Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Triết lý tu thân của Nho giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.74 KB, 86 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo
khoa Lý luận chính trị - Giáo dục công dân - Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã dạy dỗ, chỉ bảo và truyền đạt kiến thức cho em
trong suốt bốn năm học vừa qua, đặc biệt là các thầy cô giáo trong
chuyên ban Triết học.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới côgiáo hướng
dẫn Th.S Nguyễn Thị Nga - người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo để em
hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp của mình.
Do còn hạn chế về trình độ và khả năng, bài viết không
tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của quý thầy cô giáo và những người quan tâm để đề tài được
hoàn thiện hơn!
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 04 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Mai Lan

1

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.


7.

2

Viết tắt
CNH - HĐH
ĐHSPHN
NCKH
SV
UNESCO

Nguyên nghĩa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại học Sư phạm Hà Nội
Nghiên cứu khoa học
Sinh viên
Tổ chức liên hợp quốc về giáo dục,

TCN
TNCS

khoa học và văn hóa
Trước công nguyên
Thanh niên cộng sản

2


MỞ ĐẦU
1.


Lý do chọn đề tài
Nho giáo có lịch sử tồn tại và phát triển hơn 2000 năm. Trải qua nhiều
thăng trầm của lịch sử, Nho giáo đã để lại dấu ấn của mình không chỉ ở trong
sách vở mà cả ở trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Trung Quốc
nói riêng và một số nước châu Á nói chung. Đặc biệt nổi bật lên với học
thuyết đức trị nhằm thực hiện đường lối trị nước bằng đạo đức, đòi hỏi mọi
người phải kiên trì, nỗ lực, tu thân để thực hiện lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”. Mà Trung Quốc được mệnh danh là ông hoàng của nền văn hóa
phương đông nên Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn hóa, tinh
thần, phong tục, tập quán của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Những ý nghĩa tích cực của Nho giáo vẫn còn tồn tại mãi mãi với lịch
sử tư tưởng của nhân loại. Việc kế thừa những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo,
đặc biệt là triết lý tu thân trong Nho giáo có ý nghĩa rất to lớn đối với việc
giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng sống của con người Việt Nam nói
chung và thế hệ trẻ sinh viên nói riêng ở nước ta hiện nay, đặc biệt là khi
nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội với
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội toàn diện.
Toàn cầu hóa đã đem lại cuộc sống mới cho nhân loại nhưng hiện nay
một bộ phận học sinh, sinh viên không có lý tưởng sống, mục đích sống đúng
đắn. Họ sống hờ hững với những gì diễn ra xung quanh, sống theo quan niệm
được đến đâu hay đến đó, các bạn trẻ đang tôn thờ lối sống thực dụng vật chất
mà bỏ qua lối sống rèn giũa tâm hồn, nhân cách. Trước thực trạng như vậy,
cần phải nghiên cứu và vận dụng những mặt tích cực của triết lý tu thân trong
Nho giáo vào giáo dục đạo đức, lý tưởng sống cho sinh viên để sinh viên xác
định lý tưởng sống, có mục đích sống đúng đắn hướng tới những giá trị cao
đẹp chân, thiện, mỹ.
3


3


Với suy nghĩ đó, em chọn đề tài: “Triết lý tu thân của Nho giáo và ý
nghĩa của nó trong việc hình thành và xây dựng lý tưởng sống cho sinh
viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay” để làm khóa luận tốt
nghiệp.
2.

Lịch sử tình hình nghiên cứu
Vấn đề triết lý tu thân của Nho giáo đã được nhiều người nghiên cứu.
Song mỗi công trình khoa học lại nghiên cứu ở dưới những góc độ khác nhau.
Liên quan tới nội dung này đã có một số công trình nghiên cứu sau:
Trong cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu đã chỉ ra một cách
khái quát nhất về thực chất và mục đích tu thân trong nho giáo. Và muốn tu
thân đến đạo thì phải nắm được đức nhân ở trong lòng người ta.
Hay trong cuốn Lịch sử văn minh Trung Quốc, một học giả phương
Tây Will Durat đã đưa ra các nguyên nhân lý giải về sự loạn lạc của đất nước
và kéo theo sau đó một hệ quả rất lớn về xã hội, gia đình rồi đến cá nhân. Để
từ đấy tác giả đã khát quát tới nguyên nhân về sự loạn lạc vấn đề tu thân trong
nho giáo; là sự không sửa mình.
Trần Trọng Kim với Nho giáo đã luận giải về khái niệm tu thân, do ông
đã bám sát triết tự chữ Hán và tư tưởng Khổng – Mạnh. Hay Nho giáo xưa và
nay của Quang Đạm đã nói tới tu thân được đặt trong mối quan hệ với “tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ”.
Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và am hiểu rất sâu sắc Nho
giáo, qua đó Người đã vận dụng nhuần nhuyễn nhiều luận điểm để phục vụ
cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong lời Bế mạc lớp chỉnh huấn của cán
bộ tri thức năm 1953, Người đã khái quát lên nội dung tu thân là tu dưỡng đạo
đức cá nhân.

Hay trong một số sách như Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc của
Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, hay Triết học về con người, Đào Đức Doãn biên
soạn; tác giả đã bàn tới nhiều vấn đề trong đó có một số vấn đề liên quan đến
nội dung của luận văn như: vấn đề con người trong Nho giáo trong đó lại khai
4

4


thác tới bản tính của con người và vai trò của con người. Những nội dung này
đã liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề mà tác giả nghiên cứu.
Có thể thấy rằng đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo đặc
biệt là liên quan tới vấn đề tu thân. Do ở từng góc độ tiếp cận và quan điểm
khác nhau nên các tác giả đều có hướng đi riêng đến với mục đích của mình.
Song vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về vấn
đề tu thân qua đó hướng tới lứa tuổi sinh viên - tầng lớp tri thức trẻ của đất
nước để hình thành và xây dựng cho họ lý tưởng sống. Và đề tài này sẽ tập
trung nghiên cứu vấn đề này.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung cơ bản triết
lý tu thân của Nho giáo, từ đó rút ra được ý nghĩa của nó đối với việc hình
thành và xây dựng lý tưởng sống cho sinh viên trường ĐHSPHN hiện nay.
Đồng thời đề ra những giải pháp nhằm xây dựng lý tưởng sống đẹp cho sinh
viên trường Đại học Sư Phạn Hà Nội.

3.2


Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát điều kiện ra đời của nho giáo và nguồn gốc triết lý tu thân
của Nho giáo.
Khái quát những nội dung cơ bản của triết lý tu thân trong Nho giáo.
Khái quát thực trang lý tưởng sống của sinh viên trường Đại học Sư
phạm Hà Nội hiện nay.
Vận dụng những mặt tích cực trong triết lý tu thân của Nho giáo vào
việc hình thành và xây dựng lý tưởng sống cho sinh viên trường Đại học Sư
phạm Hà Nội hiện nay.
Đề ra những giải pháp nhằm xây dựng lý tưởng sống đẹp cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

4.
4.1

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
5

5


-

Đề tài hướng vào nghiên cứu triết lý tu thân của Nho giáo và ý nghĩa của nó
với việc hình thành và xây dựng lý tưởng sống cho sinh viên Trường

-

ĐHSPHN hiện nay.

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những mặt tích cực trong triết lý tu thân của Nho giáo và
vận dụng trong việc hình thành và xây dựng lý tưởng sống của sinh viên

5

trường ĐHSPHN hiện nay
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn kết hợp một số phương
pháp khác như phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, điều tra, thống kê
trong quá trình nghiên cứu.

6
-

Ý nghĩa của khóa luận
Ý nghĩa về lí luận: Khóa luận góp phần làm sáng tỏ triết lý tu thân của Nho

-

giáo
Ý nghĩa về thực tiễn: Khóa luận khẳng định được những giá trị trong triết lý
tu thân của Nho giáo, qua đó vân dụng vào việc xây dựng và hình thành lý

7

tưởng sống cho sinh viên trường ĐHSPHN.
Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 2 chương 6 tiết.

6

6


NỘI DUNG
Chương 1 : TRIẾT LÝ TU THÂN CỦA NHO GIÁO
1.1 Quá trình hình thành Nho giáo
Trung Hoa cổ đại thời kì từ thế kỷ VII TCN đến thế kỷ III TCN (được
gọi là thời Xuân Thu - Chiến Quốc) có nhiều biến động về chính trị, tình hình
xã hội hết sức rối ren, các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn.
1.1.1 Điều kiện kinh tế
Vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc, đồ sắt xuất hiện phổ biến, công cụ
sản xuất bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ đồ đồng, đá trước đây đã
mang lại những tiến bộ mới trong việc chế tạo, cải tiến và sử dụng công cụ
lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng công cụ bằng sắt
trở thành phổ biến trong sản xuất nông nghiệp cùng với sự mở rộng quan hệ
trao đổi sản phẩm, sự phân công trong việc sản xuất thủ công nghiệp cũng đã
đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy hàng loạt các ngành nghề thủ
công khác phát triển như nghề luyện sắt, làm đồ gốm, nghề mộc…
Từ đó họ có nhu cầu trao đổi sản phẩm và mua bán nhằm phục vụ nhu
cầu của mình nên thương nghiệp cũng phát triển nhanh chóng, tiền tệ xuất
hiện và lúc này trong xã hội đã hình thành tầng lớp thương nhân giàu có. Vào
thế kỷ VI TCN - V TCN xuất hiện những thành thị thương nghiệp buôn bán
xuất nhập nhộn nhịp ở các nước Hàn - Tề - Tần - Sở. Thành thị đã có một cơ
sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc
của quý tộc thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên
(Hiển tộc). Đó là hiện tượng trong Kinh Thi nói “Hai đô thị sánh nhau trong

nước” [33, tr.25]. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động
mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu
như vào đầu thời Chu, đất đai ở khắp dưới gầm trời này không đâu không

7

7


phải là thần dân của nhà vua thì nay cái quyền sở hữu tối cao (về đất và dân)
ấy đã bị một lớp người mới lên có tiền tấn công và chiếm làm tư hữu.
1.1.2 Điều kiện chính trị - xã hội
Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã tác động lớn đến lĩnh
vực chính trị - xã hội. Đây là thời kỳ ở Trung Quốc lúc này có sự đan xen
giữa hình thái chiếm hữu nô lệ với phong kiến. Triều đại nhà Chu ngày càng
suy sụp, chế độ tông pháp không còn được tôn trọng, các quan hệ kinh tế,
chính trị - xã hội giữa thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, trật tự
lễ nghĩa nhà Chu không còn được coi trọng. Hệ quả tất yếu dẫn đến là làm
xuất hiện một cục diện mới trong xã hội. Thời Xuân Thu đó là “triều đại nhà
Chu từ đầu Đông Chu đến đây hết hẳn. Tình trạng xen kẽ lẫn nhau giữa các
hình thái chiếm hữu nô lệ cứ lùi dần và hình thái phong kiến cát cứ mới nẩy
sinh với xu thế hướng tới tập quyền ngày càng mạnh mẽ cũng chấm dứt” [10,
tr.21]. Nhiều nước chư hầu của nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh
nữa, không chịu cống nạp, đã giành giật địa chủ bá chủ thiên hạ, chinh phạt
lẫn nhau, càng làm cho mâu thuẫn vốn có trong xã hội và mâu thuẫn giai cấp
ngày càng trở nên gay gắt, sự rối loạn trong xã hội ngày càng tăng. Tình trạng
lễ, nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi chư hầu lấn quyền thiên tử,
đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rất là rối
loạn diễn ra ở nhiều nơi. Tầng lớp địa chủ mới lên ngày càng giàu có, lấn át
quý tộc thị tộc cũ trên yếu dưới mạnh, thậm chí còn chiếm cả chính quyền

như họ Quý thị ở nước Lỗ, họ Trần ở nước Tề.
Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế và xã hội đã dẫn đến sự
đa dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện;
mới-cũđan xen và mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Có thể tóm tắt mấy mâu
thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này là :

8

8


Một là, mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư tưởng hữu sản, có địa vị
kinh tế trong xã hội (Hiển tộc) mà không được tham gia chính quyền với giai
cấp quý tộc thị tộc của nhà Chu đang nắm chính quyền.
Hai là, mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương
nhân với giai cấp quý tộc thị tộc Chu.
Ba là, trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ phận tách
ra, chuyển hóa lên giai tầng mới; một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một mặt
họ cũng không hài lòng với trật tư cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con
đường cải lương, cải cách.
Bốn là, tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới
lên tấn công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng
lớp đại quý tộc thị tộc đang nắm chính quyền..
Năm là, mâu thuẫn nông dân công xã thuộc các tộc bị người Chu nô
dịch với nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao
động của họ.
Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ
nô lệ thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của
chế độ gia trưởng (còn gọi là Tông pháp), xây dựng nhà nước của giai cấp
quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.

Trước một thực trạng xã hội về chính trị như vậy, thì một vấn đề cấp
bách được đặt ra đó là cách thức tổ chức, quản lý như mô hình nhà Chu không
còn phù hợp nữa. Và còn phải làm thế nào để thiết lập lại trật tự kỷ cương cho
xã hội, làm cho xã hội ổn định và phát triển. Đây là vấn đề không phải dễ
dàng trong bối cảnh có rất nhiều học thuyết ra đời mà điều quan trọng là phải
lựa chọn mô hình xã hội nào cho phù hợp với tình hình Trung Quốc lúc bấy
giờ để đất nước thoát khỏi tình trạng rối loạn. Rõ ràng đây là câu hỏi lớn, nỗi
băn khoăn cho thời đại và là nội dung chủ yếu trong đời sống tư tưởng chính
trị - xã hội của Trung Quốc. Sự ra đời của nhiều học thuyết đã phản ánh lập
trường giai cấp rất rõ là mỗi một học thuyết lại bảo vệ lợi ích của giai cấp, của
9

9


tầng lớp mình mà phê phán (cải tạo hay xoá bỏ) trật tự xã hội cũ. Tình trạng
ấy đã tạo nên cục diện “Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng), “Bách gia
chư tử” (trăm nhà trăm thầy) với sự xuất hiện những trung tâm (như Tắc Hạ
của nước Tề), những tụ điểm (như nhà Mạnh Thường Quân) mà kết cục là đã
tạo ra nhiều tầng lớp kẻ sĩ, nhiều tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập nhau
trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Chính trong quá trình “tranh minh” đó đã đẻ ra những nhà tư tưởng vĩ
đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, mở đầu cho lịch
sử tư tưởng Trung Quốc có ngôn ngữ và ý nghĩa chặt chẽ. Trong đó có những
học thuyết ảnh hưởng cho tới sau này và lan rộng ra nhiều quốc gia, dân tộc.
Nho giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu. Những
cơ sở của nó được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt là sự đóng góp của
Chu Công Đán. Đến lượt mình Khổng Tử phát triển tư tưởng Chu Công, hệ
thống hóa lại và tích cực truyền bá. Vì vậy ông đươc xem là người sáng lập
Nho giáo. Khổng Tử (551-479 TCN) là con một gia đình quý tộc nước Lỗ.

Khổng Tử muốn đem tài sức của mình ra giúp vua, chủ trương lập lại trật tự,
lễ nghĩa nhà Chu nhưng không được vua nước Lỗ trọng dụng. Ông đi đến các
nước chư hầu khác mong được mang lý tưởng cải tạo xã hội ra giúp nước, trị
dân, cứu đời nhưng đến đâu cũng không thành công. Cuối đời nhận thấy sự
bất lực trong công việc chính trị, Khổng Tử về nước mở trường dạy học và
viết sách. Ông hệ thống hóa những tri thức, tư tưởng đời trước và quan điểm
của ông thành học thuyết đạo đức chính trị nổi tiếng, gọi là Nho giáo. Sau khi
Khổng Tử mất Nho gia chia làm tám phái nhưng có hai phái quan trọng nhất
là Tuân Tử và Mạnh Tử. Trong đó Mạnh Tử là người đã xuất sắc nhất bảo vệ
tư tưởng của ông. Mạnh Tử đã khai thác, phát triển quan điểm của Khổng Tử
và có những cống hiến riêng của mình. Tư tưởng Khổng Mạnh là cốt lõi của
Nho gia. Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng - giai đoạn hình
thành Nho giáo. Đó là nho giáo nguyên thủy, nho giáo tiên tần hay còn gọi là
10

10


nho giáo Khổng - Mạnh. Mà thời kỳ này nổi bật lên học thuyết đức trị nhằm
thực hiện đường lối trị nước bằng đạo đức, trong đó các ông đòi hỏi mọi
người phải kiên trì, nỗ lực, tu thân, học đạo để làm cho “người người hữu
đạo”, “nhà nhà hữu đạo”, thực hiện lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Sang thời trung đại, Nho giáo được hoàn thiện và bổ sung theo hai
hướng. Một là, vào thời kỳ nhà Hán nhà nho Đổng Trọng Thư đã nhìn thấy
khả năng to lớn của Nho giáo trong việc bảo vệ lợi ích của giai cấp phong
kiến thống trị nên đã tìm cách tô vẽ cho Nho giáo theo chiều hướng có lợi cho
giai cấp này. Từ đây Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và công cụ
bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa suốt 2000 năm lịch sử. Tuy nhiên trong
hệ tưởng chính thống này, Nho giáo chỉ là hình thức bề ngoài, còn nội dung
bên trong của nó, giai cấp phong kiến vẫn cai trị theo đường lối pháp trị. Do

vậy mà Nho giáo thời kỳ này đã loại trừ những giá trị nhân bản và biện chứng
và biện chứng của nho gia nguyên thủy Khổng Mạnh. Hai là, vào thời Tống
xuất hiện những nhà nho lỗi lạc như Chu Đôn Di, Trình Di, Trình Hạo...Học
thuyết của Khổng Tử đã được hồi sức bởi sự bổ sung những quan niệm triết
học của âm dương ngũ hành, những quan niệm về bản thể của đạo gia, tư
tưởng về pháp trị của pháp gia, triết lý nhân sinh quan phật giáo.
1.2
1.2.1

Khái niệm tu thân và nguồn gốc triết lý tu thân
Khái niệm tu thân
Đứng trước thời kỳ có nhiều biến động về chính trị, tình hình xã hội hết
sức rối ren, các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn, để tạo ra những con
người đạo cao đức trọng, có tài năng chính trị, có thể góp phần cống hiến to
lớn vào việc cải tạo xã hội, giáo hóa nhân dân thì Khổng Tử đã đưa triết lý về
sự tu thân, đặt nền móng cho việc xác lập hệ thống giáo dục, hoàn thiện con
người và đào tạo con người. Ông coi tu thân là điều kiện căn bản, tiên quyết
của mọi sự thành đạt của mỗi người trong xã hội, của việc thực hiện lý tưởng
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Theo Khổng Tử thì việc tu thân
không tách rời học tập vì nó có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen hòa quyện vào
11
11


nhau. Sự rèn luyện, tu dưỡng của bản thân cũng chính là sự rèn luyện tu
dưỡng đạo đức theo một tiêu chuẩn nhất định mà các nhà Nho đưa ra. Thông
qua việc tu thân, học tập để tạo ra những phẩm chất, đức tính tốt đẹp nhất. Từ
đó có mục đích sống đúng đắn cho mình.
Thế nào là tu thân? Nho giáo không có sẵn những phần giảng giải cụ
thể, rành mạch mà Khổng Tử và các học trò của ông chỉ có những câu nói rời

rạc, tùy theo trường hợp cụ thể mà có cách hiểu và ý nghĩa khác nhau về tu
thân. Mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa khái quát nào về tu thân nhưng
trong Tứ thư, nội dung cơ bản của tu thân đã được Khổng Tử và Mạnh Tử nói
đến. Trong chín điều kiện để làm việc quốc gia, thiên hạ thì Khổng Tử đặt tu
thân là điều đầu tiên. Đó là: “Tu thân, tôn người hiền, thân người thân, kính
các đại thần, thể tất công lao bề tôi, thương dân như con, thu hút các nhà công
nghiệp, đối đãi mềm mỏng với các người phương xa và ưu ái chư hầu” (tu
thân giã, tôn hiền giã, kính đại thần giã, thể quần thần giã, lai bách công giã,
nhu viễn nhân giã, hoài chư hầu giã) [17, tr.178]. Theo ông “người quân tử
không thể không tu thân mà muốn tu thân không thể không thờ kính cha mẹ”
(cố quân tử bất khả dĩ bất tu thân. Tư tu thân bất khả dĩ bất sự nhân) [17,
tr.177]. Khổng Tử khẳng định rằng nhân, trí, dũng là ba điều đạt đức của
người quân tử trong thiên hạ, là những nội dung quan trọng của tu thân và tự
sửa mình, là những điều thiết yếu đối với người quân tử trong việc trị nước
dùng người. Sửa mình là từ trong suy nghĩ tới hành động đều phải tuân theo lễ
kính, tích cực làm việc thiện, không làm điều càn quấy. Tu thân là phải biết
chế ngự bản thân và làm theo lễ, nhất nhất mọi cái phải tuân theo lễ.
Một trong những học trò xuất sắc của Khổng Tử là Tăng Tử rất coi
trọng việc tu thân, sửa mình và coi đó là một việc làm hàng ngày: “Hằng ngày
ta xét mình về ba điều này: làm việc gì cho ai, ta có hết lòng hay chăng? Kết
giao với bằng hữu, ta có tín thật hay chăng? Đạo lý do thầy truyền dạy, ta có
học tập hay chăng?” (Ngô, nhật tam tỉnh ngô thân: vi nhân mưu, nhi bất trung
12

12


hồ? Dữ bằng hữu giao, nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?) [14, tr.188]. Ông
luôn đề cao sự ngay thẳng và suy nghĩ trong hành động, xem đó là cái lý tất
yếu của đức dũng.

Đến lượt Mạnh Tử thì khái niệm tu thân đã được hoàn thiện hơn vì có
thêm các nội dung mới. Mạnh Tử đã đưa ra thuyết tứ đoan và yêu cầu sự tu
dưỡng của con người phải làm theo chuẩn mực đó. Mạnh Tử nói: “Lòng
thương xót là đầu mối của đức nhân, lòng hổ thẹn là đầu mối của đức nghĩa,
lòng khiêm nhượng là mối đầu của đức lễ, lòng phải quấy là mối đầu của đức
trí. Người ta tự nhiên có đủ bốn mối ấy nơi lòng, cũng như thân thể mình có
đủ hai chân và hai tay vậy. Đã có đủ bốn mối thương xót, hổ thẹn, khiêm
nhường và phải quấy ấy nơi lòng, thế mà lại nói rằng mình chẳng có thể làm
theo những đức, nhân, nghĩa, lễ, trí đó là mình tự hại mình vậy” (Trắc ẩn tri
tâm, nhân tri đoan giã. Tu ố tri tâm, nghĩa tri đoan giã. Từ nhượng tri tâm, lễ
tri đoan giã. Thị phi tri tâm, tứ tri đoan giã. Nhân chi hữu thị tứ đoan giã, du
kỳ hữu tứ thể giã. Hữu thi tứ đoan, nhi vị bất năng giả, tự tặc giả giã) [14,
tr.861-862]. Mặt khác, Mạnh Tử cho rằng tu thân phải “không động tâm”.
Không động tâm theo ông là không lo sợ, nhút nhát, luôn bình tĩnh, tự tin,
không bị dao động trước tác động của hoàn cảnh xã hội. Mạnh Tử đã nêu lên
cách thức thức hiện “không động tâm” là phải biết mình, hiểu người.
Qua sự phân tích trên, có thể hiểu rằng: Tu là sửa, thân là thân mình.Tu
thân là sửa chữa bản thân mình cho được ngay chính, hợp theo đạo đức.
Trong bát điều mục của Nho giáo thì tu thân là trung tâm điểm nên quan trọng
hơn tất cả. Khổng Mạnh coi tu thân là một quá trình tự trau dồi, tu dưỡng bản
thân theo một hệ thống những chuẩn mực đạo đức cơ bản đó là: nhân, lễ
nghĩa, trí, trung, tín, hiếu, đễ, thành, kính… nhằm hoàn thiện con người về
mặt đạo đức. Nó đặt ra yêu cầu rất cao, đòi hỏi sự khắt khe nỗ lực, phấn đấu
của mỗi người, sự thành thật nhân lỗi và sửa lỗi của họ. Thực hiện tốt những

13

13



điều đó là đã hoàn thành việc tu thân và đạt tới mẫu người lý tưởng mà Nho
giáo đưa ra là bậc thánh nhân, là người quân tử.
1.2.2 Nguồn gốc triết lý tu thân của Nho giáo
Vấn đề cơ bản và chủ yếu nhất trong Nho giáo là vấn đề về con người
và đặc biệt đề cao vai trò của con người, “coi con người cùng với trời đất là
tiêu biểu của tất cả, và nói rõ: trời, đất, người là tam tài” [10, tr.64]. Trong
quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử thì vấn đề con người được gắn liền và
liên quan trực tiếp đến việc củng cố, ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội. Mà
tư tưởng chủ đạo về con người là coi trọng đạo đức. Vấn đề con người lại bao
hàm các vấn đề như đạo làm người, tính người, giáo dục và đào tạo con
người, xây dựng mẫu người lý tưởng….việc nghiên cứu và làm rõ các vấn đề
trên là rất cần thiết và có ý nghĩa. Tuy nhiên vấn đề quan trọng và liên quan
nhất tới bài viết là vấn đề bản tính và vai trò của con người. Đây được coi là
nguồn gốc của triết lý tu thân trong Nho giáo.
1.2.2.1

Quan niệm của Nho giáo về bản tính con người
Khổng Tử là người đầu tiên đưa ra quan niệm về bản tính con người
nhưng hầu như ông không giảng cho học trò. Như Tử Cống - học trò của
Khổng Tử đã nói rằng: “Văn chương thầy ta thì chúng ta đều được nghe. Còn
về bản tính con người cùng với đạo trời thì chúng ta chẳng nghe thầy ta dạy”.
(Phu tử chi văn chương, khả đắc nhi văn giã. Phi tử nhi ngôn tính dữ thiên
đạo, bất khả đắc nhi văn giã [14, tr.298]. Bản tính con người và đạo trời là
vấn đề cao siêu nên Khổng Tử chỉ truyền đạt vấn đề này cho học trò nào đã
đạt tới đạo trung dung, nhưng thực tế số học trò đạt được đạo này rất hiếm
nên không thể truyền đạt được. Có ghi chép một số lần ông nói liên quan đến
bản tính con người, đó là “Con người sinh ra, bản tính vốn ngay thật” (nhân
tri sinh tính giã trực) [14 ,tr.332] và “Con người ta ai cũng có bản tính lành.
Nhưng do nhiễm thói quen cho nên họ xa lánh nhau” (Tính tương cận giã, tập
tương viễn giã) [14, tr.614].

14

14


Tuy ít bàn về bản tính con người nhưng Khổng Tử đã đưa ra được luận
điểm rất quan trọng làm cơ sở để học trò của ông tiếp tục kế thừa và phát
triển. Khổng Tử chưa nói bản tính con người là ác hay thiện một cách rõ ràng,
nhưng ông đã khẳng định “bản tính con người là gần nhau”. Theo ông chỉ đến
khi con người bị chi phối, ràng buộc bởi những ham muốn, dục vọng và bởi
những ảnh hưởng, tác động của ngoại cảnh, đến khi xã hội phân chia thành
giai cấp thì cái tính người ấy mới tha hóa làm cho con người dần xa nhau. Tức
Khổng tử muốn nhấn mạnh vai trò tu dưỡng đạo đức và ảnh hưởng hoàn cảnh
xã hội đối với sự thay đổi bản tính con người.
Tiếp thu tư tưởng của Khổng Tử, tới Mạnh Tử vấn đề này được nêu rõ
ràng, gây nhiều tranh luận và ông đã đưa ra học thuyết về tính thiện. Mạnh Tử
cho rằng: Chỉ có phần thiện mới được gọi là tính, vì chỉ cái thiện mới là phần
cao quý, là phần phân biệt ta với cầm thú mà cái phần thiện thì ai ai cũng có.
Ông nói “nhân tri sơ tính bản thiện”, bản tính của con người là thiện và con
người có tứ thiện tâm: lòng thương xót mọi người; biết hổ thẹn để xóa bỏ
những điều sai trái; kính trọng người trên nhường nhịn kẻ dưới; biết nhận ra
điều phải trái. Tuy nhiên, Ông cho rằng con người sinh ra vốn thiện nhưng
vẫn có mầm ác, ông chỉ gọi cái phần thiện, phần tốt là tính người thôi vì chỉ
cái đó mới phân biệt con người với loài vật. Mà cái phần tốt ai ai cũng có, vì
ai ai cũng có lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi, nghĩa là có
cái đầu mối của nhân, nghĩa, lễ, trí. Giáo dục cần khuếch sung bốn tính đó,
phần tốt mà phát triển thì phần xấu sẽ lùi đi và con người ngày càng xa cầm
thú mà gần với bậc thánh nhân. Thuyết tính thiện của Mạnh Tử là coi trọng và
đề cao việc tồn tâm, dưỡng tính thiện của con người [7, Tr.75].
Trái ngược với quan điểm của Mạnh Tử, Tuân Tử cho rằng bản tính

con người vốn là ác (nhân tri sơ tính bản ác). Xuất phát từ nhu cầu phổ biến là
thỏa mãn những bản năng sinh vật của con người, ông xây dựng thuyết tính ác
của mình. Tính là cái tự nhiên trời sinh ra, là cái sinh ra đã có sẵn, đó là lòng
15

15


hiếu lợi, lòng đố kỵ và lòng dục. Ba cái đó là đầu mối của tính người, do trời
sinh ra. Chỉ cái do trời sinh ra đó mới gọi là tính, còn cái do học mà có, do
làm mà thành thì không gọi là tính mà là ngụy. Tuân Tử còn chỉ ra nguyên
nhân của tính ác. Theo ông, sở dĩ bản tính con người là ác bởi vì con người
sinh ra đã có sự hám lợi, sự đố kỵ, sự thèm muốn của tai mắt, yêu âm thanh
và sắc đẹp....Để thỏa mãn những nhu cầu ấy, theo ông tất yếu sẽ nảy sinh sự
tranh giành, dâm loạn, bỏ mất lễ, nghĩa, từ nhượng, trung tín. Muốn khắc
phục tình trạng ấy Tuân tử cho rằng: “Phải có sự hòa hợp của pháp sự, đạo
của lễ, nghĩa rồi sau mới đẻ ra từ nhượng hoàn toàn ở văn minh, nghĩa là quay
về với sự yên trị” [34, tr.367]. Ông đã chỉ ra bản năng của con người đó là:
“đói thì muốn no, rét thì muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ ngơi”.
Khác với Mạnh Tử và Tuân Tử không đưa ra tính thiện và tính ác mà
Cáo tử (cùng thời với Mạnh tử) lại đưa ra thuyết tính không thiện không ác.
Ông này ví tính người với nước chảy: “Tính người ta như dòng nước chảy
mạnh, khơi nó qua bên Đông thì nó chảy qua bên Đông, khơi nó qua bên Tây
thì nó chảy qua bên Tây; tính người không phân biệt được thiện với bất thiện
cũng như tính nước không phân được đông với tây. Mạnh Tử bác lại, bảo
rằng tính người vốn thiện, cũng như nước vốn chảy chỗ trũng [7, tr.82].
Như vậy ta thấy rằng khi nói về bản tính con người, nho giáo đều thừa
nhận khả năng con người có thể thay đổi được tính thông qua việc tu dưỡng,
giáo dục và sự tác động, ảnh hưởng của xã hội. Vì thế, sự giáo dục, tu dưỡng
là những yếu tố không thể thiếu để xây dựng và hoàn thiện con người, giữ gìn

và phát huy tính thiện đồng thời loại bỏ tính ác và những hành động xấu.
1.2.2.2

Quan niệm của Nho giáo về vai trò của con người

Cũng như nhiều học thuyết khác, Nho giáo đặc biệt là tư tưởng Khổng
-Mạnh đã nhìn nhận thế giới, vạn vật như một chỉnh thể thống nhất, trong đó
vũ trụ, trời đất, vạn vật, con người luôn tồn tại trong mối liên hệ, quan hệ
tương hỗ với nhau. Trong các mối quan hệ đó thì chủ yếu đề cập tới hai mối
16

16


quan hệ cơ bản nhất là quan hệ giữa con người với trời đất, vạn vật và quan
hệ giữa con người với con người và xã hội.
Thứ nhất, về vai trò của con người trong mối quan hệ với trời đất, vạn vật
Khi luận bàn về vai trò của con người với trời đất, vạn vật Khổng Tử,
Mạnh Tử cho rằng, con người có thể sánh ngang với trời đất, và cùng với trời
đất hoá sinh ra vạn vật. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, con người phải suy
nghĩ và hành động đúng với “mệnh trời”, “đạo trời”, phải thờ trời, kính trời,
phải có đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà trời phú cho con người. Có nghĩa
là trong tư tưởng hai ông, vai trò của con người đối với vạn vật chỉ có thể
thực hiện và được thừa nhận chủ yếu phải dựa vào trời, phục tùng quyền uy
tối cao của trời. Mặc dù coi vũ trụ và vạn vật có nguồn gốc từ trời và cùng
trời đất là một thể, nhưng hai ông ít đề cập tới mối quan hệ giữa người với tự
nhiên mà chỉ coi con người là bộ phận cao nhất và đứng lên trên vạn vật.
Nho giáo cho rằng, trời là nguồn gốc, có vị trí đặc biệt quan trọng đối
với con người. Điều đó đã thể hiện rất rõ bằng những mệnh đề như vạn vật
gốc ở Trời hay Trời sinh ra người…thì người phải lấy Trời làm gốc. Khi bàn

về trời và vai trò của trời đối với con người, xã hội, Khổng Tử và Mạnh Tử đã
cho rằng, trời có đức, có đạo, có mệnh. Chính vì vậy mà trời là chúa tể sinh ra
tất cả, thống trị tất cả, quyết định tất cả trong càn khôn, vũ trụ, con người.
Mệnh của trời là quyền uy, là thể hiện vai trò của trời đối với vạn vật,
muôn loài trong sự sinh thành, biến đổi, mất đi của mỗi loài. Theo đó, cái
tính, cái đức của con người, việc trở thành thiện nhân, cả sự sang hèn, sinh tử,
giàu nghèo… của con người, mỗi người đều là mệnh trời, do mệnh trời và vì
vậy con người không thể cưỡng lại được. Khổng Tử đã từng chỉ rõ, một trong
những tiêu chuẩn cơ bản của người quân tử là phải biết “mệnh trời”. Theo
ông, biết rồi thì phải sợ mệnh trời và việc “sợ mệnh trời” hay không là một
trong những tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt quân tử với tiểu nhân. Như ông
nói: “Người quân tử có ba điều kính sợ, sợ Mệnh Trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời
dạy của Thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời nên không sợ, khinh
17

17


nhờn bậc đại nhân; coi thường lời dạy của Thánh nhân” [31, tr.512]. Khi con
người đã biết, đã hiểu mệnh trời rồi thì điều cơ bản là con người không được
làm trái, mà phải hành động suy nghĩ theo đúng đạo trời, mệnh trời.
Như vậy, trong quan niệm của Nho giáo, trời có vị trí đặc biệt quan
trọng, trời không những sinh trưởng ra muôn vật, mà còn sinh ra con người.
Mệnh trời có vai trò quyết định đến sự sinh tồn của con người, ảnh hưởng
trực tiếp đến vận mệnh của con người. Vai trò của con người trước trời là phải
hiểu mệnh trời, để từ đó thực hiện theo mệnh trời một cách vô điều kiện, nếu
không trời sẽ trừng phạt nghiêm khắc.
Thứ hai,về vai trò của con người trong các mối quan hệ xã hội cơ bản.
Luận bàn về vấn đề này, Nho giáo đã nhìn nhận con người ở nhiều
phương diện khác nhau. Từ phương diện đạo đức, Nho giáo đề cập tới mối

quan hệ giữa quân tử - tiểu nhân; từ phương diện chính trị đề cập tới mối quan
hệ bị trị - thống trị; từ phương diện thiết chế xã hội để đưa ra các quan hệ
trong gia đình; trong xã hội... Rồi từ mỗi mối quan hệ cơ bản ấy lại bao gồm
các quan hệ con, tất cả những mối quan hệ ấy trong sự đan xen, ràng buộc lẫn
nhau, hết sức phức tạp. Ứng với mỗi một quan hệ ấy, Khổng Tử và Mạnh Tử
lại đưa ra những quy phạm, chuẩn mực đạo đức để ràng buộc, cột chặt con
người, định rõ trách nhiệm của con người trong gia đình, ngoài xã hội. Những
quy phạm, những chuẩn mực đạo đức đó, gộp chung lại thành đạo làm người.
Trong gia đình, Nho giáo đưa ra ba mối quan hệ cơ bản (cha - con,
chồng - vợ, anh - em). Tuy nhiên, có hai mối quan hệ được quan tâm, lý giải
nhiều nhất, đó là mối quan hệ cha - con và mối quan hệ chồng - vợ.
Quan hệ cha - con được Nho giáo quan tâm nhất, coi là cơ bản, làm
giường cột cho các mối quan hệ khác. Tiêu chuẩn trong mối quan hệ này, theo
Khổng Tử, là “phụ từ tử hiếu”. Các ông cho rằng, trong đạo “Hiếu”, phận
làm con phải có trách nhiệm làm cho cha mẹ mình được kính trọng trong xã
hội, giữ được địa vị và làm theo lễ của ông cha, kính những người mà ông cha
18

18


trọng, trọng người đã qua như người đang tồn tại; biết phụng dưỡng cha mẹ
khi còn sống phải đúng lễ nghĩa. Trong gia đình cho đến xã hội, bất kỳ ở địa
vị nào, kể cả là nhà vua cũng phải thực hiện đạo Hiếu. Khi bàn về mối quan
hệ cha - con trong gia đình, ngoài nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ, thì cha
mẹ phải có trách nhiệm thương yêu con cái, dạy con nên người, phải làm
gương và giúp con cái thi hành đúng các đạo làm người trong xã hội: biết
trung với vua, hiếu với cha mẹ, biết kính người trên, biết đễ với anh, em, biết
tín với bạn bè, biết thấy việc nghĩa phải làm. Đặc biệt là cha mẹ còn phải biết
bảo vệ và che chở cho con cái. Nho giáo giai đoạn sau đã đẩy mối quan hệ

này lên mức tuyệt đối là “Phụ sử tử sự” (cha quyết, con phục tùng). Để ổn
định gia đình, vai trò của người cha “từ” cũng rất quan trọng, nhưng quan
trọng hơn là sự phục tùng của người con. Do vậy, Nho giáo đặc biệt đề cao
Hiếu, khi coi Hiếu là nguồn gốc của mọi đức hạnh.
Trong mối quan hê chồng - vợ, Nho giáo đưa ra phạm trù Nghĩa. Nghĩa
là phạm trù đạo đức để ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vợ và chồng với
nhau. Theo đó, vợ chồng phải biết thương yêu và có trách nhiệm với nhau.
Trong gia đình phải hoà thuận, chồng phải biết thương yêu vợ con, người
chồng phải có nghĩa. Ngược lại thì người vợ phải “nhu mì”, biết chăm lo vun
vén cho gia đình nhà chồng và biết vâng lời chồng. Trong quan niệm của Nho
giáo, địa vị xã hội và vai trò của người phụ nữ nói chung được nhìn nhận,
đánh giá thấp hơn so với người đàn ông.
Còn trong mối quan hệ anh - em, Khổng Tử và Mạnh Tử đòi hỏi phải
có đễ. Nghĩa là anh em trong một nhà phải lấy tình thương yêu, thân mật mà
đối xử với nhau. Là anh thì phải biết bao bọc, che trở cho em, nhường nhịn
em; làm em phải biết nghe lời anh, kính trọng anh.
Trong xã hội, Nho giáo chú ý nhiều nhất đến mối quan hệ vua - tôi.
Vua còn được gọi là Thiên tử có sứ mệnh to lớn nhất là thay trời trị dân, giáo
dân, vì vậy nhà vua có quyền uy tuyệt đối và bao trùm lên khắp thiên hạ.
19

19


Theo Nho giáo, quan hệ vua - tôi phải có sự tôn trọng của cả hai phía
với nhau. Khổng Tử yêu cầu: “Nhà vua sai khiến bề tôi thì dựa vào điều lễ, bề
tôi phụng sự nhà vua thì dựa vào điều trung” (Quân sử thần dĩ lễ, thần sự
quân dĩ trung) [14, tr.19]. Cụ thể là, vua phải sai khiến bề tôi theo lễ, biết tôn
trọng bề tôi và phải biết nghe sự can gián của bề tôi. Còn bề tôi phải trung với
vua, mà trung là phải biết giúp vua đi theo con đường đạo đức, biết can gián

vua khi vua làm trái đạo lý; mặt khác là phải biết đặt lợi ích của vua lên trên
hết, phải biết đem đạo lý thờ vua, việc gì có ích cho nước, có lợi cho dân thì
giúp vua làm. Ngoài ra Trung còn có nghĩa là cung kính. Còn đối với bề tôi,
vua phải làm theo “mệnh trời” là nuôi dưỡng và giáo hoá. Nguyên tắc của
việc dưỡng dân, giáo dân, trị dân của nhà vua là phải theo Lễ. Để thực hiện
việc trị dân, giáo dân, dưỡng dân có hiệu quả thì trước hết nhà vua phải có
đạo đức, thường xuyên tu dưỡng đạo đức, phải thương yêu và hợp lòng dân.
Rõ ràng, trong quan niệm về mối quan hệ vua tôi ít nhiều có tính nhân văn,
nhân bản sâu sắc. Như Khổng Tử đã từng nói: “Nếu vua thương yêu bề tôi thì
bề tôi phải trung thành với vua” còn Mạnh Tử thì cho rằng: “Vua coi bề tôi
như tay chân, thì bề tôi coi vua như gan ruột, vua coi bề tôi như chó ngựa, thì
bề tôi coi vua như kẻ qua đường, vua coi bề tôi như bùn rác, thì bề tôi coi vua
như giặc thù” [14, tr.1062] và “vua chư hầu làm nguy hại đến xã tắc thì phải
phế bỏ đi mà lập vua khác” [31, tr.758]. Cũng bởi vậy mà, Nho giáo đưa ra
các quy phạm, các chuẩn mực đạo đức nhân, nghĩa, hiếu, trung… nhằm ràng
buộc trách nhiệm, nghĩa vụ lẫn nhau giữa nhà vua và bề tôi.
Như vậy, khi đưa ra quan niệm về vai trò của con người trong các mối
quan hệ xã hội cơ bản, Nho giáo xem xét mối quan hệ giữa con người một
cách cụ thể chứ không phải chung chung, trừu tượng. Con người trong mối
quan hệ xã hội cơ bản được Khổng - Mạnh nhìn nhận thông qua năm mối
quan hệ phổ biến trong xã hội, nhưng về thực chất và suy đến cùng những
mối quan hệ này tồn tại và phản ánh ở hai phạm vi lớn là gia đình và xã hội.
20

20


Trong gia đình thì mối quan hệ cha - con là lớn nhất và nó được thể hiện bằng
đạo hiếu. Trong xã hội thì mối quan hệ vua - tôi là quan trọng nhất và nó được
thể hiện bằng đạo trung. Nho giáo chỉ thấy mặt xã hội của con người mà

không thấy mặt tự nhiên của con người và còn chứa đựng tư tưởng và tính
chất bảo thủ, lạc hậu. Song, Nho giáo đã để lại nhiều tư tưởng, giá trị tích cực
để cho chúng ta xem xét, kế thừa.
1.3 Nội dung của triết lý tu thân
1.3.1 Các phương diện chủ yếu của tu thân
1.3.1.1. Tu thân là tu dưỡng “đạo” và “đức; tu dưỡng đạo đức cá nhân
Trong tư tưởng Khổng - Mạnh, để đào tạo ra những con người đáp ứng
được với yêu cầu xã hội, để thực hiện lý tưởng: tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
thì trước hết phải lấy sự tu thân làm điểm khởi đầu, điểm mấu chốt. Khổng Tử
và các môn đệ của ông đều xem việc tu dưỡng học đạo đi đôi với hành đạo.
“Đạo” phải đi với “Đức”. Điều này đã thể hiện rất rõ qua Tứ thư.
Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều chủ trương giáo dục “đạo làm người” cho
tất cả mọi người. Nhưng theo các ông, Đạo không phải là tự có sẵn, con người
sinh ra đã biết, đã có. Muốn con người hữu đạo cần phải được khuyên răn, dạy
bảo gọi là giáo. Ở tư tưởng Khổng - Mạnh, “Đạo” được sử dụng trong sự xem
xét sự vận động biến hoá, một cách có phép tắc, có quy luật của trời, đất, người.
“Đạo là con đường đúng đắn từ nơi đi cho tới nơi đến” [6, tr.105]. Kinh Dịch
viết: “Lập đạo của trời nói âm và dương, lập đạo của đất nói nhu và cương”. Con
người nằm trong khối “tam tài” vạn vật nhất thể, chịu sự chi phối của quy luật
trời đất nhưng lại không hoàn toàn phụ thuộc vào nó. Việc lập ra đạo người là để
làm cho con người không đi lệch con đường đúng đắn.
“Đạo” nhờ có giáo mà vững vàng, sâu sắc, rộng khắp. Giáo không có
mục đích nào cao hơn là làm cho mọi người hữu đạo. Trần Trọng Kim trong
cuốn Nho giáo có viết: “Đạo là cái lý tự nhiên của trời đất, là con đường rộng
ai cũng phải theo mà đi, là công lệ trung chính để làm quy tắc cho sự hành
21

21



động của đời. Khổng Tử đem lẽ điều hoà của trời đất và những hành vi của đế
vương đời trước mà lập thành đạo để dạy thiên hạ” [18, tr.94].
Trong Nho giáo, Khổng Tử đã thấy rất rõ tầm quan trọng của việc “tu
thân” để thực hiện lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Ở ông, học đạo
luôn gắn liền với hành đạo. Khổng Tử đã từng khuyên mình và mọi người là
phải: “học không chán, dạy người không biết mỏi” (Học nhi bất yếm, hối
nhân bất quyện) [14, tr.344]. Ông cũng rất tự hào mà nhận rằng: “Trong một
xóm có mười nhà ắt có người trung hậu, tín thật như Khâu này, nhưng chẳng
có ai ham học như Khâu này” (Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín như Khâu
giả yên, bất như Khâu chi háo học giã) [14, tr.314]. Đến lúc cuối đời ông đã
tổng kết việc tu thân học đạo của mình: “Ta mười lăm tuổi đã có trí học đạo
thánh hiền, ba mươi tuổi thì vững vàng, bốn mươi tuổi thì không ngờ vực,
năm mươi tuổi biết mệnh trời, sáu mươi tuổi thì nghe thông suốt mọi việc,
bảy mươi tuổi thì làm theo ý muốn mà không sợ khuôn phép” (Ngô thập hựu
ngũ, nhi trí vu học, tam thập nhi lập, tư thập nhi bất hoặc, ngũ thập chi thiên
mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ) [14,
tr.216]. Theo đó, học tập đạo lý là công việc được Khổng tử thực hành một
cách cần mẫn, nghiêm túc suốt đời mà ông thấy vẫn chưa đủ, vì thế mà ông đã
từng ước ao rằng: “Nếu trời cho ta sống thêm ít năm nữa đặng ta học xong
đạo Dịch, thì ta sẽ không phạm lỗi lớn nữa” (Gia ngã sổ niên, tốt dĩ học Dịch,
khả dĩ vô đại quá hỹ) [14, tr.356]. Vì vậy, ông luôn phê phán những kẻ không
có chí tu thân, học đạo, chỉ thoả mãn với những cái đã đạt được mà không
chịu cố gắng phấn đấu tiếp. Yêu cầu lớn nhất của ông đối với học trò là phải
cần cù, chịu khó hết lòng học đạo và hành đạo. Trong những điều lo lắng của
ông, thì điều lo lắng lớn nhất là con người không chịu tu dưỡng đạo đức.
Sách Mạnh tử cũng đã viết: “Đặt nhà Tường, Tự, nhà Học, nhà “Hiệu”
để dạy dân. Nhà “Tường” lấy nghĩa mà nuôi người già, nhà “Hiệu” lấy nghĩa
mà dạy dân, nhà “Tự” lấy nghĩa là tập bắn. Đời Hạ gọi là Hiệu, Ân gọi là Tự,
22


22


Châu gọi là Tường đều là hương học. Hương học và quốc học để tỏ rõ đạo
làm người” [28, tr.281]. Giáo dục con người lấy nội dung cơ bản là “đạo”.
Khi bàn đến đạo làm người, Nho giáo luôn gắn liền mối quan hệ giữa
con người với con người. Khổng - Mạnh cho rằng, vũ trụ có trời làm chủ, đất
nước có vua làm chủ, mọi quan hệ xã hội đều bị ràng buộc bằng những quan
hệ, chuẩn mực, quy phạm đạo đức nhất định. Đạo làm người cũng chính là
thực hiện các quan hệ ấy. Theo hai ông, xây dựng một xã hội phải dựa trên
mô hình gia đình mà trong đó thể hiện sự ràng buộc giữa con người với nhau.
Tu thân chính là tu “đạo” mà cái đạo đó thể hiện trong “ngũ luân”. Điều kiện
để đạt “đạo” là “chính danh”. Thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm bổn phận
tương ứng với nó, danh mới chính. Giáo dục con người hữu đạo chính là dạy
cho con người biết sống một cách “chính danh”. Việc xác định bổn phận của
con người dựa trên các quan hệ xã hội trong tư tưởng hai ông cũng bị chi phối
bởi xu hướng chính trị và những tác động của lịch sử, của thời đại.
Trong gia đình, đạo hiếu là gốc cơ bản nhất của con người, bởi ai sinh
ra mà không có cha mẹ. Tình cảm của cha mẹ có tính tự nhiên huyết thống,
mạnh như những nhu cầu bản năng. Theo nho giáo, người biết hiếu thảo với
cha mẹ thì sẽ không trái ngược với các bậc bề trên. Từ đó Khổng tử cho rằng,
dạy con người “biết giữ gìn nết hiếu là biết nắm cái gốc đó”. Khổng tử và
Mạnh tử nói nhiều về đạo hiếu. Với các ông, đạo hiếu không chỉ thể hiện vai
trò của nó trong gia đình mà còn trong xã hội. Vì vậy, giáo dục đạo hiếu sẽ
hạn chế được những tệ nạn trong xã hội, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Theo Mạnh Tử, dạy hiếu là dạy cho con người không làm điều bất hiếu:
“Thế tục bảo bất hiếu có năm điều. Lười chân tay chẳng dám đoái hoài nuôi
cha mẹ là một điều bất hiếu. Tham của cải để riêng cho vợ con, chẳng đoái
hoài sự nuôi cha mẹ là hai điều bất hiếu. Đánh bạc, đánh cờ, thích uống rượu
chẳng nuối cha mẹ là ba điều bất hiếu. Theo sự ham muốn của tai mắt mình

làm hổ nhục cha mẹ là bốn điều bất hiếu. Thích manh tợn, đánh nhau càn rỡ
để nguy hiểm đến cha mẹ là năm điều bất hiếu”. [28, tr.51].
23
23


Theo Nho giáo, trong gia đình quan trọng nhất là đạo hiếu, ngoài xã hội
quan trọng nhất là đạo trung. Kẻ hiếu thảo trong gia đình thì ít ai trái với đạo
“trung”, “hiếu” là cơ sở của đạo “trung”. Dạy đạo làm người thì điều cơ bản
là con người phải có đức hiếu; đức trung. Cho nên sách Đại học viết: “hiếu là
để thờ vua”. [17,tr.109]. Khổng tử nói nhiều về đạo “trung”. Và theo ông,
điều căn bản của đạo trung - đạo làm bề tôi là phải đem tài, đức của mình ra
giúp vua hoàn thành nghiệp lớn, không kể đến tước lộc, danh dự. Làm tôi
phải biết vì vua mà hết lòng can gián, giúp vua theo lẽ phải.
Triết lý tu thân của Nho giáo, mục đích cuối cùng là tu “đạo” để hành sự tề
gia rồi trị quốc. Nếu giáo dục đạo “hiếu” là giáo dục trách nhiệm cá nhân đối với
gia đình, thì giáo dục đạo “trung” là giáo dục trách nhiệm cá nhân đối với xã tắc,
nhà vua. Đạo hiếu và đạo trung là hai chuẩn mực, phẩm chất chính trị cơ bản của
con người mà mỗi người phải tu thân, phải đạt được. Tuy nhiên ở Nho giáo, dạy
đạo làm người là còn phải dạy con người biết thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm
của mình trong từng mối quan hệ xã hội vốn có. Mạnh Tử nói: “Dạy dân đạo làm
người, cha con phải thương yêu nhau, vợ chồng phải kính nể nhau, nhớn bé phải
có thứ bậc, bạn bè phải có chữ tín với nhau” [28, tr.62].
Trong triết lý tu thân, phạm trù “đức” luôn được các nhà Nho quan tâm,
rằng tu thân là để đạt đức. Theo tư tưởng Khổng - Mạnh, đức là cái sở đắc do
hành đạo mà ra. Bởi vậy, đạo gắn liền với đức. Ông coi đức “nhân” là đức
quan trọng nhất, tiếp đến đức “nghĩa”. Đức cũng là nội dung căn bản của sự
học. Như vậy, đức là cái thiện, phẩm chất đẹp, tính cách đẹp mà con người
cần có, là biểu hiện của nhân tính trong thực tế, mà con người cần phải tu
dưỡng để đạt tới. Hai ông cho rằng “đạo”gắn liền với “đức”, vì vậy, có thể nói

đạo làm người có nội dung cơ bản là dựa vào quan hệ “ngũ luân”, đức là sự
khái quát cái giá trị cơ bản của con người gọi là “ngũ thường”. Vì vậy, tu thân
chính là đạt được cái luân thường, đạo đức ấy.
Trong sách Luận ngữ, Khổng tử nói nhiều về đức “nhân” với nội dung
khác nhau. Đức “nhân” là đức cơ bản, vì nó chứa trong đó nhiều nội dung lớn
24

24


và gồm các đức khác nhau. Như vậy, nhân là trung tâm của đạo đức, từ đó mà
phát ra các đức khác và các đức khác tụ hết ở nó. Tu thân là đạt đến điều
“nhân” là vậy.
Khi bàn về “đức”, Mạnh tử đã mở rộng giá trị của “đức”. Từ đức nhân
ông mở rộng ra đức nghĩa. Mạnh tử khái quát nó thành một giá trị riêng trong
“tứ đoan”, "tứ đức", “hợp thành tính thiện”. “Nghĩa” được hiểu là đúng với lẽ
phải, hợp với đạo mà thôi. Làm việc gì mà đúng với đạo, hợp với nghĩa đều
phải gọi bằng nhân nghĩa, nên nhân nghĩa là đức lớn của con người là vậy.
Theo Tuân Tử bản tính con người là “ác” do hám lợi và dục vọng,
nhưng vẫn có thể giáo hoá được thông qua hình phạt và sự tu thân, tu dưỡng
đạo đức. Tuân tử luôn khuyên người ta phải tích tụ và thực hiện điều tốt, lẽ
phải. Theo ông, con người cho dù bản thân có cực nhọc nhưng tâm yên ổn, dù
làm việc có khó nhọc nhưng được đạo nghĩa thì cần làm. Yêu cầu của Tuân tử
đối với mỗi người là, cái gì gian khổ khó nhọc thì làm trước, sung sướng thì
hưởng sau, hoặc phải biết nhường nhịn. Mỗi người nên trung thực, giữ chữ
tín, và bản thân phải biết lao động lo liệu công việc thì sẽ thành công. Qua tìm
hiểu những luận điểm này của Tuân tử ta thấy, trong quan niệm của ông có
những điểm tiến bộ sát thực với yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội đặt ra.
Tăng tử, học trò của Khổng tử cũng đề cao sự quan trọng của “đức”.
Ông cho rằng: “Đức là gốc, của là ngọn” (Đức giả bản giả, tài giả mạt giả)

[17, tr.120]. Đặc biệt đề cao đức của người quân tử, vì theo ông, những người
quân tử mới mang đức của mình để toả sáng trong thiên hạ. Theo ông, người
quân tử phải thận trọng về đức, vì có đức là có tất cả: “Có đức là có người, có
người là có đất, có đất là có của, có của là có dùng”. (Hữu đức thử hữu nhân,
hữu nhân thử hữu thổ, hữu thổ thử hữu tài, hữu tài thử hữu dụng) [17, tr.119].
Như vậy là, giống như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử và Tăng Tử đã
nhận thấy vai trò của đức là vô cùng to lớn. Khổng Tử đã nhiều lần nói về vai
trò đó khi nói về vua Nghiêu, vua Thuấn. Ông ca ngợi: “Thuấn thật là bậc đại
hiếu thay! Đức là thánh nhân, ngôi cao thiên tử, giàu có cả bốn biển, hưởng
25

25


×