Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC: CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP ĐỊNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.22 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƯƠNG THỊ LAN

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP ĐỊNH
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM NĂM 2014
Chuyên ngành: Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Minh Hồng

Hà nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Trương Thị Lan


MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
DLBK: Dân luật Bắc kỳ
DLGY: Dân luật giản yếu
DLTK: Dân luật Trung kỳ
HN&GĐ: Hôn nhân và gia đình
Luật GĐ: Luật gia đình
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP: Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP: Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày
31/12/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình.
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của mỗi gia
đình. Bởi lẽ, trong cuộc sống chung, vợ và chồng phải thực hiện những quan hệ
về tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Những quan
hệ này được pháp luật HN&GĐ của mỗi nước điều chỉnh phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội, truyền thống, đạo đức, tập quán của quốc gia đó.
Mặt khác, tài sản không chỉ gắn liền với những lợi ích thiết thực của hai
bên vợ, chồng, mà còn liên quan đến người thứ ba, đặc biệt là khi vợ chồng
tham gia vào hoạt động giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại. Chính vì
thế mà vấn đề này lúc nào cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, phổ biến nhất là
sau khi vợ chồng ly hôn. Thực tiễn xét xử cho thấy, phần lớn các tranh chấp
của vợ chồng có liên quan đến tài sản.
Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng đã trở thành một trong những nội

dung quan trọng mà Luật HN&GĐ cần xây dựng, hoàn thiện. Chế độ tài sản
của vợ chồng bao gồm tổng hợp các quy định của pháp luật về căn cứ xác lập
tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng,
nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng. Giữa các nước khác nhau thường có
những quy định khác biệt về tài sản của vợ chồng, tuy nhiên, về cơ bản chế độ
tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai căn cứ: Sự thoả thuận bằng
văn bản của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và theo các quy định của pháp
luật (chế độ tài sản pháp định).
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể về chế độ tài sản của vợ
chồng. Đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ tài sản vợ
chồng pháp định trên cơ sở Luật HN&GĐ năm 2000.
Việc phân tích những vấn đề lý luận và nội dung của chế độ tài sản vợ
chồng pháp định trong Luật HN&GĐ năm 2014 là một vấn đề mang tính

1


khách quan và cấp thiết hiện nay nhằm hiểu rõ hơn quy định pháp luật về chế độ
tài sản vợ chồng pháp định, không ngừng hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản
của vợ chồng nói riêng và hoàn thiện pháp luật HN&GĐ Việt Nam nói chung.
Qua đó góp phần xây dựng và phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững.
Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014” làm đề tài cho luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của Luận văn là nghiên cứu khái niệm, đặc điểm
của chế độ tài sản vợ chồng pháp định; chế độ tài sản vợ chồng pháp định
trong pháp luật Việt Nam và trong pháp luật ở một số nước; phân tích những
quy định cụ thể chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong pháp luật hiện hành,
nhận thức rõ nội dung, ý nghĩa của những quy định đó; tìm hiểu thực tiễn xét

xử liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng để thấy được những tồn tại, hạn chế,
vướng mắc trong quá trình áp dụng, qua đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng, góp phần xây dựng hành lang pháp
lý để phát triển gia đình hạnh phúc, ổn định, bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát nêu trên, Luận văn thực hiện những mục
tiêu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vẫn đề lý luận về chế độ tài sản vợ chồng pháp
định. Cụ thể là đưa ra một số khái niệm khoa học trong nội hàm chế độ tài sản
vợ chồng pháp định; các đặc điểm của chế độ tài sản vợ chồng pháp định đối
với sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội.
- Tìm hiểu một cách có hệ thống về lịch sử phát triển của chế độ tài sản
vợ chồng pháp định trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và trong pháp
luật ở một số nước trên thế giới.

2


- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản vợ
chồng pháp định. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Luận văn đi sâu vào phân
tích nội dung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng pháp định theo
Luật HN&GĐ năm 2014; tìm hiểu mục đích, cơ sở của việc quy định các điều
luật này; đồng thời, phân tích tính kế thừa, phát triển và những điểm mới của
chế độ tài sản của vợ chồng pháp định trong Luật HN&GĐ năm 2014.
- Tìm hiểu thực tiễn xét xử liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng pháp
định, chỉ ra những điểm tồn tại, hạn chế của những quy định này. Qua đó, đề
xuất những kiến nghị hoàn thiện chế độ tài sản vợ chồng pháp định.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
3.1. Tính mới của đề tài
Trong khoa học pháp lý ở nước ta, từ trước đến nay, ngoài những văn

bản hướng dẫn áp dụng Luật HN&GĐ, đã có những công trình, bài viết
nghiên cứu, đề xuất kiến nghị một số vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của
vợ chồng. Trước hết là các giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo
luật học, như giáo trình Luật dân sự Việt Nam, giáo trình Luật HN&GĐ Việt
Nam… đã đề cập đến chế độ tài sản vợ chồng một cách cơ bản, phổ thông và
khái quát nhất.
Việc nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng cũng đã được nhiều tác
giả đề cập đến trong một số cuốn sách hoặc luận văn cao học luật. Ví dụ: Sách
chuyên khảo của tác giả Nguyễn Văn Cừ về “Chế độ tài sản của vợ chồng
theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam” được Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm
2008; Luận văn thạc sỹ năm 2002 của tác giả Nguyễn Hồng Hải về “Xác định
tài sản của vợ chồng, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Bài viết của tác giả
Bùi Minh Hồng về “Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ chồng trong pháp
luật cộng hoà Pháp và pháp luật Việt Nam” đăng trên Tạp chí Luật học số 11
năm 2009; Bài viết của tác giả Đoàn Thị Phương Diệp về “Chế độ tài sản giữa

3


vợ chồng trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình”
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 08 năm 2014; Hoặc một số bài viết
về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt nam khác trên các Tạp chí
Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Các
cuốn sách, luận văn, bài viết nêu trên đều nghiên cứu chế độ tài sản của vợ
chồng dựa trên Luật HN&GĐ Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành,
cho đến trước ngày Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành
(01/01/2015).
Vừa qua, có một số luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu chế độ tài sản vợ
chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 như: Luận văn thạc sỹ năm 2014 của tác
giả Nguyễn Thị Kim Dung về "Chế độ tài sản vợ chồng theo thoả thuận trong

pháp luật Việt Nam"; Luận văn thạc sỹ năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Thu
Thủy về “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2014”... Song các luận văn này chỉ nghiên cứu chuyên
sâu về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
Theo đó, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về chế độ tài sản
vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014. Luận văn là
công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu riêng và chuyên sâu về chế độ tài sản
vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 một cách toàn
diện, đầy đủ trong hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam.
3.2. Những đóng góp của đề tài
Với tư cách là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu riêng và chuyên
sâu về Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm
2014, luận văn có những đóng góp quan trọng đối với khoa học pháp lý của
nước ta, cụ thể như sau:
- Luận văn phân tích khái niệm và đặc điểm của chế độ tài sản vợ
chồng pháp định, đồng thời, đánh giá sự cần thiết của việc quy định chế độ tài
sản vợ chồng đối với sự ổn định, phát triển của gia đình và xã hội.

4


- Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển chế độ tài sản vợ chồng pháp
định trong pháp luật của Việt Nam và của một số nước trên thế giới, so sánh
chế độ tài sản vợ chồng pháp định giữa các nước để thấy được sự tương đồng
và sự khác biệt mang tính dân tộc.
- Phân tích nội dung Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2014 để hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của chế độ tài sản
vợ chồng pháp định; đồng thời, phân tích tính kế thừa, phát triển và những
điểm mới quy định về chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ
Việt Nam năm 2014.

- Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến chế độ tài sản vợ
chồng pháp định, Luận văn chỉ ra những điểm tồn tại, hạn chế của những quy
định này, đồng thời, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chế độ tài sản vợ
chồng pháp định, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật HN&GĐ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả sẽ phân tích, đánh giá
những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng chế độ
tài sản vợ chồng pháp định với ý nghĩa là quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ chồng.
Luận văn không nghiên cứu về quan hệ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài
sản của nhau giữa vợ chồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi những quy định của pháp luật
Việt Nam về chế độ tài sản vợ chồng; một số nội dung cơ bản của chế độ tài
sản vợ chồng trong BLDS Pháp, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, Luật
hôn nhân của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật hiện hành về chế độ tài sản vợ chồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn đã vận dụng một số phương pháp
như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử để thấy

5


được sự phù hợp của các quy định pháp luật đối với xã hội, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, hay nói cách khác pháp luật là tấm gương
phản chiếu xã hội, còn xã hội là cơ sở thực tiễn của pháp luật.
Đồng thời, luận văn cũng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam về xây dựng và phát
triển gia đình.

Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp thu thập tài liệu,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp và
một số phương pháp khác. Trong đó, phương pháp chính là tổng hợp và phân
tích. Cụ thể là tổng hợp và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật,
những thông tin thu được trong quá trình nghiên cứu đề tài. Sau đó, phân tích
và đưa ra đánh giá về từng vấn đề. Cuối cùng rút ra kết luận chung về vấn đề
đã nghiên cứu.
6. Kết cấu Luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chế độ tài sản vợ chồng pháp định
Chương 2: Nội dung quy định chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014.
Chương 3: Thực tiễn xét xử liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng
và một số kiến nghị.

6


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ
CHỒNG PHÁP ĐỊNH
1.1.

KHÁI NIỆM CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG

Tài sản là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình. Kể
từ khi bắt đầu cuộc sống hôn nhân, vợ chồng phải cùng nhau lao động, sản
xuất, kinh doanh…để tạo ra của cải vật chất, đảm bảo nhu cầu thiết yếu của
vợ chồng, con cái và cả gia đình, đảm bảo điều kiện cần thiết để chăm sóc,
giáo dục con cái. Theo đó, bên cạnh quan hệ nhân thân, giữa vợ chồng còn

tồn tại quan hệ tài sản. Trong đó, quan hệ tài sản hiểu theo nghĩa hẹp chính là
quan hệ sở hữu tài sản. Nội dung của quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ chồng
bao gồm: việc xác định tài sản là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng
của vợ, tài sản riêng của chồng; xác định quyền và nghĩa vụ đối với tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng; và việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong những trường hợp nhất định. Vậy những quy định điều chỉnh quan hệ sở
hữu tài sản giữa vợ chồng như thế nào?
Khoản 1 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền
sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu
sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác”. Bên cạnh đó, BLDS cũng quy định cụ thể quyền sở hữu (chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt) của cá nhân. Cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình, bao gồm: thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, tài sản do mình tạo ra, tài sản được thừa kế, tặng cho.
Vợ chồng với tư cách là một cá nhân, có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Xét về mặt lý thuyết,
có thể áp dụng các quy định của Hiến pháp và BLDS để điều chỉnh quan hệ
sở hữu tài sản giữa vợ, chồng như những công dân khác không phải là vợ,
chồng. Tuy nhiên, trong thực tiễn, do tính chất đặc biệt trong quan hệ hôn

7


nhân gia đình là vợ chồng cùng chung sống với nhau, cùng lao động tạo ra
của cải vật chất để duy trì, phát triển gia đình, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con cái, nên quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ chồng ngoài việc đảm bảo quyền
sở hữu tài sản của cá nhân vợ, chồng, phải đồng thời đả m bảo lợi ích chung
của vợ chồng (đảm bảo đời sống chung của vợ chồng). Do đó, không thể áp
dụng các quy định của Hiến pháp và BLDS để điều chỉnh quan hệ sở hữu tài
sản giữa vợ và chồng. Nói cách khác, tính chất đặc biệt của mối quan hệ giữa

vợ và chồng đòi hỏi những quy định riêng nhằm điều chỉnh quan hệ sở hữu tài
sản của vợ chồng. Tổng hợp những quy định này chính là chế độ tài sản vợ
chồng. Có thể đưa ra khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật hoặc
thỏa thuận của vợ chồng về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, gồm: căn cứ
xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung, tài
sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng luôn có vai trò quan trọng trong pháp luật
HN&GĐ của tất cả các quốc gia trên thế giới. Pháp luật của mỗi quốc gia điều
chỉnh chế độ tài sản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, đạo
đức, tập quán… của mình. Thông thường pháp luật các nước quy định hai loại
chế độ tài sản vợ chồng là chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài
sản ước định) và chế độ tài sản vợ chồng pháp định. Sở dĩ có hai loại chế độ
tài sản vợ chồng là vì hôn nhân được xác lập do hai bên nam, nữ thỏa thuận,
giao ước trên cơ sở tự do, tự nguyện. Theo đó, vợ, chồng đương nhiên có
quyền thỏa thuận với nhau về các vấn đề liên quan đến quan đến quyền và lợi
ích của mình, trong đó có quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Vì vậy, một mặt
pháp luật dự liệu một chế độ tài sản của vợ chồng, mặt khác quy định vợ,
chồng có quyền thỏa thuận với nhau về tài sản (lập hôn ước). Chế độ tài sản

8


do pháp luật dự liệu có hiệu lực khi hai vợ chồng không lập hôn nước hoặc
hôn ước đã lập bị vô hiệu do vi phạm những quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, duy trì duy
nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng. Chế độ tài sản vợ chồng
theo thỏa thuận được quy định lần đầu tiên tại Luật HN&GĐ năm 2014 với
nội dung trước khi kết hôn, vợ, chồng có thể thỏa thuận với nhau về tài sản
chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung,

tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và
chồng. Trong bản thỏa thuận, vợ chồng thỏa thuận lựa chọn chế độ cộng đồng
(có tài sản chung) hoặc chế độ phân sản (không có tài sản chung) để duy trì và
đảm bảo thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Trong chế độ cộng đồng có sự
tồn tại của khối tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng sẽ thỏa thuận với nhau về
thành phần khối tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có),
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, việc phân
chia tài sản chung của vợ chồng… Trong chế độ phân sản, giữa vợ chồng không
tồn tại khối tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng thỏa thuận với nhau về việc
đóng góp tài sản riêng để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con cái…Có thể thấy rằng, đặc điểm của chế độ tài sản vợ chồng
theo thỏa thuận là việc thỏa thuận giữa vợ chồng phải được thực hiện trước khi
kết hôn và những thỏa thuận này sẽ được thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân,
trừ trường hợp vợ chồng thỏa thuận sửa đổi, thay đổi chế độ tài sản theo thỏa
thuận (sửa đổi, thay đổi nội dung hôn ước).
Tuy nhiên, không phải cặp vợ chồng nào khi xác lập quan hệ hôn nhân
cũng thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng. Do đó, pháp luật phải tạo ra một giải
pháp dành cho các cặp vợ chồng khi xác lập quan hệ hôn nhân không lập hôn
ước. Giải pháp này được gọi là chế độ tài sản vợ chồng pháp định. Chế độ tài
sản pháp định được tất cả các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình.

9


1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ
CHỒNG PHÁP ĐỊNH
1.2.1 Khái niệm
Do tính chất phức tạp, nhạy cảm của quan hệ hôn nhân gia đình, đặc
biệt là vấn đề tài sản trong quan hệ hôn nhân gia đình, thực tiễn cho thấy hầu
hết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ hôn nhân có liên quan đến tranh

chấp tài sản vợ chồng. Trong khi đó các tranh chấp về tài sản giữa vợ, chồng
luôn là loại việc phức tạp, khó khăn.
Đối với những cặp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng
trước khi kết hôn thì việc giải quyết các vấn đề tài sản giữa vợ và chồng thực
hiện theo thỏa thuận của hai bên vợ chồng. Tuy nhiên, thực tế không phải cặp
vợ chồng nào cũng thỏa thuận trước về vấn đề tài sản của vợ chồng. Hoặc có
trường hợp thỏa thuận về tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm các quy
định chung của pháp luật. Vì thế, pháp luật đã dự liệu các quy định cụ thể để
áp dụng cho những cặp vợ, chồng không thỏa thuận trước hoặc thỏa thuận bị
vô hiệu, nhằm điều chỉnh các quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng.
Các quy định điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng phải đảm
bảo lợi ích chung của gia đình. Khi hôn nhân được xác lập, vợ chồng cùng
nhau xây dựng gia đình, chăm sóc, nuôi dậy con cái, đảm bảo những nhu cầu
về vật chất và tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình. Đồng thời, trong
thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng thường xuyên phải thực hiện các giao dịch liên
quan đến tài sản phục vụ cho sự tồn tại phát triển của gia đình. Để làm được
điều đó vợ chồng cần phải có tài sản, sản nghiệp chung. Do đó, cần thiết phải
có những quy định về tài sản chung của vợ chồng, cũng như quyền, nghĩa vụ
của vợ chồng đối với tài sản chung.
Bên cạnh việc đảm bảo lợi ích chung của gia đình, việc đảm bảo quyền
và lợi ích của cá nhân vợ, chồng là một vấn đề quan trọng. Vì quyền sở hữu

10


tài sản của mỗi cá nhân là quyền hiến định, việc xác lập quyền sở hữu riêng
đối với tài sản theo quy định của pháp luật phải được Luật HN&GĐ tôn trọng.
Hơn nữa, ngoài việc chăm lo cho đời sống chung của gia đình, vợ, chồng còn
có những nhu cầu thiết yếu riêng, tài sản riêng của vợ, chồng được dùng để
đáp ứng nhu cầu riêng. Do đó, quy định về tài sản riêng của vợ chồng, quyền,

nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng là tất yếu khách quan.
Các quy định điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản vợ chồng còn phải đảm
bảo quyền bình đẳng của phụ nữ. Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời và bắt đầu từ Hiến pháp năm 1946, quyền bình đẳng của phụ nữ: “đàn bà
ngang quyền với đàn ông” được ghi nhận thành một nguyên tắc cơ bản. Pháp
luật HN&GĐ cũng cụ thể hóa nguyên tắc này thành những quy định cụ thể
trong quan hệ giữa vợ và chồng nói chung và trong quan hệ sở hữu tài sản vợ
chồng nói riêng. Trên cơ sở đó, quy định điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản
của vợ chồng ra đời cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài
sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và
chồng theo luật định. Nội dung của quyền bình đẳng giữa vợ, chồng trong
quan hệ sở hữu tài sản, bao gồm: vợ chồng có quyền bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung, tài sản riêng, về phân chia tài sản
chung của vợ chồng.
Tổng hợp những quy định điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản của vợ
chồng nêu trên tạo thành chế độ tài sản vợ chồng pháp định.
Trong lịch sử lập pháp của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam tồn tại những loại chế độ tài sản vợ chồng cơ bản như sau:
- Chế độ tài sản cộng đồng:
+ Chế độ cộng đồng toàn sản: Nội dung của chế độ cộng đồng toàn sản
là tất cả các tài sản mà vợ, chồng có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều
là tài sản chung của vợ chồng. Trong quan hệ tài sản giữa vợ, chồng không

11


tồn tại tài sản riêng của vợ chồng. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng bao
gồm: tài sản vợ, chồng tạo ra, được tặng cho, thừa kế trước khi kết hôn; tài
sản do vợ chồng cùng nhau tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không tính đến
nguồn gốc, công sức của mỗi bên; tài sản vợ, chồng được tặng cho riêng, thừa

kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Ở Việt Nam, chế độ cộng đồng toàn sản được
quy định trong Luật GĐ của chính quyền Ngô Đình Diệm, Luật HN&GĐ
năm 1959.
+ Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là chế độ tài sản trong đó, khối
tài sản chung của vợ chồng bao gồm tất cả các động sản của vợ chồng có
trước khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân và bất động sản mà vợ chồng có
được trong thời kỳ hôn nhân. Chế độ cộng đồng động sản vào tạo sản được
quy định trong BLDS năm 1804 của Cộng hòa Pháp. Ở Việt Nam, dưới chế
độ ngụy quyền Sài Gòn, Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 được ban hành
dưới chế độ Nguyễn Khánh và BLDS năm 1972 quy định chế độ tài sản vợ
chồng pháp định là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản. Theo đó, khối tài
sản chung của vợ chồng gồm có: Động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên
vợ, chồng khi kết hôn; các động sản do vợ, chồng được thừa kế, tặng cho
trong thời kỳ hôn nhân; động sản và bất động sản do vợ chồng có được trong
thời kỳ hôn nhân; hoa lợi thu được từ tài sản mà vợ chồng có được trước và
trong thời kỳ hôn nhân. Ngoài khối tài sản chung, vợ, chồng còn có tài sản
riêng là bất động sản của vợ, chồng trước khi kết hôn và bất động sản vợ,
chồng được tặng cho, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Sắc luật cũng quy
định quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung, tài sản riêng.
- Chế độ phân sản là chế độ tài sản trong đó không tồn tại khối tài sản
chung của vợ chồng, tất cả tài sản vợ chồng có được trước khi kết hôn và sau
khi kết hôn đều là tài sản riêng của vợ, chồng. Đối với chế độ tài sản này,
pháp luật còn quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc đóng góp

12


tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của vợ chồng, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con cái, cấp dưỡng lẫn nhau…
Nhìn chung, dù quy định loại chế độ tài sản nào thì pháp luật cũng dự

liệu các căn cứ xác định các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với tài sản và việc phân chia tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, chế độ tài sản vợ chồng pháp định được pháp luật dự liệu từ
trước do tính chất và mục đích của quan hệ hôn nhân gia đình, đồng thời phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa của mỗi quốc gia. Với tư cách là một loại chế độ tài sản vợ chồng, chế độ
tài sản vợ chồng pháp định cũng bao gồm đầy đủ các nội dung của chế độ tài
sản vợ chồng như: quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc
chia tài sản giữa vợ và chồng. Trên cơ sở những lập luận trên, sau đây chúng
tôi đưa ra khái niệm chế độ tài sản vợ chồng pháp định:
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định là chế độ tài sản vợ chồng do pháp
luật đã dự liệu từ trước về căn cứ xác định các loại tài sản chung và tài sản
riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng
loại tài sản đó trong mối quan hệ giữa hai vợ, chồng và trong quan hệ với
người thứ ba; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ
chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng
của vợ chồng.
1.2.2. Đặc điểm
Xuất phát từ tính chất được pháp luật dự liệu từ trước, chế độ tài sản vợ chồng
pháp định có những đặc điểm riêng biệt so với chế độ tài sản ước định, như sau:
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, chế độ tài sản pháp định được quy định
trong pháp luật HN&GĐ, trong đó, quy định cụ thể căn cứ xác lập, chấm dứt,
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản, nguyên tắc phân chia tài sản.

13


Theo đó, chế độ tài sản vợ chồng pháp định khác biệt hoàn toàn so với chế độ tài
sản vợ chồng theo thỏa thuận ở tính chất tự do thỏa thuận của vợ chồng. Cụ thể

là, trong chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, vợ, chồng thỏa thuận với nhau
về tài sản chung, tài sản riêng; quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng và các giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu
thiết yếu của gia đình; nguyên tắc phân chia tài sản. Còn trong chế độ tài sản vợ
chồng pháp định, các nội dung trên được pháp luật quy định cụ thể.
Thứ hai, về hình thức sở hữu đối với tài sản chung, ở Việt Nam, khác
với chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là vợ chồng có thể thỏa thuận với
nhau về hình thức sở hữu đối với tài sản chung, trong chế độ tài sản của vợ
chồng pháp định chỉ có duy nhất một hình thức là sở hữu chung hợp nhất.
Điều này xuất phát từ mục đích của quan hệ hôn nhân là vợ, chồng yêu
thương, chăm sóc lẫn nhau, chăm sóc, nuôi dạy con cái, vợ, chồng phải có
nghĩa vụ đóng góp tiền bạc đảm bảo đời sống chung của gia đình. Theo đó,
toàn bộ tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân, quyền sử dụng đất vợ, chồng có được sau khi
kết hôn (trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng), đều là tài sản
chung của vợ chồng không phân biệt công sức đóng góp của các bên.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong chế độ tài sản của
vợ chồng pháp định, theo pháp luật HN&GĐ, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ
bình đẳng với nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng không phân biệt giữa lao động trong
gia đình và lao động có thu nhập. Đối với tài sản riêng (nếu có), vợ, chồng có
quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) đối với sản
riêng đó; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Tuy nhiên,

14


quyền sở hữu đối với tài sản riêng bị hạn chế trong một số trường hợp, ví dụ

như: “Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài
sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này
phải có sự đồng ý của chồng, vợ” [20, Khoản 4 Điều 44]; “Trong trường hợp
vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng
theo khả năng kinh tế của mỗi bên” [20, Khoản 2 Điều 30]. Trong khi đó, chế
độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, quyền sở hữu đối với tài sản riêng của
vợ, chồng không bị hạn chế trong những trường hợp nêu trên, vợ chồng có thể
tự do thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản.
1.2.3. Ý nghĩa
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định phản ánh trung thực và chính xác
trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của mỗi nước.
Trong mỗi quốc gia, mỗi chế độ xã hội luôn có một chế độ HN&GĐ tương
ứng được xác lập bằng quy định pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán,
trong đó có chế độ tài sản vợ chồng pháp định. Ví dụ như BLDS Pháp năm
1804 thể hiện quan điểm người phụ nữ (người vợ) không có năng lực pháp lý.
Trong xã hội phong kiến, pháp luật cũng thừa nhận và bảo vệ sự bất công, bất
bình đẳng giữa nam và nữ, người phụ nữ trong gia đình hoàn toàn bị lệ thuộc
vào người chồng. Người chồng là đại diện cho quyền lợi gia đình, đại diện cho ý
chí của gia đình, có quyền ký kết bất kỳ hợp đồng, giao ước liên quan đến tài sản
của vợ chồng mà không cần sự đồng ý của người vợ. Ngược lại, người vợ phải
được chồng cho phép mới được ký kết, thực hiện giao ước, chỉ được đại diện
trong những nhu cầu gia vụ hoặc ký kết giao ước trong trường hợp người chồng
ủy quyền. Khi tiến lên xã hội Chủ nghĩa (XHCN), phụ nữ “được giải phóng”,
pháp luật nói chung và luật HN&GĐ nói riêng của Nhà nước XHCN đã ghi
nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ, đặc biệt là trong mối quan hệ vợ chồng,
vợ, chồng bình đẳng trong quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản.
15



Chế độ tài sản vợ chồng pháp định có ý nghĩa quan trọng trong việc
điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ, chồng, tạo ra những nguyên tắc,
cách thức xử sự của vợ chồng trong quan hệ sở hữu tài sản, đảm bảo phù hợp
quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định quy định cụ thể căn cứ xác lập,
nguồn gốc, thành phần tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Khi xác lập
quan hệ hôn nhân, vợ, chồng dù lựa chọn chế độ tài sản pháp định hay ước
định thì các quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng luôn được
xác định cụ thể.
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định có ý nghĩa xác định quyền, nghĩa vụ
của vợ, chồng với nhau và với người thứ ba. Trên cơ sở xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng, chế độ tài sản vợ chồng pháp định xác định
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó. Quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng trong quan hệ tài sản được thể hiện như sau: vợ, chồng có
quyền sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản chung, một người không thể tự ý
định đoạt tài sản chung khi chưa có sự đồng ý của người kia; có quyền sở hữu
riêng đối với tài sản riêng (nếu có) của mình, tuy nhiên, quyền sở hữu riêng
kèm theo những hạn chế về quyền sở hữu trong một số trường hợp đặc biệt do
tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân.
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh
chấp trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng hoặc với người thứ ba tham gia
giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng hoặc người thứ ba. Trên cơ sở các quy định của chế
độ tài sản vợ chồng pháp định, cơ quan áp dụng pháp luật có căn cứ, nguyên
tắc để giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ, chồng trong những trường cụ
thể, ví dụ: vợ chồng ly hôn, vợ chồng phân chia tài sản trong thời kỳ hôn

16



nhân, vợ hoặc chồng chết trước cần phân chia tài sản để chia thừa kế hoặc để
giải quyết nghĩa vụ về tài sản của người đã chết với người thứ ba…
Ngoài ra, chế độ tài sản vợ chồng pháp định còn là những quy định
mang tính định hướng cho các cặp vợ chồng lựa chọn thỏa thuận chế độ tài
sản phù hợp quy định của pháp luật, đảm bảo thỏa thuận chế độ tài sản vợ
chồng không bị vô hiệu do vi phạm quy định pháp luật.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP
ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.3.1. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong cổ luật Việt Nam
Qua quá trình khảo cứu các quy định trong cổ luật Việt Nam, các nhà
nghiên cứu cho rằng các quy định pháp luật HN&GĐ là một phần quan trọng
trong hệ thống cổ luật, tuy nhiên, vấn đề tài sản của vợ chồng mặc dù đã được
quy định, nhưng không rõ ràng, hệ thống cổ luật không có chế định riêng rẽ
và cụ thể về chế độ tài sản vợ chồng. Điều này được thể hiện trong hai Bộ luật
lớn nhất của hệ thống cổ luật Việt Nam (Quốc triều hình luật được ban hành
dưới triều Lê trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1479), HVLL được
ban hành dưới triều Nguyễn vào năm 1812) và những tục lệ cổ.
Quốc triều hình luật quy định nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực HN& là
HN& không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng. Bộ luật cũng
đã có một số quy định quy định về vấn đề tài sản của vợ chồng như thành
phần khối tài sản chung của vợ chồng bao gồm: Phu tông điền sản (tài sản của
chồng được thừa kế từ gia đình chồng); Thê điền sản (tài sản của vợ được
thừa kế từ gia đình); Tần tảo điền sản (tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân), tất cả những tài sản này đều thuộc sự quản lý của người chồng
(chủ gia đình), người vợ được sử dụng tài sản chung của vợ chồng trong các
nhu cầu gia vụ đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình, trong những giao dịch
có giá trị lớn (điền sản) thì phải có sự đồng ý của hai vợ chồng, Bộ luật cũng
quy định quyền phản đối của người vợ khi chồng sử dụng tài sản chung

17



không đảm bảo quyền lợi của các con và lợi ích của gia đình, tài sản chung
của vợ chồng được chia trong trường hợp khi một bên vợ, chồng chết trước
mà giữa họ không có con (Điều 374, 375, 376).
HVLL được chép nguyên văn luật nhà Thanh, ghi nhận lại tư tưởng
phong kiến lạc hậu của Trung Quốc cùng thời. Theo HVLL, người vợ hoàn
toàn vô năng lực, phụ thuộc vào người chồng một cách tuyệt đối. Do đó, Bộ
luật này không có quy định nào về vấn đề tài sản của vợ chồng.
Ở thời kỳ này, tục lệ cũng chiếm một vị trí quan trọng chi phối hành vi
ứng xử trong quan hệ hôn nhân gia đình. Theo quan niệm truyền thống của
người phương Đông, trong gia đình yếu tố tình cảm luôn được coi trọng hơn
vấn đề tài sản, gia đình được tạo nên với mục đích sinh con đẻ cái, giáo dục
con cái, vì lợi ích của gia đình và xã hội. Vì thế, vợ chồng cùng chung sức tạo
dựng tài sản và toàn bộ tài sản vợ, chồng tạo ra hợp nhất thành một khối để
nuôi dưỡng, giáo dục con cái, khi cha, mẹ chết thì để lại cho con cái. Điều này
được thể hiện tập ý kiến gồm 324 câu giải đáp do Ủy ban tư vấn án lệ Bắc
Việt sưu tầm và ghi chép từ năm 1927 đến năm 1930 (trước khi ban hành
DLBK), tại câu hỏi thứ 31 có ghi:
Nguyên tắc căn bản vẫn còn được áp dụng trong gia đình Việt
Nam về chế độ tài sản vợ của vợ chồng là tất cả các của cải của đôi vợ
chồng, không phân biệt bản chất và nguồn gốc, đều để dành cho các con
theo câu tục ngữ: cha mẹ làm việc để nuôi con, cho nên suốt thời kỳ hôn
thú, tất cả của cải là của chung.
Theo tư tưởng nho giáo, người phụ nữ khi đã lấy chồng thì thuộc hẳn
về nhà chồng, thuyết tam tòng buộc họ phải tuân thủ người chồng, trong gia
đình người chồng được coi là chủ gia đình (trụ cột của gia đình) đương nhiên
có quyền đại diện cho quyền lợi của gia đình, là chủ sở hữu các tài sản trong
gia đình, có quyền định đoạt tài sản của gia đình.


18


Như vậy, chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong cổ luật và tục lệ ở
Việt nam là chế độ cộng đồng toàn sản, cụ thể là toàn bộ tài sản của vợ, chồng
trước khi kết hôn và tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân tạo
thành một khối tài sản chung của vợ chồng, khối tài sản này được đặt dưới sự
quản lý của người chồng.
1.3.2. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong thời kỳ pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam kéo dài hơn tám mươi năm, kể từ năm
1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược đến năm 1945. Trong thời kỳ này,
thực dân Pháp áp dụng chính sách “chia để trị” chia nước ta thành ba miền
(Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Vì thế, đối với mỗi miền, thực dân Pháp ban
hành và áp dụng các bộ luật riêng để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội,
trong đó có quan hệ hôn nhân gia đình: Ở Bắc Kỳ áp dụng BLDS năm 1931
(DLBK); ở Trung Kỳ áp dụng BLDS năm 1936 (DLTK); ở Nam Kỳ áp dụng
tập DLGY năm 1883 (DLGY).
* Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ
DLBK và DLTK chịu sự ảnh hưởng của BLDS Pháp năm 1804 nên có
những quy định tương tự nhau về quan hệ hôn nhân gia đình nói chung và chế
độ tài sản vợ chồng pháp định nói riêng. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định
trong DLBK và DLTK được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, về chế độ sở hữu trong chế độ tài sản vợ chồng pháp định.
Trên cơ sở ghi nhận tục lệ của người Việt Nam, mọi tài sản trong gia đình đều
là tài sản chung của vợ chồng, DLBK và DLTK quy định chế độ tài sản vợ
chồng pháp định được áp dụng cho các cặp vợ chồng không lập hôn khế (chế
độ tài sản ước định) là chế độ cộng đồng toàn sản. Điều 106, 107 DLBK và
Điều 105 BLTK quy định: “Nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì
cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của
vợ hợp làm một mà chung nhau”.


19


Thứ hai, về quy định thành phần khối tài sản chung. Nội dung của chế
độ cộng đồng toàn sản là tất cả của cải và hoa lợi của chồng và của vợ hợp
thành hợp thành khối tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, việc hợp nhất tài sản
riêng của vợ, chồng thành khối tài sản của vợ chồng chỉ mang tính tạm thời,
vì trong trường hợp vợ chồng ly hôn, Điều 112 DLBK và Điều 110 DLTK
quy định những tài sản riêng của vợ, chồng đã hợp nhất tạm thời vào khối tài
sản của vợ chồng sẽ được phân chia cho vợ, chồng theo nguyên tắc tài sản
riêng của bên nào thì bên đó lấy lại (nếu không có con chung). Hai Điều này
cũng quy định nếu tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được tu sửa, quản lý
bằng tài sản chung thì tài sản đó được tính vào tài sản chung của vợ chồng.
Theo đó, chỉ những tài sản vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mới là tài
sản chung chính thức.
Thứ ba, quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ tài
sản. Đối với việc sử dụng, định đoạt tài sản để thực hiện những giao dịch
nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình như ăn, ở, chăm sóc,
nuôi dạy con cái vợ, chồng có thể tự mình đại diện cho gia đình (Điều 100,
111 DLBK và Điều 98, 109 DLTK). Ngoài những giao dịch được nêu ở trên,
thì việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng phải được sự đồng ý của hai vợ
chồng (Điều 109 DLBK và Điều 107 DLTK). Trong một số trường hợp như
lập hội, thuê mướn, vay mượn, đi kiện… người chồng được phép tự mình
thực hiện; nhưng, ngược lại, người vợ lại không được tự ý thực hiện, người
vợ chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý, cho phép của người chồng (Điều 98
DLBK và Điều 104 DLTK).
Bên cạnh đó, pháp luật cũng dự liệu các chế tài đối với vợ và chồng khi
vợ, chồng có hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ như nếu người vợ cố ý thực
hiện những giao dịch khi chưa được sự đồng ý của người chồng, ảnh hưởng

tới quyền lợi của gia đình thì người chồng có quyền thu hồi một phần hoặc

20


toàn bộ quyền của người vợ (Điều 100 DLBK và Điều 98 DLTK); người
chồng không chu cấp để nuôi dưỡng vợ, con hoặc có hành vi phá tán tài sản
của gia đình thì người vợ có quyền yêu cầu tòa án cấm người chồng sử dụng
phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và toàn bộ tài sản do người vợ
hành nghề tạo ra (Điều 110 DLBK và Điều 108 DLTK).
Thứ tư, quy định về nghĩa vụ đối với các khoản nợ. Theo Điều 111
DLBK và Điều 109 DLTK quy định khối tài sản chung phải có nghĩa vụ chi
trả các khoản nợ sau: Những khoản nợ của vợ chồng đã vay trước khi kết hôn;
những khoản nợ của chồng vay trong thời kỳ hôn nhân; những khoản nợ do
vợ vay với tư cách là đại diện cho gia đình hoặc đã được sự cho phép của
chồng, khoản nợ do vợ ký kết khi hành nghề buôn bán hoặc làm công nghệ
một cách hợp lệ; những khoản nợ do hành vi phạm pháp của vợ gây ra.
Thứ năm, quy định về phân chia tài sản của vợ chồng
DLBK và DLTK đã có những quy định về phân chia tài sản của vợ
chồng trong hai trường hợp:
- Khi một bên vợ, chồng chết trước. Trong trường hợp người chồng chết
trước, nếu người vợ không tái giá (đi lấy chồng mới) thì người vợ được thay
chồng quản lý tài sản chung. Trường hợp người vợ chết trước thì người chồng
đương nhiên trở thành chủ sở hữu của toàn bộ khối tài sản chung của vợ chồng.
- Khi vợ chồng ly hôn. Khi vợ chồng ly hôn không có con chung, thì
người vợ được lấy lại tài sản riêng hiện còn của mình, nghĩa là những tài sản
đã được bán đi để chi dùng cho gia đình hoặc cho riêng người chồng thì người
vợ không được phép đòi lại, đồng thời bất cứ tài sản riêng nào của vợ hoặc
chồng đã được tu sửa, quản lý bằng tài sản chung của vợ chồng sẽ trở thành
tài sản chung của vợ chồng để phân chia khi ly hôn. Nguyên tắc phân chia khi

ly hôn là chia đều khối tài sản chung mỗi người một nửa sau khi hai bên vợ,
chồng đã lấy lại tài sản riêng của mình. Đối với trường hợp vợ chồng ly hôn

21


×