Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến thị trường tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.09 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
NGHIÊN CỨU CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh Doanh Quốc Tế
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội, 16 tháng 12 năm 2016


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ
mạnh và diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với cả
quốc gia công nghiệp phát triển lẫn các nước đang phát triển. Bên cạnh
khủng hoảng tài chính, ngày nay người ta còn đề cập nhiều và nghiên cứu
một cách nghiêm túc hơn một loại khủng hoảng mới “Khủng hoảng nợ
công”. Tình trạng nợ công gia tăng liên tục ở cả các nước phát triển vượt quá
sự tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) gây ra tình trạng mất kiểm soát trong
khả năng chi trả của quốc gia. Điển hình là cuộc khủng hoảng nợ công ở
châu Mỹ Latinh và gần đây nhất là một số nước trong khu vực EU như Hy
Lạp và Ireland. Chính điều đó đã đánh lên hồi trống báo động cho các nước
trên toàn thế giới phải suy nghĩ chín chắn về tình trạng nợ công của chính
quốc gia mình. Chính vì vậy, nghiên cứu “khủng hoảng nợ công và tác động
của nó đến thị trường tài chính tiền tệ” là việc làm hết sức cần thiết và cấp
bách hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực và trên toàn thế


giới.

3


I.

Một số khái niệm và vấn đề liên quan đến nợ công
1. Những Khái Niệm

a) Nợ công
Nợ công là một vấn đề phức tạp và có nhiều cách định nghĩa khác
nhau .

Theo Wikipedia
Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị
các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi
vay.
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên
nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm
nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem
khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ
nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10
năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).

Theo IMF

Nợ công là nghĩa vụ trả nợ của khu vực công. Khu vực công bao
gồm khu vực chính phủ và khu vực các tổ chức công. Trong đó:
Khu vực chính phủ gồm các chính phủ trung ương, chính quyền liên
bang, chính quyền địa phương.
Khu vực các tổ chức công gồm các tổ chức công tài chính và phi tài
chính

Theo WB
Nợ công được hiểu toàn bộ những khoản nợ của chính phủ và những
khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó:
Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài
của chính phủ và các đại lí của chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ
chức chính trị trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các
doanh nghiệp nhà nước.
Nợ của chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước
ngoài của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh.

Theo Việt Nam

4


Theo luật quản lí nợ công của Việt Nam được ban hành năm 2009 thì
nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính
quyền địa phương.
Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước, nhân danh chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài Chính ký kết, phát hành, ủy quyền
phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm các

khoản nợ do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ trong từng thời kì.
Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế trong và ngoài nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương phát hành, kí kết hoặc ủy quyền phát hành.
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản nợ
công là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung
ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các hoạt động kinh tế và bù
đắp sự thiếu hụt ngân sách.
b) Khủng hoảng nợ công
Thuật ngữ khủng hoảng nợ công là thuật ngữ được sử dụng khá phổ
biến trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Có rất nhiều các nghiên cứu, các học
thuyết đưa ra nhằm tìm hiểu quá trình hình thành của một cuộc khủng hoảng
nợ công cũng như cách thức dự báo và ngăn chặn nó. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về khủng hoảng nợ công.
Theo IMF, khủng hoảng nợ là việc một quốc gia không có khả năng
chi trả các khoản nợ của mình hay bị vỡ nợ. Tuy nhiên định nghĩa này chỉ
đúng trong những năm 1980, thời kì mà nhiều quốc gia không thể thanh toán
được các khoản vay ngân hàng của họ. Đến những năm 1990, khi mà thị
trường trái phiếu chính phủ nổi lên thì định nghĩa này không còn hoàn toàn
chính xác.
Dựa trên nhiều nghiên cứu của IMF, hai nhà kinh tế Andrea Pescatory
và Amadou N.R.Sy đã tổng hợp ra các hình thức chủ yếu của khủng hoảng
nợ. Khủng hoảng nợ xảy ra khi :
Một quốc gia vỡ nợ . Định nghĩa này được các tổ chức tín dụng tập
trung xây dựng dựa vào khả năng không chi trả được nợ với các dấu hiệu
như: Có sự chậm trễ trong việc thanh toán lãi hoặc gốc, ngay cả khi việc
thanh toán chậm được thanh toán trong thời gian ân hạn, không có khả năng
chi trả khi việc thanh toán nợ hàng năm theo lịch trình không được thực hiện


5


vào ngày đáo hạn, hoặc khi đề nghị hoán đổi khoản nợ mới bao hàm những
điều kiện kém thuận lợi hơn so với việc phát hành ban đầu…
Khoản nợ xấu hơn. Có thể là:
Khoản nợ xấu về gốc hoặc lãi về nghĩa vụ bên ngoài đối với các chủ
nợ thương mại (ngân hàng hoặc người nắm giữ trái phiếu) lớn hơn 5% tổng
dư nợ thương mại
Có thỏa thuận gia hạn hoặc cơ cấu lại nợ với các chủ nợ thương mại
được liệt kê trong báo cáo tài chính phát triển của ngân hàng thế giới.
Các khoản vay quy mô lớn từ IMF, một quốc gia đang trải qua khủng
hoảng nợ nếu: Quốc gia đó được xếp vào trường hợp vỡ nợ như trong định
nghĩa của Andrea Pescatory và Amadou N.R.Sy . Hoặc nhận được một
khoản cho vay lớn (có điều kiện) vượt quá 100% hạn mức ấn định trước từ
IMF.
Trong các định nghĩa này thì định nghĩa thứ 3 là định nghĩa được sử
dụng phổ biến nhất trên thế giới. Nhìn chung, khủng hoảng nợ là tình trạng
một quốc gia không thể chi trả được các khoản nợ của mình, phải đề nghị
thương thảo lại về các thỏa thuận vay nợ, hoàn trả gốc và/hoặc lãi và phải
nhận một khoản tài trợ chính thức có quy mô lớn từ IMF
c) Những đặc trưng cơ bản của nợ công
Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước.
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản
nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách
nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới
hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách
nhiệm trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa

phương). Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên
vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra
bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay
vốn nước ngoài).
Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt
chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị
sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an
ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được những mục tiêu của quá trình sử
dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý
nghĩa quan trọng về mặt chính trị và xã hội. Theo quy định của pháp luật
6


Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn
diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để
đảm bảo hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.
Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát
triển kinh tế – xã hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng
không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào,
mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là
thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân
và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên
lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
d) Phân loại nợ công
• Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước; vay nước ngoài
Vay trong nước: Chính phủ vay thông qua phát hành công cụ nợ. Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội thông qua phát

hành, uỷ quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các
nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Vay nước ngoài là khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi
hoặc không phải trả lãi do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức
khác của Việt Nam vay của chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài
chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.


Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa
phương; doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng được
Chính phủ bảo lãnh

Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền
phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản
nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh) ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
7




Phân theo loại hình vay bao gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức
(vay ODA); vay ưu đãi; vay thương mại


Vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA) là khoản vay nhân danh
Nhà nước, Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ
chức tài trợ song phương, tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ
có yếu tố không hoàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với khoản vay
có ràng buộc, 25% đối với khoản vay không ràng buộc.
Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương
mại nhưng thành tố ưu đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
Vay thương mại là khoản vay theo điều kiện thị trường.


Phân theo thời hạn vay bao gồm: vay ngắn hạn; vay trung – dài
hạn
Khoản vay ngắn hạn là khoản vay có kỳ hạn dưới một năm.
Khoản vay trung - dài hạn là khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên.




Phân theo loại lãi suất bao gồm: lãi suất cố định; lãi suất thả nổi
Phân theo chủ nợ và nhóm chủ nợ: chủ nợ chính thức; chủ nợ tư
nhân

Chủ nợ chính thức (bao gồm chủ nợ song phương là các Chính phủ
hoặc cơ quan đại diện cho Chính phủ và các chủ nợ đa phương là các tổ
chức tài chính quốc tế đa phương);
Chủ nợ tư nhân (bao gồm các ngân hàng thương mại; người sở hữu
trái phiếu; các chủ nợ tư nhân khác không thuộc chính phủ hoặc không đại
diện cho chính phủ);



Phân theo công cụ nợ bao gồm: thỏa thuận vay; tín phiếu; trái
phiếu; công trái và các công cụ nợ khác

8


e) Ngưỡng an toàn của nợ công
Theo IMF

Theo đó, nợ quốc gia không vượt quá 40% GDP hoặc không vượt quá
150% kim ngạch xuất khẩu được xem là nằm trong giới hạn trung bình. Để
nằm trong giới hạn an toàn thì nợ quốc gia không được phép vượt quá 30%
GDP hoặc 100% kim ngạch xuất khẩu.
Trả nợ quốc gia hàng năm không vượt quá 20% kim ngạch xuất khẩu
và trả nợ chính phủ hàng năm không vượt quá 30% thu ngân sách là ở mức
độ trung bình. Đối với mức độ an toàn thì trả nợ quốc gia hàng năm không
quá 15% kim ngạch xuất khẩu và trả nợ chính phủ hàng năm không quá 25%
thu ngân sách.
Tuy nhiên chỉ dựa vào chỉ số nợ công/GDP không thể xác định được
một cách toàn diện mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công mà cần phải xem
xét nợ công một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu
chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư
toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các
loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng
khi đánh giá tính bền vững nợ công... Điển hình như nợ công khoảng 100%
đủ để một nước như Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi đó nợ công
lên tới hơn 200% như Nhật Bản vẫn được coi là an toàn, hay trường hợp của

Argentina, một quốc gia dù có mức nợ công dưới 60% và ngân sách tài
chính khá tốt, nhưng vẫn xảy ra khủng hoảng nợ...
Ngoài ra, cũng cần phải tính đến độ nhạy với các cú sốc.Bởi mức nợ
cho dù có nhỏ hơn ngưỡng, nhưng vẫn có những cú sốc không dự báo được.
Ví dụ lạm phát có thể cao hay tỷ giá có thay đổi thì có thể làm thay đổi hoàn
toàn dự báo. Một điều rất then chốt là cần phải có thông tin chính xác để đưa
ra quyết định đúng và tạo niềm tin cho thị trường.
Một điều nữa cần lưu ý chính là những khoản nợ ngầm, các khoản nợ
ngân hàng, nợ doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo lãnh.
Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế.
9


VD: Một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật Bản đã cho
thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy
Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân
nước này nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài
nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ
của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật Bản công
bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc gia của Nhật là
1,046.873 tỉ USD).
Ta cần mở rộng cách thức suy nghĩ và hiểu về nợ, biết quản trị nợ và
phân tích nợ một cách cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được
hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả
năng trả nợ thế nào... Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến
hai yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải
quyết được dứt điểm vấn đề nợ chẳng hạn như tạo ra lạm phát, gây nóng cho
nền kinh tế...
2. Nhận diện khủng hoảng nợ công
Theo quan điểm của Reinhart và Rogoff (Growth in a Time of Debt –

2010 ) dựa trên những thu thập từ 44 nền kinh tế mới nổi và phát triển trong
hai thế kỉ. Reinhart và Rogoff đã đưa ra định nghĩa ngưỡng nợ nguy hiểm.
Ngưỡng nợ nguy hiểm được hiểu là khi quốc giá có khối lượng nợ ( tính trên
phần trăm GDP) vượt qua ngưỡng này thì nền kinh tế tế quốc giá đó gặp
vấn đề trong việc thanh toán các khoản nợ, sẽ đứng trước nguy cơ khung
hoảng nợ công đồng thời gặp nhiều rủi ro bất ổn vĩ mô. Ngưỡng nợ được hai
nhà kinh tế tính toán và chỉ ra rằng : Tổng số nợ trên GDP bằng 90%. Hai
nhà khoa học cũng chỉ ra rằng đối với những nền kinh tế đang phát triển, nếu
trong tổng số nợ công, số nợ nước ngoài chiếm hơn 60% thì nền kinh tế rơi
vào ngưỡng nợ nguy hiểm .
Một nghiên cứu khác của Caner, Grennes và Koehler-Geib (2011) tiếp
tục đi sâu phân tích thêm về ngưỡng nợ nguy hiểm. Nghiên cứu này sử dụng
số liệu nhiều hơn so với nghiên cứu của Reinhart và Rogoff, bao gồm các số
liệu về nợ công, tăng trưởng, độ mở của nền kinh tế, lạm phát và GDP trong
thời kỳ trước của 101 quốc gia (75 đang phát triển và 26 đã phát triển) trong
giai đoạn 1980-2008, đồng thời sử dụng mô hình kinh tế lượng. Kết quả cho
thấy ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình cho tất cả các quốc gia đã được lấy số
liệu là 77% GDP, vượt qua ngưưỡng này tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy
giảm. Bên cạnh đó, áp dụng tương tự mô hình cho nhóm các quốc gia đang
phát triển thì con số này là 64% GDP.
Kumar và Woo (2010) cũng thực hiện một nghiên cứu tương tự, với
số liệu của 38 nền kinh tế tiến bộ và mới nổi với dân số trên 5 triệu người,
10


kéo dài trong 4 thập kỷ và cũng sử dụng 21 mô hình kinh tế lượng. Giống
như Reinhart và Rogoff, các tác giả cũng chỉ tìm thấy một mối quan hệ đối
nghịch giữa nợ công và tăng trưởng nếu như nợ công vượt quá 90% GDP.
Các tác giả cũng tìm ra rằng: đối với các nền kinh tế mới nổi, tác động của
nợ công lớn 10 hơn so với các nền kinh tế tiến bộ. Cụ thể, nếu quy mô nợ

công tăng thêm 10% GDP, tăng trưởng kinh tế sẽ suy giảm từ 0,15% đến
0,2% tại các nền kinh tế tiến bộ, trong khi con số này tại các nền kinh tế mới
nổi là từ 0,3% đến 0,4%. Ngoài ra, mức nợ ban đầu cao cũng sẽ tạo nên
nhiều rủi ro hơn. Đối với các quốc gia mà nợ công đã vượt quá 90% GDP,
một mức gia tăng nợ công thêm 10% GDP sẽ đi kèm với tăng trưởng giảm
0,19%; còn nếu mức nợ ban đầu chỉ từ 30% đến 60% GDP thì con số này chỉ
là 0,11%. Ngoài ra, Kumar và Woo cũng mở rộng mô hình của mình nhằm
xác định những kênh khác mà hệ quả từ nợ công có thể chuyển đến. Kết luận
cho thấy rằng nợ công cao sẽ làm giảm đầu tư, làm chậm tốc độ tăng trong
lượng vốn tư bản cho mỗi lao động, dẫn đến hệ quả là suy giảm năng suất.
Một nghiên cứu nữa của Presbitero (2010) dựa trên số liệu tổng nợ
công tại 92 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trong khoảng thời gian
1990 - 2007 cũng nhằm tìm kiếm ngưỡng nợ nguy hiểm. Nghiên cứu này
tìm ra hệ quả xấu đối với tăng trưởng nếu nợ công vào mức khoảng 90%
GDP. Vượt trên mức này, một hệ quả xấu hơn rất nhiều sẽ xảy ra với tăng
trưởng bởi quản lý kinh tế kinh tế nghèo nàn cũng như những thể chế tồi tệ.
Presbitero kết luận rằng những quốc gia công nghiệp thành công hơn nhiều
so với các quốc gia đang phát triển trong việc vay mượn và sử dụng những
khoảng tài chính trong nước và quốc tế mà không phải hứng chịu những rủi
ro có thể gây ra cho đầu tư bởi sự tháo vốn, xoay vòng chính sách hay lấn át
đầu tư thường xuyên xảy ra với mức nợ công lớn. Ngược lại, đối với các
quốc gia đang phát triển, hệ quả xấu từ vay nợ quá nhiều thường có xu
hướng lấn át những lợi ích có thể đạt được từ những nguồn lực khác.
Ngoài ra để nhận biết dấu hiệu khủng hoảng nợ công còn phải dựa
vào mức Hệ Số Tín Nhiệm Quốc Gia. Hệ số tính nhiệm quốc gia phản ảnh
khả năng và sự sẵn sàng trả đúng hạn khoản tiền gốc và lãi trong tương lai
đôi với danh mục nợ của một quốc gia. Đây là một yếu tố cơ bản để các nhà
đầu tư đánh giá mức độ sinh lời và rủi ro khi đầu tư vào một quốc gia nào
đó. Như vậy nếu một quốc gia có Hệ số tính nhiệm quốc gia cao thì có khả
năng cao và sẵn sàng trả các khoản nợ trong tương lai hơn một quốc gia có

hệ số tính nhiêm thấp hơn. Hiện nay có ba tổ chức có chỉ số tín nhiệm quốc
gia uy tính nhất thế giới là S&P, Moody’s, Fitch. Tuy có sự khác biệt về chỉ
số nhưng nhìn chung các mức đánh giá của các tổ chức này đều phản ánh
đúng mức độ rủi ro đối với các khoản nợ của các quốc gia .
11


3. Tác động của nợ công
a) Suy giảm khả năng tăng trưởng kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong
dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho
sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân:
thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ
(trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm
của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh
nghiệp hạn chế đầu tư.
Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh
tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy
vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ
vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ
nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng
crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái
phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính
phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới
12



huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền
kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu
vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ
tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi
suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền
từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm
xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song
mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ
tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi
suất, người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều
hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ
(nhờ phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu
dùng dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác
động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh
nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
b) Giảm khả năng huy động vốn của chính phủ
Nếu rơi vào trạng thái khủng hoảng nợ công thì quốc gia và hệ thống
ngân hàng quốc gia đó sẽ bị các tổ chức tài chính như Moody’s, Fitch, S&P
hạ mức độ tín nhiệm tín dụng. Như vậy việc tiếp cận nguồn vốn để tái thiết
sẽ gặp nhiều khó khăn khi các nhà đầu tư cho rằng mức độ rủi ro của các trái
phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc... lớn và khả năng vỡ nợ cao. Sẽ rất khó
để tấp cận với các nguồn vốn vay nước ngoài hoặc sẽ tiếp cận được với mức
lãi suất cho vay cao đè nặng lên nền kinh tế.
c) Gặp những bất ổn về tài chính
• Hiện tượng thoái lưu đầu tư tư nhân
Nợ công lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân (private saving), dẫn đến
hiện tượng thoái lui vốn đầu tư tư tư nhân

Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, lúc này mức tích
lũy vốn tư nhân sẽ được thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở hữu
cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại
sở hữu trái phiếu chính phủ làm cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín
dụng của chính phủ lại tăng lên, từ đó đẩy lãi suất tăng, chi phí ñầu tư tăng
và có thể dẫn đến hiện tượng “thoái lui đầu tư” khu vực tư nhân (crowdingout effect). Để làm rõ vấn đề này, chúng ta xét mối quan hệ cung- cầu trên
thị trường tín dụng.
13


Tại Biểu Đồ 1: Trạng thái cân bằng đầu
tiên tạiđiểm E, tại đó lãi suất là i1 và tổng
khối lượng quỹ cho vay là L1. Khi Chính
phủ tăng vay nợ, cầu tín dụng của Chính phủ
(DG) tăng lên một lượng bằng ∆DG sẽ làm
ñường cầu tín dụng của nền kinh tế dịch
chuyển từ D1 đến D1 + ∆DG. Kết quả là
điểm cân bằng mới của thị trường tại E’. Lãi
suất thị trường tăng đến i2 và lượng tiền
cung ứng tăng lên L2. Lãi suất trên thị
trường tăng sẽ làm giảm nhu cầu vốn vay
của các doanh nghiệp cho đầu tư. Nó cũng làm giảm nhu cầu vay của các hộ
gia đình để đầu tư hoặc mua sắm các loại hàng hóa như ô tô, nhà cửa...
Xoay xở với vấn đề thâm hụt ngân sách và nhu cầu chi trả cho các khoản
nợ công ngày càng tang cao, thị trường tài chính của các quốc gia Hy lạp,
Italy, Tây Ban Nha đang đứng trước những cơn sốt khi lãi suất trái phiếu
chính phủ của các quốc gia này liên tục tăng cao và đạt đến mức kỷ lục kể từ
khi tham gia vào khu vực đồng tiền chung Euro. Thời điểm tháng 8/2011, lãi
suất trái phiếu Chính phủ Tây Ban Nha kỳ hạn 10 năm tăng lên tới 6,45%,
tại Italy lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm cũng lên tới 6,18% gần bằng lãi

suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp (TPCP kỳ hạn 10 năm với lãi suất hơn
7,8%) tại thời điểm quốc gia này phải cầu cứu các khoản cứu trợ quốc tế bởi
nguy cơ vỡ nợ công.
• Giảm tiết kiệm quốc gia:
Thu nhập quốc gia (Y) được xác định tương đương với tổng sản lượng
quốc dân (GDP) theo công thức: Y = C + S + T = C + I + G + NX = GDP (1)
Trong đó: Y: thu nhập quốc gia; C: Tiêu dùng tư nhân; S: tiết kiệm tư
nhân; T: thuế trừ đi các khoản thanh toán; I: đầu tư nội địa, G: Chi tiêu của
chính phủ, NX: Xuất khẩu ròng.
Như vậy: S + (T-G) = I + NX (2) Hay: T- G = I + NX - S (3)
Phương trình (3) chỉ ra rằng, khi ngân sách nhà nước thâm hụt (T-G<0)
tức I + NX < S, như vậy, những khả năng có thể xảy ra là: Tiết kiệm tư nhân
(S) tăng, ñầu tư nội địa (I) giảm và xuất khẩudròng (NX) giảm. Khi chính
phủ tăng vay nợ ñể bù ñắp thâm hụt, chúng ta lần lượt xem xét những khả
năng này có thể xảy ra và sự tác động của nó ñến tiết kiệm quốc gia:
(1) Tiết kiệm tư nhân tăng (S): Trong thực tế, một số nhà kinh tế học lập
luận rằng, tiết kiệm tư nhân sẽ tăng chính xác bằng lượng giảm của tiết kiệm
của chính phủ. Tuy nhiên trong trường hợp này, chúng ta tạm thời giả ñịnh
tiết kiệm tư nhân tăng ít hơn phần tiết kiệm của chính phủ giảm, chính vì
vậy mà tiết kiệm quốc gia giảm.
14


(2) Đầu tư nội địa giảm (I): Đầu tư nội địa giảm dẫn đến đầu ra là tổng
vốn nội địa giảm. Lượng vốn ít, lãi suất tăng, chi phí biên của sản phẩm trên
mỗi đồng vốn sẽ cao hơn, năng suất lao động sụt giảm, từ đó làm giảm mức
lương và thu nhập trung bình dẫn đến giảm tiết kiệm quốc gia.
(3) Xuất khẩu ròng giảm (NX): Khi chính phủ tăng vay nợ, lãi suất trong
nước tăng tương Xuất khẩu ròng giảm, đầu tư nước ngoài giảm có nghĩa
rằng người dân nội địa sẽ sở hữu ít vốn nước ngoài hơn. Trong trường hợp

này, thu nhập người dân nội địa sẽ giảm, tiết kiệm quốc gia giảm. Giảm xuất
khẩu ròng cũng là một trong những nhân tố dẫn đến thâm hụt cán cân
thương mại. Đặc biệt, khi thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương
mại cùng xảy ra sẽ dẫn đến hiện tượng “thâm hụt kép” gây tác động tiêu cực
đến sự phát triển nền kinh tế. Xuất khẩu ròng giảm, đầu tư nước ngoài giảm
có nghĩa rằng người dân nội địa sẽ sở hữu ít vốn nước ngoài hơn. Trong
trường hợp này, thu nhập người dân nội địa sẽ giảm, tiết kiệm quốc gia
giảm. Giảm xuất khẩu ròng cũng là một trong những nhân tố dẫn đến thâm
hụt cán cân thương mại.
Đặc biệt, khi thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại cùng
xảy ra sẽ dẫn đến hiện tượng “thâm hụt kép” gây tác động tiêu cực đến sự
phát triển nền kinh tế.
• Nợ công làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi
xã hội:
Dù chính phủ lựa chọn phương án vay nợ trong nước hay vay nước
ngoài thì đều có tác động làm méo mó các hoạt ñộng kinh tế, gây tổn thất
phúc lợi xã hội.
Nếu vay nước ngoài, nguồn để trả nợ cả gốc và lãi chỉ có thể lấy từ các
khoản thu thuế. Người dân phải chịu một khoản thuế cao hơn trong tương lai
để trả lãi cho các đối tượng ngoài quốc gia sẽ làm giảm thu nhập, giảm tiêu
dùng... từ đó giảm chất lượng cuộc sống. Vay trong nước có thể được coi là
ít tác động hơn bởi lý do chính phủ nợ chính công dân nước mình và cũng
chính họ là người được hưởng thụ các lợi ích do các khoản chi tiêu công tạo
ra. Tuy nhiên, ngay cả khi một người bị ñánh thuế để trả lãi cho chính họ do
đang sở hữu trái phiếu chính phủ thì vẫn có những tác động khiến cho các
hoạt động kinh tế của người đó bị bóp méo. Dù cho Chính phủ dùng loại
thuế nào (thuế thu nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản…), đánh thuế dưới hình
thức nào (trực tiếp, gián tiếp) cũng sẽ dẫn đến những sai lệch trong các hoạt
động kinh tế của một cá nhân như thay đổi hành vi tiết kiệm, tiêu dùng, từ
đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế vi mô, vĩ mô khác như: sản xuất,

việc làm... Bên cạnh đó, việc tăng thuế để trả lãi vô hình chung đã tạo ra sự
phân phối lại thu nhập giữa những người nộp thuế và người sở hữu trái
15


phiếu chính phủ, theo đó người nộp thuế chắc chắn phải gánh chịu sự suy
giảm về thu nhập, tiêu dùng hoặc tiết kiệm.

II.

Các cuộc khủng hoảng nợ công tiêu biểu trên thế giới

1. Cuộc khủng hoảng nợ công các nước châu Mỹ Latinh
Khủng hoảng nợ bắt đầu ở Mỹ Latinh thập niên 80. Nhưng nguồn gốc
manh nha từ những năm 1970. Trong giai đoạn đó, các quốc gia lớn như
Brazil, Argentina và Mexico phát triển khá mạnh, lấy nguồn vốn chủ yếu do
vay nước ngoài quy mô lớn. Nguồn vốn đó được sử dụng chủ yếu để nâng
cấp, phát triển công nghiệp trong nước và cải thiện cơ sở hạ tầng.
Đến đầu thập niên 80, các nước Mỹ Latinh bắt đầu gặp khó khăn
trong việc trả nợ vì nền kinh tế thế giới suy thoái những năm 1979, 1980 đã
tác động tiêu cực đến tăng trưởng và xuất khẩu của các nước này. Một
nguyên nhân khác là các khoản vay bị sử dụng thiếu thận trọng và có liên
quan đến tham nhũng. Từ giữa năm 1975-1982, các khoản nợ công của các
nước Latinh đối với các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới tăng với tỷ
lệ gộp hàng năm lên đến trên 20%, khiến tổng nợ vay đã tăng từ 75 tỷ USD
năm 1975 lên đến hơn 315 tỷ USD năm 1983, trong đó, thanh toán lãi suất
và trả vốn gốc tăng mạnh, từ 12 tỷ USD năm 1975 lên 66 tỷ USD năm 1982
(The berge 1999).
Hầu hết các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới đều đã từ chối
hoặc giảm cho vay các nước châu Mỹ Latinh khác. Trong khi đó, các khoản

nợ vay của chính phủ các nước lại chủ yếu là ngắn hạn và các nước gặp khó
khăn trong thanh toán nợ khi các tổ chức cho vay từ chối gia hạn các khoản
vay. Hàng tỷ USD nhanh chóng đến hạn thanh toán và các dòng vốn bắt đầu
thoái lui khỏi các quốc gia trong khu vực và các nước không còn có thể vay
thêm.
Cuộc khủng hoảng nợ tại đây bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico
tuyên bố vỡ nợ. Hệ quả kéo theo đó là các quốc gia khác như Argentina
(1982, 1989), Bolivia (1980, 1986, 1989), Brazil (1983, 1986-1987) và
Ecuador (1982, 1984).. Cuộc khủng hoảng gây ảnh hưởng lớn tới nền kinh
tế của mỗi quốc gia. Trong suốt những năm đầu của khủng hoảng, tăng
trưởng GDP các nước trong khu vực chỉ còn hơn 2%, một con số khá thấp so
với những năm trước đây.
Để có tiền trả nợ, chính phủ đã cầu viện những tổ chức quốc tế như
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Để đạt được thỏa
thuận, các nước phải chấp nhận thắt lưng buộc bụng, phá giá nội tệ hay tự do
hóa thương mại để cải thiện nền tài chính. Hậu quả tất yếu là kinh tế tăng
trưởng trì trệ, thu nhập bình quân đầu người giảm và chênh lệch giàu nghèo
16


ngày càng tăng. Đến tận đầu thập niên 90, khủng hoảng ở Mỹ Latinh mới
lắng dịu.
Cuộc khủng hoảng nợ tại khu vực Mỹ Latinh có thể chia thành ba giai
đoạn. Giai đoạn đầu tiên từ trước diễn ra khủng hoảng cho đến năm 1985.
Trong giai đoạn này ,nhiều thay đổi vĩ mô đã được thực hiện với việc các
nhà kinh tế và hoạch định chính sách dự đoán rằng cuộc khủng hoảng sẽ
diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn ,cuộc khủng hoảng sẽ kết thúc ngay
khi các nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi ( họ thấy rằng đây là cuộc khủng
hoảng thanh khoản hơn là một cuộc khủng hoảng trong khả năng thanh toán)
(Cline ,1984).

Tại một số quốc gia, chính phủ thể hiện lập trường cứng rắn của mình
trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng nợ, như trường hợp thủ tướng Alan
Garcisa đưa ra quyết định giới hạn sự vay nợ của Peru dưới mức 10% doanh
thu từ xuất khẩu. Bên cạnh đó là những cố gắng thành lập một liên hiệp giữa
chủ nợ của khu vực này. Điển hình là cuộc hội nghị diễn ra tại Cartagena,
Chile vào năm 1984 ( Sau này gọi là sự đồng thuận Cartagena). Sau hội nghị
này ,các khoản nợ của Bolivia hay Venezuela vẫn phải tiếp tục thỏa hiệp trực
tiếp với các ngân hàng của họ, còn Argentina vẫn tỏ thái độ cứng rắn không
chịu thỏa hiệp. Điều này có thể thấy rằng dù đã cố gắng nhưng khu vực này
vẫn chưa có được sự đồng thuận nhất định trong khu vực, nhiều quốc gia
muốn tự mình giải quyết các khoản nợ của mình. Chính sự bảo thủ này dẫn
đến việc trong khi Mỹ dần dần phục hồi sau cuộc khủng hoảng ngân hàng
,thì khu vực Mỹ Latinh lại càng lún sâu thêm vào khủng hoảng.
Bắt đầu từ tháng 9 năm 1985 ,cuộc khủng hoảng bước vào giai đoạn
hai, với sự khởi đầu của kế hoạch Baker lần thứ nhất (Baker Plan) tại Seoul
nhằm đưa ra được những điều chỉnh trong việc tạo ra những điều luật cho
vay hiệu quả hơn cùng với những gói tín dụng đi kèm với nó. Gói cứu trợ
này vào thời điểm đó vẫn chưa đủ để giải quyết hoàn toàn khủng hoảng , và
hai năm tiếp theo ,được thay thế bằng kế hoạch Baker lần hai, đổi mới trong
việc tạo điều kiện cho các hoạt động mua lại hoặc trao đổi nợ và cho phép
phát hành trái phiếu với lãi xuất thấp.
Giai đoạn ba bắt đầu vào tháng 3 năm 1989 ( gần bảy năm sau kể từ
ngày bắt đầu cuộc khủng hoảng ) với kế hoạch Brady (Brady Plan) ,bao gồm
việc giảm bớt cán cân nợ ,đi kèm với việc tạo điều kiện cho khu vực Mỹ
Latinh được cho vay mượn từ các nguồn tài trợ chính tư nhân quốc tế . Đây
là giai đoạn cuối cùng của khủng hoảng ,và các quốc gia Mỹ Latinh cũng
dần đi vào phục hồi nền kinh tế. Tuy nhiên ,một thập kỷ suy thoái vì khủng
hoảng đã làm cho mức đóng góp của khu vực này vào GDP thế giới giảm
1.5% cùng với việc GDP đầu người trong khu vực giảm 8% so với quốc gia
công nghiệp và 23% so với mức trung bình toàn thế giới.

17


2. Cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu
Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt đầu từ nửa sau năm 2009 với
sự gia tăng mức nợ công của nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ireland, Italia, Hy
Lạp và Tây Ban Nha). Hy Lạp là quốc gia đầu tiên bước vào vòng xoáy này,
với việc mức thâm hụt ngân sách tới 13,6% GDP. Nợ công Hy Lạp cũng lên
tới 236 tỉ euro, chiếm khoảng 115% GDP nước này vào năm 2009. Đây là
kết quả của một quá trình thực hiện chính sách tài khóa không bền vững
nhằm kích thích kinh tế sau suy thoái toàn cầu cuối năm 2007. Những con số
chính thức về thâm hụt ngân sách và nợ công Hy Lạp là một cú sốc lớn đối
với giới đầu tư. Mặc dù chính phủ Hy Lạp đã đưa ra những kế hoạch nhằm
cắt giảm thâm hụt ngân sách năm 2010 xuông chỉ còn 8,7% bằng các biện
pháp giảm chi tiêu công và tăng thuế từ 19% lên 21%, nhưng các nhà đầu tư
vẫn nghi ngờ khả năng thanh toán của quốc gia này.
Bước sang năm 2010, EU và IMF đã phải đưa ra một gói cứu trợ trị
giá 110 tỉ euro nhằm cứu lấy Hy Lạp. Đi kèm với gói cứu trợ này là các điều
khoản buộc Hy Lạp phải cắt bỏ nhiều khoản lương thưởng đối với nhân
công, không tăng lương chính phủ trong vòng 3 năm, thuế giá trị gia tăng
tăng từ 21 lên 23%. Ngoài ra, chính phủ cũng nâng tuổi nghỉ hưu từ 60 lên
65 đối với nam và 55 lên 60 đối với nữ.
Tình hình của Hy Lạp lúc này làm dấy lên nói bất an trong giới đầu tư
vào các quốc gia như Ireland, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, do đây cũng là
các quốc gia vay nợ nhiều. Vào tháng 11/2010, Ireland chính thức trở thành
nạn nhân thứ hai của cơn bão khủng hoảng nợ công khi phải cầu viện
tới EU và IMF. Bản chất của khủng hoàng ở Ireland vẫn là thâm hụt ngân
sách trầm trọng, nhưng nguồn gốc chính lại không giống như Hy Lạp. Chính
phủ Ireland đã phải bỏ ra 50 tỉ euro nhảm cứu lấy 06 ngân hàng lớn của quốc
gia này trước sự đổ vỡ của bong bóng tài sản. Nguồn chi này làm cho thâm

hụt ngân sách lên tới 32% GDP. Cụ thể hơn, chính phủ đã tạo ra một định
chế tài chính mới, gọi tắt là NAMA (National Asset Management Agency)
nhằm biến những khoản nợ tư nhân thành những tài sản công.
Bước sang năm 2011, Bồ Đào Nha tiếp tục là quốc gia thứ ba rơi vào
khủng hoảng khi tuyên bố mức thâm hụt ngân sách đã lên tới 8,5% GDP,
cùng với đó nợ công cũng đã vượt quá 90% GDP. Đây tiếp tục là hậu quả
của việc chỉ tiêu công không hiệu quả của chính phủ quốc gia này. Vào
tháng 5/2011, EU và Mỹ đã quyết định viện trợ 78 tỉ euro nhảm giúp Bồ Đào
Nha thoát khỏi khủng hoảng, với điều kiện quốc gia này phải có lộ trình cắt
18


giảmthâm hụt ngân sách xuống định mức chung của khối eurozone xuống
còn 3% vào năm 2013.
Italia và Tây Ban Nha mặc dù chưa thực sự rơi vào khủng hoảng
nhưng cũng ở vào trong vòng nguy hiểm. Thâm hụt ngân sách của Italia vào
năm 2011 mới chỉ ở mức 5% GDP nhưng nợ công đã xấp xỉ 120% GDP. Tây
Ban Nha thì mặc dù nợ công chỉ mới ở mức 72% GDP nhưng thâm hụt ngân
sách lại rất cao, gần 9% GDP.

3. Nguyên nhân dẫn đến các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới
a) Thâm hụt ngân
sách lớn
Như chúng ta đã biết
những tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008 đã tác động
mạnh mẽ vào khu vự đồng
Eurozone. Điển hình là
nguồn thu ngân sách giảm,

nhu cầu chỉ tiêu công tăng
cao. Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách của khu vực đồng Euro tăng cao, tỷ lệ
nợ công/GDP tăng từ 66,3% đến 85,4% giai đoạn 2006 - 2011, trong đó tỷ lệ
19


nợ công của Ireland (từ 24,9% năm 2006 lên 118,9% trong năm 2011) và Bồ
Đào Nha (từ 64,7% năm 2006 lên 91,1% trong năm 2011).
Sự mất cân băng của khu vực Eurozone cũng là một nguyên nhân
quan trọng khác dân đến tình trạng thâm hụt ngân sách tại EU. Trong khi các
nước lớn như Đức, Pháp luôn đạt mức tăng trưởng cao và thặng dư tài khoản
vãng lai, thì các nước phụ cận (Hy Lạp, Bô Đào Nha, Ireland và Tây Ban
Nha) thường xuyên rơi vào tình trạng thâm hụt. Từ năm 2002 đến 2008,
thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước này bắt đầu tăng mạnh do tiếp
nhận dòng vốn đầu tư tư nhân khổng lồ từ Đức và các nước giàu có khác vào
lĩnh vực bất động sản.
Để cân bằng lại cán cân vãng lai, khôi phục lại khả năng cạnh tranh,
các nước này lại không thể lựa chọn phương án phá giá đồng nội tệ, mà buộc
phải tài trợ bằng cách bán trái phiếu Euro và chấp nhận nợ bằng đồng Euro.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư đã không sẵn lòng mua tài sản, ồ ạt rút vốn khi
phát hiện Hy Lạp không thể trả nợ vào năm 2009. Các giải pháp khác được
đưa ra đó là tăng cường xuất khẩu, cắt giảm ngân sách, giảm tiêu dùng và
tăng tiết kiệm trong nước, thanh lý tài sản... nhưng tính khả thi và hiệu quả
đạt được tại những quốc gia này đều không cao. Cả chính phủ và khu vực tư
nhân đều không thể tiếp tục tài trợ thâm hụt tài khoản vãng lai và gặp khó
khăn trong việc trả nợ.
Ở châu Mỹ Latinh, hầu hết các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới
đều đã từ chối hoặc giảm cho vay các nước thuộc khu vực này. Trong khi đó,
các khoản nợ vay của chính phủ các nước lại chủ yếu là ngắn hạn và các
nước gặp khó khăn trong thanh toán nợ khi các tổ chức cho vay từ chối gia

hạn các khoản vay. Hàng tỷ USD nhanh chóng đến hạn thanh toán và các
dòng vốn bắt đầu thoái lui khỏi các quốc gia trong khu vực và các nước
không còn có thể vay thêm.

b) Sử dụng nguồn vốn không hiệu quả
Đối với khu vực đồng tiền Eurozone, chính sách tin dung dễ dãi trong
Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) trong suốt một thập kỷ trước khi diễn ra
khủng hoảng. Vào thời kỳ này, việc các nước thành viên có cơ hội thu hút
các khoản vốn đầu tư lớn với lãi suất thấp đã kích thích các quốc gia áp dụng
chính sách đòn bẩy tài chính, tín dụng liên biên giới phát triển mạnh, khuyến
khích hoạt động vay và cho vay với mức độ rủi ro cao. Lãi suất của nhiều
quốc gia sụt giảm mạnh, cụ thể, các mức lãi suất thời hạn 3 tháng giảm từ
22% xuống còn 3% ở Hy Lạp, từ 15% xuống 3% ở Tây Ban Nha và Italia, từ
20% xuống 3% ở lreland. Lãi suất thấp đã dân đến hoạt động cho vay quá
mức và các khoản chi tiêu hào phóng của chính phủ diễn ra trong suốt gần
20


một thập kỷ. Một số ngân hàng ở các nước này đã cho vay thiếu trách nhiệm
dân đến hình thành nên các khoản nợ khổng lồ và tình trạng tăng giá bất
động sản. Từ năm 1998 - 2011, tỷ lệ nợ/GDP đã tăng từ 90% lên 235% GDP
ở Tây Ban Nha, từ 65% đến 210% GDP & Ireland, từ 28% đến 100% GDP
& Hy Lạp, và 55% đến 150% GDP ở Bồ Đào Nha. Khi “bong bóng” bất
động sản vỡ, thị trường nhà đất đóng băng, các khoản cho vay bất động sản
ở các nước này đã trở thành nợ xấu và hệ thống ngân hàng phải đối mặt với
nguy cơ sụp đổ.
Niềm tin quá mạnh mẽ vào sức mạnh của thị trường tự do với nguồn
tín dụng giá rẻ dồi dào đã dân đến sự tích tụ thiếu bền vững của nợ tư nhân
(Ireland, Bồ Đào Nha, và Tây Ban Nha) và nợ công (Hy Lạp và Bồ Đào
Nha). Hệ quả là bùng nổ “bong bóng” bất động sản ở Tây Ban Nha và chi

tiêu ngân sách quá mức ở Hy Lạp, cứng với suy thoái kinh tế toàn cầu đã dẫ
đến các khoản nợ công tăng cao. Nguyên nhân là do việc định giả sai rủi ro
của thị trường vốn về phân bố sai vốn giữa các nước châu Âu trong thập kỷ
trước khi cuộc khủng hoảng bùng nổ: Đây cũng là một yếu tố quan trọng
góp phần tạo nên cuộc khủng hoảng nợ công. Sự thống nhất của Eurozone
năm 1999 đã mang lại sự hội tụ về lãi suất giữa các nước thành viên, trái
phiếu chính phủ của các nước sau khi chuyển thành đồng Euro đều có mức
lợi tức như nhau, chênh lệch giữa lợi tức trái phiếu của các nước trong khối
gần như là bằng không. Nguyên nhân vì rủi ro trái phiếu chính phủ của
Eurozone là bằng không, ECB và ngân hàng trung ương của các quốc gia
đều xem các khoản nợ này như là các tài sản thế chấp phi rủi ro được sử
dụng trong các hợp đồng mua lại và các giao dịch về vốn thông qua tài sản
thế chấp khác.
Cũng như khu vực Euro, sự kiểm soát về khả năng sử dụng nguồn vốn
ở châu Mỹ Latinh cũng thực sự đã có nhiều sai lầm. Sau cú sốc giá dầu tăng
lần thứ nhất, cán cân vãng lai của các nước OPEC thặng dư. Vì thu nhập từ
xuất khẩu dầu vượt quá khả năng hấp thụ của nền kinh tế, các nước OPEC
đã đen gửi hầu hết số tiền họ kiếm được vào các thị trường tiền tệ như
London và New York, nơi được coi là có độ an toàn cao với nhiều cơ hội đầu
tư. Khoản tiền này lại được các ngân hàng đem đầu tư vào các nước châu
Mỹ Latinh hiện đang có tiềm năng tăng trưởng kinh tế mạnh. Hầu hết các
khoản tín dụng bằng USD dưới hình thức cho vay hợp vốn bởi các ngân
hàng quốc tế, có lãi suất thả nổi và lấy lãi suất LIBOR làm cơ sở. Các ngân
hàng thực hiện cho vay với lãi suất thả nổi vì lãi suất trả cho tiền gửi cũng là
lãi suất thả nổi. Khi lãi suất biến động thì các nước con nợ chính là người
gánh chịu rủi ro chứ không phải các ngân hàng. Hơn nữa, vì các khoản vay
này đều là khoản vay Chính phủ, được Chính phủ đứng ra bảo lãnh nên các
ngân hàng cho rằng mức độ rủi ro vỡ nợ là không đáng kể. Đây chính là
21



nhận thức sai lầm của các ngân hàng khi họ tiến hành cho vay ào ạt tại châu
Mỹ Latinh.
Nguồn WB
Một ví dụ điển hình là City Bank đã đầu tư hơn 174% dư nợ tín dụng
trên vốn tự có vào 5 nước châu Mỹ Latinh trong đó có Mexico
(Nunnenkamp-1986). Mexico và châu Âu có nhiều nét tương đồng với sự dư
thừa của tín dụng giá rẻ. Từ những năm 1970, kinh tế Mexico cất cánh nhờ
cung cấp dầu cho Anh, Mỹ, Nhật Bản và dễ dàng tiếp cận với nguồn tiền mặt
khổng lồ từ Ngân hàng Thế giới. Tuy nhiên, các khoản tiền này không hề
sinh lời vì không được Chính phủ Mexico đưa vào danh mục đầu tư, giống
như tại khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), hầu hết
nguồn tiền đi vay mượn đã chảy vào các chương trình phúc lợi xã hội đắt đỏ.
Việc đầu tư quá nhiều vào kết cấu hạ tầng nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hóa dẫn đến việc chính phủ bội chi ngân sách kéo dài một cách trầm
trọng; Gia tăng tỷ lệ nhập siêu do nhập khẩu nhiều nguyên, vật liệu, cũng
như công nghệ sản xuất từ nước ngoài để thực hiện được mục tiêu công
nghiệp hóa. Hai điều trên dẫn đến sự gia tăng ngày càng lớn nhu cầu về

nguồn vốn của chính phủ các nước Mỹ Latinh. Do đó, họ đã phải đi vay rất
nhiều tiền từ các quốc gia phát triển khác và các tổ chức tài chính quốc tế.
c) Thiếu sự minh bạch trong các hoạt động tài chính
Thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư ở các quốc gia
như Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha (trong EU) và các nước Mỹ
Latinh; đã làm cho càng trở nên khó khăn hơn. Sự thiếu minh bạch trong số
liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc
gia này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và
nhanh chóng xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy
Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên
thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài đã

khiến cho Hy Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong
22


niềm tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch luôn là một
đòi hỏi lớn của các nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính
phủ không minh bạch các số liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng
về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban hành để khắc phục
những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực của
những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
Ngoài ra, cuộc khủng hoảng nợ công cũng đã bộc lộ những khiếm
khuyết trong chính sách quản lý kinh tế của chính phủ các nước nói riêng và
khối EU nói chung. Sau khi EMU bắt đầu đi vào hoạt động, cơ chế phối hợp
giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa vẫn còn nhiều hạn chế và
không kịp thời. ECB thực thì các chính sách tiền tệ tập trung trong khi các
quyết định về chính sách tài khóa vẫn còn phân cấp, chính sách tiền tệ chặt
chẽ thì chi tiêu ngân sách của các quốc gia lại buông lỏng và thiếu kiểm soát.
Gần như mỗi quốc gia đều cố gắng theo đuổi các mục tiêu chính sách nợ
công của riêng minh, bởi EU không có nhiều quyền lực trong việc hoạch
định chính sách hình tế của các nước thành viên. EU trên còn thiếu các công
cụ thực thi nhằm kiểm tra, giám sát cụ thể tình hình tuân thủ các quy định về
mức thâm hụt ngân sách và nợ công theo Hiệp ước tăng trưởng và ổn định
(SGP). Chính phủ các nước EU gần như đã không thực hiện bất cứ giải pháp
nào, như: tăng thuế đối với các hàng hóa có giá trị để tăng thu ngân sách
trước tình trạng dư nợ quá cao, do các tác nhân kích thích từ việc giảm lãi
suất diễn ra suốt một thập kỷ trước khi khủng hoảng.
Không thể bỏ qua mối liên hệ giữa cuộc khủng hoảng tài chính nợ
công ở châu Âu và tệ tham nhũng; khi Hy Lạp, Italy, Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha hầu như chưa có biện pháp đủ mạnh để chống lại vấn nạn này.Theo
Hội đồng châu Âu, "phí tổn" tham nhũng tại các nước Liên minh châu Âu

(EU) lên tới 120 tỷ euro/năm, song các nhà phân tích cho rằng con số thực tế
còn cao hơn. Hy Lạp còn được nhắc đến rất nhiều về nạn trốn thuế, khi tăng
trưởng GDP danh nghĩa trong giai đoạn 2000-2007 đạt mức trung bình
8,25%, thì mức tăng về thu thuế chỉ là 7% (Servera & Moschovis, 2008).
Ngoài mức chi tiêu công thông thường, Hy Lạp còn phải trả giá cho khoản
đầu tư công khổng lồ cho Olympic 2004. Để bù đắp cho khoản thâm hụt kép
này, Hy Lạp đã đi vay trên thị trường vốn quốc tế và trong suốt một thập kỷ.
Trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nước này
đã trở thành “con nợ”, với tổng số nợ nước ngoài lên tới 115% GDP năm
2009. Đến năm 2010, báo cáo của OECD cho thấy, nợ công của Hy Lạp đã
lên tới con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147,8% GDP. Các chuyên gia
kinh tế cho biết, dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch “thắt lưng, buộc
bụng” kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2012 vẫn tăng lên mức 172%
GDP.
23


d) Các tác nhân khác
• Chính sách tài khóa lỏng lẻo
Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu là sự hạn
chế trong cơ chế phối hợp điều hành trong khu vực sử dụng đồng tiền chung
(Eurozone), nhất là giữa tiền tệ và tài khóa. Các quốc gia trong khu vực chủ
yếu hợp tác trong các chính sách tiền tệ, nhằm bảo đảm duy trì giá trị đồng
Eurozone, trong khi các chính sách tài khóa lại chưa có được một sự đồng
thuận và hài hòa tương ứng. Rõ ràng, mặc dù đã có những quy định cụ thể
về mức thâm hụt ngân sách cũng như nợ công, nhưng lại không có một cơ
chế giám sát và quản lý hiệu quả đối với từng quốc gia thành viên. Chính vì
vậy, sự kiện vỡ nợ tại một quốc gia là Hy Lạp đã kéo theo khủng hoảng
niềm tin lan sang các quốc gia có chính sách tài khóa lỏng lẻo khác.
• Ảnh hưởng do nền kinh tế Mỹ

Mỹ có sức ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới. Không ngoại trừ,
Mỹ Latinh cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nền kinh tế và chính sách tài
chính – tiền tệ của Mỹ. Mỹ hiện là đối tác số một và có vai trò kinh tế quan
trọng tại khu vực, nhất là đối với Mexico cũng như các nước Trung Mỹ và
Caribe. Các nguồn tài chính về đầu tư và kiều hối hàng năm của Mỹ đối với
khu vực này lên đến 200 tỷ USD. Theo thống kê, trong tổng dự trữ 700 tỷ
USD của Mỹ tại khu vực Mỹ Latinh, Brazil chiếm 335 tỷ USD, tiếp theo là
Mexico (131 tỷ USD), Argentina (51 tỷ USD), Peru (47 tỷ USD), Chile (34
tỷ USD) và Venezuela (28 tỷ USD). Do vậy, khi thâm hụt ngân sách Mỹ tăng
lên nhanh chóng, làm cho mức lãi suất LIBOR tăng từ 9,5 lên 16,6% năm
1978. Lãi suất cao đã đẩy giá USD lên và như vậy đã làm tăng giá trị thực
của các khoản nợ nước ngoài bằng USD của các nước con nợ và lãi suất trên
các khoản nợ cũng tăng theo.

III.

Tác động của nợ công đến nền kinh tế Việt Nam, bài học
rút ra cho Việt Nam và kèm theo đó là những giải pháp
cho Việt Nam

1. Tình hình nợ công ở Việt Nam
Tại Việt Nam thời gian qua, nợ công đã đáp ứng được nhu cầu bổ
sung vốn cho đầu tư phát triển và cân đối ngân sách nhà nước. Hiện tại, nợ
công của Việt Nam vẫn đang trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay
nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi.
Theo đồng hồ đo nợ công toàn cầu của The Economist, nợ công Việt
Nam đến ngày 11/6/2016 là 94,85 tỷ USD, chiếm 45,6% GDP. Trung bình
24



mỗi người
dân
Việt
Nam đang
gánh 1.039
USD nợ, tương đương gần
23 triệu đồng.
(Nợ
công
Việt Nam 6/2016 theo đồng hồ đo nợ công toàn cầu của The Economist.
Ảnh chụp màn hình)
Nếu năm 2006, mỗi người Việt Nam chỉ gánh 279 USD nợ công thì
nay đã tăng gần 4 lần, lên mức 1.039 USD, theo đồng hồ đo nợ công toàn
cầu của tạp chí The Economist.
Trong bối cảnh nợ công căng thẳng, mới đây, Bộ Tài chính đã có văn
bản gửi các Bộ, cơ quan Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố và Ngân
hàng phát triển Việt Nam, ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam và các Tập
đoàn, Tổng công ty nhà nước đề nghị các đơn vị nêu trên sử dụng nguồn vốn
vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài thực hiện một số công việc nhằm xây dựng
ngưỡng an toàn vay ODA, vay ưu đãi không ảnh hưởng trần nợ công.
• Nợ công tăng cao là vấn đề mang tính lịch sử
Nợ công tăng cao như hiện nay là vấn đề mang tính lịch sử, nợ công
dồn lại do từ nhiều năm trước, cách nhìn nhận về sử dụng nguồn vốn vay
vẫn còn hạn chế, chẳng hạn cho rằng vốn rẻ, thời hạn dài nên trong sử dụng
và quản lý không thật chặt chẽ.
Liên quan đến việc trả nợ, Việt Nam có thể đàm phán với các chủ nợ
để hỗ trợ xoá nợ, cho vay đảo nợ hoặc các chủ nợ này cũng có thể mua lại
nợ. Trường hợp bán vốn nhà nước để trả nợ cũng là một phương án nhưng
chỉ là giải pháp khi không còn giải pháp nào nữa.
Về việc tỷ lệ nợ công tăng nhanh chóng trong năm qua, cần nhìn

nhận ở góc độ mang tính kỹ thuật. Cụ thể, đây là vấn đề liên quan đến việc
thực hiện song song kế hoạch tài chính và kế hoạch đầu tư trong khi GDP
trên thực tế đạt được thấp hơn so với dự báo thì công tác chi đầu tư lại được
xây dựng trên GDP dự báo.
Theo thống kê, trong giai đoạn 2011- 2015, nợ công gia tăng nhanh
chóng với mức 16,7%/năm. Theo đó, cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ
25


×