Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sức khỏe có vai trò rất quan trọng đối với con người và đối với sự
phát triển chung của toàn xã hội. Đặc biệt trong thời đại ngày nay khi xã
hội càng phát triển, văn minh nhân loại càng tiên tiến thì loài người đang
đứng trước rất nhiều vấn đề nan giải về bệnh tật. Và cũng chính vì thế mà
ngành y tế từ trước đến nay vẫn luôn nhận được sự quan tâm, ưu ái phát
triển. Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân là một trong hai
nhiệm vụ cơ bản của công tác y tế đã được phổ cập và luôn gắn bó với
cuộc sống của mỗi người và của toàn xã hội. Nhận thức của các cấp ủy
Đảng và nhân dân về việc cần phải bảo vệ và nâng cao sức khỏe đã có sự
chuyển biến rõ rệt.
Nâng cao năng lực quản lý các hoạt động y tế trên địa bàn một tỉnh
hay một huyện, một xã là một trong những hoạt động trọng tâm của ngành
nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực y tế vốn rất hạn chế
hiện nay. Nước ta đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập với rất nhiều yếu tố
tác động và ảnh hưởng từ bên ngoài vào, cùng với những dịch bệnh đang
ngày gia tăng đang là mối lo ngại của toàn Đảng, toàn dân ta nói chung và
của ngành y tế nói riêng. Theo tinh thần của Nghị quyết TW4 khóa VII của
Đảng về những vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân đã khẳng định: "Những năm gần đây, ngành y tế đã có nhiều
biểu hiện xuống cấp, có mặt khá nghiêm trọng. Công tác vệ sinh phòng bệnh
kém, chưa quan tâm đầy đủ các hoạt động mang tính quần chúng. Y tế cơ sở
yếu". Như vậy, việc đầu tư hơn nữa cho y tế cơ sở, đổng thời phải tăng cường
hơn nữa lãnh đạo, quản lý y tế cơ sở là công việc cấp bách hiện nay. Y tế cơ
sở được xác định là tuyến y tế từ huyện xuống tới xã, phường, thị trấn và
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
thôn bản. Đây là đơn vị cơ sở đầu tiên tiếp xúc với dân, đảm nhiệm công tác
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
Trong những năm qua y tế cơ sở mà đặc biệt là các Trạm y tế xã,
phường đã hoàn thành khá tốt các chỉ tiêu phục vụ và chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho nhân dân, tạo được niềm tin của nhân dân đối với ngành y tế,
với Đảng, với Chính phủ và với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên bên
cạnh đó công tác quản lý y tế cơ sở hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn
chế, bất cập làm ảnh hưởng tới chất lượng của y tế. Với mong muốn được
hiểu rõ hơn về vai trò, nhiệm vụ của y tế cơ sở và thực trạng của công tác
quản lý y tế cơ sở ở nước ta hiện nay mà cụ thể hơn là ở địa phương cá
nhân em sinh sống, em xin lựa chọn đề tài: "Thực trạng quản lý y tế cơ sở
tại xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng trong giai đoạn
hiện nay" làm tiểu luận môn Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu về y tế, y tế cơ sở nói chung và y tế xã Hòa Bình,
huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng nói riêng; làm rõ thực trạng của công
tác quản lý y tế cơ sở trong giai đoạn hiện nay mà cụ thể là ở trạm y tế xã
Hòa Bình; từ đó đưa ra kết luận và một số khuyến nghị đối với công tác này.
2.2. Nhiệm vụ
- Phân tích những vấn đề liên quan đến y tế cơ sở có ảnh hưởng trực
tiếp tới việc quản lý công tác y tế.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý Trạm y tế xã Hòa Bình và đưa ra
những khuyến nghị để nâng cao chất lượng quản lý Trạm trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu thực trạng quản lý y tế cơ sở tại xã Hòa Bình,
huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trong phạm vi xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Bảo, thành phố
Hải Phòng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp logic, phương
pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, điều tra,
nghiên cứu, phân tích tài liệu.
5. Ý nghĩa đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung về y
tế cơ sở và phản ánh những mặt làm được cũng như hạn chế của y tế cơ sở
trên một số địa bàn, và cũng đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao vai
trò quản lý y tế cơ sở trong thời gian tới.
6. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận gồm có hai chương. Ngoài ra có phần mở đầu, phần kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
B. NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý y tế cơ sở
1.1. Một số khái niệm có liên quan
Quản lý là gì? Là biết kết hợp những nỗ lực, sử dụng các nguồn lực
một cách hiệu quả, động viên con người, tạo ra bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo
và kiểm tra một tổ chức hoặc một hệ thống nhằm đạt tới một loạt các mục
tiêu: nguồn lực chính để thực hiện các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe hay
giải quyết mọi công việc khác là nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất, trang
thiết bị y tế...
Quản lý y tế? là chức năng của hệ thống y tế, đảm bảo cho sự phát
triển cân đối và năng động của hệ thống đó giữ gìn cơ cấu tổ chức tối ưu
đã được xác định, duy trì chế độ hoạt động có hiệu quả, thực hiện những
chương trình khác nhau nhằm đạt được mục đích và mục tiêu về bảo vệ
chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Quản lý y tế là lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, kiểm tra và phối
hợp các nguồn lực và biện pháp sao cho nhu cầu về sức khỏe, về chăm sóc
y tế, về môi trường lành mạnh được đáp ứng bởi việc cung cấp các dịch vụ
chuyên môn cho cá nhân, tổ chức và cộng đồng.
Chăm sóc sức khỏe ban đầu? Hội nghị Quốc tế về y tế cơ sở, họp từ
ngày mùng 6 đến ngày 12 - 9 - 1978 tại thủ đô Kazaxtan, đã ra Tuyên ngôn
Alma - Ata. Tuyên ngôn đó đã nêu khái niệm chăm sóc sức khỏe ban đầu
như sau: Chăm sóc sức khỏe ban đầu là chăm sóc sức khỏe thiết yếu dựa
trên sơ sở khoa học và thực tiễn cũng như những phương pháp được xã hội
chấp nhận và đến với mọi người, mọi gia đình thông qua sự tham gia đầy
đủ của cộng đồng và với mức chi phí mà cộng đồng và Nhà nước có thể
trang trải được, có thể duy trì được ở bất cứ mức phát triển nào với tinh
thần tự lo liệu, tự quyết định.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Mạng lưới y tế cơ sở (gồm y tế thôn, bản, xã, phường, quận huyện,
thị xã) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân
được chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công
bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hóa, trật tự an
toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.2. Vai trò của y tế cơ sở trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu
Hệ thống tổ chức y tế nước ta được chia thành 4 tuyến, đó là tuyến
Trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện và tuyến xã. Y tế cơ sở bao gồm y tế
tuyến huyện và tuyến xã, trong đó có y tế thôn, bản. Y tế cơ sở có nhiệm
vụ quan trọng trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Nghị quyết 15/CP ngày 14/01/1975 của Chính phủ và các văn bản kế
tiếp của Đảng và Nhà nước đã xác định: Y tế cơ sở có vị trí chiến lược rất
quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, bởi vì:
đây là đơn vị y tế gần dân nhất, phát hiện ra những vấn đề của y tế sớm
nhất, giải quyết 80% khối lượng phục vụ y tế tại chỗ, là nơi thể hiện sự
công bằng trong chăm sóc sức khỏe rõ nhất, nơi trực tiếp thể hiện và kiểm
nghiệm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về y tế. Đồng
thời cũng là bộ phận quan trọng nhất của ngành y tế tham gia phát triển
kinh tế và ổn định chính trị- xã hội.
Thể hiện rõ ở cơ sở như sau:
Y tế tuyến huyện là nơi cứu chữa cơ bản đầu tiên phục vụ nhân dân,
đồng thời là tuyến hỗ trợ trực tiếp cho y tế tuyến xã. Củng cố y tế huyện
không những nâng cao chất lượng cứu chữa cơ bản tại chỗ mà còn hỗ trợ
cho công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu của tuyến xã, đồng thời có tác
dụng giảm bớt gánh nặng cho y tế tuyến tỉnh và tuyến Trung ương để các
tuyến này tập trung vào nghiên cứu khoa học và phát triển y tế chuyên sâu.
Y tế tuyến xã là đơn vị kỹ thuật đầu tiên tiếp xúc với nhân dân nằm
trong hệ thống y tế nhà nước, có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ kỹ thuật
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân trên địa bàn. Củng cố y tế tuyến
xã vừa có ý nghĩa đưa các dịch vụ y tế có chất lượng đến với người dân,
vừa có tác dụng hỗ trợ người nghèo tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế,
mặt khác còn làm tốt công tác quản lý và chỉ đạo hoạt động của y tế thôn,
bản.
Y tế thôn, bản nằm ngay trong dân, là cầu nối giữa hệ thống y tế với
người dân, thực hiện các công tác:
- Truyền thong - giáo dục sức khỏe.
- Hướng dẫn vệ sinh phòng bệnh và phát hiện sớm dịch bệnh.
- Hướng dẫn dinh dưỡng hợp lý, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và
kế hoạch hóa gia đình.
- Sơ cứu và theo dõi điều trị bệnh thông thường.
- Tham gia các chương trình y tế tại thôn, bản..
Vì vậy, y tế thôn bản có vai trò quan trọng trong công tác chăm sóc
sức khỏe ban đầu cho nhân dân tại cộng đồng nhất là ở nông thôn, miền
núi. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới này để y tế
thôn, bản thực sự là cánh tay vươn dài của y tế cơ sở.
1.3. Chức năng, nhiệm vụ của y tế cơ sở
Bộ y tế xác định trạm y tế xã, phường, thị trấn (trạm y tế cơ sở) là
đơn vị kỹ thuật đầu tiên tiếp xúc với nhân dân, nằm trong hệ thống y tế
Nhà nước, có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ kỹ thuật chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho nhân dân tại tuyến cộng đồng.
Về cơ sở pháp lý, trạm y tế cơ sở (trạm y tế xã) có 4 lĩnh vực hoạt
động chính và 10 nhiệm vụ. Hoạt động của trạm y tế được tiến hành theo
10 nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu, 4 lĩnh vực hoạt động chính của y
tế cơ sở là:
Hoạt động tại trạm:
+ Khám chữa bệnh thông thường cho nhân dân.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
+ Quản lý sức khỏe.
+ Quản lý thai, sinh đẻ và kế hoạch hóa gia đình.
+ Đông y, châm cứu, thuốc nam
+ Giáo dục sức khỏe, truyền thông dân số- kế hoạch hóa gia đình
+ Tiêm chủng mở rộng
+ Cung ứng thuốc thiết yếu
- Hoạt động tại cộng đồng: Thực hiện các chương trình y tế đang
triển khai tại tuyến xã.
- Hoạt động tại hộ gia đình:
+ Thu thập thông tin y tế.
+ Thăm khám sức khỏe gia đình, chữa bệnh tại nhà, lập sổ sức khỏe.
+ Hướng dẫn kiểm tra công tác vệ sinh phòng dịch
+ Hướng dẫn kiểm tra vườn thuốc, tủ thuốc gia đình.
- Tham mưu cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã về:
+ Các biện pháp lồng ghép hoạt động y tế
+ Biện pháp lồng ghép hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội
+ Đưa hoạt động y tế vào kế hoạch của Ủy ban nhân dân xã
+ Chỉ đạo tuyên truyền, giáo dục pháp luật về y tế
+ Đề xuất biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về y tế
+ Xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
Qua nhiệm vụ và chức năng có thể thấy vị trí của trạm y tế cơ sở là y
tế tuyến đầu, nơi nhân dân tiếp xúc đầu tiên với hệ thống y tế Nhà nước,
cũng là nơi cuối cùng để thực hiện tất cả các hoạt động bảo vệ và nâng cao
sức khỏe nhân dân. Trạm y tế cơ sở nằm trong cộng đồng, phục vụ toàn
diện và thường xuyên cho cộng đồng.
1.4. Y tế cơ sở ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Từ năm 1986 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới để xây dựng và
phát triển đất nước, đất nước ta đang dần thay đổi với những kết quả bước
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
đầu rất quan trọng trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế,
đưa đất nước ta cơ bản thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội. Cùng với
những "đổi mới" của đất nước, ngành Y tế cũng từng bước đổi mới và phát
triển, đạt được nhiều thành tích trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân. Nghị quyết TW4 khóa VII của Đảng (ban hành ngày 14
tháng 01 năm 2003) về những vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe nhân dân đã khẳng định: "Trong sự nghiệp chống ngoại
xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngành y tế đã có nhiều đóng góp to
lớn, đã đạt được nhiều thành tựu. Nhiều bệnh dịch và bệnh tật xã hội đã
được khống chế hoặc loại trừ, sức khỏe và tuổi thọ nhân dân tăng. Công
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã ngày một tốt hơn, góp phần củng cố
niềm tin của nhân dân đối với chế độ ta". Đồng thời, Nghị quyết TW4
cũng chỉ rõ: "Những năm gần đây, ngành y tế đã có nhiều biểu hiện xuống
cấp, có mặt khá nghiêm trọng. Công tác vệ sinh phòng bệnh kém, chưa
quan tâm đầy đủ các hoạt động mang tính quần chúng. Y tế cơ sở yếu".
Trong những năm đầu tiên của sự nghiệp đổi mới, y tế nông thôn rơi
vào khủng hoảng do các hợp tác xã nông nghiệp- chỗ dựa chính của trạm y tế
xã- bị tan rã. Nhưng Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa ra những chủ
trương phục hồi y tế cơ sở. Quyết định 58/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính
phủ ban hành ngày 3 tháng 2 năm 1994 đã quy định "Một số vấn đề về tổ
chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở". Chỉ thị 06/CT-TW của Ban Bí
thư Trung ương khóa VIII ban hành ngày 20 tháng 01 năm 2002 đã chỉ rõ:
"Mạng lưới y tế cơ sở (gồm y tế thôn bản, xã, phường, quận, huyện) là tuyến
y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức
khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công bằng xã hội, xóa đói
giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hóa, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin
của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa". Nhờ những quyết sách kịp thời
này, trong những năm qua những tuyến y tế cơ sở trong cả nước đều được
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
tăng cường cán bộ, cơ sở hạ tầng về cả số lượng lẫn chất lượng. Với sự có
mặt của bác sỹ tại hơn 60% số xã trong toàn quốc, ngành y tế là ngành đầu
tiên đã đưa cán bộ có trình độ đại học về nông thôn, mở đầu cho bước chuyển
biến mới về chất của cán bộ ở các xã ở nông thôn. Việc phát triển mạnh mẽ y
tế xã và y tế thôn bản kết hợp với việc hình thành mô hình Trung tâm y tế
huyện ra đời trong những năm cuối của thập kỷ 80 và triển khai rộng rãi
trong toàn quốc theo Nghị định 01/NĐ-CP (ban hành ngày 01 tháng 01 năm
1998) trong thập kỷ 90 và những năm đầu của thế kỷ XXI là một thể hiện
sinh động về thực hiện chiến lược chăm sóc sức khỏe ban đầu hay y tế phổ
cập. Hiện nay phong trào "xây dựng y tế xã đạt chuẩn quốc gia" đã trở thành
phong trào sâu rộng trong y tế cơ sở của cả nước.
Trong những năm qua, Nhà nước và ngành y tế đã chú trọng nhiều
đến y tế cơ sở biểu hiện qua một số văn bản như: Thủ tướng Chính phủ ban
hành quyết định số 47/2008/QÐ - TTg phê duyệt đề án nâng cấp 621 bệnh
viện huyện với tổng mức đầu tư 17 nghìn tỷ đồng bằng nguồn trái phiếu
Chính phủ. Mục đích của đề án là tăng cường năng lực và điều kiện để đáp
ứng với nhu cầu khám, điều trị bệnh cho nhân dân nhằm tạo điều kiện để
người dân có cơ hội tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng đồng thời góp
phần làm giảm tình trạng quá tải của các bệnh viện tuyến trên. Ðồng thời, Bộ
Y tế đang nỗ lực chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện Ðề án 1816 nhằm
tăng cường, luân phiên cán bộ y tế có tay nghề tốt ở các đơn vị tuyến Trung
ương về hỗ trợ cho các cơ sở y tế ở địa phương; tuyến trên hỗ trợ tuyến dưới
trên cơ sở xác định đúng nhu cầu và hỗ trợ có hiệu quả, thường xuyên, liên
tục. Kết quả bước đầu đã tạo được phong trào và có nhiều kỹ thuật được
chuyển giao cho cơ sở có hiệu quả theo phương thức cầm tay chỉ việc.
Từ sau đổi mới năm 1986 và đặc biệt từ khi tiến hành thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII, công tác y tế cơ sở đạt được một số thành
tựu cơ bản:
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Một là, tổ chức trạm y tế được củng cố, đội ngũ cán bộ y tế được
kiện toàn. Số xã có trạm y tế đạt 89,4% (năm 1995) và tăng lên 97,4%
(năm 2001), đạt 98,7% (năm 2009). Tương ứng số lượng cán bộ y tế được
cải thiện, bình quân ở mức 3,7 cán bộ y tế/trạm (năm 1995) tăng lên 4,3
(năm 2001), đạt 5,1 (năm 2009). Số xã có bác sĩ đạt 52,7% (năm 2001), và
68,3% (2009). Trạm y tế xã đã đi vào hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ,
vừa cung cấp dịch vụ tại trạm y tế, vừa xuống tận các thôn, bản để thực
hiện vệ sinh phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân tại nhà.
Hai là, y tế thôn, bản được khôi phục. Tính đến 30-6-2001, có
73,6% số thôn, bản có nhân viên y tế hoạt động và đến 31-6-2009 đạt
84,1%. Nhân viên y tế thôn, bản vùng cao, miền núi, hải đảo được hưởng
phụ cấp 40.000đ/người/tháng từ ngân sách nhà nước.
Ba là, đầu tư cho y tế cơ sở bước đầu được quan tâm. Thông qua
chương trình nâng cấp cơ sở y tế xã của Bộ Y tế, chương trình hỗ trợ y tế
quốc gia đã đầu tư về cơ sở, trang bị, đào tạo nhân lực cho y tế tuyến cơ sở.
Bốn là, chế độ, chính sách đối với cán bộ y tế cơ sở được cải thiện.
Cán bộ y tế xã trước đây chỉ được hưởng sinh hoạt phí (ngân sách xã 50%,
huyện 50%). Từ năm 1995, đội ngũ này được hưởng chế độ tiền lương,
phụ cấp, bảo hiểm xã hội như cán bộ có cùng trình độ.
Năm là, các chỉ số chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt tiến bộ rõ rệt. Tỷ
lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ duy trì ở mức trên 90%. Tỷ lệ mắc và
chết do một số bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm giảm 40% - 50% so
với mức năm 1995. Đã thanh toán bại liệt và tiến tới loại trừ uốn ván sơ
sinh. Các chương trình, mục tiêu quốc gia được triển khai rộng rãi và hiệu
quả.Các phong trào vệ sinh phòng bệnh, tuyên truyền, giáo dục sức khỏe
được toàn dân hưởng ứng, khống chế, không để dịch lớn xảy ra. Tuổi thọ
bình quân của nước ta đạt 72,8 tuổi (tính đến thời điểm 0 giờ ngày 1- 4 –
2009), tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 50% (năm
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
1990) xuống còn 34% (năm 2000) và 24% (năm 2005). Những thành tích
này đã góp một phần quan trọng trong việc nâng chỉ số HDI của nước ta từ
mức dưới trung bình (0,498 năm 1991) lên mức trung bình (0,725 năm
2009) và xếp thứ 116/182 nước, trong khi GDP bình quân đầu người của
Việt Nam chỉ xếp thứ 128/173 nước.
Trong những năm qua ngành y tế Việt Nam tuy đã đổi mới và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng nhưng bên cạnh đó đối với ngành y tế nói
chung và y tế cơ sở nói riêng vẫn còn tồn tại những khuyết điểm, yếu kém.
Biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, quản lý trạm y tế có nhiều biến động, ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chưa thích ứng với cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật.
Ở giai đoạn do phòng y tế quản lý, y tế cơ sở đã có “nguy cơ tan rã”.
Khi thực hiện Quyết định số 58/TTg, “y tế cơ sở đã được phục hồi và từng
bước phát triển”. Bước sang giai đoạn do giám đốc trung tâm y tế huyện quản
lý về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh phí và nhân lực, các hoạt động liên quan
đến y tế cơ sở được gắn kết do thống nhất một đầu mối chỉ đạo, hướng dẫn
thực hiện và chịu trách nhiệm, y tế xã, phường, thị trấn được kiện toàn và
đang trên đà phát triển, nhưng chưa tương xứng với nhu cầu ở cơ sở.
Hai là, chế độ và chính sách đối với y tế tuyến cơ sở tuy đã được cải
thiện nhiều nhưng chưa thực sự đáp ứng và khuyến khích, động viên đội
ngũ viên chức y tế làm việc tại các trạm y tế xã, nhân viên y tế thôn, bản
yên tâm công tác phục vụ nhân dân.
Ba là, đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở trạm y tế còn hạn chế.
Bộ Y tế đã ban hành Chuẩn quốc gia về y tế xã; mẫu thiết kế trạm y
tế; danh mục trang thiết bị. Tuy nhiên, việc thực hiện còn nhiều khó khăn,
đặc biệt ở những vùng miền núi, vùng khó khăn, nguồn kinh phí hạn chế,
thực tế mức đầu tư còn rất thấp. Quyết định số 950/QĐ-TTg, ngày 27-7-
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
2007, của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng
trạm y tế xã thuộc vùng khó khăn giai đoạn 2008 - 2010, nhưng đến nay
vẫn chưa có nguồn vốn để triển khai thực hiện. Định mức kinh phí hoạt
động của trạm y tế xã là 10 triệu đồng/trạm/năm thuộc ngân sách xã đã
khiến cho trạm y tế xã rất khó bảo đảm được các hoạt động chuyên môn kỹ
thuật theo chức năng, nhiệm vụ quy định.
Tình hình mới đang đặt ra nhiều thách thức, nhất là dịch bệnh diễn
biến phức tạp, bệnh, dịch thay đổi; gánh nặng kép về bệnh tật (lao/HIV);
xuất hiện các bệnh dịch mới; vấn đề thể chất, sức khỏe tâm thần, bệnh
không lây nhiễm... Trong khi đó, sự gia tăng dân số làm tăng thêm gánh
nặng đối với nền kinh tế và ngành y tế, nạn ô nhiễm môi trường, tình trạng
an toàn vệ sinh thực phẩm nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp. Mặt khác,
theo nhịp tiến bộ xã hội, mức sống ngày càng cao dẫn đến nhu cầu chăm
sóc sức khỏe, khám chữa bệnh của người dân ngày càng tăng về số lượng
và chất lượng. Đây là những thách thức lớn đối với ngành y tế từ trung
ương đến cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Bốn là, Năng lực sản xuất, cung ứng thuốc còn yếu, khả năng cạnh
tranh còn thấp, chủ yếu những thuốc tốt, đắt tiền vẫn phải nhập ngoại.
Năm là, Tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập,
một bộ phận nhân dân chưa có thói quen tự bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Chương 2: Thực trạng quản lý y tế xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay
2.1. Giới thiệu chung về địa bàn xã Hòa Bình
Xã Hòa Bình nằm ở phía nam huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng, phía Bắc giáp xã Lý Học, Vĩnh Tiến, phía Nam giáp xã Cổ Am,
phía Đông giáp quốc lộ 10 B và thị trấn Vĩnh Bảo, phía Tây giáp sông Đò
Hàn ( bên kia sông là huyện Tiên Lãng).
Chiều dài của xã Hòa Bình theo trục đường 10 B là 3,8km; chiều
rộng ở trung tâm xã tính từ thôn Lôi Trạch đến cầu Đò Hàn là 4km. Xã có
diện tích tự nhiên là 548,73ha, gồm 4 thôn: Lôi Trạch, Hàm Dương, Ngãi Am
và Bãi Cháy với 14 thôn. Nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, được phù sa
của sông Đò Hàn, nên mảnh đất Hòa Bình phì nhiêu, màu mỡ. Do vậy, ngay
từ ngày đầu hình thành làng, xóm, vùng đất này đã thu hút nhiều người dân
các nơi đến định cư, lập nghiệp. Hòa Bình ngày nay có 16 dòng họ đang sinh
sống, tổng số 3.150 hộ, với 13.728 nhân khẩu. Người dân sống theo từng
xóm, dưới lũy tre xanh và chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa.
Theo thông tư liên bộ số 03/TTLB/BYT - BNV, trạm y tế xã là đơn
vị y tế kỹ thuật y tế đầu tiên tiếp xúc với dân trong hệ thống y tế Nhà nước
và là đơn vị y tế trực thuộc trung tâm y tế huyện chịu sự quản lý Nhà nước
về y tế của phòng y tế huyện. Trạm y tế xã Nghĩa Trung, là đơn vị y tế cơ
sở trung gian giữa y tế huyện và y tế thôn, xóm. Trạm y tế xã Nghĩa Trung
trong những năm qua luôn làm tốt công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân trong xã. Trạm y tế đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia
về y tế xã năm 2002 và luôn giữ vững chuẩn quốc gia từ đó đến nay. Ngoài
ra, Trạm y tế xã còn được Ủy ban nhân dân Thành phố công nhận là Cơ
quan văn hóa năm 2004, và cơ quan có nếp sống văn hóa năm 2001- 2003.
Trạm y tế có đội ngũ cán bộ y tế tận tâm, tận tình, có trình độ, có y đức
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
nên luôn được bà con nhân dân trong xã yêu quý, tin tưởng, tạo điều kiện
để Trạm y tế có thể làm tốt nhiệm vụ của mình.
2.2. Thực trạng lãnh đạo, quản lý y tế xã Hòa Bình trong những
năm qua
2.2.1. Những thành tựu đã đạt được:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm, lãnh đạo
chỉ đạo công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đảng ra các Nghị quyết
Đại hội Đảng, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII và Nghị quyết
số 46 của Bộ Chính trị khóa IX về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân.
Nhà nước ban hành nhiều văn bản thể chế hóa quan điểm của Đảng:
Chiến lược bảo vệ sức khỏe nhân dân 1990 - 2000; Chiến lược bảo vệ sức
khỏe nhân dân 2001 - 2010, Chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam;
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (1989); Pháp lệnh Hành nghề y dược tư
nhân(2003), Luật Dược (2005)...
Trên cơ sở đó, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
cán bộ, Đảng viên đã có sự chuyển biến rõ rệt về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong
tình hình mới. Nhận thức rõ hơn về các quan điểm của Đảng, về định
hướng công bằng, hiệu quả và phát triển của hệ thống y tế Việt Nam;
nhận thức cần phải tập trung củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở,
đặc biệt là y tế xã (phường) và thôn (bản). Các cấp, chính quyền thành
phố Hải Phòng đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ và nâng
cao sức khỏe nhân dân, hay nói cách khác là quan tâm nhiều hơn tới công
tác y tế cơ sở trong toàn thành phố.
Đối với y tế cơ sở mà cụ thể là ở tuyến cơ sở trạm y tế xã, y tế của xã
Hòa Bình trong những năm qua cùng với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ủy
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
ban nhân dân xã Hòa Bình đã không ngừng được đổi mới và cũng đạt được
rất nhiều thành tựu trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Trước đổi mới, việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân bị hạn chế. Cả
làng, cả xã mới có một vài ông lang vườn, mấy bà mụ đỡ đẻ với một vài
môn thuốc gia truyền không mấy hiệu quả. Đời sống của nhân dân nhếch
nhác, vệ sinh môi trường không đảm bảo nên dịch bệnh thường xuyên xảy
ra. Do thiếu thầy, thiếu thuốc, vì vậy khi có bệnh, người dân chỉ biết đi cầu
đây khấn đó, uống tàn nhang nước thánh và thường dẫn đến tử vong.
Nhưng sau đổi mới với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt với
đội ngũ cán bộ y tế xã được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ chăm sóc sức
khỏe nhân dân đã tạo được niềm tin của nhân dân đối với y tế xã, số lượng
người tử vong đã giảm rõ rệt.
Thực hiện Quyết định số 370/2002/QĐ/BYT ngày 7- 2- 2002 của
Bộ trưởng Bộ Y tế, các xã, phường trong toàn quốc triển khai xây dựng
cơ sở y tế địa phương mình theo 10 chuẩn quốc gia về y tế xã. Năm 2002,
trạm y tế xã Hòa Bình được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Căn cứ vào 10
chuẩn quốc gia về y tế xã, Trạm y tế xã đã giữ vững đạt chuẩn quốc gia
về y tế xã năm 2010.
Trạm y tế xã được củng cố, thường xuyên có cán bộ thường trực
chữa bệnh cho nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế từ xã đến các đội sản xuất
thường xuyên theo dõi sức khỏe và tổ chức các kỳ tiêm phòng dịch cho
quần chúng. Luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ y tế
đi học nâng cao nghiệp vụ. Đội ngũ cán bộ y tế xã được kiện toàn, hiện tại
tổng số cán bộ y tế xã có 23 người, trong đó số lượng người ở trạm y tế là
9, ở thôn là 14. Tại trạm y tế có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 2 y tá trung học, 1 y tá sơ
học, 2 nữ hộ sinh sơ học, 1 dược tá. Tại y tế thôn có 14 y tá sơ học. Đội
ngũ cán bộ này thường xuyên được tập huấn về chuyên môn, về y đức đảm
bảo chất lượng cho công tác phục vụ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trung
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
bình mỗi năm, trạm y tế khám và chữa bệnh thông thường cho 3.0004.000 lượt người dân. Trong năm 2010 công tác khám chữa bệnh đã được
nâng cao chất lượng khám và điều trị, chuyển viện đúng tuyến, công tác
khám bảo hiểm y tế đảm bảo tốt. Thực hiện đúng quy chế, chính sách, chế
độ đối với bệnh nhân. Thực hiện tốt chỉ thị 661 về cấp cứu ngay những
người bị thương và công tác sơ cứu, cấp cứu tại cơ sở. Năm 2010, không
có bệnh nhân nào tử vong tại Trạm, thực hiện tốt Chỉ thị 11 về nâng cao
chất lượng chăm sóc người bệnh, Chỉ thị 04 về nâng cao y đức trong ngành
y tế; các quy chế, chế độ trong việc khám, chữa bệnh, đã từng bước thực
hiện nghiêm túc. Trong năm không để xảy ra tai biến trong điều trị, không
có đơn thư khiếu kiện trong công tác khám chữa bệnh. Trạm y tế xã đã đi
vào hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, vừa cung cấp dịch vụ tại trạm y
tế, vừa xuống tận các thôn, bản để thực hiện vệ sinh phòng bệnh và chăm
sóc sức khỏe cho người dân tại nhà.
Đầu tư cho y tế cơ sở bước đầu được quan tâm. Thông qua chương
trình nâng cấp cơ sở y tế xã của Bộ Y tế, chương trình hỗ trợ y tế quốc gia
đã đầu tư về cơ sở, trang bị, đào tạo nhân lực cho y tế tuyến cơ sở. Để
ngành y tế thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân,
Đảng bộ quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các phương
tiện phục vụ khám chữa bệnh, Xã cũng đầu tư kinh phí xây sửa khuôn viên
trạm y tế thêm sạch đẹp, được khánh thành vào năm 2001. Hiện tại, cơ sở
trang thiết bị y tế tại trạm y tế xã đã tương đối đủ cho việc khám, chữa
bệnh tại trạm. Theo số lượng thống kê như sau: Diện tích sử dụng của trạm
y tế (m2): 1.200m2, trong đó Nhà kiên cố là 420m2; Loại nguồn nước trạm
đang sử dụng là nước giếng khoan; số giường lưu tại trạm có 14 giường, số
hiệu thuốc tư có đăng ký là 6; cân trẻ em có 2; Ống nghe 2; Huyết áp kế có
2; bàn đẻ 3; Hộp hấp dụng cụ 2; Nồi hấp áp lực 2. Kinh phí hoạt động
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
chung của trạm y tế xã chủ yếu từ nguồn ngân sách của Nhà nước cấp và
ủy ban nhân dân xã cấp, số còn lại từ nguồn bán thuốc của trạm y tế.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ y tế cơ sở được cải thiện. Cán bộ
y tế xã trước đây chỉ được hưởng sinh hoạt phí (ngân sách xã 50%, huyện
50%). Từ năm 1995, đội ngũ này được hưởng chế độ tiền lương, phụ cấp,
bảo hiểm xã hội như cán bộ có cùng trình độ.
Các chỉ số chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt tiến bộ rõ rệt. Trong
năm 2010 trạm đã khám được 3.754 bệnh nhân, số bệnh nhân phải chuyển
lên tuyến trên có 90 bệnh nhân.
Về công tác y tế dự phòng: Với phương châm phòng bệnh là chính,
Trạm y tế xã đã tập trung chỉ đạo thường xuyên giám sát dịch, coi công
tác phòng chống dịch là nhiệm vụ trọng tâm, tuyên truyền vận động nhân
dân làm tốt công tác vệ sinh môi trường, xử lý nguồn phân, nước, rác ;
tuyên truyền vận động nhân dân ăn chín uống sôi, không ăn gỏi cá; đồng
thời có phương án điều trị cho bệnh nhân khi có dịch xảy ra. Các phong
trào vệ sinh phòng bệnh, tuyên truyền, giáo dục sức khỏe được toàn dân
hưởng ứng làm theo.
Đối với tình hình chăm sóc trẻ em: Trạm y tế duy trì tốt công tác
tiêm chủng mở rộng, tiêm phòng 8 loại vác xin, phòng 8 loại bệnh truyền
nhiễm cho trẻ từ 0 - 6 tuổi. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng duy trì đầy đủ,
đạt tỷ lệ trên 96%. Trẻ em chủ yếu tiêm phòng BCG, DPT3, OPV3, Viêm
màng não và Viêm gan B (trong đó số trẻ tiêm viêm gan B đạt 100%). Tỷ
lệ mắc và chết do một số bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm giảm rõ
rệt. Trong năm 2010 không có trẻ em nào trong xã bị mắc các bệnh bạch
hầu, ho gà, uốn ván sơ sinh, bại liệt, sởi, lao. Xã đã thanh toán bại liệt và
tiến tới loại trừ uốn ván sơ sinh. Thực hiện chủ trương của Đảng, các đối
tượng thuộc diện người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ khám chữa
bệnh miễn phí. Đến hết năm 2010, trong xã có 354 người (thuộc hộ nghèo)
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
và 675 cháu nhỏ được cấp thẻ Bảo hiểm y tế chữa bệnh miễn phí. Công tác
dân số - gia đình và trẻ em luôn được các cấp, các ngành trong xã quan
tâm chỉ đạo nhân dân thực hiện, các chương trình, mục tiêu quốc gia được
triển khai rộng rãi và hiệu quả.
Đối với công tác bảo vệ bà mẹ và kế hoạch hóa gia đình (Chăm sóc
phụ nữ và thai sản) được hết sức quan tâm và có đạt được kết quả khá tốt.
Trạm y tế đã có sự phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể như: Ban dân
số xã, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Ủy ban Mặt trận tổ quốc, Hội Cựu
chiến binh; đặc biệt là Ban chăm sóc sức khỏe xã, Trạm tăng cường công
tác tuyên truyền, tư vấn, hướng dẫn các bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con
ngoan và các kỹ năng về truyền thông dân số. Tổ chức tốt công tác chăm
sóc sức khỏe thai sản, khám và điều trị phụ khoa cho chị em phụ nữ.
Nhiều nội dung về thực hiện Kế hoạch hóa gia đình được tuyên truyền,
phát động, lồng ghép đạt hiệu quả cao. Kết quả các biện pháp tránh thai đạt
và vượt chỉ tiêu đề ra. Tổng số phụ nữ tuổi từ 15 đến 49 tuổi chấp nhận các
biện pháp tránh thai là 2.130. Trong đó đa số các chị em lựa chọn hình
thức đặt vòng chiếm hơn 83%, ngoài ra còn có các hình thức khác cũng
được lựa chọn như: đình sản, sử dụng bao cao su, dùng thuốc tránh thai,
tiêm.... Trong xã công tác tuyên truyền vận động kế hoạch hóa bằng hình
thức đình sản có kết quả đáng khích lệ, có 173 số đình sản nữ và 6 đình
sản nam. Nhờ đó tỷ lệ phát triển dân số của xã giữ được ổn định trong
những năm qua, tạo điều kiện để đời sống nhân dân nâng cao.
Công tác phòng bệnh trong xã cũng được chú trọng. Nhiều hoạt
động như thanh khiết môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng được
đẩy mạnh và bước đầu có hiệu quả. Dịch bệnh nguy hiểm được khống chế
và đẩy lùi, tình hình dịch bệnh liên tục giảm. Việc phòng chống HIV/
AIDS được đẩy mạnh hơn. Trong xã hiện có 15 trường hợp bị nhiễm HIV
và trong năm 2010 có 4 trường hợp chết vì AIDS.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
2.2.2. Những mặt còn hạn chế:
Tuy nhiên y tế xã trong những năm qua vẫn còn bộc lộ những hạn
chế, bất cập.
Trong những năm qua mặc dù công tác y tế cơ sở đã được Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm, tạo điều kiện để thực hiện tốt công tác bảo
vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nhưng từ những văn bản, chính
sách đó đến tới cơ sở như thế nào và thực hiện ra sao thì đó lại là vấn đề
chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa. Đối với y tế xã Nghĩa Trung so với
những năm trước đổi mới thì hiện nay đã có những tiến bộ rõ rệt nhưng đối
với công tác quản lý chung y tế xã cũng có những hạn chế.
Hệ thống pháp luật về y tế chưa hoàn chỉnh, một số chính sách y tế
không còn phù hợp với tình hình phát triển chung của xã chậm được sửa
đổi. Đôi lúc trong cơ chế quản lý còn mang dấu ấn của thời kỳ bao cấp.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền xã có lúc chưa thực sự quan tâm, lãnh đạo,
chỉ đạo tích cực đối với công tác y tế, bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở địa
phương; điều này đã đặt lên vai trạm y tế trách nhiệm, và áp lực công việc.
Việc chỉ đạo thực hiện vẫn còn nhiều bất cập là một trong những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Về trang thiết bị đầu tư cho Trạm y tế xã để chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân chưa đồng bộ. Phòng sản chưa có phòng vô trùng, công
tác bảo vệ ấm về mùa đông cho sản phụ và sơ sinh không có cho nên ảnh
hưởng rất nhiều đến sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh không có cho nên
ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Trình độ y tế cơ sở và cộng tác viên dân số chưa đồng đều, chế độ
phụ cấp của y tế thôn đội và cộng tác viên dân số còn thấp.
Do chuyển đổi cơ chế, tách giữa Trung tâm y tế, Phòng y tế và trung
tâm y tế dự phòng; các chương trình về chuyên môn liên quan đến 3 nơi
chỉ đạo cho nên các mảng hoạt động gặp rất nhiều khó khăn cho y tế cơ sở.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập; một bộ
phận nhân dân chưa có thói quen tự bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Công tác
vệ sinh môi trường có làm nhưng chưa thường xuyên, nhiều cơ sở đội có
những rác thải rất bẩn và ô nhiễm môi trường xung quanh.
Công tác khám chữa bệnh hiệu quả còn thấp. Mạng lưới y tế thôn
đội đã được củng cố nhưng chưa hoàn thiện cho nên nó ảnh hưởng không
nhỏ đến việc triển khai các chương trình chăm sóc sức khỏe cho nhân dân,
chưa phát huy được vai trò thi đua sáng tạo, cải tạo lối làm việc. Vườn
thuốc đông y đã triển khai nhưng số cây thuốc còn ít. Chất lượng hoạt
động của đội ngũ cộng tác viên còn yếu.
2.2.3. Một số khuyến nghị đối với công tác quản lý y tế xã Hòa
Bình trong thời gian tới
Trong những năm qua đội ngũ cán bộ y tế xã đã đoàn kết vượt mọi
khó khăn, phát huy truyền thống của ngành y tế vươn lên hoàn thành xuất
sắc mọi chỉ tiêu, nhiệm vụ, từng bước nâng cao chất lượng chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân. Tuy nhiên đối với công tác quản lý y tế xã trong thời
gian qua vẫn còn tồn tại những bất cập. Và để phát huy những thành tích
đã đạt được, giảm những bất cập hạn chế, xin có một số khuyến nghị đối
với công tác quản lý y tế xã như sau:
- Cần tăng cường hơn nữa sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo chăm sóc
sức khỏe nhân dân của cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân xã. Phải thực sự coi
việc lãnh đạo công tác y tế và bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân là một
nhiệm vụ chính trị quan trọng. Phân công cụ thể, quy rõ trách nhiệm cho
từng ban, ngành, đoàn thể trong việc đẩy mạnh các phong trào như vệ sinh
phòng bệnh, thể dục, thể thao, bảo vệ môi trường sinh thái... Quan tâm chỉ
đạo tăng cường giáo dục kiến thức về chăm sóc sức khỏe bằng nhiều hình
thức sinh động hấp dẫn.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
- Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế xã về trang thiết bị,
đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh đảm bảo tốt
cho công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
- Thường xuyên cử cán bộ đi học tập chuyên sâu, tăng cường tập huấn
cho đội ngũ y tế thôn đội và cộng tác viên dân số nhằm nâng cao về trình độ
chuyên môn và kỹ năng tư vấn để các điều kiện phục vụ tại cơ sở tốt hơn.
- Đẩy mạnh hơn nữa xã hội hóa về công tác y tế, đa dạng hóa các
loại hình khám chữa bệnh, từng bước nâng cao chất lượng khám và chuần
đoán bệnh ngay tư đầu, phát huy tốt hiệu quả điều trị giữa Đông và Tây y.
- Triển khai đồng bộ các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu
cho nhân dân: Quan tâm và thực hiện tốt các công tác chăm sóc sức khỏe
cho các cụ cao tuổi và hộ nghèo, đặc biệt là các cháu dưới 6 tuổi và phụ nữ
có thai.
- Tiếp tục rèn luyện y đức, nâng cao tinh thần tận tình phục vụ người
bệnh, phục vụ nhân dân cho cán bộ y tế xã theo lời dạy của Bác Hồ: "Thầy
thuốc như mẹ hiền" là tiêu chuẩn số một của người cán bộ y tế.
- Quan tâm đến đời sống cán bộ y tế xã là điều kiện cụ thể, thiết thực
để đội ngũ cán bộ y tế có thêm thuận lợi làm tốt nhiệm vụ khám- chữa
bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
C. KẾT LUẬN
Trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm của hoạt động y tế cơ sở, Trạm y
tế xã đến nay đã trở thành đơn vị thực hiện những chăm sóc ban đầu cơ
bản nhất. Mỗi địa phương có những điều kiện kinh tế - văn hóa- xã hội
khác nhau, chính vì thế điều kiện để Trạm y tế xã hoạt động cũng khác
nhau. Hòa Bình là một xã cơ bản làm nông nghiệp, đời sống nhân dân vẫn
còn rất nhiều khó khăn. Tuy thế nhưng đối với công tác y tế, đặc biệt là với
Trạm y tế xã vẫn luôn được xã và nhân dân trong xã quan tâm, tạo điều
kiện để phát triển.
Ngành y tế đã xây dựng mạng lưới y tế cơ sở phủ khắp các đội sản
xuất, đội ngũ những người thầy thuốc được tăng cường về số lượng và
trình độ chuyên môn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được quan tâm xây
dựng đầy đủ, khang trang là điều kiện thuận lợi cho công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân.
Đội ngũ cán bộ y tế xã trong những năm qua đã đoàn kết vượt mọi
khó khăn, phát huy truyền thống của ngành y tế vươn lên hoàn thành xuất
sắc mọi chỉ tiêu, nhiệm vụ, từng bước nâng cao chất lượng chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân. Tuy nhiên đối với công tác quản lý y tế xã trong thời
gian qua vẫn còn tồn tại những bất cập; để phát huy những thành tích đã
đạt được, giảm những bất cập cần có sự cố gắng, nỗ lực hơn nữa của đội
ngũ cán bộ y tế xã và sự đóng góp, ủng hộ nhiệt tình của toàn thể dân nhân
trong xã vì lợi ích chung.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Khoa giáo Trung ương: Một số văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác Khoa giáo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
2. Ban Khoa giáo Trung ương: Triển khai Nghị quyết Đại hội X trong
lĩnh vực khoa giáo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Nxb. Y học, Hà Nội, 1996.
4. Hoàng Đình Cầu: Quản lý sức khỏe và chăm sóc sức khỏe ban đầu,
Nxb. Y học, Hà Nội, 1985.
5. Phạm Mạnh Hùng: Quản lý y tế- Tìm tòi học tập và trao đổi, Nxb,
Hà Nội, 2004.
6. Phạm Mạnh Hùng: Quản lý y tế - Tiếp tục tìm tòi học tập và chia
sẻ, Nxb. Hà Nội, 2007.
7. Trạm y tế xã Hòa Bình: Báo cáo tình hình y tế năm 2010.
8. PGS. TS. Trần Thị Anh Đào: Giáo trình Quản lý chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng
MỤC LỤC
A.
Tiểu luận môn: Quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng