Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp ở huyện kỳ anh, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.26 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN

ii

LỜI CẢM ƠN

iii

MỤC LỤC

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

vi

DANH MỤC BẢNG

vii

DANH MỤC HÌNH, HỘP

ix

PHẦN I. MỞ ĐẦU

1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài



1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

2

1.2.1 Mục tiêu chung

2

1.2.2 Mục tiêu cụ thể

2

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

3

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

3

PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

4


2.1 Cơ sở lý luận

4

2.1.1 Một số khái niệm

4

2.1.2 Quan điểm chủ trương phát triển các hình thức tổ chức kinh tế trong
nông nghiệp của nước ta

9

2.1.3 Vai trò, đặc điểm của các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp

13

2.1.4 Nội dung nghiên cứu các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp

21

2.1.5 Các yếu tổ ảnh hưởng đến việc phát triển các hình thức tổ chức kinh tế
trong nông nghiệp

24

2.2 Cơ sở thực tiễn

25


2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc phát triển các hình
thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp

25

2.2.2 Kinh nghiệm về việc phát triển các hình thức tổ chức kinh tế trong nông
nghiệp ở Việt Nam

31

PHẦN III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

38

3.1 Đặc điểm địa bàn

38

3.1.1 Đặc điểm tự nhiên

38

iv


3.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội

42


3.2 Phương pháp nghiên cứu

48

3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

48

3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin

48

3.2.3 Phương pháp phân tích

50

3.2.4 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu

51

PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

52

4.1 Thực trạng các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp ở huyện Kỳ Anh

52

4.1.1. Hợp tác xã


52

4.1.2. Tổ hợp tác

63

4.1.3. Trang trại

66

4.1.4. Nông hộ (hộ nông dân)

74

4.1.5 Đánh giá chung về thực trạng phát triển các hình thức tổ chức kinh tế

77

4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển các hình thức tổ chức kinh tế trong nông
nghiệp ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh

79

4.2.1 Điều kiện tự nhiên

79

4.2.2 Sự tham gia, liên kết của các tổ chức kinh tế

80


4.2.3 Nguồn lực

80

4.2.4 Thị trường và một số yếu tố khác

82

4.3 Một số giải pháp nhằm phát triển các hình thức tổ chức kinh tế trong nông
nghiệp ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh

82

4.3.1 Tổ chức tuyên truyền, học tập quán triệt chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và nông thôn

82

4.3.2. Tăng cường nguồn lực phát triển

83

4.3.3. Tăng cường liên kết trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp

89

4.3.4 Một số giải pháp đổi mới phát triển kinh tế tập thể

90


PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

92

5.1 Kết luận

92

5.2 Kiến nghị

93

TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

PHỤ LỤC

96

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Diễn giải

BCH


Ban chấp hành

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CP

Chính phủ

FDI

Foreign Direct Investment

HGĐ

Hộ gia đình

HTX

Hợp tác xã

ICA

International Cooperative Alliance

KHKT

Khoa học kỹ thuật


KT - XH

Kinh tế - Xã hội



Nghị định

NQ

Nghị Quyết

THT

Tổ hợp tác

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

USDA


United States Department of Agriculture

vi


DANH MỤC BẢNG

Số bảng

Tên bảng

Trang

3.1

Hiện trạng sử dụng đất đai của huyện Kỳ Anh (2012-2014)

41

3.2

Tình hình phát triển y tế, giáo dục

45

3.3

Bảng biến động dân số và lao động qua 3 năm (2012 – 2014)


47

3.4

Nguồn thu thập số liệu thứ cấp

49

3.5

Số lượng mẫu điều tra của đề tài

49

3.6

Bảng phân tích SWOT

50

4.1

Số lượng HTX trên địa bàn huyện Kỳ Anh phân theo lĩnh vực hoạt động

52

4.2

Số lượng hợp tác xã trên địa bàn huyện kỳ anh năm 2011-2014


54

4.3

Tổng hợp diện tích đất giao khoán và tình hình cấp giấy QSDĐ ở
huyện Kỳ Anh năm 2014

4.4

55

Tình hình vốn, tài sản của các HTX trong nông nghiệp, nông thôn
huyện Kỳ Anh

57

4.5

Diện tích đất HTX đang sử dụng ở huyện Kỳ Anh năm 2014

59

4.6

Tổng hợp xã viên, lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp huyện Kỳ
Anh năm 2014

60

4.7


Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý trong các hợp tác xã ở Kỳ Anh

61

4.8

Số lượng tổ hợp tác trên địa bàn huyện kỳ anh năm 2011-2014

64

4.9

Tổng hợp số tổ hợp tác trên địa bàn huyện Kỳ Anh năm 2014

65

4.10

Số lượng trang trại trên địa bàn huyện kỳ anh năm 2011-2014

66

4.11

Thực trạng cấp giấy chứng nhận trang trại trên địa bàn huyện Kỳ Anh
năm 2010

4.12


68

Số lượng trang trại và thực trạng cấp giấy chứng nhận cho các trang trại
trên địa bàn huyện Kỳ Anh năm 2014

69

4.13

Diện tích bình quân một trang trại tại các xã

70

4.14

Cơ cấu diện tích đất theo mục đích sử dụng và theo nguồn gốc của các
trang trại trên địa bàn các xã

71

vii


4.15

Trình độ của chủ trang trại trên địa bàn huyện Kỳ Anh

4.16

Trình độ của lao động thường xuyên trong các trang trại trên địa bàn

huyện Kỳ Anh

4.17

73

Diện tích đất đai bình quân của các hộ gia đình trong nông thôn huyện
Kỳ Anh

4.18

73

74

Tỷ trọng ngành Nông nghiệp huyện Kỳ Anh phân theo tổ chức kinh tế
qua các năm (2012 – 2014)

78

viii


DANH MỤC HÌNH, HỘP

Số hình

Tên hình

Trang


3.1

Cơ cấu kinh tế huyện Kỳ Anh qua 3 năm 2012 – 2014

43

4.1

Các loại trang trại tại Kỳ Anh năm 2010

67

4.2

Diện tích nguồn gốc đất của các hộ gia đình trong nông thôn huyện Kỳ Anh

75

4.3

Biến động tỷ trọng nguồn lao động nông thôn huyện Kỳ Anh (2012 –
2014)

Số hộp

77

Tên hộp


Trang

4.1

Hợp tác xã chỉ còn cái vỏ mà chưa thay chất

63

4.2

Trang trại gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất

72

4.3

Chính sách ưu đãi có nhưng hộ không tiếp cận được

76

ix


PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ những năm đầu đổi mới cách đây hơn 20 năm, chính sách chia đất
canh tác cho nông dân đã góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và giải
phóng nội lực của nông dân. Liên tục từ năm 1998-2007, tốc độ tăng trưởng sản
xuất nông nghiệp của Việt Nam luôn cao hơn mức trung bình của thế giới. Từ tình

trạng tự cung tự cấp, Việt Nam đã trở thành quốc gia mạnh về xuất khẩu nông sản.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đất nước và yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, mấy năm gần đây động lực cho phát triển
nông nghiệp từ những năm trước đã không còn. Việc sản xuất nông nghiệp của
nước ta đang có xu hướng chững lại và chậm được đối mới.
Nghị quyết số 26 Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Ðảng khoá X "Về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn" đã chỉ rõ: Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc
độ tăng trưởng đang có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp. Các hình thức tổ chức
sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Ðời
sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp; chênh lệch giàu nghèo
giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức
xúc,vv... Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên đó là các
hình thức tổ chức kinh tế hiện nay chưa tìm ra hướng đi đúng, chưa có chính sách đặc
thù nhằm đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất để phù hợp với bối cảnh kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế; các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, nông
thôn hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đối với nền kinh tế quốc dân, chưa
đảm nhiệm vai trò cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Huyện Kỳ Anh có tổng số 63 hợp tác xã, 80 tổ hợp tác, khoảng trên 817 mô
hình kinh tế hộ gia đình và 30 trang trại (chăn nuôi: 5; lâm nghiệp: 1; nuôi trồng thủy
sản: 1; Trang trại tổng hợp: 23 (UBND huyện Kỳ Anh, 2014). Trong những năm qua,
các hình thức tổ chức kinh tế này đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ

1


cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân khu vực nông thôn của huyện. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển, các hình thức tổ chức kinh tế này đã và đang gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc cũng như tồn tại những hạn chế cần được giải quyết. Hoạt động sản xuất kinh

doanh và dịch vụ của hầu hết các HTX, tổ hợp tác và trang trại trên địa bàn huyện
đều kém hiệu quả, năng lực quản lý yếu kém và khả năng tiếp cận vốn, tiếp cận thị
trường yếu. Bên cạnh đó, quá trình hình thành và phát triển còn mang tính tự phát,
chưa có quy hoạch và định hướng cụ thể...
Với mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững và sản
xuất hàng hóa, trở thành động lực tích cực trong việc thực hiện thành công chương
trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương, đòi hỏi ngành nông nghiệp huyện Kỳ
Anh cần xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất - kinh doanh phù hợp, có hiệu
quả kinh tế cao gắn với bảo vệ môi trường, góp phần tích cực thực hiện thành công
chương trình Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Kỳ Anh nói riêng và toàn
tỉnh Hà Tĩnh nói chung.
Để hiểu rõ về hiệu quả của các hình thức tổ chức kinh tế trong nông
nghiệp ở nơi đây từ đó có thể rút ra được loại hình nào có hiệu quả trên địa bàn
huyện Kỳ Anh nói riêng và áp dụng trên địa bàn Hà Tĩnh nói chung nên tôi lựa
chọn nghiên cứu đề tài: “Các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp ở
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng phát triển các tổ chức kinh tế trong nông nghiệp ở huyện
Kỳ Anh, từ đó đề xuất giải pháp trong việc phát triển các hình thức tổ chức kinh tế
trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
+ Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển các hình
thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp.
+ Đánh giá thực trạng phát triển các hình thức tổ chức kinh tế trong nông
nghiệp ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh;

2



+ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát trển các hình thức tổ chức kinh
tế trong nông nghiệp.
+ Đề xuất giải pháp chủ yếu tăng cường phát triển các hình thức tổ chức kinh tế
trong nông nghiệp ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
a. Phạm vi về nội dung
Tập trung nghiên cứu thực trạng về số lượng cũng như hoạt động của các
hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp, bao gồm: Hợp tác xã, tổ hợp tác,
trang trại, nông hộ; những thuận lợi và khó khăn của các hình thức sản xuất trong
việc xây dựng, phát triển các mô hình kinh tế tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
b. Phạm vi về không gian
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
c. Phạm vi về thời gian
- Các dữ liệu và thông tin phục vụ cho đánh giá thực trạng được thu thập từ
năm 2012 - 2014.
- Các dữ liệu sơ cấp được điều tra tại năm 2014.
- Các giải pháp đề xuất cho giai đoạn 2015-2020.

3


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm về tổ chức kinh tế

Để giải quyết 3 vấn đề cơ bản của một nền kinh tế: Sản xuất cái gì, sản xuất
như thế nào, sản xuất cho ai, mỗi quốc gia ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định đều
đưa ra những thành phần kinh tế nhất định. Lịch sử đã trải qua các thành phần kinh
tế khác nhau như: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể
dần dần trở thành nền tảng; kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế
tư bản nhà nước...cùng phát triển trở thành nội lực xây dựng nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, dù ở thành phần kinh tế nào thì cũng phải thực hiện thông qua những tổ
chức kinh tế nhất định (Mai Văn Xuân, 2011).
Vậy có thể hiểu rằng tổ chức kinh tế là cách thức kết hợp các yếu tố kinh tế
như: lao động, máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu, tiền vốn với những quy mô, cơ
chế quản lý và phân phối thu nhập khác nhau để tạo ra các sản phẩm hàng hóa dịch
vụ cho xã hội một cách hiệu quả.
2.1.1.2 Khái niệm về các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp
a. Hợp tác xã
HTX hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Theo Ivan
Emelianoff (1942), một nhà nghiên cứu về HTX đã nhận xét rằng “Sự đa dạng của
HTX là muôn màu muôn vẻ và sự biến đổi của HTX thật sự là không thể đếm xuể”
và như thế không thể có một khái niệm chung toàn cầu về HTX. Tuy nhiên, có hai
khái niệm được dùng phổ biến nhất.
Theo liên minh HTX quốc tế (ICA): HTX là một tổ chức tự chủ của những
người tự nguyện tập hợp nhau lại nhằm thỏa mãn những nhu cầu và nguyện vọng
chung về kinh tế, văn hóa và xã hội thông qua việc tham gia góp vốn và quản lý dân
chủ. Các nhà lãnh đạo HTX trên toàn thế giới công nhận ICA, một tổ chức phi
chính phủ với hơn 230 tổ chức thành viên từ trên 100 quốc gia như là cơ quan
hướng dẫn về định nghĩa và các giá trị (Mai Văn Xuân, 2011).

4


Một khái niệm được chấp nhận rộng rãi khác là khái niệm được Bộ Nông

Nghiệp Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ (USDA) thông qua vào năm 1987: HTX là cơ sở
kinh doanh do những người sử dụng tự làm chủ và tự quản lý, lợi nhuận được chia dựa
trên cơ sở của việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Định nghĩa này đưa ra 3 nguyên tắc
chung của HTX cấp I: xã viên tự làm chủ, tự quản lý, phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ.
Ở Việt Nam theo luật HTX năm 2012 thì HTX được định nghĩa như sau:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau
đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh
doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước (Mai Văn Xuân, 2011).
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
b. Tổ hợp tác
Theo quy định của Nghị định 151/2007/NĐ-CP, Tổ hợp tác được hình thành
trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn của từ 3 cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những
công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm theo nguyên tắc:
- Tự nguyện, bình đẳng, dân chủ và cùng có lợi;
- Biểu quyết theo đa số;
- Tự chủ tài chính, tự trang trải các chi phí hoạt động và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của tổ và các tổ viên.
c.Trang trại
Trang trại là cơ sở sản xuất nông nghiệp gắn với HGĐ nông dân. Các nội
dung cùng những hoạt động của trang trại chính là những việc làm của người nông
dân trên đồng ruộng, của người chủ HGĐ sản xuất kinh doanh nông nghiệp… (Bùi
Minh Vũ, Võ Thị Lai, 2005)

5



Các Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông bằng sự so sánh:
-Người chủ trang trại bán ra thị trường hầu hết các sản phẩm do họ làm raNgười tiểu nông thì dùng toàn bộ các sản phẩm do họ sản xuất ra, việc mua bán
càng ít càng tốt.
Từ những phân biệt đó của Các Mác, nổi lên một số vấn đề kinh tế cần được
lưu ý:
-Một là sự khác nhau về mục đích sản xuất:
Một nền sản xuất nông nghiệp được chuyển từ tự cung, tự cấp sang sản xuất
hàng hoá là chủ yếu. Nông sản được sản xuất ra trước đây là để thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng trực tiếp thì nay được sản xuất ra để bán nhằm tăng thu nhập và có lợi
nhuận.
- Hai là về mặt sở hữu cũng có thay đổi theo hướng phát triển của nền kinh
tế xã hội.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung
về cơ bản được dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất hay quyền sử dụng
-Ba là trong điều kiện kinh tế thị trường, quy mô kinh tế gia đình ngày càng
trở nên phổ biến và chiếm tuyệt đại bộ phận về số lượng các đơn vị sản xuất nông
nghiệp tập trung.
Như vậy, có thể nói rằng Trang trại là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất
nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn với quy mô gia đình là chủ yếu để tạo
ra sản phẩm hàng hoá cung cấp cho xã hội phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Trang trại ngày nay có nhiều mặt cùng tồn tại
Về mặt kinh tế: Nói lên các hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều
chủng loại sản phẩm hàng hoá đem lại thu nhập cao và nhiều lợi nhuận.
Về mặt xã hội: Trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội. Quan hệ giữa các
thành viên của hộ trang trại, giữa chủ trang trại và người làm thuê là đan xen nhau…
Về mặt môi trường: Về mặt môi trường trang trại có mối quan hệ thể hiện trên
nhiều mặt rất đa dạng và gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời có tác động qua lại nhiều
mặt, nhiều chiều của hệ kinh tế sinh thái-nhân văn trong vùng.


6


Trên thực tế người ta thường chú ý về mặt kinh tế của trang trại nhiều hơn
mặt xã hội và môi trường. Điều này cũng dễ hiểu vì kinh tế là nội dung cơ bản, là
cốt lõi của trang trại.Từ những vấn đề trên chúng ta có thể định nghĩa Trang trại
(hoặc hiểu về trang trại) như sau:
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp (bao
gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp) mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng của một người chủ độc lập. Sản xuất được tiến hành với quy mô ruộng đất
và các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn cùng phương thức tổ chức quản lý sản xuất
tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ để sản xuất ra các loại sản phẩm
hàng hoá phù hợp với yêu cầu đặt ra của cơ chế thị trường.
Các hình thức tổ chức sản xuất tập trung trong nông nghiệp dựa trên sở hữu
Nhà nước và sở hữu tập thể như các nông, lâm trường quốc doanh, các HTX sản
xuất nông nghiệp thì không thuộc khái niệm trang trại. Ngày nay ở nước ta, trang
trại đã và đang trở thành một xu thế phát triển tốt, kết quả của nó ngày càng rõ nét
trên các mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường (Bùi Minh Vũ, Võ Thị Lai, 2005).
d. Hộ nông dân (bao gồm cả hộ nông dân tự cấp, tự túc và hộ nông dân sản xuất
hàng hóa nhỏ)
Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên ngành
kinh tế, người ta định nghĩa về “hộ” như sau: “Hộ” là tất cả những người sống
chung trong một ngôi nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và người làm
công, người cùng ăn chung. Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái niệm về “Hộ”
gồm những người sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm chung và
cùng có chung một ngân quỹ (Mai Văn Xuân, 2011).
Theo Mc Gê (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng: “Hộ” là
một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết tộc ở trong
một mái nhà và ăn chung một mâm cơm. Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho

rằng: “Hộ là một hệ thống các nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng
nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.
Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981,
1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một nhóm người

7


có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là một đơn vị
kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”.
Theo Frank Ellis Trường Đại học tổng hợp Cambridge (1988) đưa ra một số
định nghĩa về nông dân, nông hộ. Theo ông cấc đặc điểm đặc trưng của đơn vị kinh
tế mà chúng phân biệt gia đình nông dân với những người làm kinh tế khác trong
một nền kinh tế thị trường là:
Thứ nhất, đất đai: Người nông dân với ruộng đất chính là một yếu tố hơn hẳn
các yếu tố sản xuất khác vì giá trị của nó; nó là nguồn đảm bảo lâu dài đời sống của
gia đình nông dân trước những thiên tai.
Thứ hai, lao động: Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc tính
kinh tế nổi bật của người nông dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của các
nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các xí nghiệp tư bản.
Thứ ba, tiền vốn và sự tiêu dùng: Người ta cho rằng: “người nông dân làm
công việc của gia đình chứ không phải làm công việc kinh doanh thuần túy” (Woly,
1966) nó khác với đặc điểm chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm chủ
vốn đầu tư vào tích lũy cũng như khái niệm hoàn vốn đầu tư dưới dạng lợi nhuận.
Từ những đặc trưng trên có thể xem kinh tế hộ gia đình nông dân là một cơ sở
kinh tế có đất đai, các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của hộ gia đình, sử dụng chủ yếu
sức lao động của gia đình để sản xuất và thường là nằm trong một hệ thống kinh tế lớn
hơn, nhưng chủ yếu được đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường có xu
hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao.
Tóm lại trong nền kinh tế hộ gia đình nông dân được quan niệm trên các khía cạnh:

Hộ gia đình nông dân (nông hộ) là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích
kinh tế; các nguồn lực (đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động…) được
góp thành vốn chung, cùng chung một ngân sách; cùng chung sống dưới một mái
nhà, ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên
ý kiến chung của các thành viên là người lớn trong hộ gia đình.
Gia đình (family) là một đơn vị xã hội xác định với các mối quan hệ họ hàng,
có cùng chung huyết tộc. Trong nhiều xã hội khác nhau các mối quan hệ họ hàng
xây dựng nên một gia đình rất khác nhau. Gia đình chỉ được xem là hộ gia đình
(Household) khi các thành viên gia đình có cùng chung một cơ sở kinh tế.

8


e. Doanh nghiệp nông nghiệp
Doanh nghiệp nông nghiệp là tổ chức kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất
nông nghiệp, tham gia vào toàn bộ thị trường đầu vào và đầu ra, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của Pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Nông lâm trường quốc doanh cũng là một loại doanh nghiệp nông nghiệp,
bao gồm một tập thể người lao động, có sự phân công và hợp tác lao động để khai
thác và sử dụng một cách có hiệu quả các yếu tố, các điều kiện của sản xuất nông
nghiệp ( đất đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và các điều kiện tự nhiên, kinh tế khác)
nhằm tiếp quản các doanh điền cũ, đẩy mạnh khai hoang phục hóa nhất là các vùng
núi, vùng biên giới, vùng xa, vùng ven biển nhằm nhanh chóng khôi phục và phát
triển kinh tế giải quyết việc làm, điều động phân bố dân cư giữa các vùng (Phạm
Bảo Dương, 2004).
2.1.2 Quan điểm chủ trương phát triển các hình thức tổ chức kinh tế trong nông
nghiệp của nước ta
Hơn mười năm qua, kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, các hình thức tổ
chức kinh tế trong nông nghiệp – nông thôn dần hình thành và đang ngày càng được
hoàn thiện, phát huy tối đa lợi thế của từng hình thức. Sản xuất nông hộ đã được

thừa nhận và đang phát triển lên với các hình thức tổ chức kinh tế mới như trang
trại, doanh nghiệp nông thôn (chủ yếu là các loại doanh nghiệp gia đình). Hợp tác xã,
tổ hợp tác sau những bước thăng trầm cũng đang được khuyến khích phát triển.
Liên kết kinh tế là chìa khoá để phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần
kinh tế cũng đang được mở rộng. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, đứng trước
việc nông sản hàng hoá của chúng ta đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt
của thị trường thế giới thì vấn đề xây dựng cho được các hình thức tổ chức kinh tế
phù hợp với hiệu quả kinh tế cao ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết (Bộ
Nông nghiệp & PTNT, 2007).
Sản xuất quy mô hộ gia đình: Mặc dù đã có những quyết sách đổi mới, Nhà
nước đã thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ tới kinh tế nông hộ, khuyến khích phát
triển sản xuất, ổn định và phát triển kinh tế nông thôn nhưng tình trạng lao động
thừa, việc làm thiếu, ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp phát triển chậm, khả năng

9


tạo việc làm mới còn rất hạn chế. Sản xuất nông hộ vẫn còn mang tính tiểu nông,
nhỏ bế, sản xuất tự cấp tự túc. Trong số các hộ nông dân, chỉ khoảng 10% có vốn
kinh nghiệm và kiến thức sản xuất có quy mô sản xuất tương đối thực sự có khả năng
tích luỹ tái sản xuất theo hướng mở mang kinh tế trang trại hoặc sẽ phát triển doanh
nghiệp nhỏ ở nông thôn. Hiện vẫn còn tới 70% hộ tiểu nông, có quy mô đất đai 0,5-1
ha/hộ, sản xuất hàng hoá nhỏ đang nằm trong phạm vi tái sản xuất giản đơn, trong số
này khoảng 30% vừa làm nông nghiệp, vừa sản xuất thêm tiểu thủ công nghiệp có khả
năng đa dạng sản xuất nếu có điều kiện thuận lợi. Số còn lại nếu không có sự trợ lực
của Nhà nước hoặc tổ chức lại trong kinh tế hợp tác thì khó có thể chuyển mạnh lên tự
tái sản xuất mở rộng với quy mô đáng kể được. tuy nhiên, thực tế là kinh tế hộ nông
dân tất yếu đã, đang và sẽ tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hó
nông nghiệp, nông thôn (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2007).
Xu hướng phát triển của kinh tế hộ sẽ chuyển mạnh theo hướng sản xuất

hàng hoá, với quy mô lớn, và theo kịp bược phát triển của khoa học công nghệ.
Trước sức cạnh tranh nông nghiệp ngày càng gay gắt, tất yếu phải có sự tích tụ đất
đai, lao động kỹ thuật và vốn, hình thành các trang trại sản xuất để phát huy lợi thế
của kinh tế theo quy mô. Hình thức sản xuất trang trại ra đời theo quy luật này. Quy
mô lớn cho phép các trang trại áp dụng cơ giới, hạ giá thành sản xuất và trở thành
đối thủ cạnh tranh mạnh trên thương trường. Ở đây, muốn phát triển kiểu trang trại
thâm canh cần có hệ thống chính sách đồng bộ về quản lý, cho thuê, chuyển đổi đất
đai thuận lợi; quy hoạch tổ chức sản xuất hợp lý, kết cấu hạ tầng đầy đủ; việc cung
cấp chuyển giao và hỗ trợ công nghệ hiện đại sẵn sàng; công nhân được đào tạo tay
nghề, ngân hàng sẵn sàng hỗ trợ vốn, hoạt động tiếp thị thuận lợi.
Bên cạnh đó, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là một giải
pháp lâu dài và hữu hiệu để thực hiện chủ trương tạo việc làm cho lao động nông
thôn. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ có đăng ký hoạt động chưa
nhiều, mới đạt 3%, còn 97% vẫn thuộc loại hình kinh tế hộ không có đăng kı. Các
mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ hình thành ở nông thôn đã thu hút nhiều lao động
vào làm gia công xuất khẩu. Các doanh nghiệp này đã khai thác được thế mạnh của
lao động nông thôn giá rẻ. Tuy nhiên cũng có hạn chế là trình độ lao động của dân

10


nông thôn chưa cao, trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp còn yếu đặc biệt là hạn
chế trong tiếp cận thông tin kinh tế, đánh giá về thị trường... Chính vì vậy, rất cần
có sự hỗ trợ của Nhà nước về công tác đào tạo tay nghề, hỗ trợ tìm kiếm thị trường
(Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2007).
Hình thức kinh tế hợp tác: Bước vào cơ chế thị trường trong xu thế hội nhập
kinh tế, hộ gia đình nông dân Việt Nam phải đối đầu với nhiều đối thủ sản xuất kinh
doanh mạnh. Đó là các hàng hoá nông sản nhập khẩu và cùng cạnh tranh trên thị
trường xuất khẩu của nông dân các nước phát triển hơn, có tổ chức rất tốt về quy
mô và trình độ hợp tác; đó là các doanh nghiệp cung ứng vật tư và thu mua nông

sản của mọi thành phần kinh tế mà mục tiêu chính là kinh doanh vì lợi nhuận. Trong
khi 50% giá trị sản xuất nông nghiệp dành cho xuất khẩu thì tình trạng đơn phương
độc mã hiện nay không cho phép các hộ tiểu nông cạnh tranh nổi trong sản xuất,
thương thuyết nổi trong mua bán, tranh thủ được về chính sách. Phải nói rằng hơn
lúc nào hết, người nông dân cần có tổ chức thực sự của mình, đáp ứng yêu cầu đa
dạng về hợp tác sản xuất của từng nhóm nhỏ các hộ nông dân; được tổ chức tốt từ
trên xuống dưới do họ bầu ra, và thực sự quản lý, giúp cho họ vốn, thị trường và
công nghệ, làm thay những việc họ cần mà các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu, các cơ quan khuyến nông không đáp ứng được. Nếu có một tổ chức
như vậy thì 70% số nông hộ là tiểu nông mới có thể đủ sức tiếp thu công nghệ mới,
phát triển lực lượng sản xuất để cạnh tranh hiệu quả với nông dân thế giới trong nền
kinh tế toàn cầu và chắc chắn 100% nông dân sẽ trở thành xã viên như nhiều nước
trong vùng (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2007).
Liên kết kinh tế: Liên kết kinh tế là tất yếu khách quan trong sản xuất hàng
hoá của các nước. Trong nông nghiệp ở nước ta những năm gần đây, xuất hiện một
số mô hình liên kết kinh tế có hiệu quả giữa công ty, doanh nghiệp với nông dân
trong quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Sự liên kết ngành cho phép
thống nhất phối hợp giữa lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn với
các ngành sản xuất khác có năng suất lao động, công nghệ cao hơn thuộc các lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ để khai thác hết năng lực nguyên liệu, lao động. Cho phép
nối sản xuất với kinh doanh để lợi nhuận được phân phối lại công bằng giữa các
khâu trong hệ thống kinh tế.

11


Liên kết kinh tế đòi hỏi sự hợp tác, phối hợp gắn bó của nhiều đơn vị và tổ
chức kinh tế thuộc nhiều thành phần và loại hình kinh tế khác nhau để khai thác và
sử dụng mọi nguồn lực, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá với chất lượng cao và giá
thành hạ. Việc xác định đúng đắn các đối tượng liên kết kinh tế là vấn đề quan trọng,

vì họ là những chủ thể thực hiện sự liên kết. Liên kết kinh tế - thực chất là "phương
thức hợp đồng" cho phép thoả mãn được ba yêu cầu về cung cấp vốn, công nghệ và tạo
thị trường cho hộ nông dân sản xuất nhỏ, nhờ đó tạo ra và duy trì được khả năng tái sản
xuất mở rộng của nông hộ và đóng góp tái sản xuất mở rộng cho cả doanh nghiệp.
Để liên kết kinh tế có hiệu quả, sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá
có sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập, phải thực hiện theo một lộ trình hợp lý.
Lộ trình đó phải bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ theo một tuần tự nhất định xuất
phát từ yêu cầu của thị trường mà bố trí sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Trước
tiên, phải nắm được yêu cầu của thị trường cần những loại nông sản gì, số lượng,
chất lượng và giá cả ra sao. Từ đó phải có kế hoạch tương đối lâu dài về sản xuất
các loại nông sản hàng hoá theo yêu cầu thị trường; Rà soát lại quy hoạch, bố trí
quy hoạch các vùng sản xuất phù hợp với yêu cầu của thị trường. Cùng với quy
hoạch sản xuất là quy hoạch cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống. Sau
đó, dựa vào quy hoạch, các doanh nghiệp xúc tiến các thương mại, tìm kiếm và thị
trường tiêu thụ nông sản. Và chỉ khi chủ động được thị trường, các doanh nghiệp
mới ký hợp đồng tiêu thụ nông sản với nông dân. Nhà nước cần có các chính sách
vĩ mô ưu tiên phát triển các vùng nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế
biến nông sản, về khoa học, công nghệ, đầu tư, cho vay vốn, cơ sở hạ tầng, đào
tạo...Vấn đề xây dựng hình thức tổ chức sản xuất phù hợp:
Hướng phát triển hợp tác hoá: Sản xuất của các hộ tiểu nông sớm muộn sẽ
phát triển đến mức độ nảy sinh nhu cầu liên kết với nhau, từ các hình thức đổi công
đến các loại hình dịch vụ chuyên môn, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, các hợp tác
xã đến lượt nó lại mở rộng quan hệ liên kết với các hình thức kinh tế khác. Sản xuất
nhỏ nông hộ dần dần xã hội hoá và thay đổi về bản chất, trở thành những đơn vị
trong guồng máy sản xuất lớn. Vì vậy, hợp tác hoá sản xuất là hướng tất yếu sẽ diễn
ra trong tương lai. Tuy nhiên, ngay bây giờ, nhu cầu hợp tác của người sản xuất còn

12



thấp và ở các hình thức nhỏ, thô sơ như dạng các nhóm - tập đoàn sản xuất tự
nguyện. Vì vậy, việc xây dựng Luật HTX cần lưu ý đến đặc điểm này để thể chế
hoá, tạo hành lang pháp lý phát triển (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2007).
Hướng phát triển nông trại: Phát triển kinh tế của hộ tiểu nông theo các loại hình
nông trại khác nhau. Dần dần các nông trại sẽ liên kết với nhau hoặc với các hình thức
kinh tế khác để chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên quy mô lớn hơn, căn bản hơn.
Hướng phát triển ngành nghề: Các nông hộ làm ăn khá giả dần dần tích tụ tư
bản, chuyển sang đầu tư sản xuất kinh doanh ở các lĩnh vực phi nông nghiệp, trở thành
chủ máy cày, chủ máy xay sát, chủ phương tiện vận tải... số khác chuyển sang kinh
doanh, làm dịch vụ ... hướng phát triển này có thể bắt đầu diễn ra lẻ tẻ, tạo thành một số
người giàu, những người này chuyển công nghệ hoặc tạo việc làm cho những người
khác, dần dần thu nhập chung được nâng dần lên. Điều này cũng có thể diễn ra trên
quy mô cả làng, hình thành làng nghề thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Khó có thể nói rằng trong tương lai hình thức nào sẽ chiếm ưu thế và trở thành
thành phần kinh tế chính trong nông thôn. Rất có thể cả ba sẽ lan rộng trong tương
lai, phối hợp đan xen nhau. Ở đây, muốn chuyển đổi thành công nền kinh tế tiểu nông
thành một nền kinh tế hàng hoá mạnh, sản xuất lớn thì từng hộ nông dân phải có vốn
để tích lũy và đầu tư; phải có nguồn cung cấp công nghệ tiên tiến cả về nnn và phi
nông nghiệp để sửdụng vốn có hiệu quả, làm ra giá trị thặng dư; và phải có nơi tiêu
thụ sản phẩm để dòng vốn liên tục luân chuyển, nhanh chóng tái sản xuất mở rộng
trong nền kinh tế thị trường (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2007).
2.1.3 Vai trò, đặc điểm của các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp
2.1.3.1 Kinh tế hộ nông dân
* Đặc điểm sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ nông dân.
- Theo khái niệm hộ sản xuất thì hộ sản xuất kinh doanh trong nhiều ngành nghề
(Nông - Lâm - Ngư - Diêm nghiệp - dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp). Nhưng hiện nay
phần lớn là hoạt động trong ngành nông nghiệp - thuần nông.
- Một đặc điểm nữa của kinh tế hộ sản xuất là việc tiến hành sản xuất kinh
doanh đa năng, vừa trồng trọt, vừa chăn nuôi và làm nghề phụ. Sự đa dạng ngành
nghề sản xuất ở một góc độ nào đó là sự hỗ trợ cần thiết để kinh tế hộ sản xuất có

hiêụ quả (Phạm Bảo Dương, 2004).

13


* Vai trò của kinh tế hộ nông dân.
Theo Hà Thị Thanh Mai (2013), Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực
tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Cho đến nay, nền nông nghiệp Việt Nam phát triển trên nền tảng kinh tế
nông hộ là chủ yếu. Trong thời gian qua, nông hộ đã có những đóng góp quan trọng
về sử dụng các nguồn lực vốn, đất, lao động và kinh nghiệm phục vụ cho việc mở
rộng sản xuất, thâm canh nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm nông nghiệp đáp
ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu (Phạm Bảo Dương, 2004).
a) Kinh tế hộ sản xuất giải quyết vấn đề việc làm và sử dụng tài nguyên ở nông thôn
Việc làm hiện nay là một vấn đề cấp bách với nông thôn nói riêng và với cả
nước nói chung. Đặc biệt nước ta có tới 80% người dân sống ở nông thôn, riêng Kỳ
Anh có 53,9% dân số ở nông thôn so với dân số trên toàn thành phố. Nếu chỉ trông
chờ vào khu vực kinh tế quốc doanh, Nhà nước hoặc sự thu hút lao động ở các
thành phố lớn thì khả năng giải quyết việc làm còn rất hạn chế.
Kinh tế hộ sản xuất có ưu thế là mức đầu tư cho một lao động thấp, chi phí
cho một lao động ở nông thôn ít tốn kém nhất. Đây là một điều kiện thuận lợi khi
nền kinh tế nước ta còn nghèo, ít vốn tích luỹ.
Do việc gắn trực tiếp lợi ích cá nhân với quyền sử dụng, quản lý, lâu dài đất
đai, tài nguyên nên việc sử dụng của hộ sản xuất hết sức tiết kiệm và khoa học, làm
tăng độ mầu mỡ của đất đai, hay phong phú nguồn tài nguyên vì họ hiểu đó chính là
lợi ích lâu dài của họ trên mảnh đất mà họ sở hữu. Mặt khác, đối với hộ sản xuất,
việc khai hoang phục hoá hay xen canh gối vụ cũng được khuyến khích tăng cường
thông qua việc tính toán chi li từng loại cây trồng vật nuôi để từng bước thay đổi bộ
mặt kinh tế ở nông thôn, nâng cao đời sống nông dân, tạo thêm công ăn việc làm

(Phạm Bảo Dương, 2004).
Tóm lại, khi hộ sản xuất được tự chủ về sản xuất kinh doanh, chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Đất đai, tài nguyên và các công cụ
lao động cũng được giao khoán. Chính họ sẽ dùng mọi cách thức, biện pháp sử
dụng chúng sao cho có hiệu quả nhất, bảo quản để sử dụng lâu dài. Họ cũng biết tự

14


đặt ra định mức tiêu hao vật tư kỹ thuật, khai thác mọi tiềm năng kỹ thuật vừa tạo ra
công ăn việc làm, vừa cung cấp được sản phẩm cho tiêu dùng của chính mình và
cho toàn xã hội.
b. Phát triển kinh tế hộ sản xuất có khả năng thích ứng được thị trường thúc đẩy
sản xuất hàng hoá phát triển
Kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá. Là đơn vị kinh
tế độc lập, các hộ sản xuất hoàn toàn được làm chủ các tư liệu sản xuất và quá trình
sản xuất. Căn cứ điều kiện của mình và nhu cầu của thị trường họ có thể tính toán sản
xuất cái gì? sản xuất như thế nào? Hộ sản xuất tự bản thân mình có thể giải quyết
được các mục tiêu có hiệu quả kinh tế cao nhất mà không phải qua nhiều cấp trung
gian chờ quyết định. Với quy mô nhỏ hộ sản xuất có thể dễ dàng loại bỏ những dự án
sản xuất, những sản phẩm không còn khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường để sản
xuất loại sản phẩm thị trường cần mà không sợ ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu do
cấp trên quy định (Phạm Bảo Dương, 2004).
Mặt khác, là chủ thể kinh tế tự do tham gia trên thị trường, hoà nhập với thị
trường, thích ứng với quy luật trên thị trường, do đó hộ sản xuất đã từng bước tự cải
tiến, thay đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường. Để theo đuổi mục đích lợi nhuận,
các hộ sản xuất phải làm quen và dần dần thực hiện chế độ hạch toán kinh tế để hoạt
động sản xuất có hiệu quả, đưa hộ sản xuất đến một hình thức phát triển cao hơn.
Như vậy, kinh tế hộ sản xuất có khả năng ngày càng thích ứng với nhu cầu
của thị trường, từ đó có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của toàn xã hội.

Hộ sản xuất cũng là lực lượng thúc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá ở nước ta phát triển
cao hơn.
c. Kinh tế hộ đóng góp sản xuất đối với xã hội
Như trên đã chỉ rõ, hộ sản xuất đã đứng ở cương vị là người tự chủ trong sản
xuất kinh doanh ở các lĩnh vực khác nhau và góp phần quan trọng trong sự phát
triển của nền kinh tế.
Tốc độ tăng về giá trị tổng sản lượng nông nghiệp trung bình hàng năm đạt 4%,
nổi bật là sản lượng lương thực. Gần 70% rau quả, thịt, trứng, cá, 20% đến 30% quỹ
lương thực và một phần hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu là do lực lượng kinh tế hộ sản

15


xuất nông nghiệp tạo ra. Từ chỗ nước ta chưa tự túc được lương thực thì đến nay đã là
một trong những nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới, công lao đó cũng thuộc
về người nông dân sản xuất nông nghiệp (Phạm Bảo Dương, 2004).
Bên cạnh sản xuất lương thực, sản xuất nông sản hàng hoá khác cũng có
bước phát triển, đã hình thành một số vùng chuyên canh có năng suất cao như: chè,
cà phê, cao su, dâu tằm...Ngành chăn nuôi cũng đang phát triển theo chiều hướng
sản xuất hàng hoá (thịt, sữa tươi...), tỷ trọng giá trị ngành chăn nuôi chiếm 24,7%
giá trị nông nghiệp.
Tóm lại, với hơn 80% dân số nước ta sống ở nông thôn thì kinh tế hộ sản
xuất có vai trò hết sức quan trọng, nhất là khi quyền quản lý và sử dụng đất đai, tài
nguyên lâu dài được giao cho hộ sản xuất thì vai trò sử dụng nguồn lao động, tận
dụng tiềm năng đất đai, tài nguyên, khả năng thích ứng với thị trường ngày càng thể
hiện rõ nét. Người lao động có toàn quyền tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản
phẩm, trực tiếp hưởng kết quả lao động sản xuất của mình, có trách nhiệm hơn
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở một khía cạnh khác, kinh tế hộ sản xuất còn
đóng vai trò đảm bảo an ninh trật tự, ổn định chính trị xã hội, giảm bớt các tệ nạn
trong xã hội do hành vi "nhàn cư vi bất thiện" gây ra.

2.1.3.2 Trang trại
* Đặc điểm của kinh tế trang trại.
Theo Mai Thanh Xuân, 2011. Kinh tế trang trại có một số đặc điểm sau:
- Kinh doanh sản xuất nông sản phẩm hàng hoá cho thị trường. Tỷ suất hàng
hoá thường đạt 70 – 80% trở lên. Tỷ suất hàng hoá càng cao càng thể hiện bản chất
và trình độ phát triển của kinh tế trang trại.
- Chủ trang trại là chủ kinh tế cá thể (bao gồm kinh tế gia đình và kinh tế tiểu
chủ) nắm một phần quyền sở hữu và toàn bộ quyền sử dụng đối với ruộng đất. Tư
liệu sản xuất, vốn và sản phẩm làm ra.
- Quy mô sản xuất của trang trại trước hết là quy mô đất đai được tập trung
đến mức đủ lớn theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá, chuyên canh và thâm canh,
song không nên vượt quá tầm kiểm soát quá trình sản xuất – sinh học trên đồng
ruộng hoặc trong chuồng trại của chủ trang trại.

16


- Cách thức tổ chức và quản lý đi dần vào phương thức kinh doanh song trực tiếp,
đơn giản và gọn nhẹ vừa mang tính gia đình vừa mang tính doanh nghiệp.
- Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức
và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh
doanh, về thị trường.
* Vai trò của kinh tế trang trại trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Trang trại là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng trong vấn đề nông nghiệp
thế giới, ngày nay trang trại gia đình là loại hình trang trại chủ yếu trong nền nông
nghiệp. Ở các nước đang phát triển trang trại gia đình có vai trò quyết định to lớn
trong sản xuất nông nghiệp, ở đây nông sản cung cấp cho xã hội được sản xuất ra từ
các trang trại gia đình (Nguyễn Đình Hưởng, 2000).
Ở nước ta kinh tế trang trại mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây.
Song vai trò tích cực và quan trọng của kinh tế trang trại đã thể hiện khá rõ nét cả về

mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội và môi trường.
- Về mặt kinh tế: các trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa cao, khắc phục dần tình trạng phân tán,
tạo nên những vùng chuyên môn hóa cao mặt khác qua thúc đẩy chuyển dịch kinh tế
trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến và
dịch vụ sản xuất ở nông thôn. Thực tế cho thấy việc phát triển kinh tế trang trại ở
những nơi có điều kiện bao giờ cũng đi liền với việc khai thác và sử dụng một cách đầy
đủ và hiệu quả các loại nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn so với kinh tế nông hộ.
Do vậy, phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực vào thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển của nông nghiệp và kinh tế của nông thôn (Nguyễn Đình Hưởng, 2000).
- Về mặt xã hội: Phát triển kinh tế trang trại góp phần quan trọng làm tăng số
hộ giàu trong nông thôn, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho lao động. Điều
này rất có ý nghĩa trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm, một trong những vấn
đề bức xúc của nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay. Mặt khác phát triển kinh tế
trang trại còn góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn và tạo tấm
gương cho các hộ nông dân về cách tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh... do đó
phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội và
đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn nước ta (Nguyễn Đình Hưởng, 2000).

17


- Về mặt môi trường: Do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực, lâu dài
của mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ các yếu
tố môi trường, trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái trang trại và sau nữa là
phạm vi từng vùng (Nguyễn Đình Hưởng, 2000).
Các trang trại ở trung du, miền núi đã góp phần quan trọng vào việc trồng
rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai
– những việc làm này đã góp phần tích cực cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái trên
các vùng đất nước.

2.1.3.3 Tổ hợp tác
Vai trò của tổ hợp tác trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
- Giải quyết nhu cầu việc làm cho người dân trên quy mô nhỏ, liên kết vốn
một cách tự nguyện.
- Tranh thủ được thế mạnh của tầng thành viên trong tổ.
- Giải quyết các nhu cầu sản xuất, đời sống theo hướng thỏa thuận dân sự.
- Là đầu mối liên kết với chính quyền cơ sở, đối tác của các chương trình dự
án cộng đồng, là khách hàng của các doanh nghiệp, nhà cung cấp hàng hóa, nơi
thực hiện công tác vận động xã hội, xây dựng cụm, dân cư, làng bản văn hóa...
2.1.3.4 Hợp tác xã
* Đặc điểm của Hợp tác xã.
- HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ, hoạt động như doanh nghiệp nhưng có
tính chất xã hội.
- HTX có tối thiểu 07 xã viên gồm cá nhân, hộ gia đình tự nguyện lập ra do
nhu cầu và lợi ích chung.
- Xã viên góp vốn và góp sức vào hợp tác xã.
- Vốn của HTX thuộc sở hữu tập thể.
- HTX là tổ chức có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính
trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp (Phạm Thị
Cầm và cộng sự, 2003).
* Vai trò của hợp tác xã trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do
ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt

18


động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành
viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp
tác xã (Phạm Thị Cầm và cộng sự, 2003).

Hợp tác xã là một loại hình kinh tế tập thể khá phổ biến, hoạt động trên nhiều
lĩnh vực đời sống xã hội và hiện diện ở các nền kinh tế có trình độ phát triển khác
nhau. Qua kinh nghiệm của một số nước trên thế giới như Thái Lan, Ma-lai-xi-a, đặc
biệt là Phần Lan – nơi được xem là “quê hương” của HTX cho thấy, đến nay hợp tác
xã vẫn tỏ ra là mô hình hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện cạnh tranh ngày
càng gay gắt. Và quan trọng hơn nữa, thông qua hợp tác xã, các hộ nông dân, các
doanh nghiệp nhỏ hợp tác với nhau, tăng sức mạnh để đối phó với khó khăn và tránh
các nguy cơ thua lỗ cao (Phạm Thị Cầm và cộng sự, 2003).
Nhận thức đúng vai trò của hợp tác xã có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn
chỉnh khuôn khổ pháp luật, làm rõ tiềm năng và lợi thế đích thực của hợp tác xã, từ
đó làm nó có đóng góp quan trọng, là nòng cốt của kinh tế tập thể và cùng với kinh tế
Nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát
triển HTX với mục tiêu cuối cùng và cao cả là đem lại lợi ích cho người dân, trước
hết là nông dân, người nghèo, doanh nghiệp nhỏ.
Qua triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết số 13NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX về "tiếp tục đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" đã xác định: “ Kinh tế tập thể phát triển
với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt”,” Kinh tế Nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân”. và được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương,
sự phối kết hợp của các Ngành khu vực, kinh tế tập thể đã hoạt động có hiệu quả.
Theo hướng đó, cần củng cố những tổ hợp tác và hợp tác xã hiện có, tiếp tục phát
triển rộng rãi kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức, quy mô, trình độ khác nhau
trong ngành, lĩnh vực địa bàn có điều kiện.
Thực tiễn phát triển đất nước những năm qua đã khẳng định vai trò của khu vực
kinh tế tập thể trong nền kinh tế, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn
có đóng góp quan trọng trong phát triển văn hóa và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an

19



×