Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Mối quan hệ tương tác giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế như thế nào thông qua thực trạng của việt nam hiện nay. giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế ra sao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.92 KB, 39 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

Để tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững thì một trong những
điều kiện cực kỳ quan trong đồi với mọi quốc gia là phải mở rộng đầu tư. Người ta hay
nói đến một trong những nguyên nhân chính làm cho kinh tế của năm con rồng Châu Á
tăng trưởng nhanh trong một thời gian dài là do vốn đầu tư phát triển tăng liên tục và
thường chiếm khoảng 30% trong GDP.
Về mặt lý luận,hầu hết các tư tưởng,mô hình và lý thuyêt về tăng trưởng kinh tế đều
trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích luỹ vốn cho đầu tư là một nhân tố
quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất,cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Từ các
nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “Của cải của các dân tộc” đã cho
rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữu dụng và hiệu quả .Việc
gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc
gia và sản lượng bình quân mỗi lao động.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong tiến trình đổi
mới mở cửa nền kinh tế nước ta thời gian qua. Vậy mối quan hệ tương tác giữa đầu tư và
tăng trưởng kinh tế như thế nào thông qua thực trạng của Viêt Nam hiện nay? Giải pháp
để nâng cao hiệu quả đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế ra sao? Bài viết này của
nhóm nghiên cứu sẽ giải đáp những vấn đề đó.

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

2


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU


1.1 Tổng quan nghiên cứu
Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đang được các
cấp, các ngành đặc biệt chú ý. Trên bình diện mỗi quốc gia nó còn là những chỉ tiêu phản
ánh lợi thế của quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh tranh về kinh tế cũng như thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.
Trong các nhân tố: lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ,… vốn là yếu
tố vật chất đầu vào quan trọng, có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Nó là toàn
bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế, bao gồm: máy móc, nhà xưởng
và các trang thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Vai trò
của vốn đối với tăng trưởng kinh tế được các nhà kinh tế trường phái Keynes đánh giá
rất cao.
Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn lại là một yếu tố
vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Tăng quy mô và sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư là một chìa khóa then chốt để tăng năng suất nhân tố tổng hợp,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa, qua đó nâng cao
chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Yếu tố vốn có vai trò quan trọng như vậy nên việc kiểm tra, đánh giá vấn đề sử
dụng vốn là vô cùng cần thiết. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cũng là yêu
cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc để tăng trưởng kinh tế. Đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử
dụng vốn nói riêng..
Đầu tư là một hoạt động mang lại tính chất dài hạn và liên quan đến nhiều mặt hoạt
động. Trong từng giai đoạn của toàn bộ quá trình đầu tư, các mặt hoạt động này sẽ tác
động đến hiệu quả vốn đầu tư theo những mức độ khác nhau. Để đánh giá hiệu quả vốn
đầu tư ở tầm vĩ mô cần phải có nhiều chỉ tiêu nhằm đo lường hiệu quả từng mặt hoạt
động này sẽ tác động đến hiệu quả vốn đầu tư theo những mức độ khác nhau. Và một
trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đó là chỉ số ICOR
(Incremental Capital Output Ratio – Tỷ số vốn/sản lượng tăng thêm).
3



1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm tìm hiểu về chỉ số ICOR cũng như ưu - nhược điểm của
chỉ số ICOR trong việc đánh giá mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế; đồng
thời liên hệ thực tiễn tới Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau :
- Khái quát về chỉ số ICOR;
- Ưu, nhược điểm của chỉ số ICOR trong việc đánh giá mối quan hệ giữa đầu tư và tăng
trưởng kinh tế;
- Liên hệ thực tiễn về chỉ số ICOR tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015;
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ số ICOR và ưu-nhược điểm của hệ số này trong việc đánh
giá mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Liên hệ thực tiễn nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Qua mỗi thời kỳ kinh tế, có rất nhiều sự biến động về cả kinh tế, xã hội, chính sách,
…cả ở trong nước và quốc tế. Do đó, việc liên hệ thực tế nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn gần nhất với thời gian nghiên cứu là điều cần thiết để có thể đảm bảo tính khoa học,
cập nhật của đề tài; đồng thời có thể đưa ra những giải pháp phù hợp và khả thi nhất với
thực trạng hiện tại của nền kinh tế.
Như vậy giai đoạn 5 năm 2011-2015 là khoảng thời gian thích hợp nhất để nhóm
nghiên cứu thực tiễn và đưa ra các kết luận xác thực nhất.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp thu thập dữ liệu: các số liệu thống kê,
báo cáo về vốn đầu tư, GDP và chỉ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 cùng với
các thông tin liên quan đến thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở 3 khu vực kinh tế: Khu vực
nhà nước, Khu vực ngoài nhà nước và Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

4



CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan về đầu tư

Đầu tư là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một khoảng thời gian xác
định nhằm đạt được kết quả hoặc một tập hợp các mục tiêu xác định trong điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định.
Đặc trưng của đầu tư:
- Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước
hết là quyết định tài chính. Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình
thức khác nhau nhưng vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định
đầu tư thường được xem xét trên phương diện tài chính (khả năng sinh lời, tổn phí, có
khả năng thu hồi được hay không…).
- Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài. Khác với các hoạt động
thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác, đầu tư luôn là hoạt động có tính chất
lâu dài. Do đó, mọi sự trù liệu đều là dự tính và chịu một xác suất biến đổi nhất định do
nhiều nhân tố biến đổi tác động. Chính điều này là một trong những vấn đề then chốt phải
tính đến trong nội dung phân tích, đánh giá của quá trình thẩm định dự án.
- Hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa
lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai. Đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy
sinh lợi ích hiện tại để đánh đổi lấy lợi ích trong tương lai. Vì vậy, luôn có sự so sánh cân
nhắc giữa hai loại lợi ích này và nhà đầu tư chỉ chấp nhận trong điều kiện lợi ích thu được
trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện này họ phải hy sinh - đó là chi phí cơ hội của nhà đầu
tư.
- Hoạt động đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro. Các đặc trưng nói trên đã cho ta thấy
đầu tư là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro do chịu xác suất nhất định của yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội, tài nguyên thiên nhiên…
5



2.2 Tổng quan về vốn đầu tư

Vốn đầu tư là nguồn lực tích luỹ được cuả xã hội, cơ sở sản xất kinh doanh dịch vụ,
tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới các dạng tiền tệ các loại
hoặc hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình và hàng hoá đặc biệt khác.
Nguồn vốn đầu tư là các kênh tập trung và phân phối cho vốn đầu tư phát triển đáp
ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
Nguồn vốn đầu tư bao gồm: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài

-

Nguồn vốn trong nước:
Nguồn vốn nhà nước: bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh

-

nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân: bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ

của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
• Nguồn vốn nước ngoài:
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu
chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn
quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế
giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các
nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn
này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực
hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân
thành các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:

-

Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance): bao gồm
Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance) và các hình

-

thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
6


2.3 Tổng quan về tăng trưởng kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế: Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở rộng quy

mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định
-

nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng.
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản

-

lượng nền kinh tế của thời kì sau so với thời kì trước
Các đại lượng đo lường sự tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự tăng lên về sản lượng hằng năm do nền

kinh tế tạo ra. Do vậy thước đo của sự tăng trưởng là các đại lượng sau: Tổng sản phẩm

trong nước (GDP); tổng sản phẩm quốc dân (GNP); sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP);
thu nhập quốc dân sản xuất (NI) và thu nhập quốc dân sử dụng (NDI).
Trong số đó, đại lượng được sử dụng phổ biến hơn cả là : Tổng sản phẩm trong
nước (Tổng sản phẩm quốc nội - GDP). GDP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ mới
được tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Đại
lượng này thường được tiếp cận theo các cách khác nhau:


Về phương diện sản xuất:
GDP = Giá trị sản xuất – chi phí trung gian + thuế nhập khẩu



Về phương diện tiêu dùng :
GDP = C + I + G + (X - M)

Trong đó: C: Tiêu dùng các hộ gia đình
G: Các khoản chi tiêu của chính phủ
I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp
(X - M): Xuất khẩu ròng trong năm

7


2.4 Tổng quan về hệ số ICOR
2.4.1. Khái niệm
Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư (mô hình Harrod Domar). Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác định
theo công thức:

2.4.2. Công thức

Cách 1: Phương pháp tính số tuyệt đối

Trong đó: V(t) : Vốn đầu tư năm t
G(t) : GDP năm t
G(t-1): GDP năm t-1
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này mang ý nghĩa số đơn vị đầu tư tăng thêm để
tăng 1 đơn vị GDP. Cách tính này có hạn chế là chưa tính đến độ trễ trong đầu tư, khi mà
đầu tư trong năm nay nhưng mà kết quả đầu tư lại có được vào những năm sau đó chứ
không trong cùng kì.
Cách 2: Phương pháp tính số tương đối
Hệ số ICOR thể hiện mối quan hệ giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng
sản lượng. Theo cách tính thứ 2 này thì hệ số ICOR có nghĩa phần trăm của đầu tư tăng
them để tăng 1% GDP

Trong đó: V(t): Vốn đầu tư năm t
G(t): GDP năm t
Tốc độ tăng GDP = [G(t)-G(t-1)] / G(t)
8


Trong trường hợp hệ cố ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vốn
đầu tư.
Cách 3: Phương pháp tính của ngân hàng thế giới

Trong đó: V(t-1) : Vốn đầu tư năm t-1
G(t) : GDP năm t
G(t-1) : GDP năm t-1
Cách tính này của ngân hàng thế giới tương tự cách tính theo phương pháp số tuyệt
đối, tuy nhiên, có tính đến độ trễ của đầu tư. Ở đây, độ trễ của đầu tư được cho là 1 năm,
nghĩa là đầu tư năm trước sẽ cho lại hiệu quả năm sau.

Tuy nhiên, dù có tính đến độ trễ của đầu tư, nhưng thật sự cách tính này vẫn không
hoàn toàn chính xác, khi có những dự án trung và dài hạn, thời gian dự án không giống
nhau, không hoàn toàn là chỉ 1 năm. Vậy nên, để tính ICOR, ta thường tính trong 1 giai
đoạn thì sẽ có kết quả chính xác nhất.
Công thức tính hệ số ICOR cho nhiều năm:

2.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố; trong số
đó có ba yếu tố có tác động lớn đến ICOR của nền kinh tế.
Thứ nhất, sự thay đổi cơ cấu đầu tư ngành dẫn đến thay đổi ICOR từng ngành, do
đó tác động đến hệ số ICOR chung.
Thứ hai, sự tiến bộ về khoa học công nghệ đến đến hai chiều hướng tác động trái
ngược nhau.

9


Cụ thể, khi khoa học công nghệ phát triển đòi hỏi phải gia tăng về lượng vốn là
nhân tố tăng ICOR. Mặt khác, khoa học công nghệ phát triển, sẽ tạo ra nhiều ngành mới,
công nghệ mới, làm máy móc hoạt động hiệu quả hơn, nâng cao năng suất, tăng kết quả
đầu tư, làm giảm hệ số ICOR. Vì vậy, chiều hướng nào mạnh hơn sẽ quyết định tới sự
thay đổi ICOR.
Thứ ba, sự thay đổi cơ chế chính sách, quản lý hợp lý hơn có nghĩa việc sử dụng
nguồn vốn sẽ hiệu quả hơn góp phần làm giảm ICOR và ngược lại.
2.4.4. Ý nghĩa
Ý nghĩa của ICOR là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần tăng
thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, ICOR là “giá” phải trả thêm cho
việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết
quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất
của công nghệ sản xuất; ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước

đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên tức là khi kinh
tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn
lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường sản lượng thực tế gần
tiệm cận với đường sản lượng tiềm năng. Điều này được giải thích bằng quy luật lợi ích
cận biên giảm dần theo quy mô.
2.5 Ưu - nhược điểm của hệ số ICOR trong việc đánh giá mối quan hệ giữa đầu tư
và tăng trưởng kinh tế
2.5.1Ưu điểm



ICOR phản ánh số lượng vốn cần thiết để gia tăng được một đơn vị sản lượng.
ICOR là chỉ tiêu quan trọng để dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc dự báo quy mô



vốn đầu tư cần thiết để đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất định trong tương lai.
ICOR phản ánh trình độ của công nghệ sản xuất. Công nghệ cần nhiều vốn thì hệ số
ICOR cao. Công nghệ cần ít vốn, nhiều lao động thì hệ số ICOR thấp.

10




Trong những trường hợp nhất định, hệ số ICOR được xem là một trong những chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả đầu tư. ICOR giảm cho thấy: để tạo ra một đơn vị GDP tăng thêm nền
kinh tế chỉ phải bỏ ra một số lượng vốn đầu tư ít hơn, nếu các điều kiện khác ít thay đổi.
So sánh giữa các thời kì, nếu hệ số ICOR cao hơn chứng tỏ thời kì đó đã sử dụng vốn
kém hơn. Tuy nhiên cách so sánh này thường xuyên vi phạm các giả thiết bởi vì giữa các

thời kì dài khác nhau thì sự thay đổi công nghệ hay tỷ lệ kết hợp giữa vốn và lao động ít
khi giống nhau. So sánh giữa các nền kinh tế cho thấy, xu hướng những nền kinh tế phát
triển, sử dụng công nghệ cao thì cần nhiều vốn hơn nên ICOR thường cao.
2.5.2. Nhược điểm



Hệ số ICOR mới chỉ phản ánh ảnh hưởng của yếu tố vốn đầu tư mà chưa tính đến ảnh
hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm. Đầu tư ở đây chỉ là
đầu tư tài sản hữu hình, còn đầu tư tài sản vô hình, tài sản tài chính không được tính đến,
nên chưa phản ánh trung thực ảnh hưởng của đầu tư tới thu nhập quốc dân. ICOR cũng

bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên xã hội, cơ chế, chính sách.
− Hệ số ICOR không tính đến yếu tố độ trễ thời gian của kết quả và chi phí (tử số và mẫu



số của công thức), vấn đề tái đầu tư…
Là một chỉ số đã được đơn giản hóa nên khó đánh giá các hiệu quả kinh tế-xã hội.
Chỉ số này không biểu hiện được rõ ràng trình độ kỹ thuật của phía sản xuất, vì ICOR là
tỷ lệ đầu tư/sản lượng gia tăng. Chẳng hạn một bên có kỹ thuật sản xuất kém hơn, với
một lượng đầu tư tương đối cũng có thể cải thiện chỉ số ICOR xấp xỉ với bên có trình độ
kỹ thuật cao hơn, do kỹ thuật càng cao thì càng chậm cải tiến.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HỆ SỐ ICOR TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011-2015
3.1 Thực trạng chung tại Việt Nam

Tại Việt Nam, ICOR là một trong những chỉ số quan trọng để đo lường hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư của nền kinh tế.


11


Theo số liệu tính toán từ Tổng cục thống kê, chỉ số ICOR của Việt Nam giai đoạn
2001-2005 đạt 4,88; chuyển sang giai đoạn 2006-2010, ICOR tăng vọt lên mức 6,96 do
có một luồng vốn đầu tư khổng lồ chảy vào trong nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO
năm 2007. Và đến giai đoạn 2011-2014, ICOR đạt ngưỡng 6,92; giảm nhẹ so với giai
đoạn trước.
Như vậy, để tạo thêm một đồng GDP, Việt Nam cần tới 6,92 đồng vốn đầu tư trong
giai đoạn 2011-2014. Đây là một con số rất cao với một quốc gia đang phát triển như
Việt Nam. So sánh với các nước trong khu vực, chỉ số ICOR của Việt Nam cũng cao hơn
nhiều so với các quốc gia khác.
Chỉ số ICOR ở một số quốc gia Đông Nam Á giai đoạn 2011-2014
(Nguồn: World Bank)
ICOR cao một phần là do Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung cho phát triển cơ
sở hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, bảo
đảm an sinh xã hội. Song nguyên nhân chính là do công tác quy hoạch còn nhiều hạn chế;
quyết định đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp và nhiều công trình, dự án đầu tư bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước (bao gồm cả tín dụng nhà nước, trái phiếu chính phủ và vốn đối
ứng ODA) còn để xảy ra thất thoát, lãng phí.
Điều này được thể hiện rất rõ khi chỉ số ICOR có 1 sự chênh lệch lớn giữa các khu
vực kinh tế.
Bảng số liệu chỉ số ICOR chung và của từng khu vực kinh tế
giai đoạn 2011-2014
Năm

Cả nước

Khu vực NN


Khu vực ngoài NN

2011
2012
2013
2014

6,16
6,40
6,21
5,73

10,42
7,46
9,75
11,78

3,78
5,35
4,57
3,73
12

Khu vực có VĐT
nước ngoài
8,53
7,08
5,97
5,6



( Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê)
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy chỉ số ICOR ở khu vực kinh tế nhà nước ở mức
rất cao so với khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Ở
điểm này, ICOR đã phản ánh đúng thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở các khu vực kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, ICOR cũng đã phần nào phản ánh hiệu quả tích cực mang lại từ việc đầu
tư cho phát triển cơ sở hạ tầng và khoa học- kỹ thuật.

Trong giai đoạn hiện nay, việc đầu tư phát triển hạ tầng và khoa học-kỹ thuật ngày
càng được chú trọng cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự chuyển biến tích cực của chỉ số
ICOR. Xét một cách toàn diện, tuy không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh, nhưng nguồn vốn này đã góp phần không nhỏ thúc đẩy quá trình sản xuất, đóng
góp vào tổng sản phẩm quốc dân.
Trong thời gian qua, nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng đường sá
đã mang lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Như việc xây dựng đường cao tốc Hà
Nội - Hải Phòng rút ngắn khoảng cách giữa 2 thành phố đã tiết kiệm đáng kể thời gian và
chi phí vận chuyển, làm tăng thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế; hay đường cao tốc Hà
Nội - Lào Cai góp phần đẩy mạnh phát triển du lịch ở Lào Cai nói riêng và khu vực Tây
Bắc nói chung – một trong những vùng du lịch trọng điểm quốc gia.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông,… cũng góp phần tăng sức hấp dẫn của
Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn FDI.
Nguồn vốn đầu tư phát triển khoa học-kỹ thuật, từ đó đưa khoa học-kỹ thuật vào sản
xuất đã nâng cao năng suất lao động, gia tăng sản lượng, tiết kiệm chi phí, qua đó đóng
góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc dân và nâng cao hiệu quả đầu tư.

13


3.2 Khu vực kinh tế nhà nước


Ở Việt Nam, nguồn vốn đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước là rất lớn, chiếm đến
80% đầu tư công trên cả nước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn vay và vốn của
doanh nghiệp nhà nước, trong đó nguồn vốn NSNN chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Tuy được đầu tư một lượng vốn lớn nhưng cho đến nay, hoạt động đầu tư của khu
vực này còn kém hiệu quả hơn so với các khu vực kinh tế khác.
Dựa vào biểu đồ sự biến động của vốn đầu tư và GDP trong giai đoạn này, có thể
thấy, nhìn chung tỷ trọng vốn đầu tư có xu hướng tăng dần nhưng tỷ trọng đóng góp GDP
của khu vực kinh tế nhà nước lại có xu hướng giảm dần. Trong giai đoạn 2011-2014, vốn
đầu tư khu vực nhà nước chiếm đến khoảng 40% tổng vốn đầu tư nhưng chỉ đóng góp
khoảng 29% GDP, như vậy sự chênh lệch giữa tỷ trọng GDP với tỷ trọng vốn đầu tư lên
tới 11%, đây thực sự là một con số rất đáng suy nghĩ.
Biểu đồ tỷ trọng VĐT và tỷ trọng GDP khu vực nhà nước giai đoạn 2011-2014
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Do đó, chỉ số ICOR - chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư ở khu vực này rất cao, cao
nhất trong ba khu vực kinh tế. Và đáng buồn hơn, nó đang có xu hướng tiếp tục tăng: Từ
năm 2012 đến năm 2014, ICOR đã tăng 4,32 và đến thời điểm năm 2014, chỉ số ICOR
lên tới 11,78; tức là để tạo thêm 1 đồng GDP, khu vực này cần tới 11,78 đồng vốn đầu tư.

Biểu đồ chỉ số ICOR khu vực nhà nước giai đoạn 2011-2014
14


(Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê)
Chỉ số ICOR cao đã phần nào cho thấy việc sử dụng vốn đầu tư ở khu vực kinh tế
nhà nước là chưa hiệu quả trong khi kinh tế nhà nước luôn được coi là đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào ICOR thì chưa thể hoàn toàn đánh giá được hiệu quả
đầu tư ở khu vực này, vì:
ICOR chưa xem xét đến một yếu tố đặc trưng của hoạt động đầu tư đó là độ trễ về

thời gian, cũng như chưa phản ánh hết được hiệu quả kinh tế-xã hội của hoạt động này.
Thứ nhất, các dự án đầu tư của nhà nước thường mất một khoảng thời gian rất dài,
thậm chí có thể kéo dài tới 2-3 năm mới có thể đi vào hoạt động, như các công trình thủy
điện, khai thác khoáng sản, dầu khí,…
Thứ hai, các DNNN bên cạnh mục tiêu chính là lợi nhuận, thì các doanh nghiệp này
còn thực hiện một số mục tiêu “phi lợi nhuận” như góp phần xóa đói giảm nghèo, sản
xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng, các sản phẩm và dịch vụ có lợi nhuận thấp.
Chẳng hạn Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt - doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước lớn
nhất tại Việt Nam. Thông qua việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân
thọ, Bảo Việt vừa huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, vừa mang lại lợi ích
cộng đồng, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Hay ở Tập đoàn điện lực Việt Nam EVN, việc thực hiện kéo điện lưới quốc gia đến
vùng sâu vùng xa thường tốn chi phí rất lớn và doanh thu thu được là không đáng kể
nhưng nó lại có ý nghĩa to lớn, giúp phát triển kinh tế ở các vùng khó khăn và thu hẹp
khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng miền trong cả nước.
Thứ ba, cũng như các khu vực kinh tế khác, hoạt động đầu tư ở khu vực nhà nước
chịu ảnh hưởng bởi yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
15


Chẳng hạn như trong năm 2015, Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam đã phải
hứng chịu hậu quả nặng nề từ trận mưa lũ lịch sử tại Quảng Ninh khi con số thiệt hại lên
tới hàng trăm tỷ đồng, đây cũng là một nguyên nhân khách quan dẫn đến hoạt động đầu
tư trong năm 2015 của tập đoàn kém hiệu quả.
3.3 Khu vực kinh tế ngoài nhà nước

Ở Việt Nam, khu vực kinh tế ngoài nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Thông qua khu vực tư nhân, nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán được tập
hợp và sử dụng cho các dự án đầu tư. Từ đó, tạo ra việc làm cho một lực lượng lao động
xã hội; góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước luôn chiếm một tỷ trọng cao trong
tổng vốn đầu tư phát triển xã hội. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê giai đoạn
2005-2010, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt từ 33% đến 38%.
Trong những năm gần đây, vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ
trọng ngày càng cao, cho thấy vai trò ngày càng quan trọng, tính ổn định và bền vững của
khu vực khu vực này đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Trong thời gian qua, khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã có những đóng góp tích cực
vào tăng trưởng kinh tế. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê giai đoạn 20112014, đóng góp GDP của khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất trong 3
khu vực, chiếm khoảng trên 55%.
Biểu đồ tỷ trọng vốn đầu tư và GDP khu vực kinh tế ngoài nhà nước

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước mặc dù đứng sau khu vực kinh tế
nhà nước, tuy nhiên, mức đóng góp vào GDP của khu vực này lại gấp khoảng 1.9 lần so
với mức đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước. Chính điều này đã dẫn đến hệ số ICOR
16


của khu vực này luôn thấp hơn rất nhiều, thậm chí có những năm chỉ bằng một nửa so với
khu vực nhà nước. Và chỉ số ICOR ở khu vực này cũng đang có những dấu hiệu tích cực
khi nó đang có xu hướng giảm, cho thấy hiệu quả đầu tư đang có xu hướng tăng lên.

Biểu đồ chỉ số ICOR khu vực kinh tế ngoài nhà nước giai đoạn 2011-2014

(Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê)
Chúng ta có thể đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
Thứ nhất, hiện tượng thất thoát và lãng phí vốn do tham nhũng, quan liêu tại khu
vực kinh tế ngoài nhà nước thấp hơn so với khu vực kinh tế nhà nước.
Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân thực hiện đầu tư với kỳ vọng làm tăng giá trị công
ty, doanh nghiệp của chính họ. Vì vậy, các chủ thể này luôn tìm cách để doanh nghiệp,

công ty của họ sử dụng vốn đầu tư hiệu quả, tối ưu hóa các nguồn lực mà họ bỏ ra như:
thực hiện cơ cấu vốn tối ưu, lượng tiền dự trữ tối ưu trong doanh nghiệp…
So sánh hệ số ICOR của khu vực kinh tế ngoài nhà nước với các khu vực khác cho
thấy được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tốt hơn của khu vực này: khoảng 4-5 đồng vốn
đầu tư mà khu vực kinh tế ngoài nhà nước bỏ ra góp phần tạo ra thêm 1 đồng GDP.
Tuy nhiên, hệ số ICOR thấp chưa chắc đã hoàn toàn phản ánh được hiệu quả sử
dụng của vốn đầu tư là tốt.
Bởi lẽ, thứ nhất, hệ số ICOR chỉ phản ánh ảnh hưởng của các yếu tố vốn đầu tư mà
chưa tính đến ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm.
Đầu tư ở đây chỉ là đầu tư tài sản hữu hình, còn đầu tư tài sản vô hình, tài sản tài chính
không được tính đến, nên chưa phản ánh chính xác ảnh hưởng của đầu tư tới thu nhập
17


quốc dân. Trên thực tế, rất nhiều các doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng vốn lớn để
quảng bá hình ảnh, thương hiệu doanh nghiệp… Chính vì vậy, số vốn bỏ ra để có được 1
đồng GDP tăng thêm là nhiều hơn con số 4-5 đồng.
Một ví dụ thực tế, Công ty CP Thế giới di động bên cạnh việc đầu tư cho tài sản cố
định như hàng loạt các điểm bán hàng, họ còn là một trong số những doanh nghiệp Việt
gây dựng được thương hiệu trong lòng khách hàng bằng việc cung cấp các dịch vụ chăm
sóc và hậu mãi khách hàng chất lượng tốt. Bên cạnh đó, doanh nghiệp này từng có giai
đoạn chi ra 7-8 tỷ đồng lợi nhuận bán ứng dụng điện thoại để gia tăng giá trị cho khách
hàng.
Hay công ty CP sữa Vinamilk đầu tư lượng vốn khá lớn cho hoạt động quảng bá
doanh nghiệp. Năm 2015, số tiền chi cho hoạt động quảng cáo của công ty lên đến 1.777
tỷ đồng, bên cạnh đó, công ty còn thực hiện các hoạt động như tư vấn trực tiếp cho các
nông hộ, tổ chức các đợt gọt móng bò cho các hộ dân.. Như vậy, có thể thấy việc xem xét
hiệu quả đầu tư cần căn cứ dựa trên lượng vốn đầu tư cho cả tài sản hữu hình và tài sản
vô hình.
Thứ hai, đặc điểm của đầu tư phát triển đó là quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần

thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn và thời gian vận hành các kết quả đầu
tư thường kéo dài. Chính những đặc điểm này khiến hệ số ICOR có một nhược điểm đó
là độ trễ về thời gian tức tổng sản phẩm trong nước GDP ngày hôm nay có thể là kết quả
của lượng vốn đầu tư bỏ ra từ nhiều năm trước.
Như vậy, có thể thấy rằng, hệ số ICOR chưa phản ánh một cách chính xác hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước nói riêng và toàn bộ nền kinh tế
nói chung. Trên thực tế, khu vực kinh tế ngoài nhà nước là một thành phần đóng vai trò
chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, tuy nhiên cũng không thể phủ nhận
được một thực tế đó là số các doanh nghiệp phá sản và giải thể liên tục tăng, số các doanh
nghiệp hoạt động thua lỗ khá nhiều, điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của các
doanh nghiệp nói riêng và khu vực ngoài nhà nước nói chung là chưa hiệu quả.
18


Biểu đồ thể hiện số lượng DN nội địa giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động
giai đoạn 2011-2015

3.4 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Kể từ khi gia nhập WTO năm 2007, nhờ lợi thế về vị trí địa lý, nền tảng chính trị ổn
định và nguồn lao động giá rẻ, Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu
tư nước ngoài, lượng vốn đầu tư hàng năm chảy vào Việt Nam liên tục tăng qua các năm
và chiếm khoảng 20-25% trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế giai đoạn 2011-2015.
Tuy nhiên, mức đóng góp vào GDP của khu vực này vẫn chưa tương xứng với
nguồn vốn đầu tư đã bỏ ra.
Năm 2011, tuy vốn đầu tư của khu vực FDI chiếm 24% trong tổng vốn đầu tư
nhưng lại chỉ đóng góp 15,4% vào tổng sản phẩm quốc dân. Sự chênh lệch này đang có
xu hướng thu hẹp lại, tuy nhiên cho đến nay, tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực này
vẫn nhỏ hơn rất nhiều so với tỷ trọng vốn đầu tư.
Biểu đồ thể hiện tỷ trọng VĐT và GDP của khu vực kinh tế
có VĐT nước ngoài giai đoạn 2011-2014


(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Trong khi đó, khu vực kinh tế ngoài nhà nước lại có tỷ trọng đóng góp vào GDP cao
hơn cả tỷ trọng vốn đầu tư. Và điều đó tất yếu dẫn đến hệ số ICOR theo tính toán ở khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI cao hơn khu vực ngoài nhà nước.
Một câu hỏi đặt ra là: Có thực sự đúng khi các nhà đầu tư đến từ các nền kinh tế
phát triển hơn nước ta rất nhiều, có trình độ, kinh nghiệm, nguồn lực cao hơn hẳn cộng
với rất nhiều ưu đãi từ chính phủ Việt Nam lại sử dụng vốn kém hiệu quả hơn so với khu
19


vực ngoài nhà nước còn gặp nhiều khó khăn về tiếp cận nguồn vốn, cơ chế chính sách,
…?
Về điểm này, chỉ số ICOR đã bộc lộ những hạn chế của mình; bởi nhìn nhận một
cách khách quan, ICOR chỉ đơn thuần là một con số được tính toán hết sức đơn giản bởi
hai chỉ tiêu là GDP và tổng vốn đầu tư, trong khi mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế là
một mối quan hệ hết sức phức tạp, đa chiều và chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố.
Thưc tế cho thấy, mặc dù đã nhận được rất nhiều ưu đãi về cơ chế chính sách, thuế
quan, đất đai,.. nhưng nhiều doanh nghiệp FDI vẫn tìm cách để chuyển giá, trốn thuế,.. do
đó con số GDP ở khu vực này nhỏ hơn rất nhiều so với thực tế.
Điển hình nhất là Công ty Coca-Cola Việt Nam. Từ khi gia nhập thị trường Việt
Nam năm 1994, cho đến năm 2012, dù liên tục mở rộng mạng lưới kinh doanh nhưng
công ty này vẫn liên tục khai báo lỗ, nguyên nhân chính là do chi phí nguyên vật liệu mà
chủ yếu là hương liệu nhập trực tiếp từ công ty mẹ ở Mỹ rất cao. Năm 2011, chi phí nhập
nguyên vật liệu từ công ty mẹ lên tới 1671 tỷ trong 2329 tỷ doanh thu dẫn đến con số lỗ
lên tới 188 tỷ.
Một trường hợp khác đó là một số doanh nghiệp FDI chế biến trà của Đài Loan,
thay vì chuyển giá bằng cách gia tăng chi phí như Coca-Cola, các doanh nghiệp này lại
chọn cách ghi giảm doanh thu. Thời điểm năm 2013, tại Việt Nam, khi 1 kg trà ô long có
giá 2-3 triệu đồng, thì giá xuất khẩu của các doanh nghiệp này cho công ty mẹ ở Đài

Loan chỉ dưới 4 USD/kg, tức chưa đến 100.000 VND. Điều này tất yếu dẫn đến những
con số báo lỗ triền miên và các doanh nghiệp này đã tiết kiêm được 1 khoản thuế khổng
lồ.
Và tất nhiên không chỉ có các doanh nghiệp kể trên, theo thống kê, tại Việt Nam có
tới 20-30% doanh nghiệp FDI khai báo lỗ liên tiếp trong 2-3 năm, thậm chí 5 năm.

20


Lượng vốn đầu tư liên tục tăng do công ty mẹ rót sang để mở rộng hoạt động kinh
doanh, cùng với việc chuyển giá để trốn thuế, bóp méo giá trị GDP đã dẫn đến hệ số
ICOR theo tính toán ở khu vực FDI cao hơn so với con số thực tế.
Một nhược điểm khác của chỉ số ICOR là nó chưa xét đến một yếu tố đặc trưng của
hoạt động đầu tư là yếu tố độ trễ về thời gian. Phần lớn các dự án đầu tư thường mất tối
thiểu 1-2 năm để dự án có thể đi vào hoạt động. Do đó, lượng vốn đầu tư bỏ ra ở hiện tại
sẽ mất một khoảng thời gian tương ứng để có thể tạo ra được doanh thu.
Một ví dụ điển hình là công ty Samsung Electronics Việt Nam. Các dự án với con
số đầu tư khổng lồ của Samsung Electronics Việt Nam đã đưa Hàn Quốc trở thành quốc
gia có vốn đầu tư FDI lớn nhất tại Việt Nam.
Năm 2013, Samsung Electronics Việt Nam bắt đầu khởi công xây dựng khu tổ hợp
công nghệ cao Samsung Thái Nguyên với vốn đầu tư lên tới 2 tỷ USD, đưa Samsung
Thái Nguyên trở thành nhà máy sản xuất điện thoại di động lớn nhất thế giới của
Samsung.
Và cho đến năm 2014, sau hơn 1 năm xây dựng, Samsung Thái Nguyên đã đạt
doanh thu lên tới 7,8 tỷ USD, đóng góp 5,2% vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và
0,13% vào GDP.
Ngoài việc đóng góp trực tiếp vào GDP, dự án khu tổ hợp công nghệ cao Samsung
Thái Nguyên đã tạo công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, ngoài ra còn giúp
phát triển các ngành kinh tế phụ trợ. Việc đổ một lượng vốn đầu tư khổng lồ của
Samsung theo thời gian đã đưa Thái Nguyên dần trở thành một trung tâm công nghiệp

mới, thu hút đầu tư, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng GDP và phát triển kinh tế của tỉnh.
Đây chỉ là một trong rất nhiều ví dụ về những dự án như vậy ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm gần đây, nhờ sự siết chặt quản lý và cấp phép các dự án FDI của nhà
nước và nhiều dự án FDI có vốn đầu tư lớn bắt đầu đi vào hoạt động, chỉ số ICOR ở khu

21


vực này đang có những chuyển biến tích cực khi chỉ số ICOR đang có xu hướng giảm,
cho thấy hiệu quả đầu tư ở khu vực này đang có xu hướng tăng lên.

Biểu đồ chỉ số ICOR khu vực kinh tế có VĐT nước ngoài giai đoạn 2011-2014

(Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê)
Một nhược điểm nữa của ICOR là chưa phản ánh được hết các tác động kinh tế-xã
hội của đầu tư ở các doanh nghiệp FDI.
Một trong số những tác động đó là môi trường. Theo thống kê về việc thực thi quy
định về môi trường của các doanh nghiệp FDI, 45% chưa áp dụng quy trình sản xuất ít
phát thải, 69% không thực hiện quá trình giảm phát thải nếu đó không phải là quy định
bắt buộc và trên thực tế, con số này có thể còn lớn hơn rất nhiều. Việc các doanh nghiệp
FDI không tuân thủ các quy định, xả thải trực tiếp ra môi trường đã làm ô nhiễm trầm
trọng nguồn đất và nguồn nước, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sinh hoạt và hoạt động
sản xuất nông nghiệp của người dân.
Dẫn chứng gần đây nhất là vụ việc công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp
Formosa Hà Tĩnh, một doanh nghiệp FDI đến từ Đài Loan đã sử dụng khoảng 300 tấn
hóa chất cực độc để sục rửa đường ống xả thải trái phép chôn dưới đáy biển; kết quả đã
khiến hơn 80 tấn hải sản chết dọc bờ biển miền Trung, lan rộng từ Hà Tĩnh tới Thừa
Thiên Huế, gây ra thiệt hại hàng trăm tỷ đồng cho hàng nghìn ngư dân và cũng tác động
không nhỏ tới ngành du lịch ven biển miền Trung.
Ngoài ra, sự phát triển ngày một lớn mạnh của các doanh nghiệp FDI cũng là một

mối đe dọa lớn với các doanh nghiệp nội địa. Trước sức ép cạnh tranh, nhiều doanh
nghiệp nội địa đã phải tuyên bố giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động hoặc bị thâu tóm.
22


Như vậy, sự phát triển của các doanh nghiệp FDI đã đóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên nó cũng có thể là “con dao hai lưỡi” giết chết các doanh nghiệp
nội địa. Do đó, các doanh nghiệp FDI đóng góp GDP cho nền kinh tế nhưng đồng thời
cũng góp phần làm giảm lượng đóng góp GDP của nhiều doanh nghiệp nội địa cùng
ngành, qua đó tác động đến chỉ số ICOR của các khu vực kinh tế khác.
Kết luận:
Như vậy, bên cạnh những ưu điểm của mình, chỉ số ICOR còn bộc lộ rất nhiều mặt
hạn chế. Để có thể đánh giá chính xác và khách quan hiệu quả đầu tư, cần xem xét thêm
các chỉ tiêu đo lường khác nữa, như chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp TFP – chỉ tiêu đo
lường năng suất của đồng thời cả lao động và vốn. Do bên cạnh vốn, lao động cũng là
một nhân tố quan trọng tác động tới hiệu quả đầu tư.

23


CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
CHO MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
4.1 Giải pháp chung cho nền kinh tế Việt Nam
Chỉ số ICOR của Việt Nam hiện nay còn ở mức cao so với các quốc gia khác, điều
này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta thấp hơn rất nhiều ngay cả với các
quốc gia trong khu vực, thậm chí còn thấp hơn cả Lào.
Có rất nhiều cách để lý giải cho thực trạng trên.
Một là, phần lớn hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là các mặt hàng thô: nguyên liệu
thô, nông sản thô hay chỉ qua sơ chế,… ; sản phẩm của các ngành công nghiệp đang chủ
yếu dựa vào gia công cho nước ngoài như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, nhựa… có giá

trị gia tăng thấp,.
Hai là, hiện nay ở nước ta quy định sử dụng 2% tổng ngân sách cho hoạt động
nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhưng trong thực tế con số này chỉ đạt 1%, (chiếm
0,2% GDP). Đây là một tỷ lệ rất thấp và bất hợp lý so với tỷ lệ 2,5-3% ở các nước công
nghiệp phát triển. Phần lớn các doanh nghiệp chỉ chú trọng đầu tư để mở rộng về quy mô
mà chưa quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ, do đó trong khi các nước khác không
ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của thị trường, công nghệ của Việt Nam đang ngày càng lạc hậu, đi kèm với đó là
sức cạnh tranh của hàng hóa ngày càng sụt giảm.
Ba là, việc chọn và quyết định dự án đầu tư còn nhiều hạn chế.
Trong liên doanh liên kết đầu tư, phần góp vốn đầu tư của Việt Nam thường tính
bằng giá trị đất đai, nhà xưởng và thực tế ở nước ta giá đất quá đắt và thay đổi rất nhanh.
Hoặc trong đầu tư xây dựng cơ bản thì chi phí cho giải phóng mặt bằng chiếm một phần
rất lớn và chi phí này cũng tăng lên theo giá đất đai ... do vậy cũng gây khó khăn cho việc
xác định giá trị đầu tư.

24


Ngoài ra, việc đầu tư ồ ạt, tràn lan mà chưa nghiên cứu thị trường, thẩm định dự án
đầu tư trên thực tế đã đưa nhiều doanh nghiệp đến bờ vực phá sản, hoặc hiệu quả đầu tư
rất thấp.
Như vậy, giải pháp chung để cải thiện chỉ số ICOR ở Việt Nam là:
Đẩy mạnh đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tích cực chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ nền sản xuất gia công sang nền sản xuất áp dụng công nghệ cao, sử
dụng nhiều hàm lượng kỹ thuật, tạo ra nhiều giá trị gia tăng như phát triển các ngành
công nghiệp hóa dầu, điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm, dược phẩm,….
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền
kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế và
từng đơn vị kinh tế. Việc đầu tư vào đâu, đầu tư bao nhiêu và đầu tư vào thời điểm nào để

đạt được hiệu qủa kinh tế cao là những vấn đề mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà
hoạch định chính sách, xây dựng dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ.
Ngoài những giải pháp trên, mỗi khu vực kinh tế với đặc thù khác nhau cần có
những giải pháp riêng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở từng khu vực này.
4.2 Khu vực kinh tế nhà nước
Ở khu vực kinh tế nhà nước, hiệu quả đầu tư chưa cao là do nhiều nguyên nhân:
Một là, đầu tư của khu vực Nhà nước không có hiệu quả kinh tế thuần túy cao như
đầu tư của khu vực tư nhân, bởi vì trong nhiều trường hợp mục đích của đầu tư không
phải nhằm vào lợi nhuận và hiệu quả kinh tế mà còn hướng tới các mục tiêu xã hội.
Hai là, Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung cho phát triển hạ tầng, bao gồm cả
hạ tầng vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội,
công tác quy hoạch còn nhiều hạn chế; quyết định đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp, còn xảy
ra tình trạng thất thoát, lãng phí vốn.
Ba là, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất cũng chính là
nguyên nhân dẫn đến đầu tư chưa hiệu quả nói chung. Bởi lẽ, với doanh nghiệp tư nhân
25


×