính Nhà nước nói chung và quản lý, sử dụng đất của các tổ chức nói riêng.
1.2 Tổng quan quản lý đất đai trong và ngoài nước
1.2.1 Ngoài nước
Hiện nay trên thế giới ngoài ý thức và tính pháp chế thực thi pháp luật của
chính quyền nhà nước và mọi công dân, chính sách pháp luật về lĩnh vực đất đai
của các quốc gia đang ngày càng được hoàn thiện. Trên cơ sở chế độ sở hữu về
đất đai, ở quốc gia nào cũng vậy, nhà nước đều có những chính sách, nguyên tắc

nhất định trong việc thống nhất chế độ quản lý, sử dụng đất đai. Một trong những
chính sách lớn được thực hiện tại nhiều quốc gia là chính sách giao đất cho người
sử dụng đất nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bình ổn chính trị,
tạo sự công bằng trong xã hội.
Mục tiêu chính trong các chính sách về giao đất cho người sử dụng đất ở
bất kỳ quốc gia nào giúp chính quyền nắm chắc, quản chặt và sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên đất. Hiện nay trên thế giới tồn tại chủ yếu 3 hình thức sở hữu
về đất đai là sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước. Ở đa số các quốc
gia đều có các hình thức sở hữu về đất đai ở trên, hiện tại còn có 1 số quốc gia
như Lào, Triều Tiên, Việt Nam và Cu Ba chỉ tồn tại duy nhất một hình thức sở
hữu về đất đai là sở hữu Nhà nước (hay sở hữu toàn dân ở Việt Nam) và ở các
nước này việc giao đất cho người sử dụng đất thông qua 3 hình thức như: giao
đất có thu tiền sử dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất và cho thuê đất.
Tuy nhiên, phụ thuộc vào chính sách quản lý đất đai và tốc độ phát triển kinh tế
mà lựa chọn các loại hình thức trên cho phù hợp.

10


1.2.1.1. Australia
Luật Đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia thuộc sở hữu Nhà
nước và sở hữu tư nhân. Luật Đất đai bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của
chủ sở hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp,
thừa kế theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích lũy đất đai. Luật
cũng quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử dụng vào mục
đích công cộng, phục vụ phát triển KT-XH và việc trưng thu đó gắn liền với việc
Nhà nước thực hiện bồi thường.
Theo luật có hai loại thu đất, đó là thu hồi đất bắt buộc và thu hồi đất tự
nguyện.
Thu hồi đất tự nguyện được tiến hành khi chủ đất cần được thu hồi đất.

Trong thu hồi đất tự nguyện không có quy định đặc biệt nào được áp dụng mà
việc thỏa thuận đó là nguyên tắc cơ bản nhất. Chủ có đất cần được thu hồi và
người thu hồi đất sẽ thỏa thuận giá bồi thường đất trên tinh thần đồng thuận và
căn cứ vào thị trường. Không có bên nào có quyền hơn bên nào trong thỏa thuận
và cũng không bên nào được áp đặt đối với bên kia.
Thu hồi đất bắt buộc được Nhà nước Australia tiến hành khi Nhà nước có
nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích công cộng và các mục đích khác. Thông
thường, nhà nước có được đất đai thông qua đàm phán.
Luật của Australia cũng quy định giá tính mức bồi thường là giá thị trường
hiện tại được quyết định với cơ quan quản lý với sự tư vấn của người đứng đầu cơ
quan định giá. Giá trị thị trường được xác định là mức tiền mà tài sản đó có thể bán
được một cách tự nguyện, sẵn sàng ở một thời điểm nhất định.
Hình thức bồi thường được trả bằng tiền mặt. Tất cả các loại đất, công
trình xây dựng đều được bồi thường theo giá thị trường.
Việc tái định cư Luật không quy định cụ thể, chủ sở hữu sẽ phải tự tìm
nhà mới (Bộ Tài nguyên và môi trường, 2012).
1.2.1.2. Trung Quốc
Luật Đất đai của Trung Quốc được xây dựng vào các năm 1954, 1975,
1978 và 1982. Trong đó, Luật Đất đai năm 1982 là bộ luật hoàn chỉnh nhất. Từ
11


năm 1982 Luật Đất đai Trung Quốc đã được sửa đổi 4 lần (qua các năm 1988,
1993, 1999 và năm 2004).
- Luật Đất đai hiện hành của Trung quốc có nội dung quy định mang tính
nguyên tắc (gần giống với Luật Đất đai năm 1988 của Việt Nam); trong đó đối với
những nội dung quan trọng và có vai trò quyết định chi phối các nội dung khác
được quy định cụ thể và mang tính pháp chế cao, những nội dung khác chỉ quy
định nguyên tắc chung có tính mở và giao Chính phủ quy định để các địa phương
thực hiện hoặc chính quyền tỉnh, thành phố quy định cụ thể.

Ưu điểm là những nội dung quy định nguyên tắc trong luật được áp dụng
trong một thời gian dài nhiều năm và thực hiện tại nhiều địa phương có đặc điểm,
điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội khác nhau vẫn phù hợp; căn cứ vào
nguyên tắc quy định của luật, Chính phủ thông qua ban hành các nghị định quy
định cụ thể hơn, các nguyên tắc với mức độ điều chỉnh khác nhau phù hợp với
từng thời kỳ, giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và việc sửa đổi quy
định cụ thể bảo đảm kịp thời đáp ứng được yêu cầu trong thực tế phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước đặt ra; đồng thời UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương căn cứ vào quy định của Chính phủ để quy định các nội dung cụ thể hơn để
áp dụng và thực hiện phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên và tình hình kinh
tế, xã hội tại địa phương.
- Trong luật và quy định của chính phủ về quản lý đất đai có quy định rõ
và tách bạch nội dung giám sát quản lý đất đai và kiểm tra việc sử dụng đất, gắn
với các quy định về chế tài xử lý đã bảo đảm việc quản lý được tăng cường trách
nhiệm và hạn chế những sai phạm phát sinh về quản lý đất đai trong các cơ quan
nhà nước, đồng thời có căn cứ xử lý triệt để đối với các trường hợp quản lý sai
quy định hoặc sử dụng đất vi phạm pháp luật.
- Quy định chỉ giao đất cho các tổ chức đầu tư kinh doanh nhà ở và không
giao đất cho các cho hộ gia đình cá nhân sử dụng tại đô thị có nâng cao hiệu quả
sử dụng đất, nhưng chưa tạo điều kiện thuận lợi và điều kiện về chỗ ở cho các hộ
gia đình có mức thu nhập thấp hoặc gia đình có nhiều thế hệ sinh sống, chính

12


sách, cơ chế thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất chưa được quy định rõ và đầy đủ
giữa các địa phương thực hiện còn có sự khác nhau.
Trung Quốc là quốc gia có 2 hình thức sở hữu đất đai là sở hữu nhà nước
và sở hữu tập thể, trong chính sách giao đất cho các tổ chứccũng áp dụng hai
hình thực là giao đất cho các tổ chức sử dụng đất và giao đất cho các tổ chức có

thu tiền sử dụng đất. Đối với các nước có hình thức sở hữu tư nhân về đất đai thì
việc giao đất cho các tổ chứcsử dụng đất không còn phổ biến.
Nhìn chung chính sách pháp luật về lĩnh vực đất đai của các nước trên thế
giới đã và đang hoàn thiện trên nguyên tắc sử dụng đất có hiệu quả cao và bền
vững, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội (Nguyễn Thị Vi Huế, 2014).
1.2.2. Trong nước
1.2.2.1. Khái quát tình hình quản lý, sử dụng đất đai ở nước ta
Theo số liệu thống kê đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt
tại quyết định số 1467/QĐ-BTNMT ngày 21 tháng 7 năm 2014 về việc phê duyệt
và công bố kết quả thống kê đất đai năm 2013 (tính đến ngày 01 tháng 01 năm
2014) diện tích đất tự nhiên của nước ta là: 33.096.731 ha, bao gồm:
- Diện tích nhóm đất nông nghiệp: 26.822.953 ha;
- Diện tích nhóm đất phi nông nghiệp: 3.796.871 ha;
- Diện tích nhóm đất chưa sử dụng: 2.476.908 ha.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật
về đất đai, đưa quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa; tiếp tục mở rộng dân chủ,
tạo cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý và cán bộ quản
lý; cơ chế để người dân được tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, để tổ
chức và cá nhân thực hiện quyền giám sát của mình.
Nhìn chung hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ngày càng
được nâng lên rõ rệt. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được ban hành khá
đầy đủ; các quyết định, quy định của Nhà nước liên quan đến đất đai được thực
hiện trên thực tế ngày càng cao hơn. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai ngày
càng được nâng lên. Nhà đầu tư nước ngoài từng bước được mở rộng cơ hội
trong việc tiếp cận đất đai; những bất cập về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
13


hồi đất từng bước được khắc phục. Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện Luật Đất
đai đã được thực hiện thường xuyên và kịp thời phát hiện, xử lý những sai phạm

trong quản lý, sử dụng đất đai. Việc lập, xét duyệt và triển khai thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp ngày càng đi vào nền nếp.
Đến nay trên 90,25% diện tích tự nhiên của cả nước được khai thác đưa
vào sử dụng và phân bổ đáp ứng các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng. Cả nước đã cấp được 40,8 triệu giấy chứng nhận với
tổng diện tích 22,7 triệu ha, đạt 93,8% diện tích các loại đất cần cấp giấy chứng
nhận. Quỹ đất sản xuất nông nghiệp được bố trí hợp lý theo nguyên tắc bảo vệ
quỹ đất trồng lúa, hình thành các vùng chuyên canh phù hợp với tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng. Đất lâm nghiệp trong 10 năm qua liên tục tăng, diện tích
đất lâm nghiệp tăng góp phần nâng độ che phủ từ 35,2% năm 2000 lên 39,5%
năm 2010, đến nay đạt gần 41%.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại sau:
- Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất chưa
nghiêm. Có không ít những quy định của pháp luật đất đai và những quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến đất đai không được thực thi
hoặc thực thi một cách hình thức. Nhiều bản án, quyết định liên quan đến đất đai
đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành. Chế tài xử lý vi phạm pháp
luật về đất đai còn thiếu và chưa đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn các hành vi vi
phạm.
- Nguồn lực đất đai chưa được khai thác và phát huy đầy đủ để trở thành
nội lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách thuế
chưa thực hiện tốt vai trò điều tiết thị trường bất động sản. Thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp còn rất thấp, trong khi đây là một nguồn thu chính từ đất để phát
triển kinh tế - xã hội. Việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp.
Các quy định của pháp luật chưa bảo đảm giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà
nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.
- Chất lượng quy hoạch sử dụng đất chưa cao, chưa đồng bộ với các quy
hoạch chuyên ngành, tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý quy hoạch còn
14



yếu. Nhiều quyết định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thiếu khả thi, tình
trạng quy hoạch "treo" xảy ra ở nhiều nơi.
- Thị trường quyền sử dụng đất phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch
“ngầm” khá phổ biến. Nhu cầu nhà ở, đất ở cho các đối tượng chính sách xã hội,
cán bộ công chức, người có thu nhập thấp chưa được đáp ứng đầy đủ. Hiện nay
Nhà nước mới chỉ quản lý được các thửa đất đã có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mà chưa quản lý được các thửa đất không có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đăng ký tại cơ quan có
thẩm quyền.
- Quy định về việc phải công khai, minh bạch thông tin quản lý theo Luật
Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có khá nhiều nội dung được
thực hiện với tỷ lệ rất thấp. Quy trình lấy ý kiến của dân đối với quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất cấp xã gần như không được thực hiện.
- Mục tiêu hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
vào năm 2007 không đạt được, sau nhiều lần gia hạn, nhưng đến nay vẫn chưa
hoàn thành. Tại các đô thị lớn, đất có giá cao, người muốn được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất luôn gặp phải khó khăn. Còn ở các vùng nông thôn,
miền núi giá đất thấp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ký nhưng người sử
dụng đất không muốn nhận do phải nộp tiền.
- Đầu cơ đất đai diễn ra nghiêm trọng, tình trạng tham nhũng trong
quản lý đất đai được đánh giá là ở nhóm đầu, khiếu nại, tố cáo liên quan
đến đất đai chiếm tỷ lệ cao tới 70% - 80% tổng số khiếu nại, tố cáo của
công dân (Nguyễn Văn Quý, 2014).
1.2.2.2. Cơ sở pháp lý của công tác giao đất, cho thuê đất
Từ thập niên 80 thế kỷ XX trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có những
chuyển biến đáng kể. Nền kinh tế tự cung, tự cấp đã dần chuyển sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần với định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế ngày càng
phát triển dẫn đến sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế và các hình thức sản
xuất. Từ chỗ kinh tế quốc doanh chiếm đa số thì đến nay kinh tế tư nhân, liên

doanh liên kết phát triển đóng vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân.
15


Nhờ có chính sách đổi mới đó mà đời sống người dân ngày càng cải thiện.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó thì vấn đề đặt ra với cơ quan quản lý
đất đai là làm thế nào để đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất ngày càng gia tăng
của các ngành sản xuất và của đời sống nhân dân. Đây là vấn đề được Đảng và
Nhà nước hết sức quan tâm, chú trọng giải quyết. Sự quan tâm đó được thể hiện
qua Luật Đất đai và hàng loạt các văn bản của Chính phủ và các Bộ, Ngành có
liên quan. Cụ thể:
Luật Đất đai năm 1993 quy định hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất
đối với đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp và giao đất không thu tiền
sử dụng đất đối với đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp, tổ chức trong nước sử dụng không vì mục đích lợi nhuận. Hình
thức cho thuê đất đối với các đối tượng như: tổ chức kinh tế trong nước; tổ chức
nước ngoài có chức năng ngoại giao.
Luật Đất đai sửa đổi bổ sung năm 1998, có bổ sung hình thức giao đất
có thu tiền sử dụng đất cho tổ chức kinh tế trong nước đối với các dự án xây
dựng kinh doanh nhà ở và các dự án sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ
sở hạ tầng.
Luật Đất đai năm 2003, quy định cụ thể về hình thức cho thuê đất như
sau: tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài được lựa chọn giữa thuê đất trả tiền
một lần và trả tiền hàng năm. Đối với chính sách giao đất không thu tiền sử dụng
đất, Luật Đất đai năm 2003 quy định 07 trường hợp được nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất, trong đó phần lớn diện tích đất giao tập trung vào 2
đối tượng sau: các tổ chức được giao đất nông nghiệp nghiên cứu thí nghiệm,
thực nghiệm nông nghiệp, lâm nghiệp và đất chuyên dùng giao cho các tổ chức
xây dựng trụ sở cơ quan công trình sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các mục
đích công cộng không có mục tiêu lợi nhuận.

Trong thực tế, một phần không nhỏ diện tích đất trên đã bị các cơ quan,
tổ chức sử dụng vào các mục đích khác hoặc không phù hợp với quy hoạch sử
dụng đất như: cho thuê, bỏ hoang không sử dụng hoặc bị tổ chức, cá nhân lấn
chiếm, chiếm dụng…
16


Để từng bước khắc phục tình trạng trên, ngày 14 tháng 12 năm 2007 Thủ
tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 31/2007/CT-TTg về việc kiểm kê quỹ đất
đang quản lý, sử dụng của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất với
mục tiêu tổng hợp và đánh giá thực trạng việc quản lý, sử dụng quỹ đất được
nhà nước giao đất, cho thuê đất; trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp quản lý,
sử dụng hiệu quả hơn đối với quỹ đất này.
Qua kết quả kiểm kê quỹ đất đang quản lý, sử dụng của các tổ chức được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo Chỉ thị số 31/2007/CT-TTg cho thấy cho
thấy tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức đã có nhiều chuyển biến tích
cực. Tuy nhiên, vi phạm pháp luật đất đai của các tổ chức trên phạm vi cả nước
vẫn còn nhiều, phổ biến ở hầu hết các địa phương, dưới nhiều hình thức như: sử
dụng đất không đúng mục đích được giao, được thuê hoặc cho thuê, cho mượn,
chuyển nhượng đất trái phép; để đất hoang hóa, quản lý lỏng lẻo để bị lấn, bị
chiếm đất. Mức độ vi phạm pháp luật đất đai nhiều nhất là các tổ chức kinh tế,
các nông trường, lâm trường quốc doanh và các tổ chức sự nghiệp công; nhiều
vụ việc phức tạp, kéo dài nhiều năm chưa được giải quyết. Để kịp thời khắc
phục những yếu kém, đồng thời chấn chỉnh lại việc quản lý sử dụng đất của các
tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thì Chính phủ đã ban hành Chỉ thị
số 134/CT-TTg ngày 20 tháng 01 năm 2010 về việc tăng cường kiểm tra, xử lý
vi phạm pháp luật đất đai của các tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất.
Luật đất đai 2013 ra đời đã đổi mới bằng hình thức thay đổi nhiều quy
định của nhà nước nhằm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, hoàn chỉnh hơn những thiếu sót tại Luật đất đai 2003. Luật đất đai năm

2013, quy định cụ thể về hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất như sau:
Giao đất không thu tiền sử dụng đất: Nhà nước giao đất cho các tổ chức sử
dụng đất đối với hộ gia đình cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, làm muối được giao đất trong hạn mức quy định tại Điều
129 của Luật này; Người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng
sản xuất là rừng tự nhiên, đất xây dựng trụ sở cơ quan, đất sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh; đất sử dụng vào mục đích công cộng không nhằm mục đích
17


kinh doanh; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 55 của Luật này; Tổ chức sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính
sử dụng đất xây dựng công trình sự nghiệp; Tổ chức sử dụng đất để xây dựng
nhà ở phục vụ tái định cư theo dự án của Nhà nước; Cộng đồng dân cư sử dụng
đất nông nghiệp; cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp quy định tại Điều
159 của Luật này (Luật đất đai, 2013).
1.3. Các văn bản, chính sách về giao đất cho các tổ chức sử dụng đất tại Việt Nam
Để cụ thể hóa những nội dung trên Chính phủ và các Bộ đã ban hành các
văn bản hướng dẫn cụ thể như sau:
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành
Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 quy định việc
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng
10 năm 2004 về thi hành Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ
quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
- Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái

định cư.
- Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ
về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền
với đất;
- Nghị định số 121/2010/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14
tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
- Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 19/11/2013 của Quốc Hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

18


- Nghị định 43/2014/ND-CP ngày 15 /5/2014 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đất đai.
1.3.1. Những quy định hiện hành về giao đất
So với quy định của Luật Đất đai năm 2003, pháp luật hiện hành tăng
cường hơn việc vận hành các quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường, tiến tới xóa
bỏ bao cấp trong quản lý, sử dụng đất đai thông qua các quy định thu hẹp các
trường hợp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu
tiền sử dụng đất, chuyển cơ bản sang áp dụng hình thức thuê đất; thực hiện cơ
chế đấu giá quyền sử dụng đất khi giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất.
Ngoài ra, các quy định này còn nhằm thiết lập sự bình đẳng trong việc tiếp
cận đất đai, thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài cho phù hợp với yêu cầu hội nhập và thu
hút đầu tư, đảm bảo sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, cụ thể:
* Về giao đất không thu tiền sử dụng đất
Khái niệm đất xây dựng trụ sở cơ quan và đất xây dựng các công trình sự
nghiệp trong Luật Đất đai năm 2003 (Điều 88) và trong Luật Đất đai năm 2013
(Điều 147) cơ bản không thay đổi nhưng Luật Đất đai năm 2013 khi quy định về

đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất đã chia đất xây dựng trụ sở
cơ quan và đất xây dựng các công trình sự nghiệp ra thành hai nhóm có địa vị
pháp lý khác biệt nhau chứ không gộp chung vào một nhóm như Luật Đất đai
năm 2003.
Cụ thể, các tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ về mặt tài chính không
được thực hiện giao đất không thu tiền sử dụng đất như Luật Đất đai năm 2003
mà phải chuyển sang thuê đất. Đối chiếu với quy định này thì các đơn vị sự
nghiệp sẽ phải chuyển sang thuê đất, các trường học, bệnh viện tự chủ về mặt tài
chính… đều phải chuyển sang thuê đất. Quy định này làm rõ hơn quan điểm của
Nhà nước về việc xóa bỏ bao cấp trong quản lý, sử dụng đất tiến tới công bằng
trong việc sử dụng tài nguyên quốc gia. Tuy nhiên, để làm rõ khái niệm “tổ chức
sự nghiệp công lập tự chủ về mặt tài chính” là điều không đơn giản.

19


×