Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sản xuất một số cây trồng chủ lực tại tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.4 MB, 98 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN

ii

LỜI CẢM ƠN

iii

MỤC LỤC

iv

DANH MỤC HÌNH

ix

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

x

MỞ ĐẦU

1

Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

4

1.1. Đánh giá diễn biến của biến đổi khí hậu trên thế giới:



4

1.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp

9

1.2.1. Diễn biến biến đổi khí hậu ở Việt Nam
1.2.2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nông nghiệp ở Việt Nam

9
13

1.2.3. Một số nghiên cứu trong thời gian gần đây về tác động của BĐKH đến
sản xuất nông nghiệp.

15

1.3. Tổng quan một số phương pháp nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi
khí hậu

16

1.4. Một số chương trình, chính sách của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
ứng phó với biến đổi khí hậu

19

Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


21

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

21

2.2. Nội dung nghiên cứu

21

2.3. Phương pháp nghiên cứu

22

2.3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp

22

2.3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp

22

2.3.3. Phương pháp dự báo

22

2.3.4. Phân tích số liệu trên excel

25


Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

26

3.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình

26

iv


3.1.1. Vị trí địa lý

26

3.1.2. Điều kiện tự nhiên

27

3.1.3. Các điều kiện kinh tế- xã hội

32

3.2. Tình hình sản xuất trồng trọt tại tỉnh Thái Bình

34

3.2.1. Hiện trạng sản xuất một số cây trồng chính

34


3.2.2. Hiện trạng sản xuất hai cây trồng chủ lực (lúa và ngô) tại tỉnh Thái
Bình

36

3.2.2.1. Hiện trạng sản xuất lúa tại tỉnh Thái Bình

37

3.2.2.2 Hiện trạng sản xuất ngô tại tỉnh Thái Bình

40

3.2.3. Diễn biến khí hậu, thời tiết tại tỉnh Thái Bình

42

3.2.4. Thiệt hại đến sản xuất lúa, ngô tại Thái Bình do ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu

47

3.2.5. Hiện trạng sản xuất nông nghiệp huyện Tiền Hải

56

3.2.6. Những nhận biết về tác động biến đổi khí hậu đến sản xuất cây trồng
tại xã Đông Cơ – Tiền Hải


58

3.3. Đánh giá kết quả điều tra, nhận biết của cán bộ và nông dân về tác
động của BĐKH đến nông ngiệp
3.3.1. Kết quả điều tra nhận thức của cán bộ về tác động của BĐKH

58
58

3.3.2. Kết quả điều tra đánh giá nhận thức của người dân về BĐKH và
tác động đến sản xuất các cây trồng chủ lực.

61

3.4. Dự báo thay đổi năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa
và ngô

67

3.4.1. Dự báo thay đổi đối với cây lúa

67

3.4.2. Dự báo thay đổi đối với cây ngô.

69

3.5. Các biện pháp thích ứng, ứng phó với BĐKH và Đề xuất các giải pháp giảm
nhẹ tác động và thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất cây trồng
chủ lực ở tỉnh Thái Bình


70

3.5.1. Các biện pháp thích ứng, ứng phó với BĐKH trong sản xuất
cây trồng chủ lực.

70

v


3.5.2. Đề xuất các giải pháp giảm nhẹ tác động và thích ứng với biến đổi khí
hâu trong sản xuất cây trồng chủ lực ở tỉnh Thái Bình

71

3.5.2.1. Những giải pháp chung

71

3.5.2.2. Đề xuất các giải pháp cụ thể cho tỉnh Thái Bình

72

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO


76

PHỤ LỤC

78

vi


DANH MỤC BẢNG
STT
1.1

Tên bảng

Trang

Mức tăng nhiệt độ và mức thay đổi lượng mưa trong 50 năm qua ở
các vùng khí hậu của Việt Nam

11

1.2 Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải trung bình (cm)

13

3.1 Diện tích một số cây hàng năm

35


3.2 Năng suất một số cây hàng năm

35

3.3 Sản lượng một số cây hàng năm

36

3.4 Thông tin cây trồng chủ lực lúa và ngô tại điểm điều tra tỉnh Thái Bình

36

3.5 Diễn biến diện tích canh tác lúa tại tỉnh Thái Bình (1000 ha)

38

3.6 Năng suất trồng lúa tỉnh Thái Bình (tạ/ha)

39

3.7 Sản lượng trồng lúa tỉnh Thái Bình giai đoạn 2009-2013 (1000 tấn)

40

3.8 Diện tích trồng ngô tỉnh Thái Bình (1000 ha)

41

3.9 Năng suất trồng ngô tỉnh Thái Bình (tạ/ha)


41

3.10 Sản lượng trồng ngô tỉnh Thái Bình giai đoạn 2009-2013 (1000 tấn)

42

3.11 Một số thiệt hại về lúa do lũ lụt tại tỉnh Thái Bình

49

3.12 Ảnh hưởng của BĐKH đến sản xuất trồng trọt và các biện pháp ứng
phó tại Thái Bình qua kết quả điều tra
3.13 Thông tin hộ nông dân điều tra

60
61

3.14 Sự hiểu biết của người dân về các yếu tố thời tiết khí hậu tác động
tới sản suất nông nghiệp

61

3.15 Tác động của BĐKH đến vùng nông nghiệp điều tra.
3.16

62

Thiệt hại trong sản xuất cây trồng chủ lực do tác động của các yếu
tố khí hậu


63

3.17 Một số biện pháp thích ứng của nông dân trong nông nghiệp do tác
động của BDKH tại tỉnh Thái Bình

64

3.18 Tác động của nhiệt độ đối với cây lúa theo các giai đoạn dựa trên kết
quả điều tra

65

vii


3.19 Tác động của các yếu tố khí hậu đối với cây ngô theo các giai đoạn
dựa trên kết quả điều tra

66

3.20 So sánh sự thay đổi năng suất lúa Xuân – tỉnh Thái Bình trong kịch
bản B2 BĐKH với năng suất năm tham chiếu (2013)
3.21

68

So sánh sự thay đổi năng suất lúa Mùa – tỉnh Thái Bình trong kịch
bản B2 BĐKH với năng suất năm tham chiếu (2013)

69


3.22 So sánh sự thay đổi năng suất ngô xuân – tỉnh Thái Bình trong kịch
bản BĐKH B2 với năng suất năm tham chiếu (2013)

viii

70


DANH MỤC HÌNH
STT

Tên hình

Trang

1.1. Ảnh hưởng và phản ứng với biến đổi khí hậu (IPCC, 2007)

6

1.2. Diễn biến về sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu giai đoạn 1800s-2000s

7

1.3.Diễn biến nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng và băng tan 1850-2000

8

1.4. Diễn biến thiệt hại do thiên tai trên thế giới 1960-2000 (Tỷ US$,


9

2.1. Cấu trúc mô DSSAT

24

3.1. Bản đồ vị trí hành chính của tỉnh Thái Bình

27

3.2. Bản đồ phân bố lượng mưa ở Thái Bình

28

3.3. Lượng mưa trung bình tháng tại tỉnh Thái Bình

29

3.4. Nhiệt độ trung bình tháng tại tỉnh Thái Bình

29

3.5. Số giờ nắng trung bình tháng tại tỉnh Thái Bình

30

3.6. Diễn biến năng suất lúa tỉnh Thái Bình (tạ/ha)

39


3.7.

Diễn biến nhiệt độ tháng I và tháng VII ở tỉnh Thái Bình giai đoạn
43

1960 - 2010
3.8. Diễn biến tổng lượng mưa năm ở tỉnh Thái Bình giai đoạn 1960 – 2010

43

3.9. Các hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện tại tỉnh Thái Bình

46

ix


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ATNĐ

Áp thấp nhiệt đới

BĐKH

Biến đổi khí hậu

DSSAT

Mô hình tính toán hỗ trợ ra quyết định trong


PTNT

chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghịêp
Phát triển nông thôn

NN & PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NBD

Nước biển dâng

MARD

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

MONRE

Bộ Tài nguyên và Môi trường

GOS

Tổng Cục Thống Kê

IPCC

Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu


TN&MT

Tài nguyên và Môi trường

KNK

Khí nhà kính

UBND

Ủy ban nhân dân

UNEP
KTTV

Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc
Khí tượng thủy văn

WB

Ngân hàng thế giới

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới

x


MỞ ĐẦU


1.Tính cấp thiết của đề tài
Sản xuất nông nghiệp ở nước ta nói chung và sản xuất nông nghiệp tại tỉnh
Thái Bình nói riêng đang đứng trước nhiều thách thức do tác động của biến đổi khí
hậu ( BĐKH). Những thay đổi bất thường về thời tiết và các hiện tượng thời tiết
cực đoan đang tác động mạnh mẽ đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp trong
khi khả năng ứng phó của cộng đồng và người dân còn nhiều hạn chế.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một nội dung mới, mặc dù trên thế giới đã có
nhiều nghiên cứu về BĐKH nhưng ở Việt Nam thì mới chú trọng trong những
năm gần đây. Diễn biến của BĐKH ngày càng thể hiện phức tạp, nó tác động đến
hầu hết các lĩnh vực trong sản xuất đời sống, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp.
Hiện nay các nghiên cứu đánh giá tác động ở Việt Nam đa phần trên quy mô
vùng, toàn quốc. Các số liệu hiện chủ yếu mang tính chất định hướng.
Với bờ biển dài, địa hình phức tạp, đa dạng về điều kiện khí hậu, Việt
Nam được đánh giá là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất do tác
động tiêu cực của biến đổi khí hậu (BĐKH). Trong đó, nông nghiệp sẽ là ngành
chịu tác động nặng nề hơn bất cứ ngành nào khác bởi lẽ đối tượng sản xuất là cây
trồng, vật nuôi rất nhạy cảm với điều kiện thời tiết, khí hậu.
Thái Bình là tỉnh sản xuất nông nghiệp trọng điểm của vùng ĐBSH, trong
đó Lúa và Ngô là 2 cây lương thực có hạt chính và được trồng trên tất cả các loại
đất dùng cho mục đích sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Theo số liệu thống kê của
tỉnh Thái Bình, trong những năm gần đây diện tích lúa có xu hướng giảm dần
(diện tích Lúa 2 vụ trong toàn tỉnh năm 2009 là 167.100 ha đã giảm xuống còn
161.800ha năm 2013). Ngược lại với Lúa, diện tích Ngô trên địa bàn tỉnh lại có
xu hướng tăng dần (diện tích Ngô tăng từ 8.500 ha năm 2009 lên 9.300 ha năm
2013). Diện tích đất lúa giảm chủ yếu do 2 nguyên nhân chính là: (i) phát triển
đô thị và sản xuất công nghiệp; (ii) do nguyên nhân tác động của BĐKH như xói
mòn, sạt lở đất tại các vùng bãi bồi ven các con sông, xâm lấn mặn ở các vùng

1



sản xuất lúa tại các huyện ven biển. Theo quy hoạch tổng thể phát triển bền vững
kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình đến năm 2020 tầm nhìn 2030 thì nông nghiệp vẫn là
ngành giữ vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn ra hết sức phức tạp trên toàn
thế giới, Thái Bình đã và đang bị tác động mạnh bởi biến đổi khí hậu và nước
biển dâng. Thực tế những năm qua, trên địa bàn tỉnh Thái Bình do ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu nên các hiện tượng thời tiết như: bão, lụt, áp thấp nhiệt đới xảy
ra thất thường đã trực tiếp ảnh hưởng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến nhiều
ngành sản xuất và đời sống của người dân. Những cơn bão với cường độ ngày
càng mạnh đã tàn phá nhiều cánh rừng ngập mặn cũng như rừng phòng hộ, làm
suy thoái hệ sinh thái ven biển, ảnh hưởng lớn tới kinh tế thủy hải sản của địa
phương. Năm 2012 cơn bão số 8 đổ bộ trực tiếp vào Thái Bình đã gây thiệt hại
lớn về người và tài sản, trong đó thiệt hại nặng nề nhất là ngành nông nghiệp với
6.000 ha lúa mùa đã chín bị đổ, ngập sâu trong nước, gần 30.000 ha hoa màu, cây
vụ đông bị hư hỏng nặng, hàng vạn cây lấy gỗ, cây ăn quả bị đổ. Các đợt rét đậm,
rét hại bất thường kéo dài vào cuối năm 2011 và đầu năm 2012 tại Thái Bình cho
thấy sự gia tăng của thiên tai và các hiện tượng cực đoan của khí hậu, thời tiết làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Sâu bệnh phát sinh trên
diện rộng, dịch bệnh gia súc, gia cầm bùng phát ở nhiều nơi gây tâm lý lo ngại,
người nông dân không yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, cây trồng sinh trưởng
chậm, ảnh hưởng thời vụ. Nắng nóng kéo dài do tác động của biến đổi khí hậu trong
những năm gần đây, dẫn đến nước biển xâm nhập sâu vào đất liền làm cho đất canh
tác tại các địa phương ven biển trong tỉnh bị mặn hóa.
Hiện nay, nghiên cứu cụ thể về tác động của biến đổi khí hậu ở tỉnh Thái
Bình còn rất ít, chưa có những nghiên cứu cụ thể về tác động của BĐKH đến sản
xuất nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt của tỉnh Thái Bình nói riêng.
Từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sản xuất một số cây trồng chủ lực tại tỉnh

Thái Bình”.

2


2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá được hiện trạng sản xuất nông nghiệp và một số cây trồng chủ
lực (lúa, ngô) tại tỉnh Thái Bình.
- Xác định được diễn biến, xu hướng và các biến đổi khí hậu, thời tiết ở
Thái Bình và lân cận trong thời gian qua và các dự báo có thể theo kịch bản biến
đổi khí hậu
- Bước đầu xác định được một số tác động và mức độ thiệt hại do hậu quả
của biến đổi khí hậu, thiên tai, thời tiết đến sản xuất một số cây trồng chủ lực
(lúa, ngô).
- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp giảm thiệt hại
do tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất các cây trồng chủ lực (lúa, ngô)
của Thái Bình
Yêu cầu của đề tài
- Nêu được đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội liên quan đến hiện trạng sản
xuất cây trồng chủ lực chính của tỉnh Thái Bình.
- Nêu được tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất các cây trồng chủ
lực nói chung và cây trồng (lúa, ngô).
- Tập hợp được các kinh nghiệm của cán bộ địa phương và nông dân về
các ứng phó bất thuận của thời tiết, khí hậu đến sản xuất các cây trồng (lúa, ngô).
- Dự báo năng suất, sản lượng của các cây trồng lúa, ngô theo kịch bản
biến đổi khí hậu B2 ( kịch bản trung bình, MONRE 2011)
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo sản xuất các loại cây trồng chủ lực (lúa,
ngô) tại tỉnh Thái Bình ứng phó với BĐKH.

3



Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
BĐKH là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển,
sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên
và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định từ tính bằng thập kỷ hay hàng triệu
năm. Sự biển đổi có thế là thay đổi thời tiết bình quân hay thay đổi sự phân bố
các sự kiện thời tiết quanh một mức trung bình. Sự biến đổi khí hậu có thể giới
hạn trong một vùng nhất định hay có thế xuất hiện trên toàn địa cầu. Trong
những năm gần đây, đặc biệt trong ngữ cảnh chính sách môi trường, biến đổi khí
hậu thường đề cập tới sự thay đổi khí hậu hiện nay, được gọi chung bằng hiện
tượng nóng lên toàn cầu. Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái Đất là do
sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai
thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ
sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác.
Biến đổi khí hậu diễn ra trên phạm vi toàn cầu, tác động đến tất cả các
châu lục, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của sự sống (động vật thực vật, đa
dạng sinh học, cảnh quan, môi trường sống …) với cường độ ngày một tăng và
hậu quả ngày càng nặng nề khó lường trước.
1.1. Đánh giá diễn biến của biến đổi khí hậu trên thế giới:
Nghiên cứu dự báo của IPCC, WB và nhiều tổ chức khác cho thấy rằng
biến đổi khí hậu (BĐKH) có thể gây ra những thảm họa toàn cầu về thiên nhiên môi trường, đe dọa mạng sống hàng triệu người, làm bùng nổ các làn sóng di cư,
thậm chí đe dọa sự tồn tại của nhiều quốc gia ở vị trí thấp so với mực nước biển.
Có dự báo cho rằng, đến năm 2050, khoảng 150 triệu người có thể phải rời khỏi
những khu vực duyên hải do nước biển dâng, bão lụt hoặc nước ngọt bị nhiễm
mặn. Nếu những điều này xảy ra, cơ cấu địa - chính trị cũng như không gian
chiến lược ở một số khu vực trên thế giới có thể có sự thay đổi lớn; sự bố trí quốc
phòng - an ninh cũng có thể có những sự xáo trộn không nhỏ.
Biến đổi khí hậu có thể làm gia tăng sự khan hiếm và làm thay đổi quá trình

phân bổ các nguồn tài nguyên thiết yếu và có tầm chiến lược quan trọng như
nước, đất trồng trọt..., làm trầm trọng thêm các thách thức an ninh phi truyền

4


thống khác đang nóng bỏng hiện nay như an ninh lương thực, an ninh năng
lượng, khoảng cách giàu-nghèo..., từ đó làm gia tăng nguy cơ bất ổn định, xung
đột, khủng bố, làm sâu sắc thêm các mâu thuẫn chính trị-xã hội ở nhiều nơi trên
thế giới. Dự báo đến năm 2025, khoảng 5 tỷ người có thể sẽ sống trong những
khu vực có nguy cơ căng thẳng, xung đột liên quan đến sự khan hiếm nước và
lương thực. Cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước về chi phối, kiểm soát các
nguồn tài nguyên thiết yếu của thế giới có chiều hướng gay gắt hơn có thể dẫn tới
đối đầu về quân sự liên quan đến việc phân bố lại các nguồn lực của thế giới.
Trước những diễn biến và ảnh hưởng tiêu cực mang tính toàn cầu của biến
đổi khí hậu, các nước trên thế giới đã có nhiều động thái tích cực nhằm ngăn
chặn những hiểm họa khôn lường mà biến đổi khí hậu có thể gây ra cho loài
người. Năm 1979, Hội nghị Khí hậu quốc tế lần thứ nhất đã ra tuyên bố kêu gọi
chính phủ các nước nhận thức về mức độ nghiêm trọng và tiến hành các hành
động nhằm giảm thiểu các tác động làm biến đổi khí hậu do con người gây ra.
Một loạt các hội nghị liên chính phủ thảo luận về vấn đề biến đổi khí hậu đã
được tổ chức từ những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 như: Hội nghị
Villach (10/1985), Hội nghị Toronto (6/1988), Hội nghị Ottawa (2/1989), Hội
nghị Tata (2/1989), Hội nghị và tuyên bố Hague (3/1989), Hội nghị bộ trưởng
Noordwijk (11/1989), Hội nghị Cairo (12/1989), Hội nghị Bergen (5/1990), và
Hội nghị Khí hậu thế giới lần thứ 2 (11/1990).
Cùng với các bằng chứng khoa học được đưa ra ngày càng nhiều, các hội
nghị liên quan đến biến đổi khí hậu và các tác động của nó ngày càng nhận được
sự quan tâm của các nhà khoa học cũng như cộng đồng quốc tế. Năm 1988, Ủy
ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) được UNEP và WHO thành lập.

IPCC có nhiệm vụ đánh giá một cách tổng hợp, khách quan, minh bạch các thông
tin khoa học – kỹ thuật và kinh tế - xã hội liên quan đến các rủi ro xuất phát từ
hiện tượng biến đổi khí hậu do các hoạt động của con người gây ra.
Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nhanh và nhanh hơn dự đoán của
con người. Biến đổi khí hậu diễn ra theo một chu trình mà ở đó khí hậu chịu tác
động mạnh mẽ bởi các hoạt động của trái đất, mối quan hệ giữa trái đất với hệ vũ
trụ và đặc biệt là tác động do các hoạt động của con người. Khi dân số và nhu
cầu về sản phẩm tiêu dùng của con người gia tăng đòi hỏi phải tăng cường khai

5


thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa. Hậu
quả là làm tăng phát thải chất thải và khí nhà kính. Quá trình này làm cho sự biến
đổi khí hậu theo hướng bất lợi cho sản xuất, tài nguyên và con người ngày càng
gia tăng (IPCC, 2007).
Trong 200 năm qua nồng độ khí CO2 trong khí quyển đã tăng thêm một phần
ba so với thời kỳ tiền công nghiệp, vào khoảng 372 ppm. Nồng độ các khí gây
hiệu ứng nhà kính khác cũng tăng do hoạt động của con người, cách đây 200 năm
nồng độ khí CH4 là 800 ppb, còn bây giờ là 1.750 ppb. NOx cũng tăng lên từ 270
ppb lên 310ppb. Các khí gây hiệu ứng nhà kính trong đó có khí CO2 là nguyên
nhân chính gây nên hiện tượng nóng lên toàn cầu (IPCC, 2007).

Biến đổi khí hậu
Nhiệt độ thay đổi
Lượng mưa thay đổi
Nước biển dâng

Điều khiển khí hậu
Tập trung và phát thải:

- Khí nhà kính
- Bụi (Aerosols)

HOẠT ĐỘNG
TRÁI ĐẤT,
CON NGƯỜI

Tác động và tồn thương
Hệ sinh thái
Nguồn nước
An ninh lương thực
Định cư và trật tự xã hội
Sức khỏe cộng đồng

Phát triển kinh tế xã hội

Giảm thiểu

- Quản lý vĩ mô
- Xóa mù chữ
- Sức khỏe cộng đồng
- Công bằng xã hội
- Công nghệ
- Dân số
- Phát triển sản xuất và xây
dựng
- Hoạt động văn hóa xã hội

Thích ứng


Hình 1.1. Ảnh hưởng và phản ứng với biến đổi khí hậu (IPCC, 2007)

6


-

Về nhiệt độ:

Theo các kết quả đánh giá của IPCC trong các báo cáo kỹ thuật 3 và 4 cho
thấy nhiệt độ trái đất tăng mạnh ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Theo ước tính
nhiệt độ toàn cầu tăng 0.740C trong giai đoạn 1906-2005; 1.280C giai đoạn 19562005 và được dự báo quá trính này còn tăng mạnh hơn nữa trong các thập niên tiếp
theo. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là nhiệt độ lại tăng mạnh vào mùa nóng và giảm
mạnh vào mùa đông là cho khí hậu toàn cầu ngày càng trở nên khắc nghiệt hơn
đặc biệt đối với các vùng khó khăn, dễ bị tổn thương trên thế giới. Như vậy, chắc
chắn những vùng dễ bị tổn thương và khắc nghiệt, biến đổi khí hậu sẽ diễn ra
nghiêm trọng và gây thiệt hại ngày trầm trọng hơn.

Hình 1.2. Diễn biến về sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu giai đoạn 1800s-2000s
Nguồn: Báo cáo kỹ thuật của IPCC, 2007
Kết quả so sánh sự khác biệt về nhiệt độ trong thời gian dài từ thế kỷ 19
(1800) đến thế kỷ 21 (2008) cho thấy nhiệt độ toàn cầu bắt đầu có sự tăng lên từ
những năm 1960. Giai đoạn này cũng là giai đoạn bắt đầu bùng nổ về sản xuất
công nghiệp, tài nguyên thiên nhiên bị khai tác tối đa phục vụ cho sản xuất các
sản phẩm tiêu dùng (IPCC, 2007, Hình 1.2). Như vậy, có thể nói rằng biến đổi

7


khí hậu có liên quan mật thiết và nguyên nhân chính là do hoạt động sản xuất của

con người. Con người khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để sản xuất sản
phẩm, từ đó phát thải ra quá nhiểu chất thải, làm thay đổi và phá vỡ bầu khí
quyển dẫn đến thay đổi về khí hậu, đặc biệt là sự ấm lên của trái đất.
- Băng tan và nước biển dâng:
Nhiệt độ toàn cầu tăng lên làm cho băng ở vùng Bắc Cực tan nhanh. Kết quả
nghiên cứu IPCC cho thấy lượng băng che phủ Bắc cực giảm mạnh, trung bình
trên 2,7%/thập kỷ. Nhiều vùng trước đây được che phủ bằng lớp băng dầy, nay
đã bị tan rã và trở nên trơ trọi. Nhiều tảng băng lớn, thậm chí tương đương với
diện tích nước Bỉ đang trôi trên đại dương và đang hướng về nước Úc (IPCC,
2007). Băng tại Bắc Cực – khu vực tích trữ nguồn nước lớn nhất cả nước bị tan
rã làm cho mực nước biển dâng cao. Kết quả thống kê của IPCC và các cơ quan
nghiên cứu của Mỹ, Úc cho thấy nước biển toàn cầu dâng trung bình 1.8mm/năm
giai đoạn 1961-2003 và 3,1 mm/năm giai đoạn 1993-2003. Nước biển toàn cầu
đã dâng 0,31 m trong một thế kỷ gần đây. IPCC và các quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam đều dự báo rằng mực nước biển tiếp tục tăng trong những
thập kỷ tiếp theo và có thể đạt 100cm vào năm 2100.

Hình 1.3. Diễn biến nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng và băng tan 1850-2000
(IPCC, 2007)

8


- Thiên tai và các sự cố thời tiết bất thường:
Có thể nói rằng tính bất thường và mức độ thiên tai ngày càng trở nên
trầm trọng hơn trên khắp thế giới nhất là những giai đoạn gần đây.
350
300
250
200

150
100
50
0
1960-1969

1970-1979
Thực hại gián tiếp

1980-1989
1990-2000
Thiệt hại trực tiếp

Hình 1.4. Diễn biến thiệt hại do thiên tai trên thế giới 1960-2000 (Tỷ US$,
GREEN, 2004)
Do tác động biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng diễn biến bất thường,
thiên tai có xu hướng ngày càng gia tăng. Kết quả thống kê của GREEN, 2004
cho thấy thiệt hại do thiên tai tăng mạnh và ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Hơn nữa, các thiệt hại gián tiếp cao hơn nhiều so với rủi ro trực tiếp và thể hiện
hệ lụy tất yếu của điều kiện thời tiết khí hậu bất thường.
1.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
1.2.1. Diễn biến biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Ở Việt Nam trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,50C
trên phạm vi cả nước và lượng mưa có xu hướng giảm ở phía Bắc, tăng ở phía
Nam lãnh thổ. Nhiệt độ tháng I (tháng đặc trưng cho mùa đông), nhiệt độ tháng
VII (tháng đặc trưng cho mùa hè) và nhiệt độ trung bình năm tăng trên phạm vi cả
nước trong 50 năm qua. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn so với mùa hè và nhiệt
độ vùng sâu trong đất liền tăng nhanh hơn nhiệt độ vùng ven biển và hải đảo.
Vào mùa đông, nhiệt độ tăng nhanh hơn cả là ở Tây Bắc Bộ, Đông Bắc
Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ (khoảng từ 1,3 tới 1,50C trong 50 năm).

Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ có nhiệt độ tháng I tăng chậm hơn so

9


với các vùng khí hậu phía Bắc (khoảng từ 0,6 tới 0,90C trong 50 năm). Tính
trung bình cho cả nước, nhiệt độ mùa đông ở nước ta đã tăng lên 1,20 C trong 50
năm qua. Nhiệt độ tháng VII tăng khoảng từ 0,3 đến 0,50C trong 50 năm qua trên
tất cả các vùng khí hậu của nước ta. Nhiệt độ trung bình năm tăng từ 0,5 đến 0,60
C trong 50 năm ở Tây Bắc, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
Tây Nguyên và Nam Bộ còn mức tăng nhiệt độ trung bình năm ở Nam Trung Bộ
thấp hơn, chỉ vào khoảng 0,30C trong 50 năm.
Xu thế chung của nhiệt độ là tăng ở hầu hết các khu vực trên cả nước, tuy
nhiên có những khu vực nhỏ thuộc vùng ven biển Trung Bộ và Nam Bộ như các tỉnh
Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Tiền Giang có xu hướng giảm của nhiệt độ. Đáng lưu
ý là ở những nơi này, lượng mưa tăng trong cả hai mùa: mùa khô và mùa mưa.
Mức thay đổi nhiệt độ cực đại trên toàn Việt Nam nhìn chung dao động
trong khoảng từ -30 C đến 30C. Mức thay đổi nhiệt độ cực tiểu chủ yếu dao động
trong khoảng từ -50 C đến 50C. Xu thế chung của nhiệt độ cực đại và cực tiểu là
tăng, tốc độ tăng của nhiệt độ cực tiểu nhanh hơn so với nhiệt độ cực đại, phù
hợp với xu thế chung của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Lượng mưa mùa khô (tháng XI-IV) tăng ít hoặc không thay đổi đáng kể
ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng mạnh mẽ ở các vùng khí hậu phía Nam
trong 50 năm qua. Lượng mưa mùa mưa (tháng V-X) giảm từ 5 đến hơn 10%
trên đa phần diện tích phía Bắc nước ta và tăng khoảng từ 5 đến 20% ở các vùng
khí hậu phía Nam trong 50 năm qua. Xu thế diễn biến của lượng mưa năm tương
tự như lượng mưa mùa mưa, tăng ở các vùng khí hậu phía Nam và giảm ở các
vùng khí hậu phía Bắc. Khu vực Nam Trung Bộ có lượng mưa mùa khô, mùa
mưa và lượng mưa năm tăng mạnh nhất so với các vùng khác ở nước ta, nhiều
nơi đến 20% trong 50 năm qua.

Lượng mưa ngày cực đại tăng lên ở hầu hết các vùng khí hậu, nhất là trong
những năm gần đây. Số ngày mưa lớn cũng có xu thế tăng lên tương ứng, nhiều biến
động mạnh xảy ra ở khu vực miền Trung. Tồn tại mối tương quan khá rõ giữa sự
nóng lên toàn cầu và nhiệt độ bề mặt biển khu vực Đông xích đạo Thái Bình Dương
với xu thế biến đổi của số ngày mưa lớn trên các vùng khí hậu phía Nam.

10


Bảng 1.1. Mức tăng nhiệt độ và mức thay đổi lượng mưa trong 50 năm qua
ở các vùng khí hậu của Việt Nam
Nhiệt độ(oC)
Vùng khí hậu

Lượng mưa (%)
Tháng XI

Tháng V –

Tháng

Tháng

I

VII

Tây Bắc Bộ

1,4


0,5

0,5

6

-6

-2

Đông Bắc Bộ

1,5

0,3

0,6

0

-9

-7

Đồng bằng Bắc Bộ

1,4

0,5


0,6

0

-13

-11

Bắc Trung Bộ

1,3

0,5

0,5

4

-5

-3

Nam Trung Bộ

0,6

0,5

0,3


20

20

20

Tây Nguyên

0,9

0,4

0,6

19

9

11

Nam Bộ

0,8

0,4

0,6

27


6

9

Năm

– Tháng
IV

Tháng X

Năm

(Nguồn: Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi trường, 2014)
Về xoáy thuận nhiệt đới, trung bình hàng năm có khoảng 12 cơn bão và áp
thấp nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông, trong đó khoảng 45% số cơn nảy sinh
ngay trên Biển Đông và 55% số cơn từ Thái Bình Dương di chuyển vào. Số cơn
bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam vào khoảng 7 cơn mỗi năm và
trong đó có 5 cơn đổ bộ hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền nước ta. Nơi có tần
suất hoạt động của bão, áp thấp nhiệt đới lớn nhất nằm ở phần giữa của khu vực
Bắc Biển Đông, trung bình mỗi năm có khoảng 3 cơn đi qua ô lưới 2,5 x 2,5 độ
kinh vĩ. Khu vực bờ biển miền Trung từ 16 đến 180 N và khu vực bờ biển Bắc Bộ
từ 200 N trở lên có tần suất hoạt động của bão, áp thấp nhiệt đới cao nhất trong cả
dải ven biển nước ta, cứ khoảng 2 năm lại có 1 cơn bão, áp thấp nhiệt đới đi vào
khu vực 1 vĩ độ bờ biển.
Số lượng xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên khu vực Biển Đông có xu
hướng tăng nhẹ, trong khi đó số cơn ảnh hưởng hoặc đổ bộ vào đất liền Việt

11



Nam không có xu hướng biến đổi rõ ràng. Khu vực đổ bộ của các cơn bão và áp
thấp nhiệt đới vào Việt Nam có xu hướng lùi dần về phía Nam lãnh thổ nước ta;
số lượng các cơn bão rất mạnh có xu hướng gia tăng; mùa bão có dấu hiệu kết
thúc muộn hơn trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của bão
đến nước ta có xu hướng mạnh lên.
Hạn hán, bao gồm hạn tháng và hạn mùa có xu thế tăng lên nhưng với
mức độ không đồng đều giữa các vùng và giữa các trạm trong từng vùng khí hậu.
Hiện tượng nắng nóng có dấu hiệu gia tăng rõ rệt ở nhiều vùng trong cả nước,
đặc biệt là ở Trung Bộ và Nam Bộ.
* Phát thải khí nhà kính
Biến đổi khí hậu phụ thuộc chủ yếu vào mức độ phát thải khí nhà kính,
tức là phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, các kịch bản biến đổi
khí hậu được xây dựng dựa trên các kịch bản phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu.
Các kịch bản phát thải khí nhà kính được xây dựng dựa trên các cơ sở: (1) Sự
phát triển kinh tế ở quy mô toàn cầu; (2) Dân số thế giới và mức độ tiêu dùng; (3)
Chuẩn mực cuộc sống và lối sống; (4) Tiêu thụ năng lượng và tài nguyên năng
lượng; (5) Chuyển giao công nghệ; (6) Thay đổi sử dụng đất.
* Kịch bản nước biển dâng
Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, mực nước
biển dâng cao nhất ở khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang trong khoảng từ 62 đến
82cm; thấp nhất ở khu vực Móng Cái trong khoảng từ 49 đến 64cm. Trung bình
toàn Việt Nam, mực nước biển dâng trong khoảng từ 57 đến 73cm (Bảng 1.2)

12


Bảng 1.2. Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải trung bình (cm)
Khu vực

Móng Cái –
Hòn Dáu
Hòn Dáu – Đèo
Ngang
Đèo Ngang –
Đèo Hải Vân
Đèo Hải Vân –
Mũi Đại Lãnh
Mũi Đại Lãnh –
Mũi Kê Gà
Mũi Kê Gà –
Mũi Cà Mau
Mũi Cà Mau –
Kiên Giang

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020
7-8
7-8
8-9
8-9
8-9
8-9
9-10

2030

2040

2050


2060

2070

2080

2090

2100

11-

15-

20-

25-

31-

36-

42-

49-

12

17


24

31

38

47

55

64

11-

15-

20-

25-

31-

37-

43-

49-

13


18

24

32

39

48

56

65

12-

17-

23-

30-

37-

45-

52-

60-


13

19

25

33

42

51

61

71

12-

18-

24-

31-

38-

45-

53-


61-

13

19

26

35

44

53

63

74

12-

17-

24-

31-

38-

46-


54-

62-

13

20

27

36

45

55

66

77

12-

17-

23-

30-

37-


44-

51-

59-

14

20

27

35

44

54

64

75

13-

19-

25-

32-


39-

47-

55-

62-

15

22

30

39

49

59

70

82

(Nguồn: Bộ TN & MT, 2014)
1.2.2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nông nghiệp ở Việt Nam
Nông nghiệp Việt Nam là một trong số ít các nước sẽ chịu ảnh hưởng
nghiêm trọng của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng. Theo tính toán
của các chuyên gia nghiên cứu BĐKH, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt

Nam có thể tăng lên 300C và mực nước biển có thể dâng 1m. Theo đó, khoảng 40
nghìn km2 đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập. Theo dự đoán của Chương
trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), các tác động trên sẽ gây thiệt hại rất
lớn về kinh tế và khiến khoảng 17 triệu người không có nhà. Theo nghiên cứu
của ngân hàng thế giới (WB), Nước ta với bờ biến dài và hai vùng đồng bằng
lớn, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 - 0,6m sẽ có từ 100.000 đến 200.000ha
đất bị ngập và làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Nước biển dâng

13


lên 1m sẽ làm ngập khoảng 0,3 - 0,5 triệu ha tại Đồng bằng sông Hồng và những
năm lũ lớn khoảng 90% diện tích của Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập từ 4 - 5
tháng, vào mùa khô khoảng trên 70% diện tích bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn
hơn 4g/l. Ước tính Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trong tổng
số 4 triệu ha hiện nay, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực Quốc gia và
ảnh hưởng đến hàng chục triệu người dân. Biến đổi khí hậu làm thay đổi điều kiện
sinh sống của các loài sinh vật, dẫn đến tình trạng biến mất của một số loài và
ngược lại làm xuất hiện nguy cơ gia tăng các loài “thiên địch”. Trong thời gian 2
năm trở lại đây, dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá ở Đồng bằng sông Cửu Long
diễn ra ngày càng phức tạp ảnh hưởng đến khả năng thâm canh tăng vụ và làm
giảm sản lượng lúa. ở miền Bắc trong vụ Đông Xuân vừa qua sâu quấn lá nhỏ
cũng đã phát sinh thành dịch, thời cao điểm diện tích lúa bị hại đã lên đến
400.000ha, gây thiệt hại đáng kể đến năng suất và làm tăng chi phí sản xuất. Biến
đổi khí hậu có thể tác động đến thời vụ, làm thay đổi cấu trúc mùa, quy hoạch
vùng, kỹ thuật tưới tiêu, sâu bệnh, năng suất, sản lượng; làm suy thoái tài nguyên
đất, đa dạng sinh học bị đe dọa, suy giảm về số lượng và chất lượng do ngập nước
và do khô hạn, tăng thêm nguy cơ diệt củng của động vật, làm biến mất các nguồn
gen quý hiếm. Một số loài nuôi có thể bị tác động làm giảm sức đề kháng do biên
độ dao động của nhiệt độ, độ ẩm và các yếu tố ngoại cảnh khác tăng lên. Sự thay

đổi các yếu tố khí hậu và thời tiết có thể làm nảy sinh một số bệnh mới đối với
chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy cầm và phát triển thành dịch hay đại dịch.
Biến đổi khí hậu là vấn đề rất lớn đối với Việt Nam, nhiều tổ chức quốc tế
và các tổ chức nghiên cứu trong nước đều nhận định, nước ta là một trong số ít
các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Trong đó, ngành nông
nghiệp và PTNT và bà con nông dân là những đối tượng bị ảnh hưởng sớm nhất
và nặng nề nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu và thực hiện các biện pháp để thích ứng
và đối phó có hiệu quả hơn với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ quan trọng của cơ
quan chuyên môn.

14


1.2.3. Một số nghiên cứu trong thời gian gần đây về tác động của BĐKH đến
sản xuất nông nghiệp.
Về nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp
nói chung và trong lĩnh vực trồng trọt nói riêng đã có một số nghiên cứu như:
Điều tra, đánh giá tác động, xác định các giải pháp ứng phó và triển khai các kế
hoạch hành động trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản (Phạm Quang Hà,
2012). Theo đó các tác giả đã xây dựng được bộ chỉ số đánh giá tác động của
biến đổi khí hậu đến nông nghiệp và thủy sản cho 7 vùng sinh thái của Việt Nam.
Đánh giá được tính tổn thương của khí hậu đến sản xuất nông nghiệp của các
vùng và hướng dẫn đề xuất các kế hoạch hành động ứng phó của biến đổi cấp
tỉnh lấy Nam Định làm ví dụ.
Nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu cấp vùng đối với cây
trồng lúa, ngô, mía, đỗ tương cũng đã bắt đầu được thực hiện tại vùng đồng bằng
Sông Hồng và Đồng Bằng sông Cửu Long (Phạm Quang Hà và nnk, 2014) . Tùy
theo tính chất cây trồng, mô hình sử dụng và kịch bản biến đổi khí hậu cho giai
đoạn 2020, 2030, 2050, 2100 các kết quả cụ thể có khác nhau, nhưng nhìn chung
kể cả năng suất tiềm năng và năng suất theo canh tác hiện hành của các cây trồng

đã nghiên cứu nhìn chung có xu hướng giảm. Có những vụ, năng suất lúa có thể
giảm trên 15% do biến đổi khí hậu. Theo kịch bản NBD 1m, sản lượng lúa nước
có nguy cơ bị suy giảm lên đến 7,1 triệu tấn chỉ tính riêng ở các tỉnh vùng
ĐBSCL; Chỉ tính riêng 1 vụ, mức thiệt hại là trên 3 triệu tấn lúa và ước tính thiệt
hại là 17 nghìn tỷ đồng ( giá lúa 2012).
Về kết quả nghiên cứu mô hình hóa, mô phỏng: Mô hình hiệu chỉnh cho
thấy các mô hình mô phỏng ở ĐBSH có sự khác biệt thấp so với kết quả theo dõi,
quan trắc từ thí nghiệm; nhưng các mô hình mô phỏng ở ĐBSCL có sự khác biệt
lớn so với kết quả quan trắc từ thí nghiệm và cần có các đánh giá chi tiết và thời
gian dài hơn. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, đối với cây ngô: mức độ
tổn thương trong sản xuất ngô ở cả 2 vùng đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) và
Đồng bằng Sông Cửu Long nằm ở mức 1 đến mức 3 và sản xuất ngô vùng
ĐBSH dễ bị tổn thương hơn so với vùng ĐBSCL (chỉ số tổn thương đối với cây

15


ngô ở vùng ĐBSH: 0,4; giao động từ 0,3-0,6; vùng ĐBSCL: 0,3; dao động từ
0,18-0,41); - Đối với cây đậu tương sự suy giảm diện tích trồng đậu tương trong
những năm vừa qua là do các yếu tố cạnh tranh khác, không phải do biến đổi khí
hậu. Mức độ tổn thương trong sản xuất đậu tương ở cả 2 vùng nằm ở mức 1 đến
mức 3. Chỉ số tổn thương đối với cây đậu tương ở vùng ĐBSH: 0,3; giao động từ
0,2-0,5; vùng ĐBSCL: 0,3; giao động từ 0,17-0,55.

1.3. Tổng quan một số phương pháp nghiên cứu đánh giá tác động của biến
đổi khí hậu
Có nhiều quan điểm lượng hóa và đánh giá tác động của biến đổi khí hậu,
tuy nhiên các chuyên gia cũng đi tới được một thống nhất, để lượng hóa và đánh
giá các tác động từ biến đổi khí hậu nên đánh giá các tổn thất từ các nhóm giá trị
chịu tổn hại. Tổng hợp của Trần Văn Thể và CS ( 2009) cho thấy các quan điểm

đánh giá tác động của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu vào:
- Đánh giá tác động của BĐKH dựa trên các tổn thất giá trị vật chất như thiệt
hại về cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp, hệ thống công trình thủy lợi, mùa màng.
- Đánh giá tác động của BĐKH dựa vào các tổn thất giá trị hoạt động như
các tổn thất đối với các hoạt động bị ngưng trệ do tai biến gây ra như khả năng
phục hồi khả năng sinh học của cây trồng, làm sạch các thành phần môi trường
do thiên tai dưới tác động của biến đổi khí hậu;
- Đánh giá tác động của BĐKH dựa vào những tổn thất giá trị môi sinh làm
thay đổi cơ chế hấp thụ, sinh trưởng phát triển của cây trồng, vật nuôi, điều hòa khí
hậu gây dịch chuyển cơ cấu mùa vụ, suy giảm giá trị sinh thái và đa dạng sinh học.
- Ngoài ra, đánh giá tác động của BĐKH còn dựa trên tổn thất giá trị lưu
truyền và giá trị tồn tại: Tổn thất những giá trị tiềm năng chưa sử dụng ở hiện
tại; những giá trị có ý nghĩa như văn hoá, thẩm mỹ, di sản... cho đời sau.(Bùi Đại
Dũng, 2010).
Dựa trên các quan điểm về tổn thất do tác động của biến đổi khí hậu, có
nhiều phương pháp được khuyến cáo lựa chọn trong đánh giá tác động biến đổi
khí hậu đối với các cây trồng chủ lực, cụ thể:

16


- Phương pháp giá thị trường (Makert Price Method): là phương pháp xác
định giá trị của hệ sinh thái thông qua các sản phẩm, dịch vụ của hệ sinh thái
được trao đổi, mua bán trên thị trường, tổn thất do sự cố môi trường có thể được
xác định bằng sự thay đổi về số lượng và chất lượng của hàng hoá, dịch vụ với tư
cách là hệ quả của sự cố được Hackett (1960), Freeman A. M. (1993) sử dụng
rộng rãi trong đánh giá tác động của môi trường và biến đổi khí hậu đến các đối
tượng bị ảnh hưởng.
- Phương pháp thay đổi năng suất (Productivity Change Method) được sử
dụng để đánh giá sự thay đổi về năng suất cây trồng do các tác động trực tiếp,

gián tiếp của BĐKH đến cây trồng, vật nuôi. Phương pháp này có thể sử dụng để
tính toán tổn thất trực tiếp do thiên tai đến các cây trồng hoặc thông qua các mô
hình hóa để tính toán thay đổi về năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế trong
tương lai (Barbier E.ZB., 1994; Dixon J.A an et al, 1996 và EEPSEA 2008)
- Phương pháp chi phí sức khoẻ (Cost of Illness) do tác động của biến đổi
khí hậu nhưng phương pháp này không được sử dụng phổ biến khi đánh giá tác
động của biến đỏi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp do nông nghiệp mang tinh
chất thời vụ, những tồn thất về y tế do thiên tai nhưng không đúng thời vụ gieo
trồng sẽ không được tính là tác động do biến đổi khí hậu (Mirasgedis and V.
Hontou and et al, 2008)
- Phương pháp chi phí thay thế (Replacement Cost Method) cũng được sử
dụng để đánh giá tác tác động trực tiếp do hậu quả của biến đổi khí hậu như thiên
tai, phá hỏng các công trình, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp (Bolt
K.G. 2006).
- Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (Damage Cost Avoided
Method): Các hệ sinh thái có chức năng bảo vệ, phòng tránh các thiệt hại đối với
con người. Chức năng bảo vệ này có giá trị tương đương với những gì có thể mất
đi nếu không được nó bảo vệ. Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được sử dụng
các giá trị của tài sản được bảo vệ hoặc những chi phí cho các hoạt động nhằm
tránh những thiệt hại đó, để đo lường lợi ích của hệ sinh thái (EPA, 2005)

17


- Phương pháp mô hình chọn lựa (Choice Modelling Method): Phương
pháp mô hình chọn lựa (CM) căn cứ vào sự ưa thích được thể hiện (stated
preference) của cá nhân thông qua phỏng vấn. Phương pháp này bắt nguồn từ
phân tích kết hợp, người được hỏi sẽ đứng trước nhiều tập hợp lựa chọn. Từ mỗi
tập hợp lựa chọn, người được hỏi sẽ chọn ra phương án mà họ ưa thích. Bằng
cách đặt cho mỗi thuộc tính một mức giá hoặc mức chi phí thì các ước lượng về

lợi ích biên sẽ được chuyển thành các ước lượng về tiền tệ đối với mỗi sự thay
đổi các mức độ của thuộc tính.
- Phương pháp tính toán mức độ tổn thương do biến đổi khí hậu cũng
được nhiều nghiên cứu sử dụng. Các nhóm yếu tố như thay đổi các chỉ số về thời
tiết (Expose parameter); khả năng nhạy cảm (sensitivity) và khả năng thích ứng
(Adaptive capacity) được sử dụng để tính toán mức độ tổn thương của các đối
tượng cây trồng do tác động của biến đổi khí hậu để xây dựng các biện pháp ứng
phó giảm tổn thương, tiến tới phát triển sản xuất cây trồng chủ lực bền vững và
hiệu quả (Aried Anshory Yusuf and Herminia Fransisco, 2009; Ranganathan C.
R., et al. 2009).
- Trong thực tế các nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến
sản xuất nông nghiệp đều dựa vào phân tích diễn biến khí hậu trong quá khứ qua
các dãy số liệu khí tượng nhiều thập kỷ (vài chục năm); điều tra tác động của
biến đổi khí hậu theo nhận thức và kinh nghiệm của nông dân, mùa màng. Đánh
giá thiệt hại theo thông kê các mất mát do thiên tai, lụt lội, hạn hạn và các bất
thuận của thời tiết. Theo dõi các diễn biến trong sản xuất và các thiệt hại. Ngoài
ra công cụ mô phỏng mô hình hóa ví dụ như DSSAT (2003) cũng rất được áp
dụng ( Phạm Quang Hà và nnk, 2013,2014) để đánh giá các tác động của sự thay
đổi khí hậu theo các kịch bản thông thường được các quốc gia công bố. Việt
Nam, dùng kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam do Bộ tài
nguyên môi trường công bố (MONRE, 2009, 2011)

18


×