Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp khắc niệmthành phố bắc ninh tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 76 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

MỞ ĐẦU

1

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1 Quá trình hình thành và phát triển KCN trên thế giới và Việt Nam

3

1.1.1 Trên thế giới

3

1.1.2 Tại Việt Nam



5

1.2 Sự phát triển của khu công nghiệp và tác động của chúng đến môi trường
1.2.1 Sự phát triển KCN ở Việt Nam

5
5

1.2.2 Ảnh hưởng của phát triển khu công nghiệp đến đời sống kinh tế, xã
hội và môi trường
1.3 Nguồn phát sinh và đặc điểm chất thải rắn công nghiệp

7
13

1.3.1 Nguồn phát sinh

13

1.3.2 Đặc điểm của chất thải rắn công nghiệp

15

1.4 Tổng quan về thực trạng quản lý chất thải rắn

18

1.4.1 Quản lý chất thải rắn trên thế giới


18

1.4.2 Quản lý chất thải ở Việt Nam

19

1.4.3 Quản lý chất thải rắn công nghiệp

21

Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

30

2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

30

2.2 Nội dung nghiên cứu

30

2.3 Phương pháp nghiên cứu

30

2.3.1 Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp

30


2.3.2 Phương pháp điều tra ngoại nghiệp

30

2.3.3 Phương pháp xử lý số liệu

31

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

32

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


3.1 Hiện trạng quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp
Khắc Niệm

32

3.1.1 Khái quát về cụm công nghiệp Khắc Niệm

32

3.1.2 Hiện trạng chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp Khắc Niệm

36


3.1.3 Cơ cấu tổ chức công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị
Bắc Ninh

39

3.1.4 Đánh giá hiệu quả quản lý chất thải rắn công nghiệp của CCN

46

3.2 Đề xuất mô hình hệ thống quản lý chất thải rắn công nghiệp hiệu quả hơn
cho cụm công nghiệp Khắc Niệm

51

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

58

TÀI LIỆU THAM KHẢO

59

PHỤ LỤC

61

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BTNMT

: Bộ tài nguyên Môi trường

CCN

: Cụm công nghiệp

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CT- UB

: Chỉ thị- Ủy ban

CTCN

: Chất thải công nghiệp

CTNH

: Chất thải nguy hại

CTR

: Chất thải rắn


CTRCN

: Chất thải rắn công nghiệp

CTRNH

: Chất thải rắn nguy hại

ĐTM

: Đánh giá tác động môi trường

HTMT

: Hiện trạng môi trường

KCN

: Khu công nghiệp

KKT

: Khu kinh tế

KCX

: Khu chế xuất

NĐ- CP


: Nghị định- Chính phủ

ÔNMT

: Ô nhiễm môi trường

PTBV

: Phát triển bền vững

QCVN

: Quy chuẩn Việt Nam

QĐ- TTg

: Quyết định của Thủ tướng

TCVN

: Tiêu chuẩn Việt Nam

TT

: Thông tư

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


UBND

: Ủy ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Một số liều lượng gây độc

16

1.2

Liều lượng và tính độc

17

1.3


Lượng phát sinh chất thải nguy hại

22

3.1

Cơ cấu sử dụng đất

34

3.2

Thành phần các chất trong chất thải rắn công nghiệp

37

3.3

Loại và lượng chất thải công nghiệp phát sinh trong cụm công nghiệp
Khắc Niệm

3.4

38

Ý kiến nhận xét của cán bộ và người dân về các tác động mà các công
ty, doanh nghiệp tại cụm công nghiệp gây ra

48


3.5

Ý kiến nhận xét của cán bộ và người dân xung quanh công ty

49

3.7

Tổng hợp ý kiến của cán bộ và người dân

51

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii


DANH MỤC HÌNH

Số hình

Tên hình

Trang

1.1

Tình hình phát triển KCN qua các năm

1.2


Quản lý chất thải nước Nhật

18

1.3

Quản lý chất thải ở Singapo

19

1.4

Hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị

20

1.5

Quản lý chất thải ở các KCN ở Việt Nam

23

1.6

Mô hình hệ thống thu gom CTCN, CTNH từ các KCN, KCX

26

3.1


7

Biểu đồ hành chính phường Khắc Niệm- TP Bắc Ninh- tỉnh Bắc Ninh

33

3.2

Cơ cấu tổ chức Ban quản lý KCN Bắc Ninh

33

3.3

Cơ cấu ngành nghề sản xuất CCN Khắc Niệm

35

3.4

Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị
Bắc Ninh

3.5

39

Quy trình quản lý chất thải của công ty TNHH Môi trường và Công
trình đô thị Bắc Ninh tại cụm công nghiệp Khắc Niệm


41

3.6

Khối lượng chất thải công nghiệp trong năm 2014

46

3.7

Khối lượng chất thải rắn xử lý trong năm 2014

47

3.8

Đề xuất mô hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp
Khắc Niệm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

52

Page viii


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển

kinh tế của một quốc gia thông qua việc thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế
khác. Tuy nhiên, phát triển công nghiệp cũng đang gây ra nhiều sức ép về môi
trường ở hầu hết các quốc gia. Hàng ngày, các khu công nghiệp thải ra hàng nghìn
tấn chất thải, trong đó chất thải rắn chiếm một phần không nhỏ. Hiện nay, việc quản
lý chất thải nói chung và chất thải rắn công nghiệp nói riêng sao cho không gây tác
động tiêu cực tới môi trường và cuộc sống của con người đang là vấn đề cấp thiết,
đặc biệt là ở các thành phố lớn. Ở nhiều quốc gia, các cơ quan quản lý và xử lý chất
thải được thành lập, song hiệu quả về kinh tế và môi trường sinh thái của các hoạt
động này vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập.
Việt Nam là một quốc gia đang trong giai đoạn thực hiện mục tiêu Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và tạo nền tảng để đưa Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đại hội Đảng
XI – 2011 đã đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh sự chú trọng về việc phát triển kinh tế, đất
nước ta đang phải đối mặt nhiều vấn đề về môi trường. Đăc biệt là những khó khăn
trong việc quản lý và xử lý chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng. Ở nhiều
nơi trong cả nước, như ở các thành phố lớn, chất thải rắn đang là một trong những
nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh
thái và sức khỏe con người. Ở các khu công nghiệp, việc quản lý và xử lý chất thải
rắn công nghiệp hiện nay đang là một thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng
và cơ quan quản lý của nhiều đô thị, nhất là những đô thị có khu công nghiệp tập
trung như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... Mặc dù, các
Khu công nghiệp đã có hệ thống thu gom chất thải rắn nhưng cũng không tránh
khỏi sự ô nhiễm mà chúng gây ra cho môi trường xung quanh. Quá trình công
nghiệp hóa ở nước ta những năm qua đã hình thành nhiều KCN, CCN, KCX. Sự
phát triển nhanh chóng những loại hình công nghiệp này đã làm gia tăng tốc độ ô
nhiễm môi trường.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1



Hiện nay, hầu hết các loại hình công nghiệp đã có quy hoạch, thiết kế kỹ
thuật, giải pháp công nghệ và quản lý để xử lý ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên việc
thực hiện công tác bảo vệ môi trường KCN vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng ô
nhiễm môi trường ở KCN, CCN vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt là những KCN,
CCN nằm trong đô thị, có mật độ dân số cao.
Cụm công nghiệp Khắc Niệm - thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có quy
mô lớn, lại nằm trong khu vực thành phố, có mật độ dân số cao và đã đi vào hoạt
động. Môi trường CCN này vẫn cần được quản lý, giám sát, đặc biệt đối với chất
thải rắn công nghiệp, nguy hại. Những năm gần đây, Bắc Ninh trở thành điểm sáng
trong thu hút đầu tư, công nghiệp phát triển nhanh, đời sống người dân nâng cao.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên
bức xúc, đặc biệt là ô nhiễm chất thải . Việc quản lý chất thải rắn công nghiệp đã và
đang là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Chính vì vậy tôi tiến hành thực
hiện đề tài “Đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công
nghiệp Khắc Niệm - thành phố Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh”. Chất thải rắn tại cụm
công nghiệp Khắc Niệm do Công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị Bắc
Ninh trực tiếp phụ trách thực hiện việc thu gom và xử lý chất thải.
Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công
nghiệp Khắc Niệm- TP. Bắc Ninh và các phương thức xử lý chất thải rắn công
nghiệp do công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị Bắc Ninh thực hiện.
Yêu cầu của đề tài
Đánh giá hiện trạng và công tác xử lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công
nghiệp Khắc Niệm.
Đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả hơn chất thải rắn công nghiệp đối với
cụm công nghiệp Khắc Niệm.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp trên thế giới và Việt
Nam.
1.1.1. Trên thế giới
Khu công nghiệp là một khái niệm chung bao gồm nhiều hình thức từ các hình
thức truyền thống như: khu mậu dịch tự do, cảng tự do… xuất hiện từ thế kỷ XIX đến
các hình thức mới xuất hiện cuối thế kỷ XX như khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu
công nghiệp tập trung, khu văn phòng, khu thương mại... Trên thế giới, sự tồn tại của
khu công nghiệp đã trải qua nhiều bước phát triển, có thể kể ra bốn thế hệ của khu công
nghiệp; gọi chung là Business Park (Nguyễn Cao Lãnh, 2009).
Thế hệ đầu tiên của khu công nghiệp, được xây dựng vào những năm 1970,
có thể được phân biệt với các thế hệ khác bởi cách sắp xếp văn phòng, kho tàng,
kiến trúc khá đơn giản. Các khu vực của các tòa nhà hành chính chiếm 10 - 15%
tổng diện tích của công viên, công trình theo mẫu và cho thuê ( Geneva,1993). Mặc
dù hoàn hảo trong ý tưởng nhưng nhìn chung, tiêu chuẩn về quy hoạch và kiến trúc
là thấp. Với chức năng cơ bản là công nghiệp và tỷ lệ các bộ phận chức năng, đặc
biệt là cây xanh chưa hợp lý; KCN thế hệ thứ nhất luôn biệt lập vào ban ngày, vắng
vẻ vào ban đêm và khó có thể đạt được một chất lượng môi trường, dịch vụ và hạ
tầng cao (Nguyễn Cao Lãnh, 2009).
Trong giai đoạn từ năm 1975 và 1985, các khu công nghiệp văn phòng, đã
được sử dụng bởi các công ty kinh doanh với khoa học, công nghệ và kinh doanh
chiếm không gian lớn hơn nhiều. Đặc điểm khu công nghiệp thế hệ thứ hai này là
một kiến trúc phức tạp hơn (Nguyễn Văn Tuấn- 2007). Các KCN thế hệ thứ hai có
xu hướng lấp đầy các khoảng trống còn lại ở vành đai đô thị, nhằm khôi phục và
tiếp thêm sức sống cho các khu vực ngoại ô và nhằm xoá bỏ ấn tượng xấu về kiến
trúc và cảnh quan của các khu vực công nghiệp. Ví dụ khu Chiswick (London,

Anh), Irvine Spectrum (California, Hoa Kỳ) (Nguyễn Cao Lãnh,2009).
Kể từ nửa cuối những năm 1980, thế hệ thứ ba khu công nghiệp được xây
dựng. Các Business Park thế hệ thứ ba tuân thủ các nguyên tắc quy hoạch tổng thể
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


và xây dựng cơ sở hạ tầng của một đô thị nhỏ mới. Các công trình phục vụ công
cộng được hợp thành một địa điểm nổi bật hay một trung tâm đô thị nhỏ phục vụ
các đơn vị phát triển. Các đơn vị phát triển này với mật độ và kích thước lô đất khác
nhau tạo ra sự đa dạng cho mọi đối tượng sử dụng trong KCN. Đại diện trong số
này là một vài KCN thế hệ thứ ba như khu Stockley (Heathrow, Anh), Meridian
(Carolina, Hoa Kỳ) (Nguyễn Cao Lãnh, 2009). Các tòa nhà hành chính và danh mục
đầu tư các dịch vụ đặc trưng cho thế hệ thứ tư của khu công nghiệp đó bắt đầu phát
sinh từ giữa những năm 1990 (Geneva, 1993). Kể từ nửa cuối những năm 1990, khu
công nghiệp đã là một phần của một mạng lưới quốc tế các khu hợp tác. Tất cả
Business Park thế hệ thứ tư đều đạt được một trình độ tổ chức kỹ thuật, xã hội rất
cao và có thể trở thành địa điểm nổi bật, có giá trị và quan trọng của toàn vùng. Ví
dụ khu Marina Village (California, Hoa Kỳ), Edinburgh (Edinburgh, Scotland)
(Nguyễn Cao Lãnh, 2009).
Nền tảng của các khu công nghiệp được tìm thấy tại Anh, là nơi có hệ thống
nhà máy và khu công nghiệp đầu tiên được thành lập. Đây là những thiết lập bởi
nhiều đơn vị sản xuất, các nhà máy đầu tiên xuất hiện ngẫu nhiên, tuy nhiên, sự xuất
hiện sau đó lại đại diện cho một hành động có tổ chức theo ý tưởng nhất định về
quy hoạch đô thị và chính sách khu vực. Khu công nghiệp đầu tiên, Trafford Park,
được thành lập bởi một công ty tên là Shipcanal và Docks gần Manchester vào năm
1896 (Geneva, 1993).
Các khu công nghiệp được thành lập ở Đức cũng vậy. Khu công nghiệp đầu
tiên được thành lập năm 1963 (Euro-Industriepark Munchen). Số lượng lớn khu

công nghiệp và công viên với các công ty công nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện sớm
hơn trong nửa cuối của năm 1980 và cơ bản là một sáng kiến của nhà đầu tư tự do.
Có 22 khu công nghiệp và đầu tư xuất hiện ở Tây Đức vào năm 1984. Bên cạnh đó,
các khu tư nhân được thành lập. Có sự xuất hiện ở khu vực đông dân cư, diện tích
khá nhỏ và tập trung vào các lĩnh vực thị trường khác nhau. Khu vực với nhiều loại
hình khác nhau có thế kể đến khu Dussseldorf (23 dự án hoàn thành vào năm 1992)
và Frankfurt am Mein (19 dự án hoàn thành vào năm 1992), vẫn còn tồn tại và phát
triển đến ngày nay (Geneva, 1993).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


Năm 1995, Liên Hiệp Quốc đã thống kê thế giới có khoảng 12.000 KCN với
diện tích nhỏ nhất là 1ha, lớn nhất đến 10.000ha (Nguyễn Mộng, 2010). Theo
chương trình môi trường Liên Hợp Quốc có thể phân các khu công nghiệp trên thế
giới thành các loại hình sau đây: Khu công nghiệp tập trung; khu chế xuất; khu tự
do; khu chế biến công nghiệp; trung tâm công nghệ cao; khu công nghệ sinh học;
khu công nghệ sinh thái.
Hiện nay, các KCN được phát triển ở hầu hết tất cả các quốc gia, đặc biệt là
các nước đang phát triển, để phục vụ các hoạt động công nghiệp hơn là nghiên cứu
hay theo hướng thương mại.
1.1.2. Tại Việt Nam
Từ ngày 24/9/1991 khu ủy ban hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế Hoạch và
Đầu Tư) được Chính phủ ủy nhiệm cấp giấy phép số 245 thành lập khu chế xuất
đầu tiên với quy mô 300ha đất tại xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè, thành phố
Hồ Chí Minh, đến hết tháng 12/2001 trên địa bàn cả nước đã có 69 dự án khu
công nghiệp, khu chế xuất được hình thành phát triển hoặc được Chính phủ cấp
phép thành lập đang trong quá trình triển khai, giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ

tầng. Trong đó có 65 khu công nghiệp tập trung, 3 khu chế xuất, một khu công
nghệ cao với tổng diện tích lên tới hơn 10.500 ha bình quân mỗi khu công nghiệp
160 ha. Các khu công nghiệp được hình thành tại 27 tỉnh thành trong đó các tỉnh
miền Bắc có 15 KCN, miền Trung có 13 KCN, miền Nam có một khu công nghiệp
(Bộ Xây Dựng, 2005).
Về loại hình có 16 KCN hình thành trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công
nghiệp đang hoạt động, 10 KCN phục vụ di dời, 22 KCN quy mô nhỏ ở các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ, duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, 21 KCN
được xây mới với quy mô lớn trong đó có 13 KCN có hợp tác với nước ngoài để thu
hút vốn vào, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
1.2. Sự phát triển của khu công nghiệp và tác động của chúng đến môi trường
1.2.1. Sự phát triển KCN ở Việt Nam
Những cụm sản xuất công nghiệp được hình thành trước năm 1975 chủ yếu tập
trung ở miền Nam. Trong giai đoạn này, các cơ sở sản xuất công nghiệp còn mang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


tính tự phát, phân tán rời rạc. Một số nhà máy, xí nghiệp tập hợp lại và cùng hoạt
động trong một phạm vi địa lý nhất định cũng được gọi là “khu công nghiệp”. Công
nghệ sản xuất của các cơ sở này còn lạc hậu, không có quy hoạch tổng thể và lâu
dài, không quan tâm đúng mức đến vấn đề môi trường (Lê Quý An, 2004).
Năm 2008 là năm đầu tiên thực hiện Nghị định số 29/2008/NĐ-CP quy định
về việc thành lập, hoạt động, chính sách và quản lý của nhà nước đối với KCN,
KCX và KKT (Báo cáo môi trường quốc gia 2009). Tình hình thế giới có nhiều đổi
mới sâu sắc về thể chất, môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế
diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó, công tác quản lý của nhà nước cũng như hoạt động
của các KCN, KKT ở Việt Nam đã có những điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng
lực, chương trình và trọng tâm công tác để thích nghi với điều kiện mới. Vì vậy,

trong năm 2008 nước ta đã có những bước phát triển mới mang tính đột phá và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng.
Sau 20 năm (1991 - 2011) xây dựng và phát triển, kể từ khi KCX đầu tiên KCX Tân Thuận được hình thành tại TP.HCM đến nay hệ thống các KCN, KCX đã
có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trên cả nước và có những đóng góp không nhỏ vào
sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 12/2011 cả nước đã có 283 KCN,
KCX được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 76.000ha, trong đó diện
tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 46.000ha, chiếm 61% tổng diện tích
đất tự nhiên, 15 khu kinh tế ven biển trải đều trên 58 tỉnh, thành phố. Các KCN,
KCX được phân bố trên cơ sở phát huy lợi thế địa kinh tế, tiềm năng của các địa
phương và của các vùng kinh tế trọng điểm (Mai Thanh Dung, 2011).
Theo Quyết định 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ,
đến năm 2015, dự kiến thành lập mới 115 KCN và mở rộng 27 KCN với tổng diện
tích gần 32.000 ha. Sau một thời gian thực hiện Quyết định nêu trên, một số KCN
đã được thành lập và một số KCN đã được bổ sung vào quy hoạch phát triển các KCN
đến năm 2020. Tính chung từ nay đến năm 2020, số KCN quy hoạch thành lập sẽ là
295 KCN với tổng diện tích 81.100 ha (Báo cáo môi trường quốc gia 2009).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


300

Số lượng KCN (khu)
76000

283


Số lượng KCN
Diện tích KCN

250

70000
57264

200

223

60000

179

150

139

131

50000

42986
40000

29392
100


30000

26986
65

50

0

20000

11964
300

1

1991

2360

80000

10000

12

0
1995

2000


2005

2006

2007

2008

2011

Hình 1.1. Tình hình phát triển KCN qua các năm
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, 2011)
1.2.2. Ảnh hưởng của phát triển khu công nghiệp đến đời sống kinh tế, xã hội và
môi trường
a. Khu công nghiệp trong phát triển kinh tế và giải quyết lao động việc làm
Qua hơn 20 năm phát triển, đến nay cả nước đã có 289 KCN được thành lập.
Các KCN đóng góp quan trọng vào những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Tại các vùng hay địa phương có các KCN hoạt động mạnh thì mức độ
tăng trưởng kinh tế ở đó cao hơn những nơi KCN chưa phát triển.
Khu công nghiệp ra đời đã tạo nên mảnh đất thuận lợi cho các doanh nghiệp
công nghiệp trong và ngoài nước có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất. Hiện nay
đã có hơn 3.078 dự án đang sản xuất kinh doanh và 450 dự án đang trong quá trình
đầu tư xây dựng cơ bản. Về tình hình đầu tư trong nước các KCN cả nước đã thu
hút được 4.456 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 360.000 tỷ đồng, tổng vốn
đầu tư thực hiện đạt 176.000 tỷ đồng, xấp xỉ 50% tổng vốn đăng ký. Theo đánh giá
của các chuyên gia kinh tế, thì các khu, cụm công nghiệp đều đã đẩy nhanh tiến
trình Công nghiệp hóa đất nước. Mặt khác, sự ra đời của Khu công nghiệp còn tác
động mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng công nghiệp (Mai Thanh Dung, 2011).
KCN đã góp phần quan trọng giải quyết việc làm, là nơi thu hút không ít lao
động địa phương. Tính bình quân 1ha đất nông nghiệp đã cho thuê thu hút trên 70
lao động trực tiếp (trong khi 1ha đất nông nghiệp chỉ thu hút được từ 10 - 12 lao
động). Đến thời điểm 31/12/2008, các khu công nghiệp đã thu hút trên 1,17 triệu lao
động trực tiếp.. Chất lượng, trình độ đội ngũ lao động cũng tăng lên. Thống kê cho
thấy, phần lớn lao động làm việc trong các KCN là lao động trẻ, có khả năng nhanh
chóng tiếp thu kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại, phương thức tổ chức và quản lý
sản xuất tiên tiến. Các khu công nghiệp phát triển, kéo theo tốc độ đô thị hóa cũng
diễn ra khá nhanh, với cơ sở hạ tầng được nâng cấp mọi mặt. Như vậy, các KCN
với vai trò, tiền năng, sức hút đầu tư,... thực sự đã có những đóng góp không nhỏ
trong phát triển KT-XH (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2004).
b. Tác động đến đời sống người dân
Sự ra đời của KCN đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả thu được từ Khu công
nghiệp thì cũng có không ít những vấn đề phát sinh và nếu chúng ta không sớm
nhận ra, không có những giải pháp thích hợp thì hậu quả là rất lớn.
Xét về mặt xã hội:
* Chuyển đổi mục đích sử dụng đất và ảnh hưởng đến người dân
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng diễn ra mạnh mẽ thì diện tích đất nông
nghiệp càng bị thu hẹp. Điều này nếu thực sự không tính toán kỹ lưỡng thì sẽ ảnh
hưởng đến an ninh lương thực.
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, chỉ tính trong 3
năm (2008 - 2009), tổng diện tích đất chuyên dùng đã tăng lên 104.422ha, dẫn đến
một lượng lớn đất nông nghiệp, trong đó có không ít đất trồng lúa đã được chuyển

đổi mục đích
Trên thực tế nhiều địa phương phát triển khu đô thị, khu công nghiệp, cụm
công nghiệp một cách ồ ạt, dàn trải, kém hiệu quả. Đặc biệt nhiều địa phương dành
những phần đất canh tác màu mỡ phì nhiêu ở ven quốc lộ để đổ cát xây dựng khu
công nghiệp. Ví dụ như ở ven quốc lộ 5, khu vực Văn Lâm - Hưng Yên, Cẩm Giàng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


- Hải Dương.
Theo thống kê sơ bộ, có đến 20% diện tích đất thu hồi xây dựng KCN là đất
nông nghiệp (khoảng trến 10.000ha). Tổng diện tích đất trồng lúa được chuyển đổi
để phát triển các KCN đến năm 2015 từ 18.000 đến 20.000ha, chiếm khoảng 0,5%
tổng diện tích đất trồng lúa trong cả nước (Báo cáo môi trường quốc gia 2009).
Việc thu hồi đất nông nghiệp đã tác động tới đời sống của các hộ dân vì họ không
được chuyển đổi cơ cấu ngành nghề hợp lý, thiếu phương tiện lao động và kế sinh nhai
truyền thống, trong đó có nhiều hộ rơi vào tình trạng bần cùng hóa. Theo Nguyễn Lân
Dũng, vùng đồng bằng sông Hồng có số hộ bị ảnh hưởng do thu hồi đất lớn nhất: khoảng
300.000 hộ; Đông Nam Bộ: khoảng 108.000 hộ (Nguyễn Lân Dũng, 2009).
* Điều kiện lao động và đời sống vật chất của người lao động còn khó khăn
Nhiều doanh nghiệp trong KCN chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định của
pháp luật về lao động, không đảm bảo quyền lợi của người lao động. Điển hình như
vi phạm thời gian ký kết hợp đồng, vi phạm về thẩm quyền và nội dung hợp đồng.
Việc kỷ luật, sa thải người lao động còn tùy tiện không tuân theo quy định của Nhà
nước. Công tác an toàn vệ sinh môi trường và phòng tránh cháy nổ trong doanh
nghiệp còn chưa được quan tâm đúng mức. Việc phải làm chế độ tăng ca, tăng giờ
đã làm cho người lao động có ít thời gian nghỉ ngơi phục hồi sức khoẻ, kiệt sức và
dễ mắc tai nạn lao động (Báo cáo môi trường quốc gia 2009).
Chế độ bảo hiểm xã hội và chính sách tiền lương còn nhiều vi phạm. Qua

khảo sát, TPHCM hiện có 16 KCX-KCN với 1.062 doanh nghiệp (DN) đang hoạt
động đã có đã có 731 DN đăng ký thang, bảng lương, song tỉ lệ DN áp dụng tiền
lương tối thiểu cao hơn luật định chỉ chiếm 32,3% (Lê Thành Quân, 2011). Trong
chính sách đào tạo người lao động có hạn chế ở chỗ hiện chưa có các cơ chế mang
tính “bắt buộc” đối với doanh nghiệp để yêu cầu họ phải tham gia và đóng góp vào
quá trình đào tạo người lao động; mức chi phí cho học nghề ở các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp vẫn còn cao; nội dung đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu về kỹ năng
lao động của doanh nghiệp.
Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển KCN và KCX ở Việt Nam
(Bộ KH&ĐT, 2006) cho thấy, đến 70% lao động trong các KCN là lao động nhập cư và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


60% là lao động nữ làm việc trong các KCN (Báo cáo môi trường quốc gia 2009).
Sự tập trung cao của lao động tại các Khu công nghiệp đang khiến cho vấn
đề xã hội ngày càng trở thành áp lực đối với chính quyền địa phương và người dân
xung quanh KCN. Đó là tình trạng thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, giá cả
hàng hóa tiêu dùng tăng và đáng lo ngại nhất vẫn là nảy sinh tệ nạn xã hội.
* Các vấn đề xã hội khác
Do chỉ quan tâm thúc đẩy tăng trưởng nhanh các khu công nghiệp mà chưa
thực sự quan tâm đúng mức từ đầu những yếu tố hạ tầng xã hội hỗ trợ thiết yếu như
giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao,... Điều kiện sinh hoạt, môi trường sống
không đảm bảo, thiếu các hoạt động văn hóa, tinh thần là nguyên nhân phát sinh ra
nhiều tệ nạn xã hội. Như vậy cần phải xây dựng một môi trường sống tốt xung
quanh KCN. Đẩy mạnh cung ứng các dịch vụ xã hội phục vụ đời sống người lao
động KCN, KKT (Tổng cục Môi trường, 2009).
c. Tác động đến môi trường
Khu công nghiệp là nơi tập trung các cơ sở sản xuất thuộc nhiều ngành nghề,

lĩnh vực khác nhau. Tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng của các KCN, KCX sẽ
kéo theo nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường nếu như các biện pháp xử lý,
công tác phòng ngừa, ứng phó ô nhiễm môi trường không kịp thời.
* Chất thải rắn
Hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp làm phát sinh một lượng lớn chất
thải, trong đó có một tỷ lệ không nhỏ là chất thải nguy hại. Theo báo cáo của Vụ
Quản lý KCN & KCX (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tổng lượng rác thải ước tính bình
quân một ngày đêm của cả nước đã tăng từ 25.000 tấn (năm 1999) lên khoảng
30.000 tấn (năm 2010); trong đó, lượng chất thải công nghiệp chiếm khoảng 20%,
phần lớn tập trung tại các KCN, KCX ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía
Nam (chiếm khoảng 50%) ( Nguyễn Phương Nhung, 2010).
Thành phần, khối lượng chất thải rắn phát sinh tại mỗi KCN tùy thuộc vào loại
hình công nghiệp đầu tư, quy mô đầu tư và công suất của các cơ sở công nghiệp
trong KCN. Qua khảo sát một số KCN cho thấy, trong thành phần chất thải rắn của
các KCN, tỷ lệ chất thải nguy hại chiếm dưới 20% nếu được phân loại tốt, trong đó
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


tỷ lệ các chất có thể tái chế cao. Tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, lượng chất thải công
nghiệp trên điạ bàn tỉnh phát sinh ước tính khoảng 408 tấn/ngày, trong đó chất thải
nguy hại khoảng 39 tấn/ngày (chiếm 9.56%). Hầu hết các khu, cụm công nghiệp
trên địa bàn tỉnh đều không xây dựng khu vực tập kết, trung chuyển chất thải rắn tập
trung (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh, 2014).
Nhiều doanh nghiệp có chức năng thu gom và xử lý chất thải nguy hại đã triển
khai các hoạt động tái chế thu lại tài nguyên có giá trị sử dụng nhưng do công nghệ
chưa hoàn chỉnh, phù hợp nên hiệu quả thu hồi, tái chế kém gây ra những ô nhiễm
thứ cấp đặc biệt là đối với dầu và dung môi. Nghiêm trọng hơn một số doanh
nghiệp không thực hiện xử lý chất thải nguy hại mà sau khi thu gom lại đổ lẫn vào

cùng chất thải thông thường hoặc đổ xả ra môi trường. Bên cạnh đó, có một thực tế
trong việc quản lý chất thải rắn là trong một số trường hợp, chất thải rắn phát sinh
trong quá trình sản xuất có tỷ lệ chất thải nguy hại thấp (nước thải lẫn dầu mỡ, giẻ
lau nhiễm dầu, bóng đèn huỳnh quang, pin, ắc quy....) nên nhiều nhà máy thường để
lẫn với chất thải sinh hoạt, nếu có phân loại thì với khối lượng nhỏ không đủ để hợp
đồng với đơn vị có chức năng xử lý chất thải nguy hại (Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh Bắc Ninh, 2014).
* Môi trường nước
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2012 Việt Nam có 285 KCN.
Hiện có 125 KCN đã xây dựng xong hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm
53,7% tổng số KCN đã vận hành; 64 KCN đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải
tập trung. Tại các KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung thì sau khi xử lý
cục bộ đều thải trực tiếp ra sông với tải lượng ô nhiễm cao. Ngay cả tại các KCN đã
có nhà máy xử lý nước thải thì hiệu quả hoạt động không cao; trên thực tế là không
hoạt động hoặc chỉ hoạt động đối phó khi có các đoàn về thanh tra, kiểm tra để tiết
kiệm chi phí vận hành. Khoảng 70% trong số hơn một triệu m3 nước thải/ngày từ
các khu công nghiệp (KCN) được xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý
gây ô nhiễm môi trường (Nguyễn Xuân Thành, 2007).
Điển hình như vụ công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải (Đồng Nai) tới
5.000m3 chất thải/ngày trong nhiều năm; Nhà máy Tung Kuang xả nước thải đầu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


độc sông Cầu Giẽ. Nếu không xử lý nhiều hóa chất độc hại như chrome 6 (cao gấp
10 lần tiêu chuẩn cho phép), mangan, sắt,... đều có nồng độ vượt quy định sẽ xâm
nhập nguồn nước (Sơn Định, 2008). Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2009
do Bộ tài nguyên môi trường công bố ngày 1/6/2010 thì tình trạng ô nhiễm không
chỉ dừng lại ở hạ lưu các con sông mà lan lên tới cả phần thượng lưu. Kết quả quan

trắc chất lượng cả 3 lưu vực sông Đồng Nai, Nhuệ - Đáy và sông Cầu đều cho thấy
bên cạnh nguyên nhân do tiếp nhận nước thải sinh hoạt, những khu vực chịu tác
động của nước thải KCN có chất lượng nước sông bị suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu
cao hơn quy định nhiều lần (Báo cáo môi trường quốc gia 2009).
Tại Bắc Ninh, trung bình mỗi ngày các KCN thải ra khoảng 12.000 m3/ngày
đêm chiếm 5% tổng lượng nước thải các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Nước thải tại các nhà máy chỉ được xử lý sơ bộ rồi thải vào hệ thống thoát nước thải
của các khu công nghiệp sau đó được xử lý tại hệ thống xử lý nước thải tập trung
của KCN đảm bảo đạt Quy chuẩn trước khi xả ra môi trường.
* Môi trường không khí
Tại không ít khu công nghiệp, hệ thống lọc khí, bụi và hạn chế tiếng ồn tại
các cơ sở sản xuất còn nhiều hạn chế, mang tính hình thức. Khí thải không thể xử lý
tập trung như nước thải cần phải được xử lý ngay tại nguồn. Khí thải do các cơ sở
sản xuất thải ra chứa nhiều chất độc hại đều được xả trực tiếp vào môi trường ảnh
hưởng đến sức khoẻ người dân quanh khu công nghiệp cũng như lao động trong
KCN. Kết quả quan trắc nồng độ SO2, CO, NO2 gần hoặc trong các KCN đang có
chiều hướng gia tăng cục bộ. Nồng độ bụi tại ven các trục giao thông chính đều đã
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2-6 lần. Trong KCN nồng độ bụi và khí độc hại (điển
hình là các khí SO2) trong không khí xung quanh đã quá trị số tiêu chuẩn cho phép
từ 2-5 lần (Vĩnh Tùng, 2011).
Theo số liệu ước tính tải lượng các chất ô nhiễm không khí từ các KCN, tại
Bắc Ninh tải lượng các chất ô nhiễm như bụi: 3.020 kg/ngày; NO2: 5.580 kg/ngày;
CO: 1036 kg/ngày; SO2: 52.110 kg/ngày (Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Bắc Ninh,
2014).
- Ô nhiễm bụi: diễn ra rất phổ biến, đặc biệt là mùa khô đối với các KCN đang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12



trong quá trình xây dựng. Số liệu đo đạc hàm lượng bụi lơ lửng tại một số KCN như
Quế Võ và CCN Khắc Niệm qua các năm đều vượt QCVN (Báo cáo môi trường của
Ban quản lý KCN Bắc Ninh, 2013).
- Các khí ô nhiễm CO, SO2, NO2: Kết quả quan trắc tại các KCN của nhiều
năm không thay đổi nhiều. Tại CCN Khắc Niệm nồng độ khí SO2 năm 2010 là 0,087
mg/m3 xuống còn 0,037 mg/m3 trong năm 2011.
- Ô nhiễm các khí khác: các khí này phát sinh do đặc thù của loại hình sản
xuất như hơi axit, hơi kiềm, NH3, H2S, VOC,... Nhìn chung các khí này vẫn nằm
trong ngưỡng cho phép tuy nhiên cũng vẫn phải lưu ý đến việc kiểm soát các hơi
khí độc trong KCN.
Cùng với sự ô nhiễm nước, không khí là sự ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt,
suy thoái đất đai,... do những chất độc từ khu công nghiệp.
Như vậy, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về ô nhiễm
môi trường do chất thải, nước thải và khí thải công nghiệp, nếu không được giải
quyết tốt sẽ gây ra thảm họa về môi trường và biến đổi khí hậu, tác động nghiêm
trọng đến đời sống, sức khỏe cộng đồng hiện tại và tương lai, phá hỏng những thành
tựu công nghiệp nói riêng và triển kinh tế, tiến bộ xã hội nói chung ở Việt Nam.
1.3. Nguồn phát sinh và đặc điểm chất thải rắn công nghiệp
1.3.1. Nguồn phát sinh
Sự hình thành chất thải rắn là quy luật tất yếu của sản xuất. Chất thải rắn có
thể sinh ra trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa.
Nguyên nhân cụ thể của sự gia tăng chất thải rắn rất đa dạng. Trong đó, có những
nguyên nhân có thể được khắc phục một cách dễ dàng và nhanh chóng, nhưng cũng
có nhiều nguyên nhân để khắc phục cần có thời gian và chi phí lớn.
Sự phân loại chất thải rắn có thể theo ngành sản xuất như chất thải ngành hóa
chất, luyện kim, nhiên liệu…, hoặc theo nhóm sản xuất cụ thể như chất thải rắn của
ngành sản xuất axit sunphuaric, soda, axit foctoric... Tuy nhiên, do tính đa dạng của
chất thải và thành phần rất khác nhau, ngay cả với chất thải có cùng tên, nên chưa
thể có sự phân loại chính xác và trong trường hợp cụ thể phải tìm phương án xử lý
riêng biệt. Mặc dù, các phương pháp được ứng dụng là giống nhau trong công nghệ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


chế biến vật liệu (Lê Huy Bá, 2004).
Nguồn gốc của chất thải rắn công nghiệp là từ các khu công nghiệp, các cơ sở
sản xuất trong cả nước. Nó sinh ra trong quá trình sản xuất, là các phế thải dư thừa.
Các ngành sản xuất khác nhau thì sinh ra lượng chất thải khác nhau, thành phần và
tính chất của chất thải cũng khác nhau. Nguồn phát sinh chủ yếu chất thải công
nghiệp bao gồm:
+ Các quá trình sản xuất công nghiệp, bao gồm từ các công đoạn chế biến và
gia công nguyên - vật liệu cho đến giai đoạn sản xuất và đóng gói hoàn thiện sản phẩm;
+ Các công ty dệt may;
+ Các công ty sản xuất bao bì, nhựa vải;
+ Các nhà máy sản xuất linh kiện điện tử;
+ Các nhà máy chế biến thực phẩm, nhà máy sản xuất thức ăn gia súc;
+ Quá trình cung cấp nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất;
+ Quá trình chuyển đổi công nghệ.
* Thành phần chất thải rắn phát sinh.
Xác định thành phần của chất thải rắn có ảnh hưởng rất lớn đến sự lựa chọn
phương pháp xử lý, thu hồi và tái chế, hệ thống, phương pháp và quy trình thu gom.
- Khi phân tích thành phần của chất thải, mẫu được lấy ra từ các tuyến xe thu
gom rác hàng ngày, để có độ chính xác cao mẫu lấy khoảng 90kg.
Thành phần của chất thải rắn thể hiện cụ thể qua bảng sau đây:
Để xác định thành phần và tính chất của chất thải rắn thường sử dụng
phương pháp:
- Phân tích kiểm tra trực tiếp;
- Phân tích sản phẩm thị trường;
- Phân tích sản phẩm của chất thải.

* Những yếu tố ảnh hưởng đến thành phần của chất thải rắn.
Mùa và vùng: vào những mùa khác nhau thành phần rác thải có sự thay đổi
nhất định, mùa mưa độ ẩm cao, hay vào mùa thu lượng chất thải lá cây lớn; vùng đô
thị khác vùng nông thôn,...

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


Yếu tố xã hội: thói quen trong việc sử dụng bao bì, sử dụng nguồn thực
phẩm. Ngoài ra các điểm như đình chùa thành phần chất thải cũng khác so với các
địa điểm khác,...
Trình độ công nghệ: Trình độ công nghệ càng cao lượng rác thải càng ít
nhưng sẽ có nhiều thành phần hơn trong rác thải.
Mức sống (điều kiện sinh hoạt)
Đây là yếu tố ảnh hưởng lớn đến lượng chất thải rắn phát sinh và thành phần
của nó. Người giàu thường có mức tiêu thụ lớn dẫn đến lượng phát thải lớn (thường
từ 2-3kg/người/ngày), đối với nhóm người nghèo (nước có thu nhập thấp) có mức
sống thấp và nguồn phát thải của họ cũng thấp hơn (0,2 - 0,33kg/người/ngày).
Khi xem xét yếu tố thu nhập (mức sống) người ta phân ra làm 3 mức cụ thể sau:
GDP< 750 USD
750 USD> 5.000USD
1.3.2. Đặc điểm của chất thải rắn công nghiệp
Chất thải rắn công nghiệp là các sản phẩm dư thừa và được loại bỏ phát sinh
trong quá trình sản xuất công nghiệp và hoàn thiện sản phẩm. Chúng đa dạng theo
thành phần và tính chất hóa lí, được đặc trưng bởi giá trị sử dụng và theo bản chất
tự nhiên là tài nguyên thứ cấp, mà việc sử dụng trong sản xuất hàng hóa yêu cầu
một số công đoạn bổ sung xác định với mục đích tạo cho chúng các tính chất cần

thiết. Chất thải công nghiệp thường được phân chia thành 2 loại: không nguy hại và
nguy hại. Chất thải rắn công nghiệp sinh ra trong nhà máy có những đặc điểm thuận
lợi trong việc quản lý chất thải là:
- Nguồn thải tập trung nằm ngay trong nhà máy;
- Cơ sở sản xuất có trách nhiệm, có nhân viên thu gom tại nhà máy;
- Có dụng cụ chứa chuyên dùng được nhà máy đầu tư;
- Chi phí cho xử lý và quản lý chất thải được hạch toán và nằm trong giá
thành của sản phẩm;
- Đã có luật môi trường, quy chế về quản lý chất thải nguy hại.
Dựa vào mức độ ảnh hưởng tới môi trường có thể phân loại chất thải rắn
công nghiệp thành 3 nhóm cụ thể như sau:
- Nhóm chất thải rắn tác động mạnh đến môi trường (các chất thải rắn phát
sinh trong hoạt động sản xuất của các ngành công nghiệp điện, điện tử, cơ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


khí, mạ kẽm, hóa chất...). Trong đó có chất thải rắn nguy hại chứa các kim
loại nặng, hóa chất độc hại gây ảnh hưởng và tác động mạnh đến môi trường.
- Nhóm chất thải rắn tác động trung bình (bao gồm các chất thải rắn phát
sinh trong các ngành công nghiệp xây dựng, xi măng, nhựa... Các ngành này
phần lớn thải ra các phế phẩm trong quá trình sản xuất, trong đó cũng bao
gồm những chất thải nguy hại nhưng có hàm lượng chất độc hại thấp hơn
chất thải thuộc nhóm 1. Do đó các chất thải này tác động tới môi trường ở
mức độ trung bình, chưa tới mức nghiêm trọng.
- Nhóm chất thải rắn ít tác động đến môi trường (bao gồm các chất thải rắn
phát sinh trong các ngành công nghiệp dệt may, bao bì, chế biến thực phẩm,
thức ăn gia súc... Những chất thải này phần lớn chứa chất hữu cơ có thể tái
chế và ít gây độc hại tới môi trường.

Tuy nhiên, chất thải rắn công nghiệp có đặc điểm là có tính độc hại cao hơn
chất thải sinh hoạt đặc biệt là chất thải rắn nguy hại. Do đó, chúng cần được kiểm
soát chặt chẽ theo quy định.
Nguồn phát sinh chất thải nguy hại phần lớn xuất phát từ các hoạt động công
nghiệp. Chất thải nguy hại được phân loại như sau:
Dựa vào tính chất:
Chất dễ cháy (nhiệt độ cháy <600C, dễ bốc cháy ở nhiệt độ phòng), dễ nổ,
hóa học, chất độc tính sinh học, các chất phóng xạ được dùng trong tế, quốc phòng.
Dựa vào ngưỡng gây độc
- LD50 (Lethal dose 50%): Liều lượng lượng của hóa chất gây chết 50% sinh
vật thí nghiệm đơn vị mg/kg cơ thể động vật trên cạn; mg/m2 qua da.
Bảng 1.1: Một số liều lượng gây độc
Nhóm
Nhóm I
Nhóm II
Nhóm III
Nhóm IV

Liều lượng LD50 (mg/kg)
<100
100 - 300
300 - 1000
> 1000

Mức độ
Rất độc
Độc cao
Độc vừa
Độc ít
Nguồn: Lê Huy Bá, 2008


- LC50 (Lethal concerntration): Nồng độ gây chết 50% động vật thí nghiệm,
đơn vị mg/L dung dịch hóa chất. Thường dùng để đánh giá độc tính của chất độc

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16


dạng lỏng hòa tan trong nước sông suối hay nồng độ hơi hoặc bụi trong môi trường
không khí ô nhiễm có thể gây chết 50% động vật thí nghiệm.
Là liều lượng gây chết 50% đối với số động vật thí nghiệm trong 96 giờ
(mg/l, mg/m3)
Bảng 1.2: Liều lượng và tính độc
Liều lượng LC50 (mg/L)

Tính độc

<1

Rất độc

1 - 10

Độc

10 - 100

Độc trung bình


100 - 1000

Ít độc

>1000

Không độc
Nguồn: Lê Huy Bá, 2008

Có 3 con đường dẫn mà độ tính xâm nhập vào cơ thể con người: ăn uống; hít
thở và tiếp xúc qua da. LC, LD càng bé độc tính càng cao: HgCl.
Dựa vào độ bền vững: xác định bằng thời gian bán hủy (thời gian phân hủy
hết 50%).
- Chất ít bền gây tác hại trong thời gian ngắn, phạm vi hẹp.
- Chất bền gây tác hại trong thời gian dài, phạm vi rộng có thể rất xa nguồn
phát sinh chất thải.
* Chất thải nguy hại được chia làm 4 nhóm tùy thuộc vào thời gian bán hủy
của chất thải đó:
- Không bền thời gian bán hủy từ 1 - 12 tuần (một số thuốc trừ sâu được cho
phép sử dụng)
- Bền vững trung bình: từ 1 - 18 tháng.
- Bền: 2 - 5 năm.
- Rất bền: trên 5 năm.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 17


1.4. Tổng quan về thực trạng quản lý chất thải rắn

1.4.1. Quản lý chất thải rắn trên thế giới
Nhật và Singapo là những nước có kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến nhất
trên thế giới. Vì vậy, hệ thống quản lý chất thải của họ được coi là khoa học và đạt
hiệu quả cao.
1.4.1.1. Quản lý chất thải ở nước Nhật
Bộ Môi trường

Sở quản lý chất
thải và tái chế

Phòng hoạch
định chính sách

Đơn vị quản
lý chất thải

Phòng quản lý chất
thải công nghiệp

Hình 1.2. Quản lý chất thải nước Nhật
(Nguồn: Lê Văn Khoa, 2004)
Nhìn vào hình 1.2 có thể thấy cơ quan đứng đầu trong công tác quản lý chất
thải của nước Nhật là Bộ Môi trường. Bộ Môi trường có rất nhiều phòng ban, trong
đó có Sở Quản lý Chất thải và Tái chế có nhiệm vụ quản lý sự phát sinh chất thải,
đẩy mạnh việc tái sử dụng tái chế và sử dụng những nguồn tài nguyên có thể tái tạo
một cách thích hợp với quan điểm là bảo tồn môi trường sống và sử dụng một cách
có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tiếp theo là Sở Quản lý Chất thải và Tái
chế có nhiệm vụ phân công, hướng dẫn chiến lược bảo vệ môi trường của quốc gia.
Dưới sự chỉ đạo của sở là Phòng Hoạch định chính sách có nhiệm vụ là thực hiện
các chính sách và chiến lược quản lý, đơn vị quản lý chất thải là cơ quan trực tiếp

điều hành việc quản lý chất thải, phòng quản lý chất thải công nghiệp có nhiệm vụ
thực hiện và quản lý việc xử lý chất thải tại các KCN trong cả nước. Theo sơ đồ
này, Nhật là một nước có công tác quản lý chất thải rất tốt (Lê Văn Khoa, 2004).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 18


1.4.1.2. Quản lý chất thải ở Singapo
Bộ Môi trường
và Tài nguyên
nước
Sở Tài nguyên
nước

Sở Môi trường

Phòng sức
khỏe môi
trường

Phòng bảo
vệ môi
trường

Phòng khí
tượng

Hình 1.3. Quản lý chất thải ở Singapo

(Nguồn: Lê Văn Khoa, 2004)
Ở Singapo hệ thống quản lý chất thải rất chi tiết theo các cấp nghành, đứng
đầu là BMTVTNN chịu trách nhiệm chỉ đạo công tác quản lý cho sở môi trường và
sở tài nguyên nước có nhiệm vụ quản lý và hướng dẫn cho các phòng ban thực hiện
các chiến lược BVMT của quốc gia, tiếp theo là các phòng sức khỏe môi trường,
phòng bảo vệ môi trường và phòng khí tượng có nhiệm vụ vừa giám sát và chỉ dẫn
cho các bộ phận quản lý (Hình 1.3). Bộ phận kiểm soát ô nhiễm, bộ phận bảo tồn tài
nguyên, trung tâm khoa học bảo vệ phóng xạ và hạt nhân và bộ phận quản lý chất
thải, bộ phận kiểm soát ô nhiễm chịu trách nhiệm thực hiện các chiến lược BVMT
của quốc gia đồng thời giám sát các KCN thực hiện công tác quản lý môi trường
(Lê Văn Khoa, 2004).
1.4.2. Quản lý chất thải ở Việt Nam
Hoạt động quản lý chất thải rắn bao gồm các hoạt động quy hoạch quản lý,
đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn, các hoạt động phân loại, thu gom, lưu
giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa, giảm
thiểu những tác động có hại đối với môi trường và sức khoẻ con người.
Hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị là một cơ cấu tổ chức quản lý chuyên
trách về CTR đô thị có vai trò kiểm soát các vấn đề có liên quan đến CTR liên quan
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 19


đến vấn đề về quản lý hành chính, tài chính, luật lệ, quy hoạch và kỹ thuật.
Việc thu gom xử lý chất thải chủ yếu do các công ty Môi trường đô thị của
các tỉnh/thành phố (URENCO) thực hiện. Đây là cơ quan chịu trách nhiệm thu gom
và tiêu huỷ chất thải sinh hoạt, bao gồm cả chất thải sinh hoạt gia đình, chất thải văn
phòng, đồng thời cũng là cơ quan chịu trách nhiệm xử lý cả chất thải công nghiệp và
y tế trong hầu hết các trường hợp. Về mặt lý thuyết, mặc dù các cơ sở công nghiệp và
y tế phải tự chịu trách nhiệm trong việc xử lý các chất thải do chính cơ sở đó thải ra,

trong khi Chính phủ chỉ đóng vai trò là người xây dựng, thực thi và cưỡng chế thi
hành các quy định/văn bản quy phạm pháp luật liên quan, song trên thực tế Việt Nam
chưa thực sự triển khai theo mô hình này. Chính vì thế, hoạt động của các công ty
môi trường đô thị liên quan đến việc xử lý chất thải sinh hoạt là chính do có quá ít
thông tin về thực tiễn và kinh nghiệm xử lý các loại chất thải khác (Trần Hiếu Nhuệ,
Ứng Quốc Dũng, Nguyễn Thị Kim Thái, 2008).
Hệ thống quản lý chất thải rắn ở một số đô thị lớn ở Việt Nam được mô tả
ở hình 1.4.
BTNMT

Bộ Xây
dựng
UBND tỉnh,
thành phố

URENCO
Hình 1.4. Hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị ở Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2010)
- Bộ Tài nguyên Môi trường chịu trách nhiệm vạch chiến lược cải thiện

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 20


×