MỞ ĐẦU
Triết học Mác kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất
của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem
xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Trong triết học
Mác, lý luận duy vật biện chứng và phơng pháp biện chứng duy vật thống
nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên
triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác
có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng
duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới
quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân
tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên
tắc xuất phát điểm của phương pháp luận. Như vậy, trong triết học Mác thế
giới quan và phương pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học
Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và
khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết
học. Ngược lại, triết học Mác đem lại thế giới quan và phương pháp luận
đúng đắn cho sự phát triển khoa học. Tâm lý học ra đời cũng dựa trên những
cơ sở lý luận và phương pháp luận vững chắc của triết học Mác mà cụ thể đó
là lý luận của học thuyết mác-xít về vấn đề bản chất con người, về vấn đề
hoạt động, về ý thức con người.
Năm 1879 đánh dấu một bước ngoặc vĩ đại, một mốc son chói lọi trong
quá trình phát triển của ngành Tâm lý học, W. Wundt đã thành lập phòng thực
nghiệm tâm lý đầu tiên trên thế giới và công bố cương lĩnh mới về việc xây
dựng khoa học tâm lý. Tâm lý học từ đây tồn tại với tư cách là một khoa học
độc lập với các nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành độc lập. Năm 1880,
Viện Tâm lý học đầu tiên trên thế giới cũng được thành lập nhằm đào tạo
nguồn nhân lực tâm lý cho các nước trên thế giới, nhiều nhà Tâm lý học nổi
1
tiếng được đào tạo từ viện này. Nhưng do những hạn chế về thế giới quan và
phương pháp luận trong việc nghiên cứu tâm lý người nên cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX tâm lý học rơi vào tình trạng khủng hoảng trên con đường xây
dựng tâm lý học trở thành một khoa học thực sự khách quan phục vụ cho cuộc
sống của con người. Trong hoàn cảnh đó, một loạt các trường phái tâm lý học
khách quan ra đời như: Tâm lý học Gestalt; Tâm lý học hành vi; Phân tâm
học… với mục đích chung nhất là đưa tâm lý học thế giới thoát khỏi cuộc
khủng hoảng đó. Tuy nhiên, các trường phái tâm lý học đó đều không dựa trên
một cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn nên không có cách nhìn biện
chứng về con người, về hoạt động của con người và về ý thức con người, từ đó
dẫn đến quan niệm không đúng về đối tượng và sử dụng các phương pháp
nghiên cứu theo tư duy siêu hình, cơ học của chủ nghĩa thực chứng. Do đó, các
trường phái này cũng không đảm nhiệm được sứ mệnh đưa tâm lý học thoát
khỏi cuộc khủng hoảng, trở thành một khoa học thực sự khách quan, đáp ứng
được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Từ hoàn cảnh lịch sử đó, nhu cầu xây dựng lại tâm lý học từ cơ sở nền
tảng của nó là một đòi hỏi tất yếu. Chính từ tình hình đó đã tạo điều kiện cho
sự ra đời của Tâm lý học Mác xít – nền tâm lý học dựa trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của triết học Mác. Trong đó học thuyết Mác về con người,
về hoạt động của con người và về ý thức được coi là ba tiền đề tư tưởng quan
trọng nhất để xây dựng nền tâm lý học Mác xít. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ
vấn đề này có giá trị to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần làm rõ tính
khách quan, khoa học, chiều hướng phát triển của tâm lý học Mác xít; là cơ sở
vận dụng, xây dựng và phát triển nền tâm lý học Việt Nam nói chung
2
1. Tính tất yếu ra đời của nền Tâm lý học Mác xít.
Năm 1879 Tâm lý học ra đời ở Đức với tư cách là một khoa học độc
lập và sau đó lan rộng trong các nước Âu, Mỹ. Các trường phái tâm lý học nổi
tiếng thời kỳ này như: Tâm lý học Gestalt; Tâm lý học hành vi; Phân tâm học
và nhiều dòng phái Tâm lý học khác đã có ở đầu thế kỷ XX không đáp ứng
được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. các trường phái tâm lý học khách
quan đã có đóng góp không nhỏ trong việc tìm kiếm con đường phát triển mới
cho tâm lý học. Những thành tựu mà các trường phái này đạt được có ý nghĩa vô
cùng to lớn đối với sự phát triển của khoa học tâm lý. Tuy nhiên, do điều kiện xã
hội lịch sử, do thiếu những cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn, các dòng
phái tâm lý học này còn có những hạn chế nhất định, không thực hiện được cuộc
cách mạng để đưa tâm lý học trở thành một khoa học thực sự khách quan, đúng
như GS, VS Phạm Minh Hạc đã viết trong tác phẩm “Hành vi và hoạt động”:
“tâm lý học phân tâm mới bước lên đường xây dựng tâm lý học khách quan,
nhưng với các quan điểm cơ bản về con người và tâm lý người còn chưa thoát
khỏi phạm vi của thuyết sinh vật hóa con người và tâm lý người, chưa thấy được
bản chất xã hội – lịch sử của con người và tâm lý người. Cho nên tâm lý học phân
tâm, cũng như tâm lý học hành vi và tâm lý học Gestalt đều không đạt tới đích
thực sự nghiên cứu thế giới tâm lý trong cuộc sống thực của con người”. Chính vì
vậy đã dẫn đến cuộc khủng hoảng lần thứ hai trong tâm lý học thế giới hay còn
gọi là cuộc khủng hoảng của tâm học tư sản hiện đại mà thực chất là sự bế tắc
trong việc xác định phương hướng cho sự phát triển tâm lý học cụ thể là là bế tắc
trong việc xác định cơ sở phương pháp luận, phương pháp tiếp cận để nghiên cứu
tâm lý và quan niệm về bản chất tâm lý cũng như đối tượng nghiên cứu của tâm lý
học. X.L.Rubinstêin đã nhận xét: “Trong tâm lý học, cuộc khủng hoảng đó dẫn tới
chỗ chia ra nhiều thứ tâm lý học, còn các nhà tâm lý học thì chia thành nhiều
trường phái đối địch nhau. Do đó, cuộc khủng hoảng trong Tâm lý học mang một
3
tính chất gay gắt và công khai đến mức các đại biểu nổi tiếng nhất của khoa Tâm
lý học không thể không nhận thấy”.
Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) thời kỳ này như K.N.Coocnhilôp,
L.X. Vưgôtxki, P.P. Bơlônxki…nhận thấy các dòng phái tâm lý học trước đó
có nhiều khiếm khuyết và đã cố gắng cải tổ nền Tâm lý học Liên xô trên cơ
sở triết học Mác - xít. Năm 1920, trong tác phẩm “Cải cách khoa học”,
P.P.Blônxki đã viết: Tâm lý học phải hướng theo chủ nghĩa Mác. Tiếp thu
chiều hướng suy nghĩ đó, năm 1923, trong Báo cáo “Chủ nghĩa Mác và Tâm
lý học” đọc tại hội nghị toàn quốc về Tâm lý học thần kinh, K.N.Coocnhilôp
đưa ra tuyên bố: Tâm lý học phải đoạn tuyệt với triết học nhị nguyên, phải
đoạn tuyệt với Tâm lý học kinh nghiệm chủ nghĩa, phải từ bỏ khoa học tư
biện, siêu hình. Muốn trở thành một khoa học thực sự khách quan, tâm lý học
phải là tâm lý học Mác - xít. Tư tưởng đó đã trở thành ngọn cờ tập hợp những
nhà tâm lý học Liên Xô tập trung nghiên cứu xây dựng một nền Tâm lý học
kiểu mới - nền tâm lý học Mác - xít.
Từ hoàn cảnh lịch sử đó, nhu cầu xây dựng lại tâm lý học từ cơ sở nền
tảng của nó là một đòi hỏi tất yếu, chính từ tình hình đó đã tạo điều kiện cho
sự ra đời của Tâm lý học Mác xít.
Sự ra đời của tâm lý học Mác xít là một tất yếu khách quan của lịch sử,
gắn liền với tên tuổi của nhà tâm lý học người Nga L.X. Vưgốtxki. Năm 1925,
ông đã viết bài báo “Ý thức như một vấn đề của tâm lý học hành vi” trong đó,
ông đã phân tích sự khủng hoảng của tâm lý học và đưa ra khuyến cáo nhằm
xây dựng một nền tâm lý học kiểu mới: tâm lý học theo chủ nghĩa Mác. Đây
được coi là cương lĩnh mở đầu xây dựng nền tâm lý học Mác xít. Theo
Vưgốtxki, tất cả các dòng phái tâm lý học cũ, các dòng phái tâm lý học khách
quan đều không thể dùng làm khởi điểm xây dựng nền tâm lý học kiểu mới
nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng trong tâm lý học. Muốn xây dựng một nền
tâm lý học kiểu mới thực sự khách quan khoa học thì phải bắt tay xây dựng lại
4
từ những cơ sở nền tảng của nó. Bằng các lập luận sắc sảo thuyết phục
Vưgốtski đã đưa ra các nhận xét, đánh giá và đề xuất cách tháo gỡ tình trạng
khủng hoảng trong tâm lý học hiện thời, khẳng định sự cần thiết phải xây dựng
một nền tâm lý học thực sự khách quan khoa học, trong đó: Nền tâm lý học
mới phải nghiên cứu cả hành vi lẫn ý thức. Nhưng cả hành vi lẫn ý thức đều là
vấn đề vô cùng phức tạp. Ý thức và hành vi đều cùng tồn tại một cách khách
quan có thực, đều có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Muốn
hiểu được ý thức thì phải hiểu hành vi và ngược lại khi xét đến hành vi, không
thể không xét đến ý thức. Với phạm trù hành vi, không được hiểu như tâm lý
học hành vi đã hiểu trong đó quan niệm hành vi là tổ hợp của các phản xạ, là
phản ứng máy móc nhằm giúp cơ thể thích nghi với môi trường. Hành vi theo
ông đó là “cuộc sống”, là “lao động”, là “thực tiễn”. Hành vi chính là hoạt
động thực tiễn của con người. Cần phải nghiên cứu hành vi ở chỗ làm rõ cơ
chế, thành phần và cấu trúc của nó. Phạm trù phản xạ là cần thiết nhưng không
thể lấy phản xạ là khái niệm cơ bản của tâm lý học. Với con người, ông quan
niệm không thể nghiên cứu hoàn toàn bằng chìa khoá phản xạ có điều kiện.
Tâm lý học không được loại bỏ ý thức trong nghiên cứu tâm lý mà cần phải vật
chất hoá nó, không được coi ý thức là một loại hiện tượng thứ yếu. Muốn
nghiên cứu ý thức thì phải nghiên cứu cấu trúc của hành vi. “Ý thức là một vấn
đề của cấu trúc hành vi”. Hành vi của con người khác hành vi của con vật ở
chỗ trong hành vi của con người có sự kế thừa các kinh nghiệm: kinh nghiệm
lịch sử, kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm đã được tăng cường. Thông qua bài
báo đã nêu trên và qua nhiều công trình nghiên cứu khác Vưgốtxki xác định
phương pháp nghiên cứu tâm lý: Nghiên cứu tâm lý người bằng phương pháp
hoạt động. Tâm lý con người được tồn tại thể hiện trong hoạt động.
Đến năm 1934, X.L. Rubinstêin (1889 –1960) viết tác phẩm “ Những
vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác”. Tác phẩm này có ý
nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận và tạo tiền đề xây dựng nền tâm
5
lý học mới đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn phát triển của nền Tâm lý
học Liên Xô lúc đó. Ông viết: “Trong toàn tập của C.Mác không thấy có bài
nào bàn về tâm lý học. Nhưng trong nhiều tác phẩm khác nhau của Ông,
dường như là đồng thời trí tuệ thiên tài ấy đã nêu ra một loạt những nhận
định về các vấn đề tâm lý học khác nhau” 1. Trên cơ sở phân tích sâu sắc
những ý kiến của C.Mác về các vấn đề tâm lý học, các nhà tâm lý học Xô
Viết nhận thấy nhiệm vụ hàng đầu trong khi cải tổ tâm lý học là nhiệm vụ
xây dựng cơ sở triết học mới cho khoa học tâm lý theo lập trường Mác – xít.
Triết học Mác chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận để xây dựng một
nền tâm lý học mới khách quan khoa học. Trong đó những quan điểm, tư
tưởng của Học thuyết Mác về con người, về hoạt động của con người, về ý
thức con người được coi là ba tiền đề tư tưởng nền tảng quan trọng nhất để
xây dựng nền tâm lý học Mác - xít.
2. Những tiền đề tư tưởng của triết học Mác trong xây dựng nền Tâm lý
học Mác xít.
Triết học Mác là cơ sở lý luận và phương pháp luận để xây dựng một
nền Tâm lý học mới, khách quan khoa học, trong đó ba tiền đề: Học thuyết
Mác xít về con người; Học thuyết Mác xít về hoạt động của con người; Học
thuyết Mác xít về ý thức là ba tiền đề trực tiếp làm nền tảng tư tưởng để xây
dựng nền Tâm lý học Mác xít.
2.1. Học thuyết Mác xít về con người.
Học thuyết Mác xít về con người là cơ sở nền tảng để tìm hiểu tâm lý
con người.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là
giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó
1
X.L. Rubinstêin, Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác,Học viện CTQS, 1984, tr 25.
6
tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là
điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới
tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự
nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự
nhiên. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa
con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã
có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con
người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội",
hoặc con người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện
chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người
mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề
con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của
nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt
con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái
gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật
ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó
là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình". Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con
người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản
thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên"
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con
người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển
ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết
7
định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân
cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên
quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi
ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy
luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự
trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học
của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động
trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng,
niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống
nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã
hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu
cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn,
mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và
hưởng thụ các giá trị tinh thần. Với phương pháp luận duy vật biện chứng,
chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu
cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh
học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản
chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân
hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội
không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất
với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự
nhiên - xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội. Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng,
con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan
hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ
8
xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan
hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy,
để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi
tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan
hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia
đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Điều
cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên
tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu
cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức
đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con
người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Học thuyết Mác xít về
con người khẳng định con người gắn với tính tích cực hoạt động cải tạo hiện
thực. Con người khác động vật ở chỗ, động vật trực tiếp đồng nhất nó với tự
nhiên. Động vật lệ thuộc vào tự nhiên, lệ thuộc vào hoàn cảnh mà nó có mặt
trong đó, động vật với tự nhiên là một và không có năng lực tự tách mình ra
khỏi tự nhiên để nhận thức tự nhiên. Còn con người với tự nhiên là không
đồng nhất. Con người có năng lực tự tách mình ra khỏi tự nhiên để nhận thức
9
tự nhiên. Trong mối quan hệ với tự nhiên, con người là chủ thể tích cực cải
tạo tự nhiên và quá trình đó cũng là quá trình con người cải tạo chính bản thân
mình. Các Mác đã viết: “Hoàn cảnh được biến đổi bởi chính con người” 2.
“Con người tác động vào tự nhiên bên ngoài và thay đổi tự nhiên, đồng thời
cũng thay đổi bản tính của chính mình và phát triển những năng khiếu tiềm
tàng trong bản thân mình”3. Còn khi phân tích về khía cạnh này,
Ph.Ăngghen, trong Biện chứng của tự nhiên, viết: “Loài động vật chỉ lợi dụng
tự nhiên bên ngoài và chỉ gây ra những biến đổi trong tự nhiên đơn thuần
bằng sự có mặt của chúng; còn con người thì do đã tạo ra những biến đổi
trong tự nhiên, và bắt tự nhiên phải phục vụ cho những mục đích của mình và
thống trị tự nhiên”4.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn
của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình
để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo
mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra
lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất
vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến
đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội,
con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát
triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và
do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Không có con
người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất
2
Các Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập 2, Nxb ST, H. 1971, Tr 491
Các Mác, Tư bản, Quyển 1, Tập 1, Nxb ST, H.1959, Tr 247.
4
Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, NxbST,H.1963, Tr 283.
3
10
định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện
lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở,
tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan
hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là
chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi
cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy
định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của
bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó
chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo
khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có
ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh
một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác
nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển
của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con
người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
Như vậy học thuyết Mác xít về con người có ý nghĩa rất to lớn đối với xây
dựng tâm lý học Mác xít, là cơ sở khoa học trong xem xét vấn đề con người,
phải xuất phát từ tính hiện thực và toàn diện; khắc phục tính trừu tượng, chung
chung xa rời hiện thực và duy tâm siêu hình. Con người luôn là điểm xuất phát,
mục tiêu, động lực của sự nghiệp phát triển xã hội; trung tâm của mọi quyết sách
xã hội. Muốn thay đổi bản chất con người, cải tạo con người phải thay đổi, cải
tạo những mối quan hệ xã hội, tránh hô hào, kêu gọi chung chung. Là cơ sở khoa
học để đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái về vấn đề này. Chống tuyệt
11
đối hóa yếu tố sinh vật trong sự phát triển của con người; hoặc tuyệt đối hóa
yếu tố xó hội trong sự hỡnh thành con người.
2.2. Học thuyết Mác xít về hoạt động của con người.
Học thuyết Mác xít về hoạt động của con người đã đặt nền móng khoa
học cho tâm lý học.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy
được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm
của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa
yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là
hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài
con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Mac-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra luận điểm hoạt
động và vai trò của hoạt động đối với sự hình thành, phát triển của loài người.
Theo Mác hoạt động là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt
động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên
ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có
tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để
làm chủ thế giới. Trong qúa trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra
được một “thiên nhiên thứ hai” của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần
và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người
vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, không có hoạt động, con người và
xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Hoạt động là phương
thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu
của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Hoạt động có mối quan hệ biện
chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận thức, vai trò của
thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu
12
và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định“chính việc người ta biến đổi
tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự
nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con
người đã phát triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong qúa trình hoạt động cải tạo thế giới mà nhận
thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động con
người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính,
những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận
thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế
không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ
không có khoa học, không có lý luận. Trong qúa trình hoạt động cải biến thế
giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các
giác quan của con người làm cho chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển
tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá
những bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của
nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.
Kế thừa có chọn lọc thành tựu của triết học trong lịch sử mà trực tiếp là
triết học của Hêghen, C.Mác đã xây dựng học thuyết duy vật biện chứng về
hoạt động của con người. Học thuyết này được tóm tắt vào một trong các luận
cương của C.Mác về Phơbách (1804 -1872). C.Mác phê phán toàn bộ triết học
trước đó, kể cả Phơbách, nhà triết học lớn nhất thời ấy là chỉ thấy sự vật như
một khách thể, như cái có thể quan sát được mà không thấy chính trong sự vật
có hoạt động thực tiễn của con người. Các vật thể, hay nói rộng ra cả thế giới
đối tượng là sản phẩm của lao động của cả loài người, đó chính là hoạt động
của con người ở thể tĩnh. Tức là vật thể, thế giới đối tượng chứa đựng năng
lực của con người bao gồm suy nghĩ về công dụng, tri thức về vật liệu, về quá
13
trình công nghệ… Và ở đó có cả khiếu thẩm mỹ nữa. Nói cách khác, việc làm
ra sản phẩm là quá trình con người vật chất hoá (đối tượng hoá) các suy nghĩ,
tri thức, quan niệm của mình. Về vấn đề này C.Mác viết: “Sự vĩ đại của “hiện
tượng học” của Hêghen và của kết quả cuối cùng của nó - phép biện chứng
của tính phủ định coi như nguyên lý đang vận động và đang sản sinh là ở chỗ
Hêghen xem xét sự tự sản sinh của con người như là một quá trình, xem xét
sự đối tượng hoá như là sự đối lập hoá và sự tước bỏ sự tự tha hoá ấy, do đó
Ông ta nắm lấy bản chất của lao động và lý giải con người đã được đối tượng
hoá, con người chân chính, do đó có tính chất hiện thực, như là kết quả của
lao động của bản thân con người”5. Luận điểm này của C.Mác có ý nghĩa to
lớn cho tâm lý học ở chỗ cần phải nhìn thấy sự vật, hiện tượng xung quanh
con người chính là kết quả hoạt động thực tiễn của con người, chứa đựng lực
lượng bản chất người. Đối với C.Mác, toàn bộ hoạt động của con người là sự
đối tượng hoá của bản thân con người, hay nói cách khác, là quá trình bộc lộ
ra khách quan của những lực lượng bản chất của con người. Trong tác phẩm
Tư bản, khi phân tích lao động C.Mác đã nói giản đơn rằng, trong lao động
“chủ thể di chuyển vào khách thể”. Như vậy hoạt động của con người không
phải là phản ứng của cơ thể đối với kích thích bên ngoài như tâm lý học hành
vi quan niệm, cũng không phải là một việc làm theo lối thao tác bên ngoài của
chủ thể đối với khách thể, mà nó là sự di chuyển của chủ thể vào khách thể.
Bản thân quan niệm về hoạt động như là sự đối tượng hoá đã chứa đựng tư
tưởng đó. Đồng thời C.Mác cũng có ý tưởng về chủ thể. C.Mác nhấn mạnh:
“Hoạt động và đối tượng thâm nhập lẫn vào nhau”. Bởi vì hoạt động của con
người là sự đối tượng hoá, là sự khách thể hoá con người, hoặc là sự di
chuyển chủ thể vào khách thể, là sự phát lộ ra trong các đối tượng của hoạt
động những lực lượng bản chất của con người, trong đó có tình cảm và ý
thức. C.Mác viết: “Sự tồn tại đối tượng hoá đã hình thành của công nghiệp là
quyển sách đã mở ra của những lực lượng bản chất của con người, là tâm lý
5
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr194.
14
con người bày ra trước mắt chúng ta một cách cảm tính:” 6. Vì vậy C.Mác viết
tiếp: “Tâm lý học - quyển sách ấy, nghĩa là chính cái bộ phận dễ cảm thấy
nhất, dễ tiếp xúc nhất của lịch sử không mở ra cho tâm lý học này- không thể
trở thành khoa học thực sự có nội dung phong phú và hiện thực” 7. Như vậy,
theo luận điểm của C.Mác về hoạt động của con người thì mối quan hệ qua lại
giữa con người với môi trường xung quanh được xác định là sự tác động qua
lại có nội dung hoạt động. Tác động là cái thứ nhất, tâm lý là cái thứ hai. Sự
tác động giống như nhu cầu ở ngoài con người cần được thoả mãn. Trong quá
trình hiện thực hoá mối quan hệ này, con người cải tạo tự nhiên bằng hoạt
động của mình và sản xuất ra thế giới đối tượng. Do đó, sản phẩm đối tượng
là do con người tạo ra, là “những lực lượng bản chất” của con người được
đưa ra ngoài thành sản phẩm. Sản phẩm là sự khẳng định của một trong
những lực lượng bản chất của con người.
Đó là hoạt động lao động và có thể coi đó là một mặt, một chiều của hoạt
động nói chung trong hoạt động của con người. Theo C.Mác, hoạt động của
con người còn có một mặt khác, một chiều khác - đó là chiều ngược lại với
chiều vừa mô tả. Ở trên ta có chiều đối tượng hoá năng lực, tâm lý, ý thức con
người thành sản phẩm của hoạt động lao động. Còn ở đây ta có chiều tâm lý, ý
thức đã được đặt vào sản phẩm, tách ra khỏi sản phẩm và chuyển thành năng
lực, tâm lý, ý thức. C.Mác chỉ ra do sự nối liền sợi dây liên hệ từ chủ thể đến
khách thể mà trong hoạt động của con người lại bộc lộ ra một quan hệ phụ
thuộc khác từ khách thể đến chủ thể. Nói cách khác, trong quá trình chủ thể di
chuyển vào khách thể thì bản thân chủ thể cũng đã tự hình thành. C.Mác viết:
“Chỉ có thông qua sự phong phú đã được phát triển về mặt vật chất của bản
chất con người thì sự phong phú của cảm giác chủ quan của con người mới
được phát triển và một phần thậm chí lần đầu tiên mới được sản sinh ra: lỗ tai
thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức, nói tóm lại là những
6
7
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr139.
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr139,140.
15
cảm giác có khả năng về những sự hưởng thụ có tính chất người và tự khẳng
định mình như là những lực lượng bản chất của con người” 8. Như vậy sự đối
tượng hoá bản chất con người là tất yếu – xét về phương diện lý luận cũng
như phương diện thực tiễn, như C.Mác nói: “để một mặt nhân loại hoá cảm
giác của con người, và mặt khác sáng tạo cảm giác con người tương ứng với
toàn bộ sự phong phú của bản chất nhân loại và tự nhiên” 9. Theo cách nói của
C.Mác thì “bằng cách biến đổi tự nhiên bên ngoài con người, đồng thời con
người biến đổi bản tính của chính mình”. Có nghĩa là tâm lý, ý thức con
người hình thành không phải theo cách âm thầm, tự hiểu, không bộc lộ ra,
không phải trong trạng thái vô vị không hoạt động, mà là trong lao động,
trong bản thân hoạt động cải tạo thế giới của con người.
Trong các tác phẩm của C.Mác, mặc dù không phải là những tác phẩm
chuyên về tâm lý học, nhưng bằng cách phân tích, lập luận khoa học, có dẫn
chứng, kết hợp với so sánh, phê phán những sai lầm của các quan điểm triết
học khi nghiên cứu về hoạt động của con người, C.Mác đã khai thông bế tắc
về mặt phương pháp luận trong nghiên cứu hoạt động của con người. Theo
quan điểm của C.Mác thì sự tác động qua lại có nội dung hoạt động giữa con
người và thế giới bên ngoài được xem như là quá trình đối tượng hoá chủ thể
(con người tạo ra sản phẩm) và quá trình chủ thể hóa đối tượng (con người
lĩnh hội các thao tác nằm trong đối tượng, các quan hệ sau đối tượng). Quá
trình thứ nhất là quá trình con người dùng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… của
mình để tham gia vào việc sáng tạo ra thế giới đối tượng. Quá trình thứ hai
được hiểu là quá trình hình thành tâm lý, ý thức, chính là hình thành tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo… của con người - hình thành nhân cách nói chung. Nếu gọi
quá trình thứ nhất là quá trình “xuất tâm” thì quá trình thứ hai được gọi là quá
trình “nhập tâm”. Quá trình thứ nhất là quá trình sáng tạo, còn quá trình thứ
hai là quá trình lĩnh hội. Hai quá trình này có quan hệ biên chứng với nhau,
8
9
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr137
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr138.
16
xâm nhập vào nhau. Chính thông qua hai quá trình này, đặc biệt là quá trình
thứ hai mà tâm lý, ý thức con người được nảy sinh, hình thành và phát triển.
Hoạt động của con người càng phong phú thì tâm lý, ý thức người càng phong
phú. Hoạt động chính là chìa khoá để hình thành, tìm hiểu, đánh giá và điều
khiển tâm lý, ý thức con người một cách khách quan, khoa học.
2.3. Học thuyết Mác xít về ý thức.
Học thuyết Mác xít về ý thức đã tạo ra lý luận chung về tâm lý con
người.
Ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ một hình thức phản ánh thế
giới khách quan của dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao nhất là não người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng(CNDVBC) khẳng định: ý thức có nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Ý thức của con người là sản phẩm của quá
trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên: CNDVBC khẳng định ý thức là một thuộc tính của
vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Con người là sản phẩm của
quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ đến hữu cơ, từ đơn
bào đến đa bào, từ động vật bậc thấp đến bậc cao. Nên chỉ có bộ óc người là
sản phẩm phát triển cao nhất của vật chất có cấu tạo rất tinh vi, là cơ quan vật
chất của ý thức. Hoạt động của ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ
sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người.
Ý thức là chức năng của bộ óc người, là thuộc tính của bộ não, là sự
phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Phản ánh là thuộc tính khách
quan vốn có của mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của
một hệ thống vật này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại của chúng. Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Là hình thức cao nhất của sự phản
17
ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế
giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người..ý thức là ý thức của con
người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.
Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của
vật chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản
ánh. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc
người là cơ quan phản ánh, song chỉ riêng bộ óc người thôi thì chưa thể có ý
thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua
đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người
cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của
ý thức.
Nguồn gốc xã hội: Để ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên
là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Sự ra đời của bộ
não người cũng như sự hình thành con người và xã hội loài người nhờ hoạt
động lao động và giao tiếp xã hội bằng ngôn ngũ. Lao động và ngôn ngữ là
nguồn gốc xã hội của ý thức. Lao động là hoạt động đặc thù của con người,
nhờ lao động mà năng lực phản ánh của bộ óc người ngày càng phát triển.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực
tiếp. Còn loài người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự sống
thường không có sẵn trong tự nhiên. Con người phải tạo ra những vật phẩm
ấy. Chính trong quá trình lao động đã từng bước hoàn thiện con người, làm
biến đổi con người và làm cho con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về
thế giới. Thông qua lao động làm cho thế giới khách quan bộc lộ bản chất quy
luật để con người nhận thức ngày càng phát triển và hoàn thiện, khả năng tư
duy trừu tượng ngày càng cao. Hoạt động lao động đã đưa lại cho bộ não
người năng lực phản ánh sáng tạo về thế giới. Quá trình lao động sản xuất,
18
con người hình thành nhu cầu quan hệ, trao đổi kinh nghiệm, giao tiếp, do đó
lao động còn là cơ sở hình thành và phát triển ngôn ngữ.
Ngôn ngữ: (tiếng nói và chữ viết) là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là
phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, là phương tiện để giao lưu tri
thức từ thế hệ này sang thế hệ khác, giúp loài người và mỗi người nhanh
chóng hình thành phát triển ý thức. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích
thích chủ yếu để biến bộ não của vượn thành bộ não con người, biến phản ánh
tâm lý động vật thành phản ánh ý thức.
MQH giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức:
Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội có quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau, thống nhất biện chứng với nhau. Chúng là cơ sở, tiền đề cho nhau tồn
tại phát triển, trong đó nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội
là điều kiện đủ để hình thành ý thức của con người.
Như vậy, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự
nhiên và lịch sử xã hội. Nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức, là thực tiễn xã hội. Vì vậy trong xem xét, cải tạo ý thức phải toàn
diện, trên cơ sở nguồn gốc xã phải quan tâm đúng mức đến nguồn gốc tự
nhiên. Trong hoạt động thực tiễn, việc xây dựng ý thức con người phải chăm
lo cả hai mặt, cả thể lực và tinh thần, phải tạo môi trường xã đưa con người
vào hoạt động, được giao lưu, được thông tin.
Bản chất của ý thức.
Từ việc làm rõ nguồn gốc của ý thức, các nhà lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin chỉ ra bản chất của ý thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh của sự vật, là sự phản ánh thế giới khách quan được
thực hiện trong não người, gắn liền hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa,
19
có tính định hướng, có lựa chọn nhằm sáng tạo ra những tri thức về sự vật
hiện tượng của thế giới khách quan. Nội dung của ý thức do thực tại khách
quy định. Thực tại khách quan giống như bản chính, còn ý thức giống như
bản sao. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính chủ
quan của mỗi người, gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức là phản ánh chủ quan của thế giới khách quan nhưng là sự phản
ánh mang tính tính sáng tạo, tích cực về thế giới khách quan. Phản ánh của ý
thức là sự sáng tạo do nhu cầu thực tiễn quy định. Phản ánh của ý thức là tích
cực chủ động sáng tạo vì phản ánh bao giờ cũng dựa trên hoạt động thực tiễn
xã hội và là sản phẩm của quan hệ xã hội, chịu sự chi phối chủ yếu của các
quy luật xã hội do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của con người quy định. Do vậy, ý thức mang bản chất xã hội.
Sự phản ánh của ý thức mang dấu ấn của chủ thể phản ánh. Theo quan
điểm của triết học Mác, qua quá trình phản ánh của ý thức là quá trình cái vật
chất di chuyển vào óc người và được cải biến trong đó. Do đó, sự phản ánh
của ý thức phụ thuộc vào bản thân chủ thể trong quá trình phản ánh thế giới
khách quan. Sự phản ánh phụ thuộc vào trình độ năng lực chủ thể trong quá
trình phản ánh. Trình độ năng lực của chủ thể chính là tri thức của chủ thể, sự
hiểu biết của chủ thể về tự nhiền và xã hội. Trình độ của chủ thể càng cao thì
phản ánh càng đúng đắn thế giới vật chất ; người có trình độ hiểu biết cao sẽ
nhận thức đúng về thế giới và điều chỉnh hành vi của mình trong hoạt động
thực tiễn. Sự phản ánh phụ thuộc vào kinh nghiệm của chủ thể; kinh nghiệm ở
đây chính là quá trình hoạt động thực tiễn lâu năm, người hoạt động thực tiễn
lâu năm, đúc kết được nhiều kinh nghiệm thì phản ánh thế giới có hiệu quả
hơn, nhận thức thế giới một cách đúng đắn hơn. Sự phản ánh phụ thuộc vào
lập trường giai cấp của chủ thể. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, chủ thể
phản ánh luôn chịu sư chi phối bởi lợi ích giai cấp. Chính vì vậy trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ tồn tại xã
20
hội gắn với phẩm chất năng lực và lập trường giai cấp của chủ thể. Đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan, chống chủ quan duy ý chí, tư tưởng thụ
động và chủ nghĩa giáo điều xã rời thực tiễn.
Học thuyết về ý thức do C.Mác vạch ra đã chỉ rõ ý thức của con người
được hình thành một cách khách quan, được sản xuất ra bởi mối quan hệ giữa
con người và thế giới xung quanh. Điều đó có nghĩa ý thức con người không
phải là cái có sẵn. Các quan niệm bẩm sinh về ý thức cho rằng ý thức có từ
khi con người sinh ra là điều không đúng.
Quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh được thực hiện thông qua
hoạt động của con người. Ý thức con người được nảy sinh bằng hoạt động của
con người thông qua quá trình tác động vào thế giới đối tượng. Đây là một luận
điểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng. X.L.Rubinstêin (1889 - 1960), nhà tâm lý
học vĩ đại người Nga viết: “Quan niệm trung tâm đó của C.Mác về sự hình thành
tâm lý con người trong quá trình hoạt động thông qua sản phẩm của hoạt động
đó đã giải quyết vấn đề mấu chốt của tâm lý học hiện đại và vạch ra con đường
đi tới cách giải quyết vấn đề đối tượng của tâm lý học hoàn toàn khác với các
khuynh hướng đang chống đối nhau trong tâm lý học hiện đại”10.
Ý thức con người là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo
một cách thức đặc biệt. V.I. Lênin, viết: “Vật chất gây nên cảm giác bằng
cách tác động vào giác quan của chúng ta. Cảm giác phụ thuộc vào óc, thần
kinh, võng mạc… nghĩa là vào vật chất được tổ chức theo một cách thức nhất
định sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào cảm giác”. Còn nội dung của
ý thức, bắt nguồn từ những biến đổi trong quan hệ thực của con người với
hoàn cảnh, điều kiện sống cụ thể của mỗi cá nhân, như X.L.Rubinstêin nhấn
mạnh “Đó là điểm có ý nghĩa quyết định về phương pháp luận”(11) .
10
X.L.Runbinstêin, Những vấn đề tâm lý học trong các tác phẩm của Các Mác, trong sách “Tâm lý học những cơ sở lý luận và phương pháp luận”, Học viện chính trị quân sự, H.1984, Tr 38.
11
X.L.Rubinstêin, những vấn đề tâm lý học trong các tác phẩm của Các Mác, Sđd, Tr 43.
21
Theo luận điểm của C.Mác thì tâm lý người hình thành trong quá trình
con người thực hiện hoạt động, qua sản phẩm của hoạt động đó Đồng thời,
tâm lý, ý thức người có tính chất gián tiếp khách quan. Ý thức không phải là
cái tồn tại trong thế giới tâm lý nội tại khép kín, tách biệt, mà là cái tồn tại
thông qua hoạt động thực tiễn trong thế giới khách quan. Tức là, ý thức hình
thành và vận hành trong quá trình chuyển hoá qua lại giữa chủ thể và khách
thể - các quá trình được thực hiện bằng hoạt động của chủ thể. Trong quan hệ
đối với môi trường xung quanh, ý thức và tâm lý không phải là một thứ tinh
thần nào đó có khả năng sáng tạo tuỳ ý, không phải là một cái gì đó hoàn toàn
thụ động, đứng ngoài lề mà phải được coi là một thứ có chức năng tích cực
đối với hoạt động tác động vào thế giới khách quan, cũng chính là tác động
vào chính chủ thể của hoạt động đó Từ hai vấn đề trên rút ra kết luận là chỉ có
thể nhận thức được tâm lý, ý thức thông qua hoạt động của con người và sản
phẩm của hoạt động đó. Vì hoạt động và sự sử dụng thành quả của hoạt động
cả về nội dung lẫn phương thức tồn tại đều có tính chất xã hội. C.Mác khẳng
định: “Hoạt động và sự hưởng thụ những thành quả của hoạt động, xét theo
nội dung của nó cũng như xét theo phương thức tồn tại, là có tính chất xã hội:
hoạt động xã hội và hưởng thụ xã hội”12. Vì vậy, nguồn gốc và sự vận hành
của ý thức nói riêng, tâm lý nói chung đều có các quan hệ xã hội của con
người và sự vận động của các mối quan hệ đó tham gia vào. Nhờ đó, ý thức
và tâm lý mang tính chất gián tiếp. Từ đó có thể suy ra rằng việc nhận thức ý
thức, tâm lý phải tiến hành thông qua sản phẩm lao động và các quan hệ xã
hội, tức là qua thực tiễn của loài người nói chung và thực tiễn cuộc sống của
từng người nói riêng. Phương pháp nghiên cứu tâm lý, ý thức phải là phương
pháp khách quan rút ra từ tính chất gián tiếp của tâm lý, ý thức. Quan niệm
trung tâm đó của C.Mác về sự hình thành tâm lý con người trong quá trình
hoạt động thông qua sản phẩm của hoạt động đó đã giải quyết vấn đề mấu
chốt của tâm lý học hiện đại và vạch ra con đường đi tới cách giải quyết vấn
12
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr130,131
22
đề đối tượng của tâm lý học hoàn toàn khác với các khuynh hướng đang
chống đối nhau trong tâm lý học hiện đại. Nói cách khác, phải tìm chìa khoá
để nghiên cứu tâm lý, ý thức người ngay trong hoạt động lao động làm ra sản
phẩm. Tư tưởng về cơ chế gián tiếp của hoạt động của con người nói chung
như đã nói ở trên đã mở ra con đường đi tới một quan niệm mới về tâm lý, ý
thức cũng như nhân cách và các thuộc tính của nhân cách con người nói
chung. Như X.L. Rubinstêin đã chỉ ra: “Hành động của con người một khi trở
thành gián tiếp chẳng những do tình huống đương thời trực tiếp quyết định,
mà còn bởi cả những mục đích và nhiệm vụ ở bên ngoài giới hạn đó quyết
định nữa; hành động của con người trở thành có tính lựa chọn, tính mục đích
và tính ý chí, đó chính là những nét định tính cho hoạt động của con người
trong sự khác biệt hẳn với hành vi của con vật”13. Từ đó có thể khắc phục
được quan niệm máy móc về hành động của con người theo cách hiểu của chủ
nghĩa hành vi. Đồng thời tâm lý, ý thức trở thành đối tượng thực của một nền
tâm lý học có thực, một nền tâm lý học có nội dung khác hẳn trào lưu hành vi
chủ nghĩa là học thuyết đã loại trừ tâm lý và ý thức ra ngoài phạm vi nghiên
cứu, cũng như vượt lên trên quan niệm nội quan của tâm lý học cũ trước Mác
- xít về tâm lý và ý thức.
Tóm lại, học thuyết Mác - xít về bản chất con người, hoạt động, ý thức
của con người được vận dụng vào tâm lý học có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, Muốn tìm hiểu đời sống tâm lý con người, trước hết phải có
quan niệm đúng về con người, đó là con người tồn tại với tư cách là sản phẩm
và là chủ thể tích cực của điều kiện xã hội – lịch sử. Tâm lý người được giải
thích bằng nội dung của cả lịch sử xã hội loài người, từ khi hình thành loài
người, qua các hình thái kinh tế xã hội, cũng như trong các điều kiện xã hội
cụ thể mà con người đang sống trong đó. Nghiên cứu tâm lý con người phải
dựa trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác về con người, lấy con
người làm trung tâm, từ đó đi tìm hiểu cái gọi là “tính người” trong mỗi con
13
X.L. Rubinstêin, Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác,Học viện CTQS, 1984, tr 41.
23
người cụ thể, từng xã hội cụ thể. Bên cạnh đó, phải khắc phục những hạn chế
trước đó về cách thức tiếp cận để tìm hiểu, đánh giá tâm lý con người. Muốn
hiểu được tâm lý con người cần phải thoát ra khỏi mối quan hệ của cơ thể với
môi trường tự nhiên đảm bảo sự tồn tại của cơ thể. Nói cách khác, là tâm lý
cần phải thoát ra khỏi vòng cương tỏa của sinh vật luận, tâm lý học phải
chuyển sang vương quốc của “tâm lý học lịch sử người”.
Thứ hai, Phương pháp tiếp cận tâm lý con người là thông qua hoạt
động, hoạt động chính là chìa khóa để nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá và
cũng là nơi tâm lý hình thành, phát triển. Nói cách khác, tâm lý con người
được hình thành và biểu hiện trong hoạt động, hoạt động là bản thể của tâm
lý. Tư tưởng của C.Mác về hoạt động của con người đã chỉ ra một cách khoa
học sự hình thành phát triển tâm lý con người là thông qua hoạt động và
bằng hoạt động. Đồng thời tâm lý, ý thức con người được biểu hiện ra trong
hoạt động và được ghi lại trong sản phẩm hoạt động. Như vậy, tâm lý, ý thức
và hoạt động của con người có sự gắn bó hữu cơ với nhau, thống nhất biện
chứng không thể chia cắt. Cần lưu ý ở đây là sự thống nhất tâm lý - ý thức
và hoạt động là sự thống thống nhất trong cả quá trình.
Thứ ba, Ý thức là một hình thức đặc biệt của tâm lý. Lý luận mác - xít về
ý thức có ý nghĩa trực tiếp đối với việc giải quyết vấn đề nguồn gốc nảy sinh
của tâm lý. Ý thức được hình thành trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới xung quanh, ý thức được hình thành trong mối quan hệ giữa chủ thể với
thế giới bên ngoài chứ không phải sinh ra đã có. Nói đến quan hệ là nói đến
mối quan hệ hai chiều giữa chủ thể ý thức và các khách thể tham gia kiến tạo
nên các mối quan hệ ấy. Ý thức được hình thành trong hoạt động, mà trực tiếp
là hoạt động lao động của con người, thông qua hoạt động, tâm lý, ý thức người
hình thành và phát triển. Theo Leonchiep: “phát kiến của Mác có ý nghĩa căn
bản đối với lý luận tâm lý học là: ý thức không phải là sự biểu hiện một năng
lực thần bí nào đó của bộ não người phát ra “ánh sáng ý thức” do ảnh hưởng
24
của những vật – kích thích tác động vào nó, mà là sản phẩm của những quan hệ
đặc biệt, tức là của những quan hệ xã hội mà con người tham gia vào và cũng
chỉ được thực hiện thông qua bộ não, các cơ quan cảm giác và cơ quan hành
động của con người. Trong các quá trình do những quan hệ ấy sinh ra cũng
diễn ra việc các khách thể có hình thức là những hình tượng chủ quan của
chúng trong đầu óc con người, tức là hình thức ý thức” 14. Điều này nhấn mạnh,
vấn đề ý thức chỉ có thể được làm sáng tỏ khi tiếp cận dưới góc độ hoạt động.
KẾT LUẬN
Với tư cách một học thuyết cách mạng về bản chất, khoa học về thực
chất, triết học Mác không chỉ có giá trị lịch sử, mà còn mang ý nghĩa thời đại,
mang hơi thở và sức sống của thời đại và do vậy, không chỉ trường tồn trong
thế kỷ XXI này, mà còn mãi trường tồn với lịch sử nhân loại. Ý nghĩa thời đại
và sức sống trường tồn của triết học Mác là ở chỗ, các giá trị bền vững trong
hệ thống triết học này đã, đang và vẫn sẽ là cơ sở lý luận nền tảng, phương
pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới bằng cách mạng; còn
những hạn chế lịch sử trong một số luận điểm, quan điểm, tư tưởng cụ thể nào
đó thì tự thân tính khoa học và bản chất cách mạng của hệ thống triết học này
cũng đặt ra yêu cầu phải bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới.
Thật vậy, trong thời đại ngày nay, chỉ có triết học Mác mà hạt nhân của
nó là phép biện chứng duy vật mới có khả năng giải đáp một cách khoa học
những vấn đề mà tư tưởng tiến bộ của nhân loại đã đặt ra, soi sáng những
nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của xã hội loài người - giải phóng con người
và nhân loại, cải biến và xây dựng chế độ xã hội mới mà trong đó, tự do, công
bằng, bình đẳng, dân chủ và văn minh là những giá trị nền tảng.
Học thuyết Mác-lênin ra đời với những luận điểm mang tính cách mạng,
khoa học về con người, về thế giới đã tạo bước ngoặt vĩ đại cho lịch sử khoa học
nhân loại, trong đó những lý luận về bản chất con người, về hoạt động của con
người cũng như vấn đề bản chất của ý thức con người là tiền đề, cơ sở trực tiếp
14
Sđd, tr. 36 - 37
25