Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả dồn điền đổi thửa tại huyện thường tín – thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 92 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục hình

viii

MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài


1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Yêu cầu của đề tài

2

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1. Cơ sở lý luận về dồn điển đổi thửa

3

1.1.1.Vấn đề manh mún đất đai

3

1.1.2. Khái niệm về dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất

3

1.1.3. Vai trò của công tác dồn điền đổi thửa

4


1.1.4. Các yếu tố liên quan đến dồn điền đổi thửa

5

1.1.5. Dồn điền đổi thửa ở một số nước trên Thế Giới

7

1.2. Dồn điền đổi thửa ở Việt Nam

10

1.2.1. Tổng quan về chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp

10

1.2.2. Tính cấp thiết phải tiến hành dồn điền đổi thửa tại Việt Nam

14

1.2.3. Cơ sở thực tiễn của việc dồn điền đổi thửa

16

1.2.4. Tình hình dồn điền đổi thửa ở một số tỉnh

18

1.2.5. Những tác động của dồn điền đổi thửa đối với quản lý Nhà nước về
đất đai và sản xuất nông nghiệp

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp

20
24

1.3.1. Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên

24

1.3.2. Nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội

25

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

27

2.1. Đối tượng nghiên cứu

27

2.2. Phạm vi nghiên cứu

27


2.3. Nội dung nghiên cứu

27

2.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Thường Tín

27

2.3.2. Thực trạng và quá trình tiến hành dồn điền đổi thửa trên địa bàn
huyện Thường Tín

27

2.3.3. Ảnh hưởng của công tác dồn điền đổi thửa đến sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn nghiên cứu

27

2.3.4. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu của của công tác dồn điền đổi
thửa huyện Thường Tín

27

2.4. Phương pháp nghiên cứu

27

2.4.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

27


2.4.2. Phương pháp thu thập thông tin

28

2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu, dữ liệu bằng phần mềm Exel

29

2.4.4. Phương pháp xác định hệ thống chỉ tiêu đánh giá

29

2.4.5. Phương pháp minh họa bằng bản đồ, hình ảnh

30

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

31

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

31

3.1.1. Điều kiện tự nhiên

31

3.1.2. Thực trạng môi trường


35

3.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội

35

3.1.4. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường

41

3.1.5. Tình hình quản lý và hiện trạng sử dụng đất

43

3.2. Thực trạng dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Thường Tín

50

3.2.1. Cơ sở pháp lý của dồn điền đổi thửa

50

3.2.2. Tổ chức thực hiện công tác dồn điền đổi thửa

51

3.2.3. Đánh giá việc thực hiện công tác dồn điền đổi thửa huyện Thường Tín

55


3.2.4. Những tồn tại của công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện

59

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


3.3. Ảnh hưởng của công tác dồn điền đổi thửa đến sản xuất nông nghiệp trên
địa bàn nghiên cứu

60

3.3.1. Kết quả phỏng vấn nông hộ tại các xã nghiên cứu đại diện

60

3.3.2. Những tác động tích cực của dồn điền đổi thửa trên địa bàn 3 xã
61

nghiên cứu
3.4. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dồn điền đổi thửa trên địa
bàn huyện Thường Tín

77

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

PHỤ LỤC

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Kí hiệu

1

BVTV

: Bảo vệ thực vật

2

CP

: Chính phủ


3

DN

: Doanh nghiệp

4

DĐĐT

: Dồn điền đổi thửa

5

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

6

ĐVT

: Đơn vị tính

7

GTGT

: Giá trị gia tăng


8

GTSX

: Giá trị sản xuất

9

GCNQSDĐ

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

10

HTX

: Hợp tác xã

11

TCTK

: Tổng cục thống kê

12

TW

: Trung ương


13

UBND

: Ủy ban nhân dân

14

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

Ý nghĩa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Thực trạng manh mún đất đai thời điểm 2010 một số tỉnh


16

3.1

Hiện trạng sử dụng đất huyện Thường Tín trước và sau dồn điền đổi thửa

47

3.2

Kết quả dồn điền đổi thửa huyện Thường Tín đến năm 2014

57

3.3

Kết quả dồn điền đổi thửa theo nhóm hộ huyện Thường Tín

58

3.4

Thực trạng ruộng đất trước và sau thực hiện dồn điền đổi thửa tại các
xã nghiên cứu đại diện

3.5

62

Diện tích đất công ích trước và sau dồn điền đổi thửa tại các xã nghiên

cứu đại diện

63

3.6

Giá thầu đất công ích trước và sau dồn điền đổi thửa

63

3.7

Diện tích đất giao thông, thủy lợi nội đồng trước và sau dồn điền đổi thửa

65

3.8

Tác động của dồn điền đổi thửa tới cơ cấu thu nhập của hộ nông dân

68

3.9

Hiệu quả kinh tế bình quân 1 ha đất 2 vụ lúa trước và sau dồn điền đổi
thửa tại các xã nghiên cứu đại diện.

3.10

70


Hiệu quả kinh tế bình quân loại hình lúa - cá - thủy cầm tại 3 xã
nghiên cứu đại diện

71

3.11

Hiệu quả kinh tế của loại hình chuyên thả cá

72

3.12

So sánh hiệu quả kinh tế giữa các loại hình sử dụng đất sau dồn điền
đổi thửa với hiệu quả chuyên lúa trước dồn điền đổi thửa

3.13

73

Hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp trên 1 ha/năm tại 3 xã
nghiên cứu đại diện

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

75

Page vii



DANH MỤC HÌNH
Số hình

Tên hình

Trang

3.1

Sơ đồ vị trí huyện Thường Tín

31

3.2

Cánh đồng mẫu lớn sau dồn điền đổi thửa

59

3.3

So sánh giá thầu đất công ích bình quân trước và sau dồn điền đổi
thửa tại các xã nghiên cứu đại diện (đơn vị: kg thóc/ha)

64

3.4

Giao thông, thủy lợi nội đồng sau dồn điền đổi thửa


65

3.5

So sánh hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất

74

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page viii


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là
tư liệu sản xuất đặc biệt trong nông nghiệp, là thành phần quan trọng của môi
trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh, quốc phòng, là yếu tố cấu thành lãnh thổ của mỗi quốc gia. Đất đai
là quý giá bởi đất đai có hạn.
Đất đai là yếu tố quyết định trong sản xuất nông nghiệp. Trong lịch sử
phát triển nông nghiệp, cải cách ruộng đất luôn là khâu bứt phá quyết định mọi
quan hệ sản xuất và ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia.
Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng nói chung và ở huyện
Thường Tín nói riêng có bình quân diện tích đất trên đầu người rất thấp. Trong điều
kiện công nghiệp chưa thực sự phát triển trên địa bàn huyện, dân số ở nông thôn
chiếm tỷ lệ lớn (gần 70%), đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người thấp lại
manh mún, nên mặc dù là huyện ngoại thành của Hà Nội, nhưng sự phát triển kinh

tế xã hội của Thường Tín vẫn còn nhiều hạn chế.
Thực trạng diễn biến đất sản xuất nông nghiệp của huyện cũng trong tình
trạng chung của cả nước: đất đai thời bao cấp được tập trung theo quy mô hợp tác
xã nông nghiệp (cấp thấp, cấp cao, cấp liên hợp toàn xã); Thời kì đổi mới Thực hiện
Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993 của Chính phủ về việc
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích
sản xuất nông nghiệp (Chính phủ, 1993). Đất sản xuất nông nghiệp được thực hiện
theo Nghị định 64/CP theo nguyên tắc công bằng xã hội: ruộng được chia đều tính
trên một nhân khẩu cho các hộ gia đình, có xa, có gần, có tốt, có xấu, có cao, có
thấp, đã dẫn đến tình trạng ruộng đất giao bị phân tán, manh mún, không phù hợp
với việc sản xuất lớn theo hướng sản xuất hàng hóa, không đáp ứng được nhu cầu
phát triển nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới.
Mặc dù sau đổi mới người nông dân được làm chủ trên mảnh đất của mình,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


họ mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, sản xuất nông nghiệp đã có những thành tựu vượt
bậc, nhưng do ruộng đất manh mún đã ngăn cản sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Vì
vậy nhu cầu tích tụ tập trung ruộng đất theo hình thức dồn điền đổi thửa ngày càng
cấp thiết hơn.
Huyện Thường Tín là huyện có mức độ manh mún cao, phần lớn hộ có từ 10
đến 15 thửa ruộng ở các xứ đồng khác nhau. Những năm gần đây, sản xuất nông
nghiệp của huyện cũng đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung,
vì vậy nhu cầu dồn điền đổi thửa ở đây là rất cần thiết.
Huyện Thường Tín đã triển khai thực hiện dồn điền đổi thửa theo kế hoạch
số 68/KH-UBND ngày 9/5/2012 của UBND thành phố Hà Nội và đã thu được kết
quả đáng khích lệ. Nhằm đánh giá thực trạng công tác dồn điền đổi thửa, qua đó đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả dồn điền đổi thửa, tôi tiến hành thực hiện

đề tài: “Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả dồn
điền đổi thửa tại huyện Thường Tín - thành phố Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Thường
Tín - thành phố Hà Nội;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy công tác dồn điền đổi thửa trên địa
bàn huyện.
3. Yêu cầu của đề tài
- Đề tài cần phân tích được các yếu tố về: điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội,
làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho dồn điền đổi thửa;
- Đánh giá đúng được thực trạng dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện, trên
cơ sở đó đề xuất giải pháp thúc đẩy công tác dồn điền đổi thửa và sử dụng đất trong
những năm tiếp theo.
- Các giải pháp đề xuất phải sát với thực tế sản xuất và khả thi.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận về dồn điển đổi thửa
1.1.1. Vấn đề manh mún đất đai
Manh mún đất đai có thể được hiểu là sự manh mún về mặt ô thửa đối với
một đơn vị sản xuất (thường là nông hộ) tức là một hộ gia đình, cá nhân có nhiều
thửa ruộng với kích thước nhỏ bị phân tán ở nhiều xứ đồng. Mặt khác có thể hiểu là
sự manh mún biểu hiện trên quy mô đất đai của các đơn vị sản xuất, số lượng diện
tích quá nhỏ không tương thích với số lượng lao động và các yếu tố về phương tiện
sản xuất khác (Bộ môn Hệ thống nông nghiệp, 2004).
Manh mún đất đai làm giảm tính hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, sự nhỏ

lẻ và rải rác của ruộng đất khiến cho việc cơ giới hóa, thủy lợi hóa trong nông
nghiệp trở nên khó khăn hơn, làm giảm khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật. Hơn thế nữa, các hộ gia đình còn phải đầu tư nhiều thời gian và
lao động hơn cho các hoạt động nông nghiệp do các mảnh ruộng phân tán nhiều nơi.
Chính vì vậy cần có những biện pháp khắc phục tình trạng này.
Manh mún đất đai cản trở sản xuất nông nghiệp hàng hóa, ngăn cản đầu tư
khoa học công nghệ cho sản xuất nông nghiệp; gây trở ngại cho quá trình phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng manh mún đất đai, trong đó những
nguyên nhân chủ yếu là: do chính sách quản lý đất đai của Nhà nước trước đây
(ruộng đất cần phải chia đều cho mỗi hộ nông dân); do yếu tố địa hình (độ cao
không đồng đều; trong đê, ngoài đê…); do chuyển giao trong các quá trình thừa kế
giữa các thế hệ… .
1.1.2. Khái niệm về dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất
Dồn điền đổi thửa là việc chuyển đổi ruộng đất từ những ô thửa nhỏ thành ô
thửa lớn giữa các hộ nông dân, đẩy mạnh quá trình tích tụ ruộng đất để đưa nền
nông nghiệp vốn manh mún, nhỏ lẻ phát triển thành sản xuất hàng hóa quy mô lớn
dưới sự chỉ đạo thống nhất của các cán bộ đảng viên từ cấp Trung ương đến địa
phương (Bộ môn Hệ thống nông nghiệp, 2004).
Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiên dồn điền đổi thửa:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


Cơ chế thứ nhất: để cho thị trường ruộng đất và các nhân tố phi tập trung
tham gia vào, Nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo cơ chế để quá trình đó vận hành tốt hơn;
Cơ chế thứ hai: thực hiện các biện pháp can thiệp từ phía Nhà nước để tổ
chức phân chia lại ruộng đất, thực hiện các quy hoạch có chủ định. Theo cách này,

các địa phương cần phải xác định và thực hiện để dồn điền đổi thửa, sẽ không làm
thay đổi các quyền của nông hộ đối với ruộng đất đã được quy định trong pháp luật.
Tuy nhiên, việc thực hiện quá trình này có thể làm thay đổi khả năng tiếp cận ruộng
đất của các nhóm nông dân hưởng lợi khác nhau dẫn đến thay đổi bình quân ruộng
đất ở các nhóm xã hội khác nhau (Bộ môn Hệ thống nông nghiệp, 2004).
Dồn điền đổi thửa thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất, thúc đẩy quá trình
hiện đại hóa - công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn.
Tích tụ ruộng đất là sự tích tụ tư bản cho sản xuất nông nghiệp dưới hình
thức ruộng đất để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, áp dụng
công nghệ cao trong sản xuất và quản lý sản xuất nông nghiệp, nhằm tăng sức cạnh
tranh sản phẩm trên thương trường, nhờ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
nông nghiệp. Do đặc điểm sản xuất nông nghiệp mang tính sinh học nên tích tụ
ruộng đất trong nông nghiệp khác hẳn với tích tụ tư bản trong công nghiệp, điều đó
được thể hiện:
- Quá trình tích tụ tư bản trong công nghiệp hình thành các doanh nghiệp lớn,
các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, đa sở hữu, đa ngành nghề, với cơ cấu công ty mẹ
công ty con, công ty cháu… hoạt động không giới hạn trên phạm vi toàn cầu.
- Trong khi đó tích tụ tư bản (ruộng đất) trong nông nghiệp thì không hoàn
toàn như vậy, do đặc điểm sản xuất mang tính sinh học quy định, nên quy mô của
doanh nghiệp nông nghiệp là có giới hạn.
Tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hóa lợi ích và tối đa hóa lợi nhuận của
sản xuất nông nghiệp là tiêu chí cơ bản của trang trại sản xuất nông nghiệp. Vì thế,
sản xuất nông nghiệp của trang trại sản xuất nông nghiệp mang tính chất kinh
doanh, còn hộ tiểu nông thì chỉ là tự túc tự cấp (Vũ Trọng Khải, 2008).
1.1.3. Vai trò của công tác dồn điền đổi thửa
- Dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp khắc phục tình trạng ruộng đất manh
mún, phân tán.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 4


Dồn điền đổi thửa làm tăng diện tích thửa đất sản xuất nông nghiệp, đất sản
xuất liền khoảnh, liền khu, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ cải tạo ruộng đồng, thâm
canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tiết kiệm chi phí sản xuất và tạo điều kiện tốt
hơn cho cơ giới hóa. Dồn điền đổi thửa đã giảm bớt thời gian đi lại, vận chuyển, thu
hoạch cho các hộ nông dân, tăng thêm diện tích canh tác do giảm bớt diện tích đất
để làm bờ ruộng, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh
cũng như thuận lợi cho việc áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất.
- Dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp là cơ hội để quy hoạch và phát triển hệ
thống giao thông thủy lợi, tạo điều kiện để phát triển đa dạng hóa nông nghiệp.
Quá trình dồn điền đổi thửa cho phép khắc phục tình trạng manh mún
ruộng đất, làm cho quy mô diện tích các mảnh ruộng tăng lên. Nhưng đi liền
theo đó là sự tăng nhu cầu dịch vụ sản xuất, đặc biệt là nhu cầu đảm bảo tưới
tiêu, vận chuyển sản phẩm và cơ giới hóa sản xuất trong tương lai. Vì vậy trong
triển khai dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp cần thiết cho việc mở rộng đường
giao thông, thủy lợi, bê tông hóa, kênh mương thủy lợi, cũng như giảm chi phí
cứng bê tông hóa kênh mương.
- Khắc phục được tình trạng sử dụng đất công ích kém hiệu quả, do được rà
soát và tập trung thành các khu vực cụ thể để thuận lợi cho việc sử dụng và quản lý
của địa phương.
- Dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp tạo cơ sở cho việc cải thiện công tác
quản lý đất đai thông qua quá trình điều tra đất đai cập nhật quỹ đất trao đổi và
giao lại đất có sự tham gia tích cực của các hộ nông dân của địa phương, giải
quyết những khó khăn, tồn tại liên quan đến tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất
đai, giao đất chưa công bằng trước đây được, tạo không khí phấn khởi, đoàn kết
trong xóm làng.
1.1.4. Các yếu tố liên quan đến dồn điền đổi thửa
Dồn điền đổi thửa liên quan đến một số yếu tố, những yếu tố này có thể làm

thuận lợi hoặc khó khăn cho công tác dồn điền đổi thửa. Để tìm hiểu những yếu tố
ảnh hưởng đến DĐĐT, chúng ta xem xét một số nhóm yếu tố làm thuận lợi hoặc
gây khó khăn cho dồn điền đổi thửa sau đây:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


1.1.4.1. Nhóm các yếu tố về tự nhiên
Nhóm yếu tố tự nhiên như: khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý, địa hình, thổ
nhưỡng, môi trường sinh thái, nguồn nước…, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
sử dụng đất. Để tiến hành DĐĐT cần xem xét những yếu tố này. Thời kì bao cấp,
ruộng đất được phân hạng chủ yếu dựa trên yếu tố tự nhiên. Thời kì đó, đất sản xuất
nông nghiệp dựa trên nhóm yếu tố tự nhiên để phân hạng đất, như phân theo: cao,
vàn, thấp để xác định mức thuế nông nghiệp (Nguyễn Đình Bồng, 2012). Dồn điền
đổi thửa cần xem xét nhóm yếu tố tự nhiên. Những yếu tố này gồm:
+ Đặc điểm thổ nhưỡng (lý, hóa tính của đất).
+ Nguồn nước và chế độ nước. Đây là yếu tố rất cần thiết, nó là điều kiện để
sản xuất và tăng tính màu mỡ của đất canh tác.
+ Địa hình, độ dốc là yếu tố quyết định lớn đến bố trí sản xuất.
+ Vị trí địa lý của từng vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ,
nguồn nước, gần đường giao thông, khu công nghiệp liên quan đến khả năng và
hiệu quả sử dụng đất.
1.1.4.2. Nhóm các yếu tố về kinh tế - xã hội
Nhóm này bao gồm những yêu tố như: ranh giới hành chính, cơ sở hạ tầng
giao thông, thủy lợi, tập quán canh tác của người dân. Những yếu tố này có ý nghĩa
quan trọng đối với dồn điền đổi thửa. Những yếu tố này gồm:
Ranh giới hành chính
Ranh giới hành chính của một địa phương là phạm vi mà ở đó thực thi các
hoạt động của tổ chức hành chính Nhà nước và kinh tế địa phương. Dựa trên

ranh giới hành chính xác định quỹ đất của một đơn vị hành chính bao gồm: đất
sản xuất nông nghiệp, đất ở, đất mặt nước chuyên dùng, đất chưa sử dụng… Dựa
trên ranh giới hành chính để quản lí và thực hiện các chính sách về đất đai như:
lập quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất, thực hiện các quyền sử dụng đất, dồn
đổi ruộng đất…
Cơ sở hạ tầng giao thông thủy lợi
Trong các yếu tố cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, yếu tố giao thông vận tải là
rất quan trọng, nó góp phần vào việc trao đổi tiêu thụ sản phẩm cũng như dịch vụ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


những yếu tố đầu vào cho sản xuất. Các yếu tố khác như thủy lợi, điện, thông tin
liên lạc, dịch vụ đều có sự ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng đất.
Tập quán canh tác của người dân
Nhóm yếu tố này gồm trình độ kiến thức, khả năng và tập quán sản xuất của
chủ sử dụng đất thể hiện khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất, khả
năng về vốn lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh nghiệm truyền
thống trong sản xuất và cách xử lý thông tin để ra quyết định trong sản xuất (Khúc
Hồng Thiện và Nguyễn Văn Học, 2015).
Nhóm các yếu tố kinh tế
Nhóm này liên quan đến các biện pháp kinh tế như: nguồn vốn, giá vật tư
nông nghệp, giá mua sản phẩm; chi phí dịch vụ … Nhóm này có tác động mạnh đến
quá trình khai thác, đầu tư chiều sâu nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
1.1.4.3. Nhóm các yếu tố quản lí Nhà nước
Nhóm này gồm các yếu tố: quy hoạch sử dụng đất, tổ chức sản xuất, khuyến
khích phát triển sản xuất. Dồn điền đổi thửa cần căn cứ vào nhóm yếu tố này để
định hướng ghép thửa phù hợp.
- Yếu tố quy hoạch sử dụng đất mang tính định hướng để phát triển sản xuất,

dựa trên các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, kinh tế xã hội, môi trường xác định hệ
thống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu sử dụng đất hợp lí để phát triển bền vững.
- Yếu tố tổ chức sản xuất liên quan đến giải pháp và cơ chế phát triển sản
xuất. Hình thức tổ chức sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến khai thác và nâng cao hiệu
quả sử dụng đất.
- Khuyến khích phát triển sản xuất của Nhà nước có tác động mạnh đến đầu
tư sản xuất. Việc ưu tiên vốn cho phát triển trang trại sản xuất nông nghiệp sẽ thúc
đẩy quá trình dồn điền đổi thửa. Khi trang trại được vay vốn, được bảo trợ, chủ
trang trại chú trọng đầu tư, và mang lại hiệu quả cao thì quá trình tích tụ ruộng đất,
hình thành trang trại sẽ nhanh chóng tự phát triển.
1.1.5. Dồn điền đổi thửa ở một số nước trên Thế Giới
1.1.5.1. Ở Nhật Bản
Để chấn hưng nền nông nghiệp, năm 1961 Chính phủ Nhật Bản đã ban hành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


chính sách nông nghiệp là đưa nông nghiệp từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để thực
hiện mục tiêu này Bộ nông nghiệp đề ra "sự nghiệp xây dựng ruộng đất với ba mục
tiêu: rộng, chắc chắn, sâu".
- Rộng: nâng kích thước thửa ruộng lên 0,3ha.
- Chắc chắn: cải tạo nền đất yếu, nhiều bùn, hay lún trên cơ sở thiết kế xây
dựng thoát nước cho từng thửa ruộng và từng khu vực để có thể sử dụng máy móc
cho thuận lợi.
- Sâu: cải tạo tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dày khoảng 1m.
Để làm được các yêu cầu nêu trên cần phải làm được hai việc:
+ Về mặt hành chính: xử lý chuyển đổi từ các ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn.
+ Về mặt kỹ thuật: gắn liền với việc xử lý kích thước thửa ruộng là việc xây
dựng hệ thống tưới tiêu và san ủi mặt bằng.

Dồn điền đổi thửa, xử lý ruộng đất như nêu trên là khó khăn, phức tạp vì đất
đai thuộc sở hữu tư nhân và việc chuyển đổi phải tiến hành với một số biện pháp
như công tác quy hoạch sử dụng đất...mới phát huy hiệu quả trong sử dụng đất.
Kết quả là khoảng 2 triệu ha trong 2,7 triệu ha đất trồng lúa nước ở Nhật Bản đã
được chuyển đổi. Trước chuyển đổi, bình quân có 3,4 thửa/hộ, sau chuyển đổi
bình quân có khoảng 1,8 thửa/hộ. Việc chuyển đổi, xử lý đất nông nghiệp đã
tăng sức sản xuất của đất đai, tăng năng suất lao động của người nông dân; việc
áp dụng máy móc vào sản xuất được thuận tiện và hiệu quả,...tạo điều kiện để
phát triển nông nghiệp hàng hoá, nâng cao sức cạnh tranh trong nông nghiệp. Vì
vậy cùng với các yếu tố khác, việc chuyển đổi và xử lý đất nông nghiệp đã góp
phần quan trọng đưa năng suất lúa từ 3.000kg gạo/ha/năm năm 1960 lên 6.000kg
gạo/ha/năm năm 1992 (Nguyễn Khắc Bộ, 2004).
1.1.5.2. Ở Đài Loan
Sau năm 1949, dân số Đài Loan tăng đột biến do sự di dân từ lục địa ra. Thời
gian đầu chính quyền Đài Loan đã thực hiện cải cách ruộng theo nguyên tắc phân
phối đồng đều ruộng đất cho nông dân. Ruộng đất đã được trưng thu, tịch thu, mua
lại của các địa chủ rồi bán chịu, bán trả dần cho nông dân, tạo điều kiện ra đời các
trang trại gia đình quy mô nhỏ. Năm 1953, hòn đảo này đã có đến 679.000 trang trại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


với quy mô bình quân là 1,29 ha/trang trại. Đến năm 1991 số trang trại đã lên đến
823.256 với quy mô bình quân chỉ còn 1,08 ha/trang trại. Tuy nhiên, quá trình công
nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn sau này đòi hỏi phải mở rộng quy mô của các
trang trại gia đình nhằm ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm. Nhưng do người Đài Loan coi ruộng đất là tiêu chí đánh giá
vị trí của họ trong xã hội nên mặc dù có thị trường nhưng ruộng đất vẫn không được
tích tụ (có nhiều người tuy là chủ đất nhưng đã chuyển sang làm những nghề phi

nông nghiệp). Để giải quyết tình trạng này, năm 1983 Đài Loan công bố Luật Phát
triển nông nghiệp trong đó công nhận phương thức sản xuất uỷ thác của các hộ
nông dân, có nghĩa là nhà nước công nhận việc chuyển quyền sở hữu đất đai. Ước
tính đã có trên 75% số trang trại áp dụng phương thức này để mở rộng quy mô
ruộng đất sản xuất. Ngoài ra để mở rộng quy mô, các trang trại trong cùng thôn xóm
còn tiến hành các hoạt động hợp tác như làm đất, mua bán chung một số vật tư, sản
phẩm nông nghiệp, nhưng không chấp nhận phương thức tập trung ruộng đất, lao
động để sản xuất (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2003).
1.1.5.3. Ở Indonesia
Đất sản xuất nông nghiệp của Indonesia tập trung chủ yếu ở đồng bằng Java,
ở đây ruộng đất cũng rất manh mún. Năm 1963, số trang trại có diện tích đất nhỏ hơn
0,5 ha chiếm trên 52% trong tổng số 7,9 triệu nông hộ; trang trại có từ 0,5 đến 1,0 ha
chiếm 27%, chỉ có 0,4% loại trang trại có 4 đến 5 ha. Trong khi đó, 40% số trang trại
do người làm công quản lý chứ không do chủ đất quản lý. Tình trạng này đã ảnh hưởng
nhiều đến việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật của cuộc cách mạng xanh thời đó. Tuy có
sự gia tăng áp lực dân số trên ruộng đất, nhưng ít phân cực giữa các loại nông hộ, các
trang trại quy mô lớn đến hàng chục ha chỉ là cá biệt, mặc dù số nông dân không có
ruộng đất vẫn tăng lên. Như vậy ruộng đất vẫn không tập trung được vào một số trang
trại lớn mà chỉ được trao đổi giữa các chủ nhỏ (Chu Mạnh Tuấn, 2007).
1.1.5.4. Ở Thái Lan
Đất đai nông nghiệp trên đồng bằng Chao phraya của Thái Lan có sức ép về
dân số thấp hơn. Sự phân chia nhỏ ruộng đất tuy chưa đến mức quá manh mún
nhưng trong quá trình xây dựng và phát triển siêu đô thị ở Băng Kok đã thu hút lao

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


động nông thôn ra thành thị làm cho quy mô ruộng đất nông nghiệp tăng lên. Cách

đây khoảng 120 năm, vùng Chao phraya có đến 2 triệu ha đất nhưng dân cư chỉ có
khoảng trên 300 ngàn người. Nhưng sự bắt đầu xây dựng đô thị Băng kok kể từ vài
chục năm gần đây đã làm cho dân số vùng tăng nhanh, bình quân 3% năm. Đất nông
nghiệp mất đi trung bình 1%/ năm kể từ năm 1970 trở lại đây. Các trang trại bị chia
nhỏ giảm dần về quy mô ruộng đất. Trung bình một hộ năm 1950 có 4,8 ha đến năm
1963 còn 4,5 ha, năm 1978 là 4,1 ha và 15 năm sau, 1993 chỉ còn 3,5 ha. Sự giảm
quy mô trung bình ruộng đất ở Thái Lan một phần nữa còn được giải thích bởi sự
chia đều ruộng đất cho con cái thừa kế và sự chậm tiến bộ về mặt công nghệ, kỹ thuật
sản xuất. Giai đoạn 20 năm, từ 1955 đến 1975 là giai đoạn giá nông sản (lúa) khá
thấp, công nghệ sản xuất “bão hòa”, không khuyến khích được tập trung ruộng đất.
Trên thực tế giá nông sản thấp và sự bần cùng hóa nông dân luôn đi cùng với sự chia
nhỏ quy mô sản xuất bởi vì lợi ích đầu tư tuộng đất lúc đó không cao, người ta cần
chia nhỏ và đa dạng hoạt động để tránh rủi ro. Khi đó rất ít người có đủ tiền bạc, thực
lực để mà mua đất sản xuất nông nghiệp (Bộ môn Hệ thống nông nghiệp, 2004).
1.1.5.5. Ở Châu Âu và các nước phát triển khác
Kể từ sau cách mạng nông nghiệp lần thứ 2 (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX), một loạt các trang trại nhỏ, manh mún năng suất thấp đã bị loại thải, thay vào
đó là các trang trại quy mô vừa, năng suất lao động cao. Ở Pháp năm 1955 có xấp xỉ
2,3 triệu nông hộ có quy mô 14 ha/hộ, đến năm 1993 chỉ còn 800 ngàn nông hộ với
quy mô 35 ha/hộ. ở Mỹ, năm 1950 cả nước có 5,65 triệu nông hộ với quy mô bình
quân 86 ha/hộ, đến năm 1992 chỉ còn 1,92 triệu nông hộ với quy mô 198,9 ha/hộ.
Nhìn chung, tiến trình tích tụ ruộng đất và vốn nhanh chóng của các nông hộ ở
Châu Âu chủ yếu là nhờ thành tựu khoa học công nghệ phát triển trong quá trình cơ
giới hoá nông nghiệp của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 (Nguyễn Danh
Công, 2014).
1.2. Dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
1.2.1. Tổng quan về chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1.1. Giai đoạn 1945-1981
Ngay sau khi giành được chính quyền vào năm 1945, Chính phủ đã thực hiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 10


phân chia lại ruộng đất và giảm bớt thuế cho nông dân nghèo và tá điền. Chính
quyền cách mạng đã ban hành nhiều sắc luật về ruộng đất và chính sách đối với
nông dân như: Sắc lệnh số 78/SL ngày 14/7/1949 giảm 25% tô. Năm 1952, Chính
phủ ban hành Điều lệ về sử dụng công điền, công thổ để cho công bằng và có lợi
cho người nghèo và chia lại ruộng đất cho nông dân. Ngày 4/12/1953 Quốc hội
thông qua Luật cải cách ruộng đất với mục tiêu để giải phóng sức sản xuất ở nông
thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp để cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng
lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến, để đẩy mạnh kháng chiến, hoàn
thành giải phóng dân tộc đồng thời đem những đồn điền, ấp trại tịch thu của thực
dân Pháp và bọn phản động chia cho nông dân tá điền. Sau khi kết thúc chiến tranh
với thực dân Pháp vào năm 1954, miền Bắc thực hiện chương trình cải cách ruộng
đất cơ bản. Mục đích là để công hữu hoá ruộng đất của địa chủ người Việt và người
Pháp, tiến hành phân chia lại cho hộ nông dân ít đất hoặc không có đất với khẩu
hiệu “Người cày có ruộng”. Giai đoạn tiếp theo của chính sách cải cách ruộng đất
đó là miền Bắc bước sang giai đoạn sở hữu tập thể đất nông nghiệp dưới hình thức
hợp tác xã từng khâu (bậc thấp) và hợp tác xã toàn phần (bậc cao). Ngày
14/12/1956 Bộ tài chính đã có thông tư số 430 hướng dẫn việc thi hành miễn giảm
thuế nông nghiệp để tạo điều kiện cho nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Đến
năm 1960, khoảng 86% hộ nông dân và 68% tổng diện tích đất nông nghiệp đã vào
hợp tác xã bậc thấp. Trong hợp tác xã này người nông dân vẫn sở hữu đất đai và tư
liệu sản xuất. Ở hình thức hợp tác xã bậc cao, nông dân góp chung đất đai và các tư
liệu sản xuất khác (trâu, bò, gia súc và các công cụ khác) vào hợp tác xã dưới sự
quản lý chung.
Sau năm 1975, nền kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nói riêng
phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh để lại, những hậu
quả từ những chính sách trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung và thời kỳ

kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Trong thời kỳ sở hữu tập thể trong nông nghiệp,
sản xuất giảm do người nông dân thiếu động cơ làm việc, sản lượng nông nghiệp
tăng hàng năm ở mức rất thấp, chỉ có 2%. Cùng thời điểm này dân số tăng rất nhanh
(2,2-2,35%/năm) đã dẫn đến việc phải nhập khẩu bình quân hơn một triệu tấn lương
thực mỗi năm trong suốt thời kỳ sau chiến tranh (Nguyễn Danh Công, 2014).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


1.2.1.2. Giai đoạn 1981-1988
Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V ngày 13/01/1981 đã ra Chỉ thị số
100/CT-TƯ về công tác khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ thị 100) đã bắt đầu cho sự thay đổi cơ
chế quản lý và sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp. Dưới chính sách Khoán
100, các HTX (hợp tác xã) giao đất nông nghiệp đến hộ gia đình và người lao
động; xã viên được đầu tư vốn, sức lao động trên khoán ruộng và hưởng trọn
phần vượt khoán. Đất đai vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước và dưới sự quản lý của
HTX. Mặc dù còn đơn giản nhưng Khoán 100 đã trở thành bước đột phá trong
quá trình hướng tới nền kinh tế thị trường, có tác dụng ngăn chặn sự sa sút và tạo
đà đi lên trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Sự ra đời của Khoán 100 đã có
những ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với sản xuất
lúa gạo, tăng 6,3%/ năm trong suốt giai đoạn 1981-1985. Tuy nhiên, sau năm
1985 tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp bắt đầu giảm, cụ thể tốc độ tăng
trưởng của tổng sản lượng nông nghiệp trong giai đoạn 1986-1988 chỉ là
2,2%/năm. Năm 1988, do sản xuất lương thực không đáp ứng được nhu cầu dẫn
đến sự thiếu ăn ở 21 tỉnh, thành trên miền Bắc. Ở miền Nam một loạt các mâu
thuẫn cũng gia tăng trong khu vực nông thôn, đặc biệt là mối quan hệ đất đai bởi
sự “cào bằng” về phân chia và điều chỉnh đất đai. Điều này hiển nhiên đặt ra yêu
cầu một cuộc cải cách mới trong chính sách đất đai.

1.2.1.3. Sự phát triển của quản lý ruộng đất sau đổi mới
Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của đời sống kinh tế - xã
hội ở Việt Nam. Khởi đầu cho công cuộc chuyển đổi ở Việt Nam, ngày 05/4/1988
Nghị quyết 10/NQ-TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (hay còn gọi
“Khoán 10”) được ban hành. Với sự ra đời của Khoán 10 người nông dân được giao
đất nông nghiệp sử dụng từ 10-15 năm và lần đầu tiên hộ nông dân được thừa nhận
như một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông nghiệp. Sản xuất lương thực đã
có sự khởi sắc đáng kể, từ 19,5 triệu tấn năm 1988 lên 21,5 triệu tấn năm 1989, tức
là tăng thêm 2 triệu tấn trong 1 năm. Tốc độ tăng trưởng trong nông nghiệp gần
10%, là một kỷ lục chưa từng có. Sản lượng lương thực tăng nhanh không những
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


cung cấp đủ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu (năm 1989, lần đầu tiên Việt
Nam xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo).
Trong suốt thời kỳ đổi mới, một loạt các chính sách nông nghiệp và nông
thôn, đặc biệt liên quan đến sử dụng đất đai đã ra đời. Những chính sách quan trọng
nhất đó là Luật Đất đai năm 1993, Nghị định 64/CP năm 1993 và Nghị định 02/CP
năm 1994 về quy định việc giao đất lâm nghiệp và đất nông nghiệp, sau đó là Luật
Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2001; Luật Đất đai năm 2003; Mới nhất là
Luật đất đai 2013. Bên cạnh đó cũng có một loạt các chính sách liên quan trực tiếp
hoặc hỗ trợ gián tiếp đến vấn đề về đất đai.
Theo Luật Đất đai 2013, hộ nông dân được giao quyền sử dụng ruộng đất có
thời hạn là 50 năm với 8 quyền: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất, bổ sung 3 quyền so
với luật đất đai 2003 là quyền cho thuê lại, tặng cho và góp vốn quyền sử dụng đất.
Như vậy người dân sẽ được hưởng nhiều quyền lợi hơn trong quá trình sử dụng đất.

Khi hết thời hạn, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nếu có nhu cầu
thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản này. Việc giao đất sẽ
được tiến hành lại tại thời điểm cuối chu kỳ giao đất nếu như người sử dụng đất vẫn
có nhu cầu sử dụng. Luật đất đai 2013 cũng quy định thời hạn cho thuê đất nông
nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân không quá 50 năm. Khi hết thời hạn thuê đất, hộ
gia đình, cá nhân nếu có nhu cầu thì được Nhà nước xem xét tiếp tục cho thuê đất.
Luật này cũng quy định mức giao đất nông nghiệp, hạn mức giao đất trồng cây hàng
năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp
sản xuất nông nghiệp không quá 3 héc ta cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thuộc khu vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông
Cửu Long; không quá 2 héc ta cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương khác. Hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân
không quá 10 héc ta đối với xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 30 héc ta
đối với xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi (Quốc hội, 2013). Cùng với việc
giao đất cho các hộ nông dân thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng được các
cơ quan chức năng xem xét và cấp cho các hộ dân.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


Những thay đổi trong chính sách đất đai của Việt Nam từ năm 1981 đến nay
đã góp phần đáng kể trong việc tăng nhanh sản lượng nông nghiệp và phát triển khu
vực nông thôn. An ninh lương thực quốc gia được đảm bảo và nghèo đói đang từng
bước được đẩy lùi.
1.2.2. Tính cấp thiết phải tiến hành dồn điền đổi thửa tại Việt Nam
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
cơ chế kinh tế nông nghiệp nông thôn, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự
chủ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trước nhu cầu của sự nghiệp công

nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nền nông nghiệp và đặc biệt là vấn đề ruộng đất
trong nông nghiệp đã bộc lộ những tồn tại, nảy sinh mới cần phải được quan tâm
giải quyết, đó chính là tình trạng ruộng đất quá manh mún về diện tích và ô thửa.
Chuyển đổi ruộng đất chống manh mún, phân tán, tạo ra ô thửa lớn là việc làm cần
thiết, tạo tiền đề cho việc thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác, khi thực hiện giao đất còn nhiều sai sót, tùy tiện dẫn đến tình trạng
khiếu kiện kéo dài gây mất ổn định ở cơ sở; quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch kiến
thiết lại ruộng đồng thiếu khoa học, thiếu tầm nhìn chiến lược đang gây trở ngại cho
việc quản lý, sử dụng đất. Trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế để đáp ứng với nền
kinh tế thị trường, cần phải tổ chức lại sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hơn nữa, với quy mô sản xuất như hiện nay, kỹ thuật canh tác, nền nông
nghiệp với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, công nghệ và trang thiết bị sản xuất
ở đầu vào đầu ra đều lạc hậu. Nghề nông vẫn là nghề “cha truyền con nối”, “lão
nông tri điền”. Chế biến và buôn bán vẫn như xưa, không liên kết với sản xuất theo
chuỗi giá trị ngành hàng. Nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng đang
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong thế yếu. Người nông dân với 5-7 công đất thì
họ không cần hợp tác, không thể gắn kết với doanh nghiệp để phát triển sản xuất.
Quan trọng hơn, quy mô 5-7 công đất thì không thể ứng dụng tốt nhiều tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất (Vũ Trọng Khải, 2015).
Để khắc phục tình trạng trên, giải pháp có hiệu quả nhất là phải tiến hành
dồn điền đổi thửa. Để hiểu rõ hơn tại sao phải nhanh chóng tiến hành công tác dồn
điền đổi thửa chúng ta cần tìm hiểu những hạn chế của tình trạng manh mún ruộng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


đất gây trở ngại cho sản xuất và công tác quản lý Nhà nước về đất đai (Bộ Tài
nguyên & Môi trường, 2010).

Những hạn chế của manh mún ruộng đất:
Khi nông nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hóa, thì manh mún đất đai đã trở
thành yếu tố ngăn cản sự phát triển.
Sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ sẽ có nhiều khó khăn trong ứng dụng công
nghệ mới và tiến hành cơ giới hóa sản xuất. Việc đưa máy móc vào trong sản xuất
nông nghiệp sẽ khó có thể thực hiện hiệu quả khi diện tích quá nhỏ. Phần lớn hiện
nay ở Việt Nam diện tích đất canh tác nhỏ hơn 0,5ha/thửa, đặc biệt là đồng bằng
sông Hồng. Do đó hình thành rất nhiều đường bờ để ngăn cách các thửa ruộng với
nhau. Sự tồn tại của những đường bờ ngăn cách đó gây khó khăn cho sự vận hành
của máy móc hiện đại. Ngoài ra, những đường bờ ngăn đó cũng sẽ lấy đi một phần
diện tích đất sản xuất không nhỏ.
Chi phí sản xuất sẽ gia tăng vì các hộ phải tốn nhiều thời gian để di chuyển
giữa các thửa ruộng. Trung bình khoảng cách giữa các thửa ruộng gần 5km; với con
số trung bình là 5 thửa ruộng thì hộ nông dân cần phải đi một đoạn đường gần 25
km trên lượt di chuyển đến tất cả các thửa ruộng. Chi phí đi lại về thời gian và tiền
bạc tốn kém hơn rất nhiều. Ngoài ra việc phải canh tác trên nhiều thửa ruộng với
quy mô nhỏ sẽ gia tăng chi phí đầu vào đối với sản xuất.
Vấn đề thủy lợi trong sản xuất quy mô nhỏ sẽ có nhiều khó khăn. Với một hệ
thống thủy lợi chung cho một cánh đồng có thể không đạt hiệu quả vì còn tồn tại
quá nhiều đường bờ ngăn ruộng. Ngoài ra việc sản xuất quy mô nhỏ còn làm gia
tăng mâu thuẫn giữa các hộ nông dân, gây ra những tác động xấu về mặt xã hội
trong đời sống nông thôn (Lê Thị Anh, 2014).
Theo Điều tra nông thôn với bộ số liệu “Điều tra tiếp cận nguồn lực của hộ
gia đình Việt Nam (VARHS)” được tiến hành điều tra trên địa bàn 12 tỉnh của Việt
Nam trong khoảng thời gian từ tháng 7 - 9/2008 đến tháng 6-8/2010 tại 12 tỉnh cho
thấy diện tích đất canh tác trung bình của một hộ nông dân là 0,85ha, trung bình
mỗi hộ có 4,7 mảnh đất khác nhau, tổng khoảng cách từ nơi ở đến ruộng của các hộ
nông dân khoảng 4,7km. Thực trạng manh mún đất đai năm 2010 một số tỉnh được
thể hiện ở bảng 1.1.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


Bảng 1.1. Thực trạng manh mún đất đai thời điểm 2010 một số tỉnh
Diện tích đất canh tác Số mảnh Tổng khoảng cách
Lào Cai
Phú Thọ
Lai Châu
Điện Biên
Nghệ An
Quảng Nam
Khánh Hòa
Đắk Lắk
Đắk Nông
Lâm Đồng
Long An
Đồng bằng phía Bắc
Miền núi phía Bắc
Tây Nguyên
Đồng bằng phía Nam
Total

trung bình (ha)

đất

đến các mảnh (m)


1,06
0,51
0,95
1,19
0,68
0,36
1,00
1,47
2,61
1,37
1,52
0,41
1,06
1,83
0,94
0,85

5,1
6,2
5,3
6,1
4,8
4,5
3,5
3,9
3,1
2,9
3,0
5,5
5,5

3,4
3,7
4,7

6.499
4.084
9.655
12.196
3.871
3.180
4.242
5.754
7.188
5.036
2.298
4.034
9.602
6.066
2.828
4.766

N = 1995
(Nguồn: Lê Thị Anh, 2014)
Theo số liệu điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến năm 2011 Việt
Nam vẫn còn 69% số hộ sử dụng đất sản xuất có quy mô dưới 0,5 ha; 34,7% số hộ
có quy mô dưới 0,2 ha. Như vậy, có thể thấy đất sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
đang bị phân tán lớn, quy mô sản xuất nhỏ, số thửa canh tác nhiều.
Chính vì những nguyên nhân trên mà càng cần thiết tiến hành dồn điền đổi
thửa.
1.2.3. Cơ sở thực tiễn của việc dồn điền đổi thửa

Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu con đường đổi mới kinh tế. Theo đó mục
tiêu đổi mới là chuyển nền kinh tế Việt Nam từ mô hình kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 là bước ngoặt cơ bản trong nông
nghiệp. Nội dung chính của Nghị quyết này là công nhận hộ nông dân là một đơn vị
kinh tế tự chủ, tự do hoá thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất cũng như các tư
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16


liệu sản xuất khác (ngoại trừ đất đai) và giao đất sử dụng ổn định, lâu dài cho người
dân. Chính sách mới này đã dẫn đến xoá bỏ hợp tác hoá trong nông nghiệp.
Cũng theo chính sách này, nông dân được giao đất nông nghiệp trong 15 năm
và ký hợp đồng sử dụng các đầu vào, sử dụng lao động và sản phẩm mà họ sản xuất
ra. Các chỉ tiêu trong hợp đồng được ổn định trong 5 năm. Hơn nữa, hầu hết các tư
liệu sản xuất (máy móc, trâu bò và các công cụ khác) được coi là sở hữu tư nhân.
Từ đó, nông nghiệp Việt Nam bước vào một giai đoạn mới tương đối ổn định.
Tuy nhiên, thời gian giao đất còn quá ngắn và một số quyền sử dụng đất khác
chưa được luật pháp hoá. Điều này dẫn đến nông dân có thể ít có động cơ đầu tư dài
hạn trên đất. Luật Đất đai năm 1993 ra đời đã giải quyết được những vấn đề nêu trên.
Theo đó nông dân được giao đất ổn định và lâu dài, họ được giao 5 quyền sử dụng
đất bao gồm: quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa kế và thế chấp (Quốc
hội, 1993). Nguyên tắc quan trọng nhất trong việc giao đất là duy trì sự công bằng.
Thông thường ở nhiều nơi trên miền Bắc, đất đai được chia bình quân theo
định suất (hoặc bình quân theo nhân khẩu). Những tiêu chuẩn khác cũng được
xem xét khi giao đất là các chính sách xã hội, chất lượng đất, tình hình thuỷ lợi,
khoảng cách đến thửa ruộng và khả năng luân canh cây trồng. Đất cây hàng năm
ở Việt Nam được chia thành 6 hạng. Do đó, để duy trì nguyên tắc công bằng mỗi
hộ thường được giao nhiều thửa với nhiều hạng đất khác nhau, ở các cánh đồng

khác nhau với chất lượng đất khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân
cơ bản tạo ra tình trạng manh mún đất đai ở Việt Nam. Manh mún có nhiều mức
độ khác nhau, ở một số vùng tình trạng manh mún có thể nghiêm trọng hơn ở
những nơi hoặc vùng khác.
Trong các báo cáo gửi Chính phủ và UBND tỉnh, khi rút kinh nghiệm công
tác dồn điền, đổi thửa, các địa phương đều đưa ra kết luận công tác dồn điền, đổi
thửa nên áp dụng ở những vùng mà manh mún đất đai đang là vấn đề lớn và không
có mâu thuẫn về đất đai.
Nguyên tắc quan trọng nhất trong dồn điền, đổi thửa là các hộ nông dân tự
nguyện đổi đất cho nhau để tạo thành những thửa lớn hơn. Tuy nhiên, ở rất nhiều
tỉnh quá trình giao lại đất đã xảy ra, trong đó các hộ nông dân được tham gia rất ít
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 17


vào quá trình này, ngoại trừ việc đánh giá chất lượng đất và xác định hệ số trao đổi
giữa các hạng đất. Bởi đất đai ở Việt Nam là sở hữu toàn dân, do đó các hộ nông
dân cho rằng họ không có quyền tham gia vào quá trình giao lại đất hoặc thảo luận
về kế hoạch hoá sử dụng đất (Nguyễn Danh Công, 2014).
1.2.4. Tình hình dồn điền đổi thửa ở một số tỉnh
Nhận thức được sản xuất manh mún, chưa tạo ra được những vùng sản xuất
lớn, tập trung nên sản phẩm nông nghiệp chưa thực sự trở thành hàng hóa, giá trị
nông nghiệp chưa cao. Thái Bình xác định công tác dồn điền đổi thửa là nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở đó UBND tỉnh đã
phê duyệt Đề án số 214/QĐ-UBND ngày 15/02/2011 về việc dồn điền đổi thửa đất
nông nghiệp, thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới và Kế hoạch số 20/KHUBND ngày 16/08/2011 về kế hoạch dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp thực hiện
quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Kết quả đến hết quý I năm 2013, Thái Bình
cơ bản đã thực hiện xong dồn điền đổi thửa gắn với chỉnh trang đồng ruộng. Tỉnh
đã giảm được 499.930 thửa, chỉ còn 462.187 thửa, bình quân chung toàn tỉnh là

1,79 thửa/hộ. Cùng với kết quả dồn điền đổi thửa, người dân đã tự nguyện góp
trên 2.000 ha đất để làm công trình giao thông, thủy lợi nội đồng. Khối lượng đào
đắp giao thông, thủy lợi nội đồng bình quân mỗi xã khoảng 50.000 km3. Hệ thống
giao thông, thủy lợi nội đồng được các xã thực hiện theo đúng quy hoạch. Cụ thể,
thiết kế bờ vùng cách bờ vùng là 500m - 800m; bờ thửa cách bờ thửa là 100m, mặt
bờ vùng rộng 4,5m. Cứ cách 500m có một điểm tránh xe, bờ thửa rộng 2,5m, đủ
tiêu chuẩn để cho máy gặt đập liên hợp hoạt động. Dọc bờ vùng, bờ thửa có
mương tưới tiêu nước và thuận lợi cho việc sử dụng cơ giới vào sản xuất. Đây là
điều kiện thuận lợi để xây dựng và thực hiện cánh đồng mẫu lớn; là điều kiện tốt
để các tập thể, cá nhân mạnh dạn đầu tư vốn để mua máy móc phục vụ sản xuất
nông nghiệp, góp phần làm giảm chi phí, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm. Qua thực tế ở các xã đã dồn điền đổi thửa, chỉnh trang nội đồng, máy móc,
cơ giới được đầu tư, nên khâu làm đất đạt 100%, vận chuyển đạt 100%, gặt
khoảng 80%, bơm nước 100%.
Ở tỉnh Hải Dương, qua 2 lần thực hiện DĐĐT (2003 và 2013) diện mạo nông

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 18


thôn đã có những thay đổi cơ bản. Các huyện, xã, thôn trong quá trình thực hiện đã
thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Tỉnh. Từ việc tuân thủ các quy hoạch
chung, quy hoạch chi tiết về xây dựng nông thôn mới đến các quy định của Luật đất
đai và các văn bản pháp quy hiện hành. DĐĐT và chỉnh trang đồng ruộng đã trở
thành phong trào lớn ở nông thôn, được đảng viên và nhân dân đồng tình hưởng
ứng. Nhiều địa phương đã chủ động sáng tạo và vận động nhân dân ủng hộ kinh phí
và ngày công, góp một phần diện tích cho quá trình chỉnh trang đồng ruộng. DĐĐT
về cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra là khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất,
đất công điền cơ bản được tập trung vào các vị trí qui hoạch cho các công trình

công cộng hoặc tập trung thành vùng thuận tiện cho việc quản lý, sử dụng lâu dài.
Sau DĐĐT nhiều địa phương đã hình thành được các vùng sản xuất tập trung,
chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng
nông thôn mới và quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Ở Nam Định, sau vụ mùa năm 2011 (đợt 1), có 91/209 xã, thị trấn triển khai
DĐĐT, trong đó có 84/96 xã, thị trấn xây dựng nông thôn mới. Đến hết năm
2011, có 57 xã, thị trấn đã hoàn thành giao đất ngoài thực địa; Hải Hậu là huyện đầu
tiên hoàn thành công tác DĐĐT (35/35 xã, thị trấn). Sau vụ mùa năm 2012 (đợt 2),
có thêm 108 xã, thị trấn triển khai; như vậy đến năm 2012 đã có 199/209 xã, thị trấn
(2.999 thôn) triển khai DĐĐT, trong đó có 96 xã, thị trấn xây dựng nông thôn mới.
Trong 108 xã, thị trấn triển khai trong năm 2012, đến 21/12/2012 đã có 75 xã, thị
trấn hoàn thành giao đất ngoài thực địa, 33 xã, thị trấn đang tập trung hoàn thành
công trình giao thông thủy lợi nội đồng, bốc thăm vị trí và chuẩn bị giao đất ngoài
thực địa (Nguyễn Thế Vịnh, 2013).
Ở Hà Nội, chỉ trong một thời gian ngắn (gần hai năm: từ tháng 5/201212/2014), toàn thành phố Hà Nội đã dồn điền đổi thửa được 75.965,3 ha/76.365,07
ha, một diện tích đất nông nghiệp rất lớn mà hơn 10 năm qua chưa làm được. Sau
hai năm thực hiện, Hà Nội đã dồn điền đổi thửa được 99,48% kế hoạch. Một số
huyện thực hiện dồn được diện tích lớn như: Chương Mỹ hơn 10,2 nghìn ha; Sóc
Sơn hơn 10,3 nghìn ha; Phú Xuyên hơn 8,9 nghìn ha; Mỹ Đức hơn 7,5 nghìn ha…
Trong đó, có nhiều huyện thực hiện vượt chỉ tiêu theo kế hoạch dồn điền đổi thửa
như Phú Xuyên, Sóc Sơn, Ba Vì, Sơn Tây, Thạch Thất (Tú Mai, 2015).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 19


×