MỤC LỤC
Lời cam đoan
I
Lời cảm ơn
II
Mục lục
III
Danh mục chữ viết tắt
VI
Danh mục bảng
VII
Danh mục hình
VIII
MỞ ĐẦU
1
1
Tính cấp thiết của đề tài
1
2
Mục đích nghiên cứu
2
3
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2
CHƯƠNG 1TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1 Vai trò và đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế
3
1.1.1 Vai trò của ngành sản xuất nông nghiệp
3
1.1.2 Đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp
5
1.2 Đất và vai trò của đất trong sản xuất nông nghiệp
7
1.2.1 Khái niệm và phân loại đất nông nghiệp
7
1.2.2 Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
8
1.3 Các quan điểm về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng đất
8
1.3.1 Khái quát hiệu quả sử dụng đất
8
1.3.2 Ý nghĩa của đánh giá hiệu quả sử dụng đất đối với sản xuất nông nghiệp
10
1.3.3 Một số quan điểm về đánh giá hiệu quả sử dụng đất
10
1.3.4 Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng đất của FAO
12
1.4 Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
14
1.5 Những nghiên cứu đánh giá sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và tại
Việt Nam
1.5.1 Trên thế giới
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
16
16
Page iii
1.5.2 Tại Việt Nam
18
CHƯƠNG 2NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
22
2.1 Đối tượng nghiên cứu
22
2.2 Phạm vi nghiên cứu
22
2.3 Nội dung nghiên cứu
22
2.3.1 Điều tra, đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh
hưởng tới sử dụng đất nông nghiệp của huyện Nho Quan
22
2.3.2 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của huyện Nho Quan
22
2.3.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện Nho Quan
22
2.3.4 Định hướng sử dụng đất nông nghiệp huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình
23
2.4
Phương pháp nghiên cứu
23
2.4.1 Phương pháp phân vùng nghiên cứu
23
2.4.2 Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu
24
2.4.3 Phương pháp xử lý số liệu, tài liệu
24
2.4.4 Phương pháp tính hiệu quả sử dụng đất
24
2.4.5 Phương pháp so sánh
28
CHƯƠNG 3KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
29
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
29
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
29
3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
36
3.2 Hiện trạng sử dụng đất và thực trạng phát triển nông nghiệp huyện
Nho Quan
37
3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất huyện Nho Quan
37
3.2.2 Hiện trạng sản xuất nông nghiệp huyện Nho Quan
39
3.2.3 Các loại hình sử dụng đất nông nghiệp huyện Nho Quan
41
3.3 Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của huyện
50
3.3.1 Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất
50
3.3.2 Hiệu quả xã hội
59
3.3.3 Hiệu quả môi trường
64
3.4 Lựa chọn loại hình và kiểu sử dụng đất.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
71
Page iv
3.4.1 Những căn cứ lựa chọn các loại hình và kiểu sử dụng đất
71
3.4.2 Kết quả lựa chọn các loại hình và kiểu sử dụng đất
71
3.5 Một số giải pháp mở rộng diện tích các loại hình sử dụng đất triển vọng
73
3.5.1 Giải pháp chung
73
3.5.2 Những giải pháp cụ thể
75
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
77
Kết luận
77
Kiến nghị
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
80
PHỤ LỤC
82
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
BVTV
Bảo vệ thực vật
2
CN
Công nghiệp
3
CPTG
Chi phí trung gian
4
DT
Diện tích
5
GTGT
Giá trị gia tăng
6
GTSX
Giá trị sản xuất
7
HTX
Hợp tác xã
8
LĐ
Lao động
9
GTNCLĐ
Giá trị ngày công lao động
10
GB
Giá bán
11
LUT
Loại hình sử dụng đất
12
NN&PTNT
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
13
NS
Năng suất
14
NTTS
Nuôi trồng thuỷ sản
15
TSLN
Tỷ suất lợi nhuận
16
UBND
Ủy ban nhân dân
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
2.1
Phân cấp hiệu quả kinh tế của các kiểu sử dụng đất
25
2.2
Phân cấp hiệu quả xã hội của các loại hình và kiểu sử dụng đất
26
3.1
Cơ cấu kinh tế của huyện Nho Quan giai đoạn 2010 – 2014
36
3.2
Diện tích, cơ cấu đất đai phân theo mục đích sử dụng
38
3.3
Sản xuất nông nghiệp huyện Nho Quan giai đoạn 2010 - 2014
40
3.4
Hiện trạng các loại hình sử dụng đất nông nghiệp huyện Nho Quan
43
3.5
Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 1
51
3.6
Đánh giá hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất tiểu vùng 1
52
3.7
Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 2
54
3.8
Đánh giá hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất tiểu vùng 2
55
3.9
Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 3
57
3.10
Đánh giá hiệu quả kinh tế tiểu vùng 3
58
3.11
Hiệu quả xã hội của tiểu vùng 1
60
3.12
Đánh giá hiệu quả xã hội tiểu vùng 1
61
3.13
Hiệu quả xã hội của tiểu vùng 2
62
3.14
Đánh giá hiệu quả xã hội tiểu vùng 2
62
3.15
Hiệu quả xã hội của tiểu vùng 3
63
3.16
Đánh giá hiệu quả xã hội tiểu vùng 3
64
3.17
Mức sử dụng phân bón của các cây trồng huyện Nho Quan
65
3.18
Hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật huyện Nho Quan
66
3.19
Đánh giá hiệu quả môi trường tiểu vùng 1
67
3.20
Đánh giá hiệu quả môi trường tiểu vùng 2
68
3.21
Đánh giá hiệu quả môi trường tiểu vùng 3
68
3.22
Đánh giá tổng hợp các loại hình và kiểu sử dụng đất huyện Nho Quan
70
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Trang
Page vii
DANH MỤC HÌNH
STT
Tên bảng
Trang
3.1
Cơ cấu đất đai theo mục đích sử dụng huyện Nho Quan
39
3.2
Cánh đồng trồng lạc xã Xích Thổ - Nho Quan
45
3.3
Cánh đồng chuyên rau xã Thạch Bình - Nho Quan
46
3.4
Ruộng trồng bí xanh
47
3.5
Cánh đồng chuyên trồng lúa xã Văn Phong - Nho Quan
48
3.6
Cánh đồng trồng lúa kết hợp nuôi cá tiểu vùng 3
49
3.7
Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất của tiểu vùng 1
52
3.8
Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất của tiểu vùng 2
55
3.9
Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất của tiểu vùng 3
57
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là yếu tố mang tính
quyết định sự tồn tại, phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Các
Mác viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện để sinh tồn, là điều
kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản”. Bởi vậy, nếu
không có đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào có thể hoạt động, con
người không thể sản xuất ra của cải vật chất để tồn tại và duy trì nòi giống. Theo
Luật Đất đai năm 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam : “Đất đai là
tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ nhân
dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như
ngày nay!”.
Đối với sản xuất nông nghiệp, đất đai không chỉ là đối tượng lao động mà
còn là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế được. Quá trình sản xuất nông
nghiệp luôn liên quan chặt chẽ với độ phì nhiêu và các quá trình hóa, sinh, lý học tự
nhiên của đất (Lê Văn Khoa, 2007).
Tuy nhiên, đất đai có tính cố định vị trí, không thể di chuyển được và luôn phải
chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường cũng như sự tác động của con người trong
quá trình sản xuất. Mặt khác, đất đai không giống các hàng hóa khác có thể sản sinh
qua quá trình sản xuất. Do đó, đất đai là có hạn. Bảo vệ đất đai là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững (Lê Thái Bạt, 1995).
Việt Nam là nước đang phát triển. Sản xuất nông nghiệp luôn đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế của đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp tập trung
mang nặng tính bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta đang phải đối
mặt với hàng loạt các vấn đề kinh tế, xã hội cũng như môi trường. Mặt khác, sức ép
của gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự thiếu ý thức của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
con người trong quá trình sản xuất khiến đất nông nghiệp đang bị suy giảm về diện
tích cũng như chất lượng. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam cần
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở đó nâng cao thu nhập cho
người nông dân, cải thiện cảnh quan, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái. Do vậy,
việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp từ đó lựa chọn các loại hình sử
dụng đất hiệu quả, định hướng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển
bền vững đang trở thành vấn đề quan trọng, cần được quan tâm nghiên cứu.
Nho Quan là huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Bình, có diện tích
tự nhiên là 44.528,00 ha, chiếm 1/3 tổng diện tích tự nhiên của tỉnh. Nho Quan có
địa hình phức tạp, có tính chất bán sơn địa, vừa có đồi núi vừa có đồng bằng. Đây là
huyện nông nghiệp trọng điểm của tỉnh Ninh Bình. Huyện có quỹ đất nông nghiệp
dồi dào và lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp lớn, chiếm gần 60% tổng số
lao động của huyện. Sản xuất nông nghiệp cũng là nguồn thu nhập chủ yếu của
người dân địa phương. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp nhằm
định hướng sử dụng đất phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội là vô cùng cần thiết
trong phát triển kinh tế của huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Phan
Quốc Hưng, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả và định hướng sử
dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Nho Quan – tỉnh Ninh Bình”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện Nho Quan
Đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả phù hợp với điều kiện
tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần bổ sung phương pháp luận
trong đánh giá đất, nghiên cứu sâu về các loại hình sử dụng đất, giúp cho các cơ
quan quản lý đất đai có những chính sách về sử dụng và bảo vệ đất đai theo quan
điểm sử dụng đất bền vững.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vai trò và đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế
1.1.1. Vai trò của ngành sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất xuất hiện đầu tiên trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người. Cuộc cách mạng công nghiệp mở ra vào cuối thế kỷ XVIII,
rồi cách mạng khoa học kỹ thuật giữa thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI có nhiều ngành
ra đời và phát triển lớn mạnh: công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ, viễn
thông, công nghệ tin học…Mặc dù vậy, nông nghiệp vẫn là một trong hai ngành sản
xuất vật chất rất quan trọng, bởi những đóng góp sau đây:
Thứ nhất, nông nghiệp sản xuất và cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu
cầu thiết yếu của cuộc sống. Nhiều sản phẩm của nông nghiệp: lương thực, thực
phẩm đều là những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Ăng
Ghen đã từng khẳng định: "Trước hết con người cần phải có ăn, uống, ở và mặc,
trước khi lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo". Việt Nam
ta có câu "Có thực mới vực được đạo". Xã hội càng phát triển, với dân số ngày càng
tăng, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về số lượng, chủng
loại đa dạng hơn và chất lượng cao hơn. Điều quan trọng là, dù trình độ khoa học công nghệ có hiện đại đến mấy cũng chưa có ngành nào thay thế ngành nông nghiệp
để tạo ra lương thực thực phẩm cho xã hội. Với trình độ phát triển của khoa học
ngày nay, vẫn chưa có một ngành sản xuất nào có thể thay thế được ngành nông
nghiệp. Nếu thiếu những sản phẩm thiết yếu của nông nghiệp, con người không thể
tồn tại và phát triển được.
Thứ hai, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ và công
nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp giấy, công nghiệp dệt, công nghiệp rượu,
bia, công nghiệp giầy da, công nghiệp dầu ăn, công nghiệp đồ hộp… sử dụng chủ
yếu nguyên liệu đầu vào được sản xuất từ những sản phẩm của nông nghiệp. Bởi
vậy, sự phát triển của ngành nông nghiệp có tác động thúc đẩy cho công nghiệp
nhẹ, đặc biệt là công nghiệp chế biến cùng phát triển theo.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
Thứ ba, nông nghiệp cung cấp hàng hoá xuất khẩu. Do đặc thù của sản xuất
nông nghiệp, mỗi quốc gia có lợi thế phát triển cây trồng, vật nuôi khác nhau, hình
thành lợi thế so sánh giữa các quốc gia về phát triển thương mại quốc tế. Vì thế, các
quốc gia có lợi thế về phát triển nông nghiệp sẽ xuất khẩu nông sản, tạo nguồn
ngoại tệ cho đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển. Ở những nước đang trong giai
đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông nghiệp còn là nguồn tạo
ra thu nhập về ngoại tệ hoặc có thể trao đổi lấy máy móc, trang thiết bị.
Thứ tư, nông nghiệp nông thôn là thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá
và dịch vụ của công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp là một trong
những nhân tố bảo đảm cho các ngành công nghiệp khác phát triển như công nghiệp
hoá học, cơ khí, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ sản xuất và đời sống.
Sự phát triển ổn định của nông nghiệp đòi hỏi phải cung cấp một lượng hàng ổn
định về vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc nông cụ cũng như các mặt
hàng tiêu dùng công nghiệp như, xà phòng, giấy vở, dệt may… Vì thế, nông nghiệp,
nông thôn là thị trường tiêu thụ các sản phẩm của các ngành công nghiệp và dịch
vụ. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, dân số nông thôn còn
chiếm tỷ lệ rất cao. Do đó, phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ làm tăng thu nhập
cho người dân nông thôn, là điều kiện để họ tăng khả năng tiêu dùng các hàng hoá,
dịch vụ của công nghiệp và các ngành kinh tế khác, là cơ sở thúc đẩy cho nền kinh
tế phát triển.
Thứ năm, nông nghiệp còn có tác dụng giữ gìn và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, củng cố và bảo vệ an ninh quốc phòng. Phát triển nông nghiệp ở bất cứ nước
nào, cũng gắn liền với việc sử dụng và quản lý các tài nguyên thiên nhiên như đất đai,
nguồn nước, rừng, thực vật và động vật. Một nền nông nghiệp phát triển, ngoài việc
đảm bảo các vai trò nói trên, còn phải góp phần giữ gìn và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường, chống suy giảm các nguồn lực, mất đa dạng sinh học, chống ô
nhiễm môi trường. Đó là điều kiện cần thiết cho sự phát triển một nền nông nghiệp ổn
định và bền vững. Hơn nữa, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp gắn liền với cuộc
sống của người nông dân. Vì thế, ở đâu có sản xuất nông nghiệp thì ở đó có nông dân,
lực lượng nòng cốt giữ gìn an ninh quốc phòng, bảo vệ tổ quốc (Đỗ Quang Quý, 2007).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
1.1.2. Đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế đặc biệt, khác với công nghiệp và các
ngành kinh tế khác ở lĩnh vực sản xuất, đầu tư và lưu thông hàng hoá. Để phát
triển đúng đắn nền nông nghiệp, việc xem xét và phân tích các đặc điểm của
ngành là rất cần thiết.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là sinh vật. Sinh vật bao gồm các cây
trồng, vật nuôi và các sinh vật khác. Chúng có các quy luật tự nhiên riêng (sinh
trưởng, phát triển, phát dục, diệt vong) và đồng thời lại chịu tác động rất nhiều từ
ngoại cảnh tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của con người. Vì thế, trong công
nghiệp con người có thể tác động vào đối tượng sản xuất ở bất cứ phạm vi và mức
độ nào theo ý muốn, thì trong nông nghiệp con người phải nhận thức cho được quy
luật sinh học và quy luật tự nhiên để cho sinh vật phát triển theo chiều hướng có lợi
cho con người. Mọi sự can thiệp phù hợp với quy luật sinh học và quy luật tự nhiên
là một yêu cầu quan trọng nhất của bất cứ một quá trình sản xuất nông nghiệp nào.
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế. Trong
công nghiệp, đất đai là nơi làm nền móng nhà xưởng, thì địa hình, chất lượng đất
không ảnh hưởng nhiều đến năng suất và hiệu quả của ngành. Còn trong nông
nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế. Thường
thì không có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Đất đai được gọi là tư liệu
sản xuất đặc biệt là vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất đai
chịu sự tác động của con người như cày, xới để có môi trường tốt cho sinh vật phát
triển. Đất đai là tư liệu lao động, vì đất được như một công cụ lao động. Con người
dùng đất đai để trồng cây và chăn nuôi. Không có đất đai thì không có sản xuất
nông nghiệp. Vì thế số lượng và chất lượng đất đai quy định lợi thế so sánh của mỗi
vùng, cũng như cơ cấu sản xuất của từng nông trại và cả vùng. Hướng sử dụng đất
quy định hướng sử dụng các tư liệu sản xuất khác. Chỉ có thông qua đất đai, các tư
liệu sản xuất mới tác động đến cây trồng, việc sử dụng đất đai đúng hướng còn
quyết định đến hiệu quả sản xuất. Từ đây, cần sử dụng đầy đủ và hợp lý để vừa làm
tăng năng suất đất đai, vừa giữ gìn và bảo vệ đất đai
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
Nông nghiệp được phân bố trên phạm vi không gian rộng lớn, phức tạp và
mang tính khu vực rõ rệt. Tích tụ và tập trung cao là đặc điểm cơ bản của sản xuất
công nghiệp. Trái lại, nông nghiệp được phân bố trên phạm vi không gian rộng lớn,
ở đâu có đất, có người là ở đó có sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, đất đai là sản
phẩm của tự nhiên, mỗi vùng rất khác nhau về địa hình, về khí hậu thời tiết, dẫn tới
những khác nhau về quy hoạch và bố trí sản xuất trên mỗi vùng, lãnh thổ. Đặc điểm
này do tính chất của đất đai quy định. Hơn nữa, đất đai với tư cách là tư liệu sản
xuất chủ yếu có địa bàn trải rộng. Tính chất này kéo theo sự đa dạng về địa hình,
chất đất, nguồn nước, sinh vật sống ở đó và thời tiết khí hậu.
Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao. Các cây trồng, vật nuôi ngoài sự
tác động trực tiếp của con người cần phải có thời gian tác động của tự nhiên nữa,
quá trình kết hợp đó không ăn khớp nhịp nhàng, mà xen kẽ nhau, do vậy trong nông
nghiệp có lúc thời vụ nhàn rỗi và có lúc rất căng thẳng (gieo trồng, thu hoạch). Để
giảm bớt tính thời vụ, chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề kinh tế - kỹ thuật như
bố trí sản xuất kết hợp với phát triển tổng hợp, mở rộng thêm các ngành nghề, đa
dạng hoá trong kỹ năng lao động và đa dạng hoá trong trang bị công cụ lao động có
tính vạn năng. Về kỹ thuật cần tìm cây trồng, vật nuôi có thời gian sinh trưởng ngắn
để có thể sản xuất nhiều vụ trong năm.
Trên đây là những đặc điểm chung của sản xuất nông nghiệp của mọi quốc
gia. Nông nghiệp Việt Nam ngoài những đặc điểm trên, còn một số đặc điểm riêng.
Nông nghiệp Việt Nam phát triển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá
trong nền kinh tế thị trường. Người sản xuất nông nghiệp chủ yếu là nông dân, còn
nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các quy luật cung cầu và cạnh tranh. Năng suất lao
động thấp, ruộng đất manh mún đã cản trở rất nhiều trong quá trình tập trung hoá sản
xuất và cơ giới hoá nông nghiệp. Nông nghiệp Việt Nam là nền nông nghiệp nhiệt đới.
Do đó, giống cây trồng, vật nuôi phong phú, cây trồng phát triển bốn mùa và có lượng
mưa lớn cùng với hệ thống sông, suối nhiều đáp ứng nước tưới cho cây trồng và phát
triển ngành chăn nuôi thuỷ sản thuận lợi. Tuy nhiên, khi lượng mưa ẩm quá lớn vừa
gây ra lũ lụt, bão, vừa gây ra hạn hán. Hơn nữa, khí hậu nóng ẩm đã tạo điều kiện cho
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
sâu bệnh phát sinh nhanh và phá hoại các thành quả lao động của nông dân. Địa hình
đất không bằng phẳng, có độ dốc cao, nhất là vùng trung du và miền núi, mưa to gây ra
xói mòn, lũ quét, sạt lở đất. Bởi thế, trong quá trình phát triền nền nông nghiệp của đất
nước, chúng ta cần tìm mọi cách để phát huy hết những mặt thuận lợi và hạn chế đến
mức tối đa những mặt khó khăn, bảo đảm cho sản xuất kinh doanh nông nghiệp có sự
phát triển bền vững (Đỗ Quang Quý, 2007).
1.2. Đất và vai trò của đất trong sản xuất nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm và phân loại đất nông nghiệp
Theo Luật đất đai (2013),đất nông nghiệp (ký hiệu là NNP) là đất sử dụng
vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng. Đất nông nghiệp bao
gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm
muối và đất nông nghiệp khác.
+ Đất sản xuất nông nghiệp: Là đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông
nghiệp, bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm.
+ Đất lâm nghiệp: Là đất có rừng tự nhiên hoặc có rừng trồng đạt tiêu chuẩn
rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, đất khoanh nuôi phục
hồi rừng, đất để trồng rừng mới.Đất lâm nghiệp bao gồm đất rừng sản xuất, đất rừng
phòng hộ, đất rừng đặc dụng.
+ Đất nuôi trồng thuỷ sản: Là đất được sử dụng chuyên cho mục đích nuôi, trồng
thuỷ sản, bao gồm đất nuôi trồng nước lợ, mặn và đất chuyên nuôi trồng nước ngọt.
+ Đất làm muối: Là đất các ruộng muối để sử dụng vào mục đích sản xuất muối.
+ Đất nông nghiệp khác: Là đất tại nông thôn sử dụng để xây dựng nhà kính
hoặc các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt kể cả các hình thức trồng trọt
không trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại
động vật khác được pháp luật cho phép; xây dựng trạm, trại nghiên cứu thí nghiệm
nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, xây dựng cơ sở ươm tạo cây
giống, con giống; xây dựng kho, nhà của hộ gia đình, cá nhân để chứa nông sản,
thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, máy móc, công cụ sản xuất nông nghiệp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là điều kiện cho sự sống của
động vật, thực vật và con người trên trái đất. Đất đai là điều kiện cần thiết để con
người tồn tại và tái xuất các thế hệ kế tiếp nhau của loài người cũng là khoảng
không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất trong ngành kinh tế
quốc dân và mọi hoạt động của xã hội. Tuy vậy, đối với từng ngành cụ thể, đất đai
có vị trí khác nhau. Trong công nghiệp, thương mại, giao thông đất đai là cơ sở, nền
móng để trên đó xây dựng nhà cửa, cửa hàng, mạng lưới giao thông, thì ngược lại
trong nông nghiệp ruộng đất tham gia với tư cách là yếu tố tích cực của sản xuất, là
tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được.
Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế được.
Ngoài vai trò là không gian để sản xuất nông nghiệp, đất còn có 2 chức năng đặc biệt
quan trọng. Thứ nhất, đất là đối tượng chịu tác động trực tiếp của con người trong quá
trình sản xuất. Thứ hai, đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây
trồng nước, muối khoáng, không khí và các chất cần thiết cho cây trồng sinh trưởng và
phát triển (Lê Văn Khoa, 2007).
1.3. Các quan điểm về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng đất
1.3.1. Khái quát hiệu quả sử dụng đất
Hiệu quả kinh tế
Theo Các Mác, bản chất của hiệu quả kinh tế là sự thực hiện yêu cầu của quy
luật tiết kiệm thời gian biểu hiện trình độ sử dụng nguồn lực của xã hội. Trong đó
quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt, mọi hoạt động
của con người đều tuân theo quy luật đó, đồng thời nó quyết định động lực phát
triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh xã hội và nâng cao
đời sống của con người qua mọi thời đại.
Theo các nhà khoa học Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman), hiệu
quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả
hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời
kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được
là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của
các nguồn lực đầu vào. Vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: với một
diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất
với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
Hiệu quả kinh tế là khâu trung tâm của tất cả các loại hiệu quả và nó có vai
trò quyết định đối với các loại hiệu quả khác. Hiệu quả kinh tế là loại hiệu quả có
khả năng lượng hoá, được tính toán tương đối chính xác và biểu hiện bằng các hệ
thống các chỉ tiêu (Nguyễn Văn Hảo, 2007).
Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và
tổng chi phí bỏ ra. Theo Nguyễn Duy Tính (1995), hiệu quả về mặt xã hội sử dụng
đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị
diện tích đất nông nghiệp.
Từ những quan điểm trên cho thấy hiệu quả xã hội có liên quan mật thiết với hiệu
quả kinh tế, chúng là tiền đề của nhau và là một phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan
hệ giữa kết quả sản xuất và các lợi ích xã hội mang lại. Việc lượng hoá các chỉ tiêu biểu
hiện hiệu quả xã hội gặp nhiều khó khăn và chủ yếu phản ánh bằng các chỉ tiêu mang
tính định tính như tạo công ăn việc làm, định canh định cư, lành mạnh xã hội.
Hiệu quả môi trường
Đây là loại hiệu quả được các nhà môi trường học rất quan tâm trong điều
kiện hiện nay. Một hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi các hoạt động
của nó không có những ảnh hưởng tác động xấu đến môi sinh và đa dạng sinh học.
Hiệu quả môi trường được phân theo nguyên nhân gây nên gồm: hiệu quả hoá học
môi trường, hiệu quả vật lý môi trường và hiệu quả sinh vật môi trường. Hiệu quả
sinh vật môi trường là hiệu quả khác nhau của hệ thống sinh thái do sự phát sinh
biến hoá của các loại yếu tố môi trường dẫn đến. Hiệu quả hoá học môi trường là
hiệu quả môi trường do các phản ứng hoá học giữa các vật chịu ảnh hưởng của điều
kiện môi trường dẫn đến. Hiệu quả vật lý môi trường là hiệu quả môi trường do tác
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
động vật lý dẫn đến.
Hiệu quả môi trường vừa đảm bảo lợi ích trước mắt vì phải gắn chặt với quá
trình khai thác, sử dụng đất vừa đảm bảo lợi ích lâu dài tức là bảo vệ tài nguyên đất
và môi trường sinh thái. Khi hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của một loại hình
sử dụng đất nào đó được đảm bảo thì hiệu quả môi trường càng được quan tâm
(Đoàn Công Quỳ, 2006).
1.3.2. Ý nghĩa của đánh giá hiệu quả sử dụng đất đối với sản xuất nông nghiệp
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, tính đến 01/01/2012 tổng
diện tích đất tự nhiên của Việt Nam là 33.095,1 nghìn ha, trong đó đất Nông nghiệp
là 26.280,5 nghìn ha, nhưng đất sản xuất chỉ có10151,1 nghìn ha chiếm 30,67%.
Dân số tăng nhanh khiến diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp song nhu cầu
sử dụng lương thực, thực phẩm của con người ngày càng tăng. Trong nền kinh tế
hiện nay, khi sản xuất nông nghiệp cần phải đáp ứng nhu cầu của thị trường và mục
tiêu phát triển của xã hội, đồng thời phải đảm bảo sự bền vững trong sản xuất và sử
dụng tài nguyên, việc đánh giá đất đai một cách tổng hợp có tính đến các yếu tố
kinh tế - xã hội là hết sức cần thiết để định hướng phát triển, là cơ sở chủ yếu cho
các phương án quy hoạch và quản lý sử dụng đất.
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất mang lại nhiều ý nghĩa:
- Nâng cao hiệu quả kinh tế: Cây trồng cho năng suất tốt hơn, chất lượng cao
hơn, được thị trường chấp nhận.
- Đảm bảo sự bền vững về môi trường: Thông qua đánh giá hiệu quả sử
dụng đất xác định được loại hình sử dụng đất và biện pháp canh tác phù hợp với
điều kiện tự nhiên của từng vùng. Từ đó, bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn
chặn thoái hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái đất.
- Đảm bảo sự bền vững về mặt xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo được
đời sống xã hội.
1.3.3. Một số quan điểm về đánh giá hiệu quả sử dụng đất
1.3.3.1. Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng đất của Liên Xô
Phương pháp đánh giá đất của Liên Xô được thực hiện từ năm 1950 và sau
đó hoàn thiện vào năm 1986.Công tác đánh giá đất đai được tiến hành trên toàn
Liên bang và do Bộ nông nghiệp chủ trì nhằm tạo cơ sở cho việc xác định hiệu quả
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
kinh tế sử dụng đất đai, đánh giá và so sánh hoạt động kinh doanh của các xí
nghiệp, dự kiến số lượng và giá thành sản phẩm và làm cơ sở trong thu mua và giao
nộp nông sản phẩm.
Việc đánh giá đất đai được thực hiện theo hai hướng: đánh giá chung và
đánh giá riêng (theo hiệu quả từng loại cây trồng) theo năng suất - giá thành sản
phẩm, mức hoàn vốn và địa tô cấp sai (phần lãi thuần tuý).
Cây trồng lấy làm gốc để đánh giá là cây ngũ cốc và cây họ đậu. Đơn vị đánh
giá là các chủng đất đối với các loại sử dụng đất có tưới, đất được tiêu úng, đất
trồng cây lâu năm, đất đồng cỏ cắt và đồng cỏ chăn thả
1.3.3.2. Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng đất của Hoa Kỳ
Dựa trên mục tiêu hoặc tính chất sử dụng đất được phân thành các nhóm
dạng sử dụng: nhóm không thể chuyển hoá và nhóm có thể chuyển hoá; nhóm đô
thị và nhóm phi đô thị.
Đất nông nghiệp và lâm nghiệp thuộc nhóm phi đô thị và cũng thuộc nhóm
có thể chuyển hoá. Việc phân hạng trong nhóm này sẽ áp dụng một trong ba cách
phân hạng:
- Phân hạng chỉ dựa trên các yếu tố tự nhiên của đất (địa chất - đá mẹ, dạng
đất - địa mạo, thời tiết - khí hậu và thổ những )
- Phân hạng dựa trên kiểu sinh thái thảm thực vật
- Phân hạng theo mục tiêu sử dụng đất (Classification based on land use) gồm đất
nông nghiệp, đất xây dựng các công trình (engineering) đất rừng (dựa vào kiểu rừng
hoặc năng suất lập địa), đồng cỏ, khu bảo tồn động vật hoang dã, khu giải trí…
Với đất nông nghiệp, phân hạng đất đai được ứng dụng rộng rãi theo hai
phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp: Lấy năng suất cây trồng trong nhiều năm là tiêu chuẩn
- Phương pháp yếu tố: Bằng cách thống kê các yếu tố tự nhiên và kinh tế để so
sánh, lấy lợi nhuận tối đa là 100 hoặc 100% để làm mốc so sánh với các đất khác.
1.3.3.3. Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng đất theo FAO
Theo FAO, đánh giá đất đai là kết quả của việc cân nhắc đánh giá các tiềm
năng đất đai cho một hay nhiều loại hình sử dụng đất. Đánh giá hiệu quả sử dụng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
đất toàn diện trên cả 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi
trường. Chính vì vậy, đánh giá đất yêu cầu thu thập thông tin từ nhiều phương diện
bao gồm thổ nhưỡng, địa hình, địa mạo, các điều kiện địa chất, khí hậu, thuỷ văn,
lớp phủ thực vật và cả các điều kiện kinh tế xã hội có liên quan đến sử dụng đất.
1.3.4. Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng đất của FAO
1.3.4.1. Những khái niệm cơ bản dùng trong đánh giá đất đai của FAO
Theo FAO, đánh giá đất là kết quả của việc cân nhắc đánh giá các tiềm năng
đất đai cho một hay nhiều loại hình sử dụng đất (LUT). Mỗi LUT phải được đánh
giá, lựa chọn trong mối quan hệ của 3 điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trên cơ sở
thích hợp, hiệu quả và bền vững. FAO đã chỉ ra rằng, một quốc gia hay một dân tộc
sử dụng đất đai của họ như thế nào là tuỳ thuộc vào những nhân tố tổng hợp có
quan hệ mật thiết với nhau, bao gồm các đặc tính của đất, các yếu tố tự nhiên, kinh
tế, xã hội, hành chính và những hạn chế về chính trị cũng như các nhu cầu mục tiêu
của con người
Đất đai (Land): Đất đai được xem xét bao gồm nhiều yếu tố của môi trường tự
nhiên ở một khu vực địa lý có ảnh hưởng đến việc sử dụng đất như lớp phủ thổ
nhưỡng, địa mạo, thuỷ văn nước mặt, khí hậu,.... Đất đai được mô tả theo chất lượng
hiện tại của nó, bao gồm những tính chất có thể quan sát hay đo lường được. Đất đai
thường được mô tả dưới khái niệm “Đơn vị bản đồ đất đai” (Land Mapping UnitLMU), đây là một vùng đất đai với các tính chất riêng được khoanh định trên bản đồ.
Đánh giá đất đai: TheoFAO “Đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối
chiếu những tính chất vốn có của vạt đất cần đánh giá với những tính chất đất đai
mà loại sử dụng đất yêu cầu phải có”. Như vậy, đánh giá đất đai (Land Evaluation LE) là quá trình thu thập thông tin, xem xét toàn diện trên phạm vi rất rộng, bao
gồm cả không gian, thời gian, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường.
Loại hình sử dụng đất (Land Use Type - LUT): LUT là bức tranh mô tả thực
trạng sử dụng đất của một vùng đất với những phương thức quản lý sản xuất trong
các điều kiện kinh tế - xã hội và kỹ thuật được xác định. Những loại hình của sử
dụng đất này có thể hiểu nghĩa rộng là các loại sử dụng đất chính, hoặc có thể được
mô tả chi tiết hơn với khái niệm là các loại hình sử dụng đất.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
Loại hình sử dụng đất là sự phân chia chi tiết của loại hình sử dụng đất
chính và được mô tả theo các thuộc tính nhất định. Các thuộc tính đó bao gồm: quy
trình sản xuất, các đặc tính về quản lý đất đai như sức kéo trong làm đất, đầu tư vật
tư kỹ thuật… và các đặc tính về kinh tế kỹ thuật như định hướng thị trường, vốn
thâm canh, lao động, vấn đề sở hữu đất đai.
Yêu cầu sử dụng đất (Land Use Requirement) là những điều kiện tự nhiên có
ảnh hưởng đến năng suất và sự ổn định của loại hình sử dụng đất, hay đến tình trạng
quản lý và thực hiện loại hình sử dụng đất đó. Những yêu cầu sử dụng đất thường
được xem xét từ chất lượng đất đai của vùng nghiên cứu. Yêu cầu sử dụng đất được
coi như là những điều kiện tự nhiên cần thiết để thực hiện thành công và bền vững
một loại hình sử dụng đất (Đoàn Công Quỳ, 2006).
1.3.4.2. Nguyên tắc đánh giá đánh đai theo FAO
FAO đề ra 6 nguyên tắc cơ bản trong việc đánh giá đất đai là:
- Các LUT được lựa chọn phải phù hợp với mục tiêu phát triển của vùng hay
quốc gia cũng như phải phù hợp với bối cảnh và đặc điểm về tự nhiên/ kinh tế của
khu vực nghiên cứu
- Các LUT cần được mô tả và định rõ các thuộc tính về kỹ thuật và kinh tế xã hội.
- Việc đánh giá đất đai bao gồm sự so sánh của hai hay nhiều LUT.
- Khả năng thích nghi đất đai cần đặt trên cơ sở sử dụng đất bền vững.
- Đánh giá khả năng thích nghi đất đai bao gồm cả sự so sánh về năng suất
(lợi ích) thu được và đầu tư (chi phí) cần thiết của các LUT.
- Đánh giá đất đai đòi hỏi một phương pháp tổng hợp đa ngành.
Với 6 nguyên tắc cơ bản nêu trên, đánh giá đất đai sẽ cung cấp cho việc quy
hoạch sử dụng đất những phương án về sử dụng tài nguyên đất đai, và trong mỗi
phương án là những thông tin về năng suất, mức đầu tư (chi phí, lợi nhuận) cách
quản trị đất đai - nhu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng và ảnh hưởng của sử dụng đất
đối với môi trường. Nguyên tắc đánh giá đất theo FAO là đánh giá đất phải gắn với
LUT xác định, có sự so sánh giữa lợi nhuận thu được và đầu tư cần thiết. Đánh giá
đất liên quan chặt chẽ với các yếu tố môi trường tự nhiên của đất với các điều kiện
kinh tế - xã hội (Đoàn Công Quỳ, 2006).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
1.3.4.3. Trình tự đánh giá đất đai theo FAO
-
Bước 1: Xác định mục tiêu
-
Bước 2: Thu thập tài liệu
-
Bước 3: Xác định các loại hình sử dụng đất
-
Bước 4: Xác định đơn vị đất đai
-
Bước 5: Đánh giá khả năng thích hợp
-
Bước 6: Xác định hiện trạng kinh tế, xã hội và môi trường
-
Bước 7: Xác định loại hình sử dụng đất thích hợp nhất
-
Bước 8: Quy hoạch sử dụng đất
-
Bước 9: Áp dụng việc đánh giá đất
Như vậy, phương pháp đánh giá đất thích hợp của FAO đã đề cập đến các
chỉ tiêu các chỉ tiêu kinh tế, xã hội và môi trường có liên quan đến khả năng sử
dụng đất và khả năng sinh lợi nhuận của chúng (Đoàn Công Quỳ, 2006). Đây là
những thông tin rất có ý nghĩa đối với việc xác định và lập kế hoạch sử dụng đất.
Trong khuôn khổ của đề tài, phương pháp đánh giá đất theo FAO được
vận dụng nhằm nghiên cứu khả năng sử dụng tài nguyên đất ở huyện Nho Quan.
1.4. Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Theo FAO, sử dụng đất bền vững trong sản xuất nông nghiệp là sử dụng,
quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên cho nông nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc
sống của con người, đồng thời gìn giữ, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Năm 1991 tại Nairobi, FAO đã tổ chức hội thảo về quản lý sử dụng đất bền vững đã
nêu ra 5 nguyên tắc cơ bản trong sử dụng đất bền vững đó là:
- Duy trì và nâng cao sản xuất và các dịch vụ
- Giảm thiểu rủi ro cho sản xuất
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn lợi tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hoá chất
lượng đất và chất lượng nước
- Có khả năng thực thi được về mặt kinh tế
- Có thể chấp nhận được về mặt xã hội.
Với các nguyên tắc này, người sử dụng đất, các nhà lập kế hoạch, quy hoạch
sử dụng đất phải đạt được sản lượng hoặc lãi suất tối đa, giảm thiểu đầu tư và sức
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14
lao động ngoài ra phải bảo vệ môi trường và tài nguyên cho sản xuất lâu dài và cho
các thế hệ mai sau.
Cùng với các nguyên tắc sử dụng đất bền vững, Dumanski (1993) cũng đã đề
xuất các chỉ tiêu chung để đánh giá và giám sát việc sử dụng đất bền vững, bao gồm:
Năng suất cây trồng, cân bằng chất dinh dưỡng, sự bảo toàn của độ che phủ đất, chất
lượng và diện tích đất, chất lượng nước, lợi nhuận của nông trại, sự áp dụng các biện
pháp bảo vệ đất. Các chỉ tiêu này là cơ sở quan trọng để phân tích đánh giá hệ thống sử
dụng đất về tính bền vững và thiết lập nền móng cho các chiến lược sử dụng hợp lý và
bảo vệ tài nguyên đất.
Ngoài ra còn một số định nghĩa về quan điểm sử dụng đất bền vững trong
sản xuất nông nghiệp như sau:
Theo Baier (1990): Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống sản xuất có
hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu xã hội về an ninh lương thực đồng thời giữ gìn và cải
thiện tài nguyên thiên nhiên và chất lượng của môi trường.
Theo Mollison B (1994) nông nghiệp bền vững là một hệ thống thiết kế để
cho môi trường bền vững cho con người liên quan tới cây trồng, vật nuôi, cơ sở hạ
tầng và các công trình xây dựng do con người tạo ra.
Trong tất cả các định nghĩa, điều quan trọng nhất là biết sử dụng hợp lý tài
nguyên đất đai, giữ vững và cải thiện chất lượng môi trường, có hiệu quả kinh tế,
năng suất cao và ổn định, tăng cường chất lượng cuộc sống và hạn chế rủi ro.
Từ những nguyên tắc đánh giá sử dụng đất bền vững của FAO, một loại hình sử
dụng đất được xem là bền vững phải đạt được 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về kinh tế: cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường
chấp nhận.
- Bền vững về môi trường: loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ mùa
mỡ của đất, ngăn chặn thoái hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái đất.
- Bền vững về mặt xã hội: thu hút được lao động, đảm bảo được đời sống xã hội.
Phát triển bền vững đòi hỏi các nguồn tài nguyên phải được phát triển và sử
dụng một cách tổng hợp. Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền đã
khuyến khích về sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp như sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15
- Khuyến khích tăng năng suất nông nghiệp thông qua việc thực hiện đúng
đắn cơ chế thị trường và các cải cách khác như làm tăng tối đa lợi ích đa vụ, khuyến
khích nông dân và giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch.
- Phát triển và đẩy mạnh các hệ thống canh tác lâu bền ở các vùng sườn đồi,
các hoạt động nhằm vào vấn đề nông - lâm kết hợp, trồng theo vành đai, trồng cây
và làm ruộng bậc thang và phải thích ứng với các điều kiện thực tế cụ thể với tập
quán của người dân về mùa vụ, với các kỹ thuật khả thi về bảo vệ đất và nước.
- Canh tác nông nghiệp phải nhằm vào thâm canh tăng năng suất, quay vòng
mùa vụ, kiểm soát hoá chất nông nghiệp, phổ biến rộng rãi canh tác hữu cơ và các
phương pháp thủy lợi nhằm tránh gây ngập úng và nhiễm mặn đất.
- Ưu tiên cho các công trình nghiên cứu và triển khai liên quan đến các hệ
thống nông - lâm kết hợp, có tính đến việc bố trí định cư những người du canh ở
vùng núi cao.
- Cần có chương trình mạnh mẽ về trồng cây rừng, bao gồm cả việc hình
thành các khu rừng trồng nhằm mục đích lấy gỗ và củi đốt. Những nỗ lực trồng
rừng phải nhằm vào mục đích phát triển khu rừng hỗn giao, các loài cây bản xứ hơn
là các khu rừng thuần chủng và các loại cây ngoại nhập.
Như vậy, đối với sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững phải đạt
được trên cơ sở đảm bảo khả năng sản xuất ổn định của cây trồng, chất lượng tài
nguyên đất không suy giảm theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hưởng
xấu đến môi trường sống của con người và các sinh vật (Lê Quang Trí, 2005).
1.5. Những nghiên cứu đánh giá sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và tại
Việt Nam
1.5.1. Trên thế giới
Từ những thập niên 50 của thế kỷ XX, việc đánh giá khả năng dụng đất được
xem như là bước nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điểm đất. Xuất
phát từ những nỗ lực riêng lẻ của từng quốc gia, về sau phương pháp đánh giá đất
đai được nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới và các tổ chức quốc tế quan
tâm, do vậy trở thành một trong những chuyên ngành nghiên cứu quan trọng và đặc
biệt gần gũi với những nhà quy hoạch, người hoạch định chính sách đất đai và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16
người sử dụng. Tuỳ theo mục đích và điều kiện cụ thể, mỗi quốc gia đã đề ra nội
dung, phương pháp đánh giá đất phù hợp với các loại sử dụng đất của mình.
Cho tới nay, trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề ra nhiều
phương pháp đánh giá để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp. Nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ và phương thức sử dụng đất ở mỗi
nước mà có sự đánh giá khác nhau. Các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng: đối
với các vùng nhiệt đới có thể thực hiện các công thức luân canh cây trồng hàng
năm, có thể chuyển từ chế độ canh tác cũ sang chế độ canh tác mới tiến bộ hơn
mang lại hiệu quả cao hơn. Nghiên cứu bố trí luân canh các cây trồng hợp lý hơn
bằng cách đưa các giống cây trồng mới vào hệ thống canh tác nhằm tăng sản lượng
lương thực, thực phẩm/1đơn vị diện tích đất canh tác trong một năm. Ở Châu Á có
nhiều nước cũng tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác luân canh
cây lúa với cây trồng cạn đã thu được hiệu quả cao hơn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nước đã gắn
phương thức sử dụng đất truyền thống với phương thức hiện đại và chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp. Các nước Châu Á trong quá trình sử
dụng đất canh tác đã rất chú trọng đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, ứng dụng các tiến bộ
kỹ thuật về giống, phân bón, các công thức luân canh tiến bộ để ngày càng nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Nhưng để đạt được hiệu quả thì một phần phải
nhờ vào công nghiệp chế biến, gắn sự phát triển công nghiệp với bảo vệ môi sinh môi trường.
Xuất phát từ những vấn đề này, nhiều nước trong khu vực đã có sự chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng kết hợp hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội với
việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, tiến tới xây dựng nền nông
nghiệp sinh thái bền vững.
Tại Liên Xô (cũ)
Kết quả đánh giá đất của Liên Xô đã giúp cho việc thống kê tài nguyên đất
và hoạch định chiến lược sử dụng, quản lý nguồn tài nguyên đất trong phạm vi toàn
Liên bang Xô Viết. Tuy nhiên, đối với đất nông nghiệp thì phương pháp đánh giá
này chưa đi sâu một cách cụ thể vào từng loại sử dụng đất, mới chỉ tập trung chủ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17
yếu vào đánh giá các yếu tố tự nhiên của đất đai và chưa đánh giá tác động của các
yếu tố kinh tế - xã hội đến sử dụng đất (Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình, 2000).
Tại Hoa Kỳ
Bộ Nông nghiệp Hoa kỳ đã phân chia đất đai thành 8 cấp, trong đó 4 cấp đầu
thích hợp trồng cây nông nghiệp (từ mức thích hợp cao đến thấp), 2 cấp theo ở mức
thích hợp có điều kiện nhưng có thể sử dụng cho lâm nghiệp, 2 cấp còn lại không
thích hợp ngay cả đối với lâm nghiệp. Trong hệ thống này hiện tượng xói mòn được
xét đến trước cả độ phì của đất. Trong 4 cấp đầu dựa vào các hạn chế trong sử dụng
người ta chia thêm các cấp phụ như bị xói mòn, thừa hoặc thiếu ẩm, bị nhiễm mặn…
Phương pháp đánh giá đất của Hoa Kỳ tuy không đi sâu vào từng loại sử
dụng đất cụ thể đối với sản xuất nông nghiệp và hiệu quả kinh tế - xã hội , song rất
quan tâm đến những yếu tố hạn chế bất lợi của đất và việc xác định các biện pháp
bảo vệ đất
Phương pháp đánh giá đất của Hoa Kỳ tuy không đi sâu vào từng loại sử
dụng đất cụ thể đối với sản xuất nông nghiệp và hiệu quả kinh tế - xã hội , song rất
quan tâm đến những yếu tố hạn chế bất lợi của đất và việc xác định các biện pháp
bảo vệ đất (Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình, 2000).
Tại Anh
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất dựa trên 2 phương pháp là:
- Đánh giá đất dựa hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên (độ phì tiềm tàng hay độ
phì tự nhiên). Phương pháp này không chú ý đến sự tham gia của con người mà
thực chất dựa vào độ phì tự nhiên.
- Đánh giá đất hoàn toàn dựa vào năng suất thực tế bằng việc thống kê nhiều
năm ở trên đất tốt nhất hoặc trung bình so sánh với năng suất trên đất tiêu chuẩn.
Phương pháp này gặp nhiều khó khăn và không khách quan vì năng suất cây trồng
phụ thuộc vào cây trồng được chọn và phụ thuộc vào khả năng người sử dụng đất
(Đoàn Công Quỳ, 2000).
1.5.2. Tại Việt Nam
Từ đầu thập kỷ 20, chương trình quy hoạch tổng thể được tiến hành nghiên
cứu đề xuất dự án phát triển đa dạng hoá nông nghiệp, nội dung quan trọng nhất là
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 18
phát triển hệ thống cây trồng để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Những
công trình nghiên cứu mô phỏng chiến lược phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng
sông Hồng của Đào Thế Tuấn (1992) cũng đề cập việc phát triển hệ thống cây
trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong điều kiện Việt Nam. Công trình nghiên
cứu phân vùng sinh thái, hệ thống giống lúa, hệ thống cây trồng vùng đồng bằng
sông Hồng do Đào Thế Tuấn (1998) chủ trì và hệ thống cây trồng vùng đồng bằng
sông Cửu Long do Nguyễn Văn Luật chủ trì cũng đưa ra kết luận về phân vùng
sinh thái và hướng áp dụng những giống cây trồng trên các vùng sinh thái khác
nhau nhằm khai thác sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Các đề tài nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì đã
tiến hành nghiên cứu hệ thống cây trồng trên các vùng sinh thái khác nhau như
vùng miền núi, vùng trung du và vùng đồng bằng nhằm đánh giá hiệu quả cây trồng
trên từng vùng đất đó. Từ đó định hướng cho việc khai thác tiềm năng đất đai của
từng vùng sao cho phù hợp với quy hoạch chung của nền nông nghiệp cả nước, phát
huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng.
Trong những năm gần đây, chương trình quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng
sông Hồng (1994); phân bón cho lúa ngắn ngày trên đất phù sa sông Hồng (Nguyễn
Như Hà, 2000); đánh giá hiệu quả một số mô hình đa dạng hoá cây trồng vùng đồng
bằng sông Hồng của Vũ Năng Dũng (1997) cho thấy đã xuất hiện nhiều mô hình
luân canh 3- 4 vụ trong một năm đạt hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt ở các vùng sinh
thái ven đô, vùng có điều kiện tưới tiêu chủ động đã có những điển hình về sử dụng
đất đai đạt hiệu quả kinh tế cao. Nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao đã được
bố trí trong các phương thức luân canh như cây ăn quả, hoa, cây thực phẩm cao cấp.
Trong 3 năm (1992 - 1994) thực hiện Chương trình khoa học công nghệ cấp
Nhà nước KT. 02 “Bảo vệ môi trường”, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp
đã tiến hành đánh giá hiện trạng sử dụng đất ở nước ta theo quan điểm sinh thái và
phát triển lâu bền. Kết quả đã xác định được 4 loại hình sử dụng đất bền vững về
kinh tế - xã hội và môi trường (loại sử dụng đất trồng lúa 2-3 vụ, lúa - màu, đất
trồng cây lâu năm và đất rừng), 1 loại sử dụng đất không bền vững về kinh tế (trồng
lúa một vụ: lúa chiêm hoặc lúa mùa), loại cây trồng cạn ngắn ngày không bền vững
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 19