Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG ôn THI CAO HỌC môn tâm LÝ HỌC đầu VÀO (LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.79 KB, 50 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
VẤN ĐỀ 1: TƯ TƯỞNG TÂM LÝ HY LẠP CỔ ĐẠI

1. Bối cảnh chung:
- Vào khoảng từ thế kỷ VII trước công nguyên, trong tư duy của các triết gia cổ đại,
người ta đã đề cập đến khái niệm “tâm hồn”, đó là thế giới tinh thần bí ẩn của con người.
- Nhiều triết gia cổ đại đã đặt thành đối tượng để nghiên cứu, lý giải. Nổi bật trong số này
là Socrate (470-399 TCN), nhà triết học duy tâm cổ Hi Lạp.
+ Bằng các câu hỏi thích hợp, ông đã giúp người đối thoại với mình tìm đến chân lý.
Lịch sử đã ghi nhận: đó là phương pháp Socrate. Các vấn đề mà Socrate quan tâm trong các
đối thoại bao gồm một lĩnh vực rất rộng của cuộc sống như chính nghĩa, phi nghĩa, thiện và ác,
lòng tốt, vẻ đẹp, lòng dũng cảm...
+ Quan điểm triết học và tâm lý học nổi tiếng của Socrate thể hiện trong châm ngôn “hãy
nhận thức chính bản thân mình”.
=> Việc xuất hiện châm ngôn này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của khoa học
tâm lý, ở chỗ lần đầu tiêu trong lịch sử phát triển của khoa học nói chung, của triết học và tâm
lý học nói riêng đã có người kêu gọi cần phải nghiên cứu một loại hiện tượng thuộc về con
người. Chính mỗi con người, chính bản thân mình cần phải được nhận thức: nhận ra rằng con
người cần phải biết suy nghĩ về chính mình có một ý nghĩa bước ngoặt vĩ đại.
- Sau Socrate, các học trò của ông, trong đó có Platon, rồi học trò của Platon là Aristote
cũng như nhiều triết gia khác nhau lao vào nghiên cứu lĩnh vực tinh thần riêng của con người,
tạo nên các quan niệm khác nhau về “tâm hồn”.
=> Trong các tư tưởng tâm lý học cổ đại, đáng kể là các học thuyết về tâm hồn của
Democrite (460 - 370 TCN), Platon (428-347 TCN) và Aristote (384-322 TCN).
2. Các tư tưởng tâm lý học Hy Lạp cổ đại.
a. Học thuyết về tâm hồn của Democrite.
- Démocrite (460-370 TCN) là nhà duy vật chủ nghĩa cổ Hi Lạp. Lênin đã đánh giá
Democrite là đại biểu xuất sắc nhất cho chủ nghĩa duy vật cổ đại.
- Các tư tưởng triết học và tâm lý học duy vật tiến bộ của Democrite thể hiện thông qua
thuyết “nguyên tử luận” của ông, bao gồm các luận điểm cơ bản sau:
+ Nguồn gốc tạo nên vũ trụ bao la là các nguyên tử. Đó là các hạt vật chất nhỏ nhất vĩnh


viễn không thể chia cắt ra được nữa.
+ Nếu đem tách các nguyên tử rời nhau thì vật thể sẽ bị tiêu diệt.
+ Các nguyên tử vận động không ngừng.
+ Sự vận động của nguyên tử đẻ ra vô số “các thế giới”. Các thế giới “sinh ra và mất đi”
một cách tự nhiên và tất yếu không phải do thượng đế sinh ra.
- Tư tưởng về tâm hồn của ông thể hiện trong một hệ thống các quan niệm:
+ Tương tự như trong thế giới vật chất. Tâm hồn là vật chất, vận động biến đổi theo qui
luật của thế giới vật chất. Tâm hồn không tách khỏi cơ thể. Tâm hồn không phải là bất tử.
+ Tâm hồn cũng được cấu tạo từ các nguyên tử, đó là nguyên tử lửa nhẹ, hình cầu, nóng
rực.
+ Con người có khả năng nhận biết được thế giới bên ngoài vì cơ thể con người được cấu
tạo từ chất có bên ngoài. Đây là một giả thuyết tâm lý học cổ nhất mang dấu ấn của một quan
niệm tự nhiên, ngây thơ.


+ Về nhận thức của con người, Democrite chia ra làm hai bậc: nhận thức cảm tính bao
gồm cảm giác, tri giác và nhận thức lý tính bao gồm tư duy. Cảm giác, tri giác là kết quả của
các tác động trực tiếp của các nguyên tử lên các cơ quan cảm giác.
- Hạn chế của Democrite là ở chỗ, ông quan niệm có hai vật thể đầu tiên là nguyên tử và
chân không, từ đó dẫn đến học thuyết sai lầm về chất có trước và chất có sau của vật thể.
=> ý nghĩa:
- Học thuyết “Nguyên tử luận” của Democrite là một cuộc cách mạng có ý nghĩa to lớn
cho sự phát triển của khoa học nói chung.
- Với tâm lý học, đây là một tư tưởng duy vật táo bạo về tâm hồn cần phải được con
người nhận thức. Điều này đã là một lời dự báo, lời kêu gọi, cổ vũ các nhà khoa học nói
chung, các nhà khoa học tâm lý nhiều thế kỷ sau này lao vào nghiên cứu, tìm kiếm, phát hiện.
- Tuy nhiên, học thuyết về tâm hồn của Democrite là điển hình của quan điểm tự nhiên,
thô sơ, mộc mạc, máy móc còn chứa đựng nhiều yếu tố siêu hình và không khoa học.
b. Học thuyết về tâm hồn của Platon (428/427-347 TCN).
- Platon là học trò của Socrate và sau này là thầy dạy của Aristote. Người sáng lập chủ

nghĩa duy tâm khách quan. Platon là ông tổ của chủ nghĩa duy tâm triết học ở Tây Âu.
- Các quan điểm triết học và tâm lý học chủ yếu:
+ Platon chủ xướng học thuyết về sự tồn tại của những hình thức vật thể của các vật
mà ông gọi là những “loài” hay những “ý niệm” và đồng nhất chúng với tồn tại. Cơ sở
của trật tự của thế giới này là lĩnh vực của các hình thức vĩnh hằng ẩn dấu sau bầu trời,
trong vương quốc các ý niệm.
+ Quan niệm về tâm hồn được xây dựng trên cơ sở “ý niệm”: Tâm hồn là cái vận động
nhất và có khả năng tự vận động. Hồn nhập vào cơ thể và có sứ mệnh điều khiển cuộc sống
của cơ thể. Nó là cái có trước còn cơ thể chỉ là mặt tồn tại vật chất vô nghĩa, thụ động.
+ Cấu trúc tâm hồn: Gồm 3 phần với các chức năng khác nhau: tâm hồn tình cảm, lý trí
và tâm hồn dũng cảm- ý chí.
+ Quan niệm nhận thức: Học thuyết về nhận thức của Platon được xây dựng trên các
khái niệm tồn tại, không tồn tại và tồn tại cảm tính.
+ Platon chia quá trình nhận thức của con người ra hai bậc: nhận thức cảm tính và lý tính.
Hai quá trình này bổ sung cho nhau.
+ Quan niệm về con người: Platon coi trọng các hiện tượng trí tuệ, đạo đức và con người và đã
kéo được các nhà triết học thảo luận về điều đó.
=> Đánh giá chung:
- Platon là ông tổ của chủ nghĩa duy tâm triết học ở Tây Âu. Ông đã phê phán sự ngự trị
gần 200 năm của các con số của Pythagore, kéo các nhà triết học, tâm lý học đi vào các khía
cạnh hiện thực của cuộc sống con người là lĩnh vực đạo đức, trí tuệ. Điều này có ý nghĩa to lớn
cho sự phát triển tâm lý học. Mặc dù khi giải thích nó ông lại giải thích bằng quan điểm duy
tâm.
- Quan điểm về tâm hồn của Platon có bước tiến lớn: Nhìn tâm hồn theo quan điểm cấu
trúc, chức năng và có thứ bậc.
- Các vấn đề mà Platon nêu ra đã gây ra những sự tranh cãi khác nhau kích thích việc đi
tìm các giải thích mới mà sau đó được người học trò của là Aristote thực hiện.
c. Học thuyết về tâm hồn của Aristote: “Bàn về tâm hồn - Tác phẩm đầu tiên của Tâm
lý học”.



- Aristote (384-322 TCN) là tác gia vĩ đại nhất của Tâm lý học cổ đại, sinh ở miền Bắc Hi
Lạp, Aristote nghiên cứu nhiều lĩnh vực, là nhà bách khoa toàn thư, Aristote là tác giả của tác
phẩm tâm lý đầu tiên trong lịch sử “Bàn về tâm hồn” (gồm 3 cuốn, 30 chương).
- Bằng việc phân tích tác phẩm “Bàn về tâm hồn” của Aristote có thể nhận thấy các quan
điểm về triết học và tâm lý học của ông trên các vấn đề chủ yếu sau đây:
+ Aristote rất coi trọng khía cạnh “tâm hồn” trong con người và kêu gọi mọi người hãy đi
vào nghiên cứu “tâm hồn”.
+ Hệ thống lại các nghiên cứu về tâm hồn đã có trước đây: Tâm hồn là cái có khả năng vận
động cao nhất, vì nó tự vận động; Tâm hồn là thân thể cấu tạo nên từ các hạt nhỏ nhất, hay tâm hồn
ít tính chất thân thể hơn tất cả các cái khác; Tâm hồn hợp bởi các yếu tố đất, nước, khí, lửa.
+ Nêu ra quan niệm của ông về tâm hồn:
→ Bao gồm cả tư duy, trí nhớ, tình cảm, các quá trình và trạng thái tâm lý, các hành động
tác động vào thế giới bên ngoài.
→ Muốn hiểu tâm hồn phải đi tìm mối quan hệ ngoài tâm hồn, trong đó Aristote đã để ý
đến mối quan hệ giữa tâm lý và cơ thể.
→ Phủ nhận quan niệm tâm hồn hợp bởi đất, nước, lửa, khí.... Nêu ra định nghĩa về tâm
hồn: “Tâm hồn là cái tự đích của thân thể tự nhiên và có khả năng sống”.
→ Chỉ có các vật thể tự nhiên nào có sự sống mới có tâm hồn.
→ Giới thiệu học thuyết về 3 loại tâm hồn: Tâm hồn dinh dưỡng; Tâm hồn cảm giác,
thụ cảm; Tâm hồn suy nghĩ.
Đánh giá chung:
- Hệ thống tư tưởng của Aristote về tâm hồn lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tâm
lý học đã trở thành tiền đề cho sự phát triển các giai đoạn về sau. Tác phẩm “Bàn về tâm hồn”
của ông là một trong những đỉnh cao của tư duy khoa học thời cổ.
- Tuy nhiên Aristote cũng có những hạn chế do điều kiện xã hội- lịch sử qui định: Tư tưởng
của ông là tư tưởng Nhị nguyên luận (khi giải quyết các vấn đề tư duy), còn mang nặng tư tưởng
sinh vật luận máy móc, siêu hình, chưa tiếp cận được tư tưởng quyết định luận xã hội- lịch sử.
Tóm lại, sự phát sinh, hình thành của tâm lý học thời cổ đại có một số điều nổi bật:
- Các nhà tâm lý học cổ đại đều xuất phát từ quan niệm cho rằng tâm hồn là một lĩnh vực

riêng biệt cần phải được nghiên cứu riêng, cần trở thành đối tượng của một khoa học chứ
không phải là một tồn tại tự nó. Các quan điểm về tâm hồn của các tác gia thời kỳ này như là
“những mô hình thử nghiệm đầu tiên” (V.I.Lênin) còn các tác gia của nó: “Các nhà tư tưởng
Hi Lạp mãi mãi là bậc thầy của chúng ta bởi vì bằng tính hồn nhiên khách quan to lớn, họ đã
tìm ra được đối tượng nghiên cứu dưới dạng thuần khiết sạch sẽ của nó, tuy chưa thật rõ nét”
(Các Mác).
- Đỉnh cao của tâm lý học cổ đại là học thuyết về tâm hồn của Aristote được trình bày
trong tác phẩm “Bàn về tâm hồn” của ông.
- Do hạn chế của lịch sử và mức độ phát triển của khoa học lúc đó, hệ thống quan điểm
về tâm hồn thời cổ đại còn mang tính tự nhiên, tự phát, máy móc, phần lớn mang màu sắc duy
linh và còn dừng ở góc độ tiền khoa học.

VẤN ĐỀ 2: TÂM LÝ HỌC THẾ KỶ XVII

1. Bối cảnh chung


- Từ thế kỷ thứ XVII, một hiện tượng nổi bật ở châu Âu là sự phát triển mạnh của
các công trường thủ công đã làm cho chủ nghĩa tư bản đã được hình thành và bắt đầu đạt
mức phát triển khá cao ở nhiều nước châu Âu như Anh, Pháp, Hà Lan... kinh tế tư bản
chủ nghĩa phát triển mạnh.
- Trong khoa học tự nhiên đã bắt đầu có các phát kiến quan trọng phá tan nhiều quan
niệm cũ về thế giới, về xã hội, về những tồn tại xung quanh con người, về sinh lý học và về
chính con người (phát minh ra kính hiển vi (Hà Lan) đầu thế kỷ XVII; Galilê nhờ có kính viễn
vọng, đã chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết Côpécnich: trái đất quay xung quanh mặt
trời, góp phần vào đập tan nhiều giả thuyết hoang đường về con người và vũ trụ..)
- Thế kỷ XVII cùng là thời kỳ hoàng kim của các hệ thống siêu hình học với các đại biểu
nổi tiếng như R.Descartes, B.Spinoza, G.Leibnitz...
=> Chính vì vậy những quan niệm duy tâm phản khoa học đã có trước đây về tâm hồn
con người khó đứng vững. Con người đòi hỏi phải có những lý giải khoa học về đời sống tinh

thần của con người, về cơ thể và mối quan hệ giữa tâm hồn và cơ thể trên cơ sở của các thành
tựu khoa học đang được con người phát hiện.
=> Các nghiên cứu tâm lý học thời kỳ này bắt đầu được phát triển mở đầu từ những cố
gắng của các nhà khoa học đương thời nhằm làm rõ những vấn đề liên quan đến bản chất của
các hiện tượng tâm lý. Từ việc xác định bản thể của cái tâm lý, nguồn gốc, nguyên nhân của
tâm lý. Những cố gắng khác nhau nhằm dẫn đến các lý thuyết giải thích sự phát sinh phát triển
của các hiện tượng tâm lý người (thuyết nhận cảm, thuyết liên tưởng). Giải thích cơ chế hoạt
động của cơ thể (thuyết phản xạ), giải thích các khía cạnh liên quan đến các lực lượng thúc
đẩy hành vi người (hiện tượng động cơ)....
2. Các thành tựu tâm lý học thế kỷ XVII.
a. Vấn đề bản chất của tâm lý.
* Các quan niệm khác nhau về bản thể của tâm hồn, tâm lý.
- Về bản thể của cái tâm hồn, tâm lý, Rene Descartes (1596-1650, Pháp), người “đã tạo ra
một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học” (1) thừa nhận tâm hồn và cơ thể là hai thực
thể song song tồn tại. Thực thể của nhục thể có thuộc tính là quảng tính, có thể cân đong đo
đếm được, còn thực thể của linh hồn có thuộc tính là tư duy.
- Quan niệm của Descartes đã dẫn đến học thuyết về hai bản thể. Tâm hồn và các quá
trình của nó hoàn toàn đóng kín, tách biệt với những hoạt động vật chất bên ngoài. Chủ thể chỉ
có thể tự quan sát và tự cảm nghiệm tâm lý của chính mình, ngoài ra không ai có thể hiểu biết
được về nó cả. => Rõ ràng rằng quan niệm của Descartes thuộc lập trường Nhị nguyên luận
trong triết học và tâm lý học. Thực thể linh hồn và thực thể nhục thể là hai thực thể độc lập với
nhau, không phụ thuộc vào nhau, ông viết: “bản chất của thực thể tinh thần hoàn toàn không
bị phụ thuộc vào cơ thể”. Sự liên kết của hai thực thể này trong mỗi con người, R.Descarter đã
tìm đến''bàn tay" của thượng đế.
- Các quan niệm của Hobbes Thomas (1588-1679, Anh) và của B. Spinoza (1632-1677,
Hà Lan) đã chống lại lập trường nhị nguyên của Descarter, cho rằng chỉ tồn tại một thực thể là
vật chất. Tâm hồn là cái nảy sinh từ các thực thể vật chất.
1



+ T.Hobbes là nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII,
ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới có trước con người và tồn tại độc lập với
chúa trời. Các quan điểm duy vật của Hobbles là sự cụ thể hoá và phát triển các quan điểm duy
vật của F.Bacon (1561-1626, Anh).
+ B.Spinoza, nhà triết học vĩ đại người Hà Lan nhấn mạnh, khía cạnh giới tự nhiên là một
thực thể, một chỉnh thể thống nhất tồn tại hoàn toàn độc lập và vĩnh viễn. Tư duy con người là
thuộc tính của thực thể này, tồn tại vĩnh viễn của thực thể, không đồng nhất với thượng đế.
Giữa linh hồn và thể xác con người, ông quan niệm có sự thống nhất. Đó là mối quan hệ hữu
cơ giữa khả năng và cấu trúc và không thể tách rời nhau. Không thể có một thế lực siêu nhiên
nào cả mà chính là con người làm chủ quá trình tư duy của mình.
* Về nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý:
- R.Descartes và G.W.Leibnitz (1646-1716) nhà triết học người Đức đều cho rằng tâm
hồn là cái bẩm sinh, một tồn tại tự nó.
+ R.Descarter tâm hồn gắn liền với ý niệm bẩm sinh liên quan đến tồn tại của thượng đế.
+ Leibnitz thì lại gắn liền tâm hồn với cái gọi là đơn tử. Đơn tử là một khái niệm cơ bản
của triết học Leibnitz với quan niệm:
→ Đơn tử là một thực thể tinh thần biến đổi. Đơn tử không có khả năng phân chia được.
Toàn thể vũ trụ được hình thành nên từ những thực thể tinh thần đó.
→ Các đơn tử có khả năng tri giác một cách rõ ràng được gọi là linh hồn. Linh hồn có lý
tính của con người thì được gọi là đơn tử tinh thần.
→ Toàn bộ thế giới được phản ánh trong đơn tử. Các đơn tử không tác động qua lại với
nhau về mặt vật lý nhưng đồng thời lại tạo ra thế giới thống nhất đang phát triển và vận động.
Thế giới này được điều khiển nhờ vào sự hoà hợp tiền định phụ thuộc vào các đơn tử tối cao
gắn với thượng đế.
- John Locke (1632-1704) nhà triết học duy vật Anh đồng thời là nhà kinh tế học và nhà
chính luận đã phát triển lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật, chống lại quan
niệm của Descarter về “ý niệm bẩm sinh”, cho rằng tâm lý có nguồn gốc từ kinh nghiệm, từ
các hiểu biết cảm tính. Tâm hồn, tâm lý, ý thức là đồng nhất và là đối tượng của tâm lý học.
John Locke đã để tâm nghiên cứu sâu về các vấn đề nhận thức luận. Trong tác phẩm “Kinh
nghiệm về lý tính con người” (1690) ông đã đưa ra các luận điểm:

+ Kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi ý niệm.
+ Các ý niệm nảy sinh, hoặc là do các tác động của các vật thể bên ngoài vào giác quan
(ý niệm của cảm giác) hoặc là do sự chú ý hướng về tình trạng và hoạt động của tâm hồn (ý
niệm của phản tư). Nhờ có ý niệm của cảm giác mà chúng ta tri giác được chất thứ nhất hoặc
chất thứ hai trong các sự vật (còn gọi là chất có trước hoặc chất có sau).
+ ý niệm do kinh nghiệm đem lại chỉ là tài liệu cho tri thức chứ chưa phải là bản thân tri
thức. Muốn trở thành tri thức, tài liệu của ý niệm phải được xử lý bằng hoạt động của lý trí.
John Locke viết: “Linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể nói như một tờ giấy trắng,
không có một ký hiệu hay ý niệm nào cả ). Điều này đã khẳng định tư tưởng rằng tâm hồn con
người, nhận thức con người không phải là cái bẩm sinh mà là kết quả của một quá trình con
người tiếp xúc, lĩnh hội từ thế giới đối tượng. Sự tiếp nhận này không diễn ra như nhau ở các


con người. Ông nhấn mạnh “Trong số những người được giáo dục như nhau tồn tại một sự bất
bình đẳng rất lớn về khả năng”.
=> ảnh hưởng của các tư tưởng triết học, tâm lý học của John Locke trong sự phát triển
của khoa học nói chung, tâm lý học nói riêng là rất to lớn. Những tư tưởng chính trị- xã hội
của ông đòi hỏi sự cần thiết phải tiến hành cải cách xã hội, chăm lo tới sự nghiệp giáo dục phát
triển con người đã có ý nghĩa rất đáng kể cho tiến bộ xã hội.
* Về nguyên nhân của các hiện tượng tâm lý.
- Có quan niệm cho rằng nguyên nhân đó nằm ngay trong nội tại các hiện tượng tâm lý.
Laibnitxơ cho rằng thế giới tâm lý là sự vận động nội tại bên trong một “đơn tử”. Đây là tư
tưởng quyết định luận tâm lý.
- Descartes đã có quan niệm đúng, cho rằng nguyên nhân của các hiện tượng tâm lý nằm
ở bên ngoài hiện tượng này.
b. Thuyết phản xạ của Descartes
Đây là một thành tựu đáng kể nhất trong lịch sử phát triển khoa học thế kỷ XVII. Thuyết
phản xạ của Descartes là cơ sở khoa học cho tư tưởng quyết định luận duy vật trong triết học
và tâm lý học.
Vài nét về tiểu sử của Descartes.

- René Descartes (1596-1650) là nhà triết học, toán học, vật lý học nổi tiếng người Pháp.
- R.Descartes đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị: Các qui tắc chỉ đạo lý trí (1630);
Thế giới (1633); Miêu tả con người; Luận văn về phương pháp (1637); Mặc tưởng về siêu hình học
(1641); Các nguyên lý triết học (1644); Khái luận về dục vọng (1649); Bàn về ánh sáng (1664)...
- Descartes là người theo lập trường nhị nguyên, là người đề xuất học thuyết về hai bản
thể: Cơ thể là một tồn tại còn tâm lý hay tâm hồn là một tồn tại khác. Tồn tại của cơ thể là một
tồn tại vật lý còn tồn tại tâm lý, tinh thần là tư duy, suy nghĩ... hai bản thể song song tồn tại.
Ông đã đưa ra luận điểm nổi tiếng “tôi suy nghĩ tức là tôi tồn tại”.
- Descartes đã làm được một điều vô cùng to lớn là khẳng định bên cạnh loại hiện tượng
cơ thể người còn có một loại hiện tượng thuộc về tâm hồn, tâm lý con người. => Điều này có
giá trị to lớn đối với tâm lý học là khẳng định sự tồn tại khách quan có thật của các hiện tượng
tâm lý, ý thức con người khác hẳn với hiện tượng cơ thể đã được biết.
- Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, ông là nhà duy vật. Ông quan niệm sự vận động của
thế giới vật chất là vĩnh viễn và diễn ra theo đúng các qui luật của cơ học. Vận động đó qui lại
chỉ là sự di chuyển của các hạt nhỏ vật chất là các nguyên tử. Trong lĩnh vực tinh thần, ông đi
đến thuyết “hồn vật” mà nội dung là sự vận động của các hạt máu tròn, nhỏ, nhẵn, tốc độ
nhanh, đi tới đâu tạo ra sự vận động ở đó.
- Từ thuyết “hồn vật”, Descartes đã đi đến thuyết phản xạ. Ông khẳng định các cử động
của cơ thể đều xảy ra theo các khâu:
+ Có kích thích từ bên ngoài để tạo ra xung động thần kinh.
+ Có đường dẫn truyền xung động thần kinh đến trung ương thần kinh.
+ Có cơ quan thực hiện phản xạ (co cơ,...).


Đó là 3 khâu cơ bản của một cung phản xạ, cho đến nay đã được phát triển hoàn thiện
bằng các nghiên cứu của Xêtrênốp, Palov, Anôkhin.
=> ý nghĩa:
- Học thuyết phản xạ của Descarter là cơ sở khoa học cho tư tưởng quyết định luận duy
vật trong triết học và tâm lý học.
-Với học thuyết hai bản thể, Descarte đã phát triển đến đỉnh cao tư tưởng của Aristote

cho rằng tâm hồn và cơ thể hợp lại thành tồn tại sống. Ông đã đặt nền móng cho nền tâm lý
học hiện đại.
c. Các nghiên cứu về quá trình nhận cảm, liên tưởng.
* Thuyết nhận cảm.
Trên cơ sở học thuyết phản xạ của Descartes, các nhà tâm lý học thế kỷ XVII đã cố gắng
giải thích một cách khoa học sự phát sinh các hiện tượng tâm lý dưới tác động của các kích
thích bên ngoài liên quan đến hoạt động của các giác quan. Những công trình thuộc phạm vi
này đã tạo nên dòng lý thuyết về nhận cảm (thuyết nhận cảm).
Những kết quả nghiên cứu đã đi đến khẳng định rằng:
- Cảm giác tri giác của con người là hiệu quả của một tác động từ bên ngoài lên cơ thể.
Bất kỳ một kích thích nào cũng được biểu đạt bằng danh từ của vật lý như cường độ, tính chất,
tần số...
- Về vai trò của các kích thích bên ngoài, có tác giả quan niệm các tác động từ bên ngoài
chỉ đóng vai trò nguyên nhân chứ không quyết định nội dung của cảm giác và tri giác
(Descartes và Locke).
=> Các kết quả dẫn ra ở trên có ý nghĩa khoa học to lớn ở chỗ vào thời kỳ này, do ảnh
hưởng thống trị của các quan điểm duy tâm, đã có không ít người đã quan niệm cảm giác của
con người có được là do tự cảm nhận thấy từ bên trong, không có liên quan đến các kích thích
bên ngoài, hoặc cảm giác có được là do sự kết hợp (phức hợp) hoạt động đặc biệt của các giác
quan. Cũng tồn tại những quan niệm cho rằng cảm giác xuất hiện chỉ đơn thuần là vận động
của cơ thể không có ảnh hưởng gì đến hoạt động sống. Nó là hiện tượng phụ ( Thomas
Hobbes).
* Thuyết liên tưởng.
Cũng có không ít tác giả lao vào việc giải thích các hiện tượng tâm lý nảy sinh bên trong
cơ thể sau khi có tác động từ bên ngoài. Dòng các nghiên cứu này tạo thành thuyết liên tưởng.
Đây là những cố gắng nhằm thử nghiệm tìm tòi, phát hiện ra cơ chế vận động của tâm hồn,
tâm lý. Nổi bật hơn cả trong số này là Hobbes Thomas, Locke, Dercartes.
Một số kết quả đạt được:
- Cơ chế liên tưởng có được chỉ là do các quá trình cảm tính đã xuất hiện vận động tiếp
như là theo quán tính. Không có môt lực lượng bên ngoài nào khác tham gia vào hành động

liên tưởng cả (Hobbes).
- Các biểu tượng đã hình thành kết hợp nhau tạo thành các suy nghĩ, các quá trình ý thức.
- Các quá trình liên tưởng được hình thành là một chuỗi những vận động của “hồn vật”
theo những đường mòn đã có (Locke, Descartes).


- Những hiểu biết sinh ra từ liên tưởng là những liên kết máy móc không tự nhiên, không
có cơ sở lý trí nên không sáng suốt (Locke).
- ý thức chỉ là người quan sát bên ngoài các hoạt động liên tưởng không tham gia vào các
hoạt động này (Descartes).
- Các kết quả cũng đã dẫn ra các qui luật khác nhau của liên tưởng như:
+ Qui luật tương phản: Từ một biểu tượng xuất hiện, con người dễ dàng liên tưởng tới
các biểu tượng đối lập với nó như lúc vui vẻ với các thành đạt lại nhớ đến cảnh hàn vi, nhìn
trời mưa lại nhớ lúc trời nắng.
+ Qui luật hỗn phối (qui luật phối hợp): Các cơ quan cảm giác cũng như các hiện tượng
tâm hồn có sự phối hợp với nhau để con người cảm nhận sự vật hiện tượng sâu sắc hơn.
+ Qui luật kế cận: Từ một biểu tượng này, theo lôgíc phát triển của sự vật hiện tượng, dễ dàng
chuyển suy nghĩ sang đối tượng kế cận với nó...
Nhìn chung, những quan niệm đạt được trên lĩnh vực này vẫn là những quan niệm cơ
giới, tự nhiên, máy móc và vì thế cũng không thể lý giải được một cách khoa học các hiện
tượng tâm hồn phức tạp ở người.
d. Các nghiên cứu về lực lượng thúc đẩy hành vi.
Nói đến thành tựu của tâm lý học thế kỷ XVII, còn phải kể đến một dòng các nghiên cứu
làm xuất hiện một khái niệm mới liên quan đến lĩnh vực động cơ của con người. Các kết quả
về khía cạnh này bắt nguồn từ các nghiên cứu của Hobbes Thomas, nhà triết học duy vật Anh
(1888-1679) và Spinôza Baruc (1632-1677) nhà triết học duy vật Hà Lan.
- Theo Hobbes, vấn đề trung tâm của triết học là vấn đề con người.
+ Các tác phẩm của ông Về con người (1658), Về người công dân (1642) đã bàn sâu về
những khía cạnh liên quan đến đạo đức và tinh thần của con người.
→ Theo ông, con người là một thể thống nhất tính tự nhiên và tính xã hội. Mọi người khi

sinh ra đều như nhau: “Giới tự nhiên đã tạo ra mọi người như nhau cả về thể xác và tinh thần.
Nhưng sự khác nhau nhất định về thể xác và tinh thần giữa họ không lớn tới mức để cho bất
kỳ người nào dựa trên điều đó có thể kỳ vọng kiếm lợi điều gì cho bản thân mình mà những
người khác lại không thể làm được”.
→ Nhưng cũng theo ông, “con người luôn có các khát vọng, nhu cầu riêng, và đây là tiền
đề để con người làm điều ác. Mỗi người hành động trước tiên “vì tính ích kỷ yêu bản thân
mình chứ không phải vì xã hội, không phải vì lợi ích của người khác”. Ông cũng khẳng định
lợi ích cá nhân là một trong những động lực cơ bản trực tiếp của hoạt động của mỗi con người
và toàn xã hội.
=> Các quan niệm của ông còn chịu ảnh hưởng khá lớn của chủ nghĩa duy vật tự nhiên trong
việc xem xét đánh giá con người và các hiện tượng xã hội người, các quan niệm này cũng bộc lộ
rõ xu hướng tư sản tiến bộ đấu tranh đòi phá bỏ thần quyền, sự phân biệt đẳng cấp trong xã hội
phong kiến, nhu cầu mở rộng dân chủ, thúc đẩy xã hội phát triển.


- B. Spinoza là một nhà triết học lỗi lạc người Hà Lan chịu ảnh hưởng nhiều của triết học
Descarte. Tác phẩm Đạo đức học (1675) của ông đã đem lại cho chúng ta những phân tích khá
sâu sắc về con người.
+ Ông quan niệm con người là một bộ phận của tự nhiên và qui toàn bộ tính chất phức
tạp trong đời sống tâm lý vaò lý tính và những sự say mê hay xúc động, niềm vui, nỗi buồn,
khát vọng. Ông nhấn mạnh các đam mê trong con người. Ông đồng nhất ý chí với lý tính và
cho rằng, ý muốn bảo tồn và kiếm lợi cho bản thân là động cơ thúc đẩy hành vi con người.
+ Spinoza cũng nhấn mạnh đến các xúc cảm. Những xúc cảm tích cực như vui sướng,
tình yêu,... thì thúc đẩy hoạt động còn các xúc cảm buồn chán, căm thù... thì ngược lại kìm
hãm cản trở con người.
=> Những tư tưởng của T. Hobbes và B. Spinoza về lĩnh vực này vẫn còn là những tư
tưởng sâu sắc được nhiều nhà tâm lý học sau đó và hiện nay hết sức coi trọng và tiếp tục
nghiên cứu phát triển.
Đánh giá chung
- Sự phát triển của tâm lý học thế kỷ XVII có một vai trò đặc biệt trong sự phát triển của

tâm lý học. Thời kỳ này tựa như một bước ngoặt, bắt đầu từ đây, dựa vào các thành tựu khác
nhau của khoa học tự nhiên, tâm lý học đã thay đổi cách nhìn các phạm trù cơ bản của nó,
cũng như các phương pháp nghiên cứu chung.
- Các thành tựu đạt được ở thế kỷ này là đáng kể: khái niệm ý thức được dùng thay cho
khái niệm “tâm hồn” thời cổ. Nhờ áp dụng các phương pháp khác nhau mà các hiện tượng tâm
lý phức tạp của con người đã bị khám phá từng bước một từ việc xác định nguyên nhân nảy
sinh, sự vận hành biến đổi và bản chất thực sự của nó. Nổi bật ở thế kỷ này vẫn là sự xuất hiện
thuyết phản xạ của Descarte mà ảnh hưởng của nó là rất lớn bao trùm các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội và con người.
- Các nhà tâm lý học thế kỷ XVII như F.Engghen đánh giá xứng đáng là những người
“khổng lồ”: “Từ xưa tới nay, nhân loại đã trải qua, đó là một thời đại cần có những con người
khổng lồ và đã sinh ra những con người khổng lồ: Khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình và
tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng”.
VẤN ĐỀ 3: TÂM LÝ HỌC THẾ KỶ XVIII

1. Khái quát chung
- Nền kinh tế TBCN thế kỷ XVIII phát triển rộng khắp ở nhiều quốc gia.
+ Vào đầu thế kỷ XVIII thị trường tiền tệ thế giới (chủ yếu là các nước châu Âu) phát
triển kèm theo sự xuất hiện bộ máy tài chính đồ sộ của các nước.
+ Thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện các công ty cổ phần với việc mua bán cổ phiếu rộng
rãi. Thị trường chứng khoán ở Anh được mở và đi vào hoạt động. Trong nông nghiệp, việc áp
dụng các kỹ thuật gieo trồng bằng máy đã được thực hiện . Trong công nghiệp, xuất hiện máy
hơi nước (vào năm 1760) thay thế các loại máy cơ giới khác.
+ Xuất hiện những cách mạng trong các kỹ nghệ khai thác mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí
và dệt...


=> Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thế kỷ XVIII đã làm thay đổi nhiều vấn đề liên quan
đến cách nhìn nhận về con người và cuộc sống thực của con người. Đồng thời xã hội tư bản
phát triển đã đặt ra nhiều vấn đề về giáo dục nhân cách con người nói chung, đạo đức nói riêng

đòi hỏi cần phải lý giải những vấn đề phức tạp trong đời sống tinh thần con người. Tất cả các
điều trên một cách khách quan đã làm cho tâm lý học phát triển.
=> Các nhà tâm lý học thế kỷ XVIII đã hướng cố gắng của mình vào khắc phục các tư
tưởng nhị nguyên còn rơi rớt từ Descartes và Locke. Nhiều tác giả đã bỏ công sức giải thích
nguyên nhân, sự vận hành của các hoạt động tâm lý bằng các thành tựu mới của vật lý, sinh lý,
sinh vật học... Nổi bật ở thế kỷ này là công lao của các nhà tâm lý học liên tưởng Anh và các
nhà tâm lý học duy vật Pháp.
2. Các thành tựu tâm lý học thế kỷ XVIII.
a. Tâm lý học liên tưởng Anh
* Thuyết dao động của D. Hartley (1705-1757) D. Hartley là bác sĩ, nhà triết học duy vật
người Anh. Một trong những người sáng lập ra tâm lý học liên tưởng: “Người đầu tiên làm
cho liên tưởng trở thành phạm trù tổng hợp giải thích toàn bộ hoạt động tâm lý”.
Tác phẩm “Quan sát con người” (1749) của ông đã đặt khởi nguyên cho chủ nghĩa liên
tưởng cổ điển. Học thuyết Hartley được xây dựng trên giả thuyết về dao động, một thuật ngữ
thuần vật lý học.
Nội dung của học thuyết D. Hartley thể hiện:
- Dao động trong không gian được truyền vào cơ thể, trong hệ thần kinh người xuất hiện
hai dao động lớn và nhỏ. Dao động lớn sinh ra ở hệ các dây thần kinh; dao động nhỏ sinh ra
trong não bộ và tuỷ sống. Các dao động này là nguồn gốc sinh ra tâm lý.
- Dao động lại tiếp tục được truyền từ não qua các dây thần kinh đến các cơ quan vận
động, gây ra một cử động.
- Hệ thần kinh có một khả năng đặc biệt là ghi nhớ lại các dao động đó. Đây cũng là tính
chất điển hình của cơ thể khác với các vật thể khác. Nhờ qui luật liên tưởng, hoạt động tâm lý
xuất hiện.
- Quá trình liên tưởng diễn ra có sự tham gia của động cơ như đam mê, mong muốn, thoả
mãn, không thoả mãn), còn nguồn gốc của động cơ là từ các môi trường xung quanh con
người.
- Quá trình hình thành những đặc tính riêng của con người hoàn toàn phụ thuộc vào tính
chất đòi hỏi của các tác động của môi trường xung quanh, của xã hội.
Đánh giá:

- Học thuyết dao động của D. Hartley là đỉnh cao của tư tưởng tâm lý học duy vật thế kỷ
XVIII, khẳng định rằng các hiện tượng tâm lý người diễn ra là có qui luật; theo một cơ chế
nhất định. Con người có thể nhận thức được các hiện tượng này và điều khiển được nó.
- Hartley đã đặt tiền đề giải quyết vấn đề quan hệ giữa các quá trình tâm lý và sinh lý.
Theo ông, chìa khoá để hiểu tâm lý là phải hiểu các qui luật hoạt động của hệ thần kinh.


- Do hạn chế của điều kiện xã hội- lịch sử cụ thể, dẫu sao, quan niệm của Hartley về tâm
lý người vẫn là những quan niệm máy móc, khó có thể lý giải được các hoạt động tâm lý phức
tạp ở người.
* Tâm lý học liên tưởng của G.Berkeley:
- G. Berkeley (Béccơli) (1685-1753) là nhà triết học người Anh. Mới đầu là nhà duy tâm
chủ quan sau tự chuyển sang lập trường duy tâm khách quan gần với chủ nghĩa Platon mới,
thừa nhận sự tồn tại vĩnh viễn trong trí năng thượng đế.
- Trong tác phẩm Thử bàn về thuyết thị giác mới (1709) và Bàn về cơ sở của tri thức con
người (1710), ông quan niệm: Không tồn tại một thế giới khách quan nào cả. Mà chỉ tồn tại
một thế giới cảm giác, thế giới các hiện tượng tinh thần bên trong chủ thể đang hoạt động. Con
người chỉ trực tiếp tri giác những “tư tưởng” của mình và ông giải thích “nếu tôi nói là cái bàn
đang tồn tại: thì tôi có hàm ý rằng nếu như tôi ở trong căn phòng của mình, thì tôi có thể cảm
nhận nó”.
* Hium cũng là những đóng góp đáng kể trong dòng tâm lý học liên tưởng Anh.
- Đavit Hium (1711-1776) nhà triết học duy tâm, nhà tâm lý học, nhà sử học người Anh.
Tác phẩm Nghiên cứu về lý tính con người được viết năm 1748 thể hiện rõ các quan điểm của
Hium :
+ Đối tượng duy nhất của sự hiểu biết xác thực là đối tượng của toán học, còn tất cả
những đối tượng nghiên cứu khác liên quan đến những sự kiện không thể chứng minh
được bằng lôgíc mà chỉ có thể rút ra từ kinh nghiệm.
+ Đối tượng của tâm lý học cũng là kinh nghiệm, được hình thành nên từ các “ấn tượng”
và “ý niệm’ được nhận thức nhờ phương pháp nội quan (tự mình quan sát mình, nhận thức
mình bằng các qui luật liên tưởng).

+ Hium tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, coi đó là điểm xuất phát và là dạng cơ bản của
nhận thức, đồng thời phủ nhận tính chất khách quan của tính nhân quả.
→ Cảm giác theo ông là “nguồn gốc tuyệt đối” của nhận thức. ý niệm là sự sao chép lại
các ấn tượng trong phạm vi của ý thức. “Tất cả các ý niệm đều được mô phỏng lại từ các ấn
tượng”.
→ Ông quan niệm, một trong những nguyên lý tồn tại trong con người là nguyên lý liên
tưởng (association). Bản chất của nguyên lý này không thể nhận thức được. Có 3 dạng liên
tưởng ý niệm: liên tưởng giống nhau; liên tưởng kế cận; liên tưởng nhân quả.
=> Thuyết liên tưởng của Beccơli và Hium là luận thuyết duy tâm, chủ trương không
thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ trương tách thế giới tinh thần ra khỏi các
quan hệ vật chất. Luận thuyết này đã tích cực củng cố lập trường nội quan và trên thực tế đã
cản trở cho sự phát triển của tâm lý học, về sau này được nhiều nhà triết học, tâm lý học lợi
dụng, trong đó có Wundt (Vuntơ).
b. Tâm lý học duy vật Pháp thế kỷ XVIII.
Quan điểm chung của các nhà tâm lý học duy vật Pháp ở thế kỷ này có nhiều điểm đáng
chú ý:


- Khẳng định cái tâm lý xuất hiện một cách khách quan ở những vật chất có tổ chức cao.
Tâm lý là chức năng của não.
- Không thể tách rời cái tâm lý ra khỏi cấu trúc của cơ thể.
- Trong xem xét lý giải các vấn đề tâm lý, các nhà duy vật Pháp thế kỷ 18 đã bắt đầu có
xu hướng nhìn nhận với quan điểm phát triển và có thứ bậc, thấy rõ hơn nguyên do của các
biểu hiện tâm hồn khác nhau của con người. Chủ nghĩa duy vật Pháp có sự liên hệ chặt chẽ với
hệ thống vật lý của Descartes.
- Nổi bật trong các nhà triết học và tâm lý học duy vật Pháp có thể nhận thấy:
* S.D. Montesquieu (Môngtexkiơ) (1689-1775).
- Môngtexkiơ là một trong những người sáng lập ra triết học khai sáng ở Pháp thế kỷ
XVIII. Ông là nhà triết học, nhà tư tưởng chính trị, nhà xã hội học và lịch sử học người Pháp.
Người tích cực phê phán thần học và nhà thờ.

- Ông là người nhấn mạnh tính đa dạng của những qui luật xã hội, người sáng lập ra trào
lưu địa lý trong xã hội học, nhấn mạnh vai trò của môi trường xã hội trong giáo dục xây dựng
con người và hoàn thiện xã hội... Ông là người say mê các vấn đề triết học, tâm lý học, vật lý.
- Ông là thành viên của Viện hàn lâm khoa học Pháp (năm 1728). Môngtexkiơ giải thích
các hiện tượng xã hội một cách tự nhiên, khẳng định các hiện tượng xã hội và tự nhiên thống
nhất với nhau và tuân theo các qui luật nhất định.
- Ông là một trong những người đầu tiên nhận ra vai trò đặc biệt quan trọng của sự phát
triển kinh tế và sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội. Các mối quan hệ xã hội ngày càng
phát triển phức tạp “đòi hỏi phải thiết lập luật pháp giữa người với người”.
- Trong xem xét con người, ông nhấn mạnh đến nhân tố tinh thần khi phân tích “Sự khác
biệt giữa quân đội Pháp và quân đội Ba Tư là ở chỗ bọn này gồm toàn những nô lệ bẩm sinh
hèn nhát chỉ vì sợ mà xông vào chỗ chết... còn như bên kia thì phấn khởi lao mình vào gian
nguy vì lòng sợ sệt của họ bị một niềm vui sướng mạnh hơn xua đuổi đi”
*. Francois Marie Voltaire (1694-1778).
- F.M.Voltaire (F.M.Vônte) là một nhà triết học, nhà văn, nhà soạn kịch nổi tiếng. Cùng
với Môngtexkiơ, ông tham gia sáng lập triết học khai sáng Pháp.
- Vônte phê phán nhị nguyên luận coi linh hồn là một loại thực thể đặc biệt. Ông đã quan
niệm rất đúng đắn rằng ý thức là đặc tính của vật chất, chỉ vật thể sống mới có nhưng để
chứng minh cho luận điểm này, ông lại dùng luận giải của thần học.
- Bác bỏ học thuyết Descarter về linh hồn và ý niệm bẩm sinh, ông nhấn mạnh quan sát
và kinh nghiệm là nguồn gốc của mọi hiểu biết. Nhiệm vụ của khoa học là phải nghiên cứu
tính nhân quả khách quan. Các tác phẩm của ông: Những bức thư triết học (1733); Khảo luận
về siêu hình học (1734); Nguyên lý triết học Niutơn (1738); Tiểu luận về phong tục và tinh
thần của các dân tộc (1756)...


* D.Diderot (1713-1784).
- D.Diderot (D.Điđơrô) là nhà triết học, tâm lý học, nhà khai sáng Pháp, người chủ biên
của Bộ Bách khoa toàn thư mang tên “Bộ Bách khoa toàn thư của khoa học, nghệ thuật và thủ
công nghiệp” (1751-1780).

- Đ.Điđơrô đã đề xuất được một số yếu tố của phép biện chứng: tư tưởng về mối liên hệ
của vật chất và vận động, về mối liên hệ của những quá trình đang diễn ra trong tự nhiên... đưa
chúng vào quan niệm duy vật máy móc về tự nhiên.
Ông nhấn mạnh “vật chất là nguyên nhân duy nhất của mọi cảm giác chúng ta”
- Theo ông: trong vũ trụ chỉ có một thực thể đó là vật chất mà bản tính cố hữu của nó là
vận động. Linh hồn con người và thể xác có trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn là
một tổng thể các hiện tượng tâm lý. Linh hồn cũng là đặc tính của vật chất. Linh hồn không tách
khỏi cấu trúc cơ thể. Ông viết “không có cơ thể con người thì nó (tức linh hồn) không là cái gì cả.
Tôi khẳng định rằng, không có cơ thể con người thì không thể giải thích được cái gì cả”
Bàn
về nhân cách con người, ông quan niệm nhân cách của con người là sản phẩm của hoàn cảnh và
môi trường xung quanh. Ông phê phán tôn giáo và kêu gọi con người đừng tin vào tôn giáo. Việc
đưa ra lý luận duy vật về các chức năng tâm lý của ông đã dự kiến được học thuyết phản xạ sau
này.
Ph.Ăngghen đã đánh giá ông là “những kiểu mẫu cao đẹp của phép biện chứng” còn
V.I.Lênin thì nhận xét “Điđơrô đã tiến rất sát đến những quan điểm của chủ nghĩa duy vật hiện
đại”.
* Jean Jacques Rousseau (1712-1778).
- J.J.Rousseau (G.G.Rút- xô) là nhà triết học, xã hội học, mỹ học, một trong những nhà lý
luận giáo dục học vĩ đại. Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công làm đồng hồ ở Giơnevơ
(Thuỵ sĩ).
Các quan điểm triết học và tâm lý học của J.J Rousseau thể hiện:
- Khẳng định lịch sử của nhân loại là kết quả hoạt động của con người chứ không phải do
“bàn tay” xếp đặt của Thượng đế.
- Khẳng định con người là “con người tự nhiên”. “Con người sinh ra vốn được tự do, thế
nhưng chỗ nào anh ta cũng bị gông cùm”
- Khẳng định vai trò của xã hội, của giáo dục mang tính quyết định trong việc hình thành
con người. Trong tác phẩm Emile hay luận về giáo dục ra đời vào năm 1762, ở chương 1
Rousseau viết “Tất cả cái gì ta không có khi sinh ra đời và ta cần dùng đến khi ta trưởng thành,
đều là do giáo dục cấp cho ta cả”. Trong tác phẩm này, Rousseau cũng tỏ rõ quan điểm của

mình, trách nhiệm của một người công dân đối với xã hội.
Hạn chế của Rousseau thể hiện: Quan điểm của ông vẫn mang màu sắc duy tâm, thừa
nhận sự tồn tại của thần linh, của linh hồn bất tử: Ông là nhà nhị nguyên. Các quan điểm xã
hội còn có những hạn chế là do điều kiện xã hội lịch sử đương thời qui định.
Các tác phẩm của ông: Suy đồi về nguồn gốc và cơ sở của sự bất bình đẳng (1755); Bàn
về khế ước xã hội (1761); Emile hay luận về giáo dục (1762).
* Julien Offray de Lamettrie (1709-1751).


- Julien Offray de Lamettrie (G.Ô.Lametri) là một thầy thuốc một trong những nhà duy
vật điển hình của triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
- Lamettri thừa nhận thực thể vật chất có quảng tính, có tính tích cực bên trong và có
cảm giác. Ông cũng đã nhìn thấy sự thống nhất hữu cơ giữa cơ thể con người với tư duy và
ý thức của con người.
- Khẳng định vật chất không phải là cái gì đó thụ động mà luôn luôn vận động biến đổi
không ngừng.
- Ông quan niệm con người như một cái máy, một cái máy đặc biệt phức tạp có khả
năng suy nghĩ, tính toán. Ông viết “Con người là một cái máy phức tạp tới mức hoàn toàn
không thể có một ý tưởng rõ ràng, và do vậy, không thể đưa ra một định nghĩa chính xác về
nó”(2)
Tóm lại, Lamettri đã thể hiện rõ lập trường duy vật tự nhiên trong những vấn đề con
người. Tư tưởng của ông xích lại gần tư tưởng tiến hoá. Mặt hạn chế của ông được bộc lộ rõ
trong các quan điểm cơ giới máy móc về con người, chưa thấy được đúng mức vai trò của yếu
tố xã hội trong việc giáo dục hình thành nhân cách con người.
* Claude Adrien Helvétius (1715-1771).
- C.A. Helvétius (Henvêtiút) là nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII. Cơ sở triết học của
Hevêtiút là chủ nghĩa cảm giác của Locke trong đó đã được loại bỏ các yếu tố duy tâm.
Các quan điểm triết học và tâm lý học chính của ông:
- Vật chất tồn tại khách quan được nhận thức bằng cảm giác.
- Tư duy chỉ là một sự kết hợp những cảm giác.

- Với xã hội, ông thừa nhận vai trò quyết định của môi trường xã hội trong hình thành
giáo dục con người. .. Ông đề xuất chủ trương kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
- Tư tưởng về khả năng trí tuệ như nhau ở các con người đã tham gia mở đường cho chủ
nghĩa xã hội không tưởng.
Các tác phẩm chủ yếu: Bàn về trí tuệ (1758); Bàn về con người (1773).
* Pierre Jean Georges Cabanis.
- Pierre Jean Georges Cabanis (P.G.G.Cabanit) là nhà triết học duy vật tầm thường, nhà
khai sáng, người thầy thuốc Pháp...
- Quan điểm triết học duy vật của ông thể hiện trong việc coi ý thức lệ thuộc chủ yếu vào
những chức năng sinh lý của con người, vào hoạt động của các cơ quan bên trong cơ thể. Với
ông, lần đầu tiên được hiểu Tâm lý là chức năng của não. Khẳng định không thể tách rời cái
tâm lý ra khỏi cấu trúc của cơ thể. Ông quan niệm “não là cơ quan đặc biệt sản xuất ra ý nghĩ
cùng giống như dạ dày, ruột để tiêu hoá, gan tiết ra mật”.
Tác phẩn chính của ông Quan hệ giữa thể chất và tinh thần của con người (1802).

2


Tóm lại:
- Các nhà tâm lý học duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã biết dựa chặt vào các thành tựu của
khoa học tự nhiên trong việc phát hiện qui luật, giải thích các hiện tượng tâm lý người.
- Ph.Ănghghen đã nhận định, các nhà duy vật Pháp cho đến thế kỷ XVIII, luôn luôn “cố
gắng cắt nghĩa thế giới bằng bản thân nó, không dựa vào nguyên do nào bên ngoài cả”. Thiếu
sót chủ yếu của các nhà triết học, tâm lý học duy vật Pháp là họ vẫn nhìn con người và tâm lý
con người máy móc, mang nặng quan điểm cơ giới siêu hình mà chưa thấy được bản chất của
hiện tượng tâm lý người là sản phẩm của quá trình xã hội- lịch sử.
Đương nhiên, cống hiến của các nhà tâm lý học duy vật Pháp là vô cùng to lớn cho lịch
sử phát triển tâm lý học bởi nó định hướng duy vật và đặt nền móng cho việc xây dựng một
nền tâm lý học thực sự khách quan cho thế kỷ sau.
c. Wolf.C với tác phẩm mang tên tâm lý học.

- Wolf (Vônphơ) (1679-1754) nhà triết học duy tâm người Đức, người hệ thống hoá và
truyền bá triết học Laibnitxơ. Căn cứ vào lý luận của triết học và các khoa học khác có liên
quan đến con người, Wolf đã chia nhân chủng học (khoa học nói chung về con người) ra làm 2
khoa học: Khoa học về cơ thể (Somatologie) và khoa học về tâm lý (Psychologie). Trong tâm
lý học, ông chia ra làm 2 loại, tâm lý học kinh nghiệm chủ nghĩa (Psychologie empirique) và
tâm lý học lý trí ( Psychologie rationnelle).
- Các tác phẩm ông đã viết: Lôgíc hay là tư tưởng hợp lý về sức mạnh của lý trí con
người (1712); tâm lý học kinh nghiệm (1732). Trong tác phẩm này ông mô tả các sự kiện và
nói rõ các kết quả mà ông quan sát được về các hiện tượng thuộc đời sống tâm lý. Tác phẩm
Tâm lý học lý trí (1734) được ông đi vào khai thác mặt bản chất của tâm hồn, được hiểu như
là năng lực của biểu tượng biểu thị trong dạng nhận thức và ước muốn, coi đó là sức mạnh chủ
yếu. Wolf là đại biểu xuất sắc của tâm lý học năng lực. Tác phẩm của ông đã đề cập nhiều mối
quan hệ giữa tâm lý- não, nhưng vẫn theo quan điểm tâm- sinh lý song hành.
=> Có thể nói, công lao của G.Wolf. đối với tâm lý học rất to lớn. Ông là người đã làm
cho khoa học tâm lý có tên gọi, một nấc thang dẫn đến việc ra đời của khoa học tâm lý học với
tư cách là một khoa học độc lập.
Đánh giá chung
Tâm lý học thế kỷ XVIII được tiếp tục phát triển trên cơ sở các thành tựu khoa học tự
nhiên nói chung, tâm lý học nói riêng đã đạt được ở thế kỷ XVII.
Thành tựu tâm lý học thế kỷ XVIII vô cùng to lớn, nổi bật trong đó là các nhà tâm lý học
liên tưởng Anh và các nhà tâm lý học duy vật Pháp. Thế kỷ XVIII đã ghi nhận sự kiện lần đầu
tiên xuất hiện tác phẩm mang tên tâm lý học. Các thành tựu của tâm lý học thế kỷ XVIII là
một nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của khoa học tâm lý ở thế kỷ sau, khẳng định sự
tồn tại của tâm lý học với tư cách là khoa học độc lập.
VẤN ĐỀ 4: TÂM LÝ HỌC NỬA ĐẦU THẾ KỶ THỨ XIX.

1. Khái quát chung
- Đầu thế kỷ XIX, kinh tế của các nhà nước tư bản châu Âu đạt được những thành tựu
đáng kể. Những phát kiến trong các lĩnh vực khoa học khác nhau; đặc biệt là trong sinh lý học,
vật lý, hoá học... đã làm cho chính xác hơn cách nhìn của con người về các hiện tượng thuộc



đời sống tâm hồn, kích thích các nghiên cứu về tâm hồn, tâm lý con người phát triển, đặc biệt
là các nghiên cứu trong lĩnh vực nhận thức.
- Các thành tựu tâm lý học thời kỳ này là đáng kể, có sự tham gia đồng thời của nhiều
nhà khoa học ở nhiều nước, có thành tựu đạt được cùng một lúc ở nhiều nơi. Tâm lý học đã có
tên gọi riêng. Khoa học tâm lý đang trên đường trưởng thành trở thành một khoa học độc lập.
2. Các thành tựu tâm lý học nửa đầu thế kỷ XIX
* Học thuyết phản xạ
- Một trong những người đi tiên phong nghiên cứu về giải phẫu thần kinh là nhà thần
kinh học người Anh Charles Bell (1774-1842), người chuyên nghiên cứu sâu về sự truyền dẫn
của các dây thần kinh tuỷ sống.
Các tác phẩm của ông gồm có: Phác thảo giải phẫu mới về não (1811) và Về các dây
thần kinh (1821). Các công trình nghiên cứu của Ch.Bell đã phát hiện:
+ Dây thần kinh, trên thực tế là bó các dây thần kinh khác nhau có tính chất riêng. Tính
chất này được xác định bởi phần não mà sợi thần kinh tham gia vào. Từ đó, Bell đã theo dõi
tất cả các sợi thần kinh đi vào não nhằm phát hiện cấu trúc của não, với đại não ông không
thành công.
+ Với tuỷ sống ông đã có các phát kiến quan trọng. Ông đã thiết lập được sự khác nhau
về chức năng của các rễ trước và rễ sau của thần kinh tuỷ sống. Ông đã chứng minh bằng thực
nghiệm cho thấy các sợi thần kinh của rễ sau làm nhiệm vụ tiếp nhận các xung động thần kinh
truyền tới (dây nhận cảm) còn các sợi dây thần kinh rễ trước làm nhiệm vụ điều khiển vận
động. Ông đã tiến hành chuyển xung động theo các dây thần kinh hướng tâm thông qua tuỷ
sống tới các dây thần kinh ly tâm. Các kết luận này đã được Bell chứng minh bằng thực
nghiệm.
- Các nghiên cứu của nhà sinh lý học người Pháp F.Magendie (1783-1855) chuyên
nghiên cứu về sinh lý học hệ thần kinh cũng đã đi đến những kết luận tương tự. Trong nhiều
năm Magendie đã cố gắng phát hiện qui luật của việc sắp xếp phân chia các sợi thần kinh cảm
giác và vận động trong tuỷ sống. Qui luật chuyển xung động thần kinh như vậy được gọi là qui
luật Bell- Magendie.

Việc phát hiện này có ý nghĩa to lớn đối với sinh lý học, tâm lý học tương tự như việc
phát hiện ra hệ tuần hoàn ở con người. Từ các công trình này, biểu tượng về định vị các con
đường thần kinh dần dần được hình thành.
- Học thuyết về phản xạ được phát triển nhất quán, triệt để do một bác sĩ người Anh là
M.Hall và Mỹller J.P. ( nhà sinh lý học Đức, 1801-1858) thực hiện. J.P.Mỹller là giáo sư tại
trường đại học Beclin (Đức), viện sĩ thông tấn nước ngoài của việc hàn lâm khoa học Pêtécbua
(1832).
Ông là người chuyên nghiên cứu về sinh lý học thần kinh trung ương và các cơ quan cảm
giác. Các tác phẩm của ông tập trung vào phản ánh kết quả phân tích tìm hiểu hệ thống thần
kinh, các cơ quan cảm giác, giải phẫu so sánh, các vấn đề về sự phát triển phôi. Ông cũng là
một trong những người sáng lập nên cái gọi là chủ nghĩa duy tâm sinh lý học. Các nghiên cứu
của M.Hall và J.P.Mỹller đã đi đến kết luận: Các rễ sau và rễ trước của thần kinh tuỷ sống bao
gồm từ hai loại thần kinh khác nhau là cảm giác và vận động. Trong một nghiên cứu của Hall
(1837) ông viết: “Phản xạ được gây ra bởi kích thích không phải là các bó cảm nhận mà là từ
các bó thần kinh vận động không phụ thuộc vào các bó nhận cảm”. Năm 1833 J.P.Mỹller cho
ra mắt cuốn “Giáo khoa sinh lý người”.


* Học thuyết về các cơ quan cảm giác
- Nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động của các cơ
quan cảm giác đưa đến những kết luận quan trọng về các qui luật tâm- sinh lý giác quan người.
- Những người đóng góp công sức to lớn trong lĩnh vực này có thể kể đến Ch.Bell (17741842) nhà sinh lý học, thần kinh học người Anh; F.Magendie (1783-1855) nhà sinh lý học thần
kinh Pháp; J.Muller (1801-1858) nhà sinh lý học Đức; Thomas Young (1773-1829) nhà vật lý học
và là bác sĩ người Anh; Ch. Wheatstone (1802-1875) nhà vật lý học người Anh; I.Procháska (17491820) nhà sinh lý học, nhà giải phẫu học người Tiệp Khắc; J.Purkyne (1787-1869) nhà sinh lý
học, tương lai học người Tiệp Khắc E.H.Weber (1795-1875) nhà giải phẫu, nhà sinh lý học
người Đức...
Các thành tựu trong lĩnh vực này có thể kể đến:
- Nghiên cứu hoạt động của thị giác (mắt) với tư cách là một hệ thống sinh lý học mang
chức năng sống.
+ Liên quan đến khía cạnh này có công trình nghiên cứu về lý thuyết 3 thành phần sự

nhìn màu của Thomas Young nhà vật lý học và là bác sĩ người Anh và H.Helmholtz (18211894) nhà sinh lý học, nhà khoa học tự nhiên người Đức. T.Young (1773-1829) là nhà bác học
người Anh, một trong những người sáng lập ra lý thuyết sóng về ánh sáng. Đưa ra qui luật
giao thoa của sóng ánh sáng (1801), nêu ra tư tưởng về thiết diện ngang của sóng ánh sáng
(1817). Ông cũng đã đưa ra luận điểm giải thích về sự điều tiết, thích ứng của mắt. Ông cũng
đã soạn thảo về lý thuyết nhìn màu. Đưa vào áp dụng “suất đàn hồi” được mang tên ông. Các
tác phẩm của ông khá nhiều liên quan đến cả lĩnh vực âm học, thiên văn học cũng như sự giải
mã các chữ khó đọc của Ai Cập.
- Công trình của Stêbyx ( nhà sinh lý học người Đức) đã đi đến kết luận: Tri giác của con
người được hình thành dần dần nhờ vào quan hệ giữa các sản phẩm của hoạt động của các
cơ quan cảm giác và phản ứng vận động.
- Nghiên cứu của Ch.Bell đã khẳng định: Hình ảnh không gian của vật thể được hình
thành nhờ vào hoạt động phản xạ của cơ mắt từ đó có thể kết luận về tính phụ thuộc của hình
ảnh chủ quan vào cơ chế khách quan thần kinh cơ bắp.
Ch.Wheatston (1802-1875) nhà vật lý học người Anh, Ông cũng đã có những kết luận có
giá trị về hoạt động của mắt: Các quan hệ thần kinh- tâm lý trong hệ thống thị giác không có
được ngay từ khởi đầu mà được hình thành nhờ vào kinh nghiệm luyện tập. Chính Wheatston
đã nghiên cứu thị giác bằng kính lập thể tự sáng chế. Xêtrênốp đã có sự đánh giá cao các kết
quả nghiên cứu của Wheatstone và coi các kết quả này là sự khởi đầu của tâm lý học như là
một khoa học kinh nghiệm.
- Một hướng nghiên cứu khác về thị giác ở thời kỳ này có thể kể đến là các nghiên cứu
hoạt động của các cơ quan cảm giác khác liên quan đến thị giác, chẳng hạn biểu tượng không
gian về vật thể liên quan rất chặt tới biểu tượng của xúc giác... (công trình của Stênbyx).
- Nghiên cứu sâu về cấu trúc thần kinh thị giác do Thomas Young (1773-1829) tiến hành.
Ông đã đưa ra giả thuyết võng mạc chứa 3 loại sợi thần kinh trong đó mỗi sợi điều khiển một
tia sáng cho ta cảm giác màu đỏ, màu xanh lá cây, màu xanh da trời (1801).
- Công trình nghiên cứu về cảm giác màu sắc do J.W.Goethe (1749-1832) là nhà thơ, nhà
khoa học tự nhiên và là nhà tư tưởng vĩ đại người Đức thực hiện trong công trình mang tên
“Về lý thuyết màu sắc” viết từ năm 1805-1810.
+Trong công trình này, Goethe cho rằng màu đen và màu trắng là các màu cơ bản. Các
môi trường khoảng cách (như không khí) tham gia tạo thành các mầu còn lại. Mặt trời phụ



thuộc vào môi trường không khí mờ đục được tiếp nhận khi là màu trắng, da cam và thậm chí
là màu đỏ.
+ Các kết luận của Goethe là không đúng song các phát hiện này của ông đã kích thích cho
việc quan sát kỹ đằng sau các trải nghiệm trực tiếp về màu sắc ở con người.
Dưới ảnh hưởng của Goethe, Muller cũng bắt tay vào nghiên cứu cảm giác màu sắc; tiếp
theo các nghiên cứu của Goethe đã đi sâu khảo cứu sinh lý học tri giác thị giác và đã khám phá
ra một loạt các tri thức trong cảm giác thị giác. Ông đã phát hiện ra sự biến đổi các màu xanh
da trời và màu đỏ khi nhìn lúc hoàng hôn tạo nên cái gọi là “Các hiện tượng kỳ lạ Puakine”.
- Một kết quả nữa phải kể đến là sự xuất hiện giả thuyết “Vòng thần kinh” hợp nhất não
với cơ bắp và cơ bắp với não. Điều này liên quan đến các công trình của Ch.Bell lần đầu tiên
đã đưa ra tư tưởng liên hệ vòng giữa các quá trình cảm giác và cơ bắp... đã được đánh giá là
một phỏng đoán tuyệt vời về bản chất phản xạ của nhận thức cảm tính.
- Nghiên cứu bằng thực nghiệm tính nhạy cảm của da và cơ được E.H.Weber (17951878) thực hiện. Ông là nhà bác học, nhà giải phẫu, nhà sinh lý học người Đức, viện sĩ thông
tấn người nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Pêtécpua (1869).
Weber là một trong những người đặt nền móng cho tâm lý học thực nghiệm. Các công
trình của ông liên quan nhiều đến sinh lý học của các cơ quan thị giác, thính giác, xúc giác.
Lần đầu tiên, ông đã đưa ra ngưỡng phân biệt của cảm giác da, bằng cách cố định 2 điểm xác
định trên bề mặt của da và tiến hành các kích thích cho đến khi chủ thể nhận ra có sự khác
nhau ở các kích thích này. Tư tưởng xác định ngưỡng của các cảm giác là tư tưởng trung tâm
đối với tâm sinh lý học lúc đó.
* Học thuyết về đại não
Nửa đầu thế kỷ XIX đã xuất hiện ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu về hoạt
động của đại não từ đó đi đến xác định bản thể của hoạt động tâm lý. Các công trình nghiên
cứu này hoà chung với dòng tâm lý học năng lực.
-Nổi lên trong số đó là một loạt các công trình nghiên cứu của F.J.Gall (1758-1828) nhà
giải phẫu, bác sĩ người áo. Người đã đề xuất ra lý thuyết định khu chức năng tâm lý trên vỏ
các bán cầu đại não (từ 1810 đến 1819).
Các kết luận của Gall có một số điểm đáng lưu ý:

+ Vỏ não chứ không phải là các buồng não được xem là bản thể của hoạt động tâm lý.
Gall và các cộng sự đã giới thiệu bản đồ của não, trên đó ông đã chỉ các vùng não riêng biệt
đối với mỗi loại năng lực hoặc vùng cho một loại hiện tượng tâm lý như: vùng yêu thương,
vùng thù ghét, cùng khả năng toán học, khả năng sáng tạo thi ca...
+ Gall nêu ra luận điểm: Sự phát triển khác nhau của các vùng trên vỏ não dẫn đến ảnh
hưởng tới hình thức của xương sọ. Bởi vậy nếu nghiên cứu bề ngoài của xương sọ sẽ cho phép
chẩn đoán các đặc trưng cá nhân của nhân cách. Theo Gall, các vùng tâm lý trên não phát triển
thì phần bề ngoài của xương sọ chỗ đó sẽ lồi lên gọi là “bướu” năng khiếu. Độ lớn của bướu ăn
khớp với mức độ phát triển của năng lực tương ứng. Ông là người sáng lập ra một khoa học gọi
là “Phrinôlôghia”- Một lý thuyết phản khoa học về mối quan hệ của các thần kinh đạo đức và tâm
lý của con người với cấu trúc của xương sọ. Vào thời điểm lúc đó, lý thuyết của Gall đã được
hưởng ứng mang tính khá rộng rãi trong dân chúng. Dẫu sao lý thuyết Phi-Phinôlôghia của Gall
đã làm cho vấn đề định khu chức năng tâm lý trên não trở thành hấp dẫn kích thích các công
trình nghiên cứu thực sự mang tính khoa học về cấu trúc thần kinh não bộ.
- Các nghiên cứu về bán cầu đại não và tiểu não của Pierre Flourens (P.Phrurensơ) (17941876) nhà sinh lý học người Pháp.


Các công trình thực nghiệm khoa học nghiên cứu về não của P.Flourens, bác sĩ, nhà sinh
lý học người Pháp, viện sĩ viện hàn lâm khoa học Pháp (1840) viện sĩ thông tấn người nước
ngoài của viện hàn lâm khoa học Pêtécbua (1856). Ông đã dùng phương pháp loại trừ một số
phần nào đó của hệ thần kinh trung ương và trong một loạt các trường hợp tác động vào trung
tâm não, nơi khu vực nghiên cứu, bằng thuốc mê và đi đến các kết luận: Các quá trình tâmsinh lý cơ bản là tri giác, trí tuệ, ý chí là sản phẩm của não như là một cơ quan hoàn chỉnh.
Tiểu não phối hợp vận động. Trong hành não có trung tâm hô hấp điều khiển sự sống (phát
hiện năm 1822). Thị giác có quan hệ với củ não sinh tư. Chức năng của tuỷ sống là tiến hành
thúc đẩy kích thích thần kinh. Các công trình của P.Phrurensơ giữ vai trò quan trọng trong việc
phá vỡ bức tranh thần thoại phản khoa học về hoạt động của não và “bướu” năng khiếu mà
Gall đã đề ra.
* Tâm lý học liên tưởng
- Dòng Tâm lý học liên tưởng đã có từ thế kỷ XVIII, sang thế kỷ này vẫn được tiếp tục phát
triển nhưng đã có những biến đổi để phù hợp với những tiến bộ mới của khoa học tự nhiên.

Thuyết liên tưởng muốn tồn tại, tất yếu phải có các giải thích mới, trong đó cần phải từ bỏ các
quan niệm tư biện trừu tượng về bản thể của cơ thể. Chẳng hạn, rung động của các sợi thần kinh
như rung động của sợi dây đàn theo quan niệm của D. Hartley (1705-1757) nhà vật lý là bác sĩ
người Anh là không thể đứng vững.
- Các công trình mới của dòng phái này là liên quan các đóng góp của Thomas Braun
(1778-1820) nhà giáo dục, giáo sư triết học của trường đại học Êđinbua, nhà thơ. Quan niệm
của T.Braun nhấn mạnh liên tưởng cần phải hiểu như là thuộc tính nội tại, như là hoạt động
của trí tuệ chứ không được cắt nghĩa theo thuộc tính cơ thể.
- Ngược lại với ý kiến của T.Braun là quan điểm của D.Mill (1773-1836) nhà triết học,
nhà lịch sử và kinh tế học người Anh. Về mặt triết học D.Mill tuyên bố là người kế tục triết
học duy tâm của Hium. Trong xã hội học, ông đã phủ nhận lý thuyết luật tự nhiên. Năm 1829
D.Mill công bố tác phẩm “Phân tích các hiện tượng đặc biệt của trí tuệ con người” trong đó tỏ
rõ quan điểm chủ nghĩa liên tưởng “cứng rắn” của mình, xem xét liên tưởng theo quan điểm
cơ học.
-Tác giả Herbart (1776-1841). Ông là nhà triết học, nhà tư tưởng, nhà tâm lý học và giáo
dục học người Đức, người sáng lập trường phái giáo dục học Đức thế kỷ XIX, đại biểu của
chủ nghĩa đa nguyên. Herbart quan niệm cơ sở của thế giới là tập hợp của các hiện tượng
không thể biết. Ông mưu toan xây dựng tâm lý học như là một hệ thống các khoa học dựa trên
phép siêu hình, kinh nghiệm và toán học. Trong giáo dục, huấn luyện Herbart đã đưa ra 4 mức
độ (4 nguyên tắc) của việc dạy học (huấn luyện): a. Tính sáng rõ; b. Tính liên tưởng; c. Tính
hệ thống; d. Phương pháp. Herbart cũng được xem là người sáng lập đặt nền móng cho cái gọi
là mỹ học chính thống trong đó bàn về cội nguồn của cái đẹp, cái tỉ lệ, cái hài hoà cân đối...
Trong tác phẩm tâm lý học được luận giải theo một cách mới đối với phép siêu hình, kinh
nghiệm và toán học (1816), Herbart đã bộc lộ các quan điểm chính của mình về tâm lý học
liên tưởng như sau:
+ Phép siêu hình là một phạm trù triết học, tiền đề của một hệ thống tâm lý học mới.
+ Tâm hồn là cái không thể nhận biết được. Trong tâm hồn không có cái gì là khởi đầu.
Sự thống nhất giữa cuộc sống tâm lý và nguồn gốc khởi nguồn của tính tích cực của tâm lý là
không thể có. Tâm hồn không thể là đối tượng của khoa học.
+ Mỗi một biểu tượng không chỉ có một số nội dung mà là đại lượng “mang năng lượng”.

Xuất phát từ tiền đề này, Gerbats đã soạn thảo học thuyết “Trạng thái tĩnh và năng động của
các biểu tượng”.


+ Herbart đã chống lại quan niệm của Kant về tri giác. Theo ông, khối lượng tri giác bao
gồm từ các biểu tượng và mỗi một trong chúng lại có được trong kinh nghiệm cá nhân, có thể
được cải biến, được “chương trình hoá” bởi nhà giáo dục.
Herbart đã nêu giả thuyết về các biểu tượng với tư cách là các đại lượng phát lực có khả
năng chịu sự phân tích về lượng. Mặc dầu các tìm tòi lập luận của Herbart còn nhiều khiếm
khuyết nhưng giả thuyết của ông về khả năng có tính nguyên tắc phân tích bằng toán học các
quan hệ giữa các sự kiện tâm lý học đã được G.T.Fechner (1801-1887) và G.Ebinhgausơ thừa
nhận. Tính chất tư biện trừu tượng của các biểu tượng cũng như quan niệm về cơ chế sinh lý
học của các liên tưởng, niềm khát vọng chỉ ra tính độc đáo của các quá trình đặc trưng cho
cuộc sống tâm lý khác thật sự với cuộc sống cơ thể đã dẫn học thuyết về liên tưởng đến chỗ
được xem là học thuyết về nguyên tắc nội tại của ý thức. ở đây, tư tưởng về tính nguyên nhân
tâm lý được khẳng định. Hoạt động tinh thần là có tính qui luật riêng của nó. Các qui luật này
không đồng nhất với các qui luật sinh lý học. Những điều này đã tham gia vào việc kích thích
cho sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tâm lý trong nửa cuối của thế kỷ này.
Tóm lại: - lịch sử của Tâm lý học từ thế kỷ thứ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX đã gắn liền
với các thành tựu của khoa học tự nhiên trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là
các thành tựu về sinh vật học, sinh lý học, vật lý... khẳng định tính khách quan có thật của các
hiện tượng tâm lý người. Đối tượng của khoa học tâm lý học ngày càng rõ.
- Cùng với sự phát triển của các khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ
XIX, tâm lý học cũng có những bước phát triển mới.
- Lần đầu tiên đã xuất hiện các tác phẩm mang tên tâm lý học. Các phương pháp nghiên
cứu tâm lý học thời kỳ này đã có những bước tiến rõ rệt, nổi lên là các phương pháp thực
nghiệm, thử nghiệm có sự hỗ trợ của các phương tiện, công cụ nghiên cứu riêng và có sử dụng
các phương pháp thống kê xử lí của toán học.
- Một điều đáng lưu ý ở thời kỳ này là có nhiều các công trình nghiên cứu được tiến hành
cùng một lúc ở nhiều nước nhưng lại đem đến các kết quả như nhau đã khẳng định tính chân

thực khách quan khoa học của các hiện tượng tâm lý, khẳng định sự cần thiết phải xây dựng
một chuyên ngành khoa học mới độc lập với các khoa học hiện có, đặc biệt là triết học. Đây
chính là những tiền đề khách quan dẫn đến việc ra đời của Tâm lý học với tư cách là một khoa
học độc lập mà chúng ta sẽ có dịp làm rõ ở các chương sau.
VẤN ĐỀ 5: TÂM LÝ TRỞ THÀNH KHOA HỌC ĐỘC LẬP

- Từ nửa sau thế kỷ XIX, những thành tựu của khoa học tâm lý trên tất cả các lĩnh vực đã
phá vỡ về căn bản những quan niệm trứơc đó về kết cấu và thuộc tính của vật chất và do thế đã
ảnh hưởng rất lớn đến việc nhìn nhận thế giới tinh thần của con người.
- Sự kiện có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành tâm lý học như một khoa học độc lập
là việc áp dụng các phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người.
- Những thực nghiệm tâm sinh lý học các cơ quan cảm giác cũng như tâm vật lý học đã
tiến hành đo đạc, tính toán đưa ra những số liệu khách quan tựa như những nghiên cứu ở các
lĩnh vực khoa học tự nhiên khác, đồng thời khẳng định sự tồn tại có thật của các hiện tượng
tâm lý . => Đây là một bước tiến vượt bậc trong việc tìm kiếm, làm rõ đối tượng của tâm lý
học gắn liền với tên tuổi của H.Helmholtz (1821-1894), Dubois Reymond, G. T. Fechner
(1801-1887), E.H. Weber (1795-1878), F. Donders (1818-1889)…
- Vào năm 1879, tại Leipzig (Đức) , lần đầu tiên trên thế giới, một phòng thực nghiệm
tâm lý học được thành lập theo sáng kiến của nhà tâm lý học người Đức tên là W.Wundt


(1832-1920). Ngay từ những ngày khởi đầu, phòng thực nghiệm của ông đã đi vào hoạt
động có hiệu quả, phát huy ảnh hưởng to lớn của nó đến hoạt động nghiên cứu tâm lý học
của nhiều nước cả về nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Sự kiện này đã có
một ý nghĩa vô cùng to lớn, được ghi nhận như là mốc khởi đầu xuất hiện tâm lý học với
tính cách là một khoa học độc lập.
1. Các thành tựu khoa học tham gia vào việc tâm lý học ra đời với tư cách là một khoa
học độc lập
a. Tâm sinh lý học các giác quan.
-Tâm sinh lý học giác quan là một hướng nghiên cứu nhằm làm rõ mối quan hệ giữa

kích thích vật lý, các quá trình xảy ra trong hệ thần kinh và các quá trình cảm tính (cảm giác,
tri giác) của con người. Đại biểu của lĩnh vực nghiên cứu này trước tiên phải kể đến công lao
của nhà sinh lý học người Đức tên là Hecman Helmholtz (1821-1894) và nhà nghiên cứu tâm
sinh lý học người Pháp Dubois Reymond.
- H. Helmholtz đã có công nghiên cứu bằng thực nghiệm nhằm chứng minh các tác động
bên ngoài đến các giác quan của con người làm xuất hiện các hình ảnh về sự vật hiện tượng
trong não.
+ Ông đã tiến hành công trình nghiên cứu tri giác các vật thể, quan tâm tới sự khác nhau
giữa hình ảnh mà mắt người ghi nhận được với việc vẽ hình ảnh đó trên giấy hoặc chụp lại
các vật thể đó. Ông đã nhận thấy rằng mắt “nhìn thấy” sự vật nhiều hơn hình ảnh phẳng được
ghi lại trên giấy hoặc ống kính máy ảnh chụp lại vật thể đó, bởi vì mắt cảm nhận được, phát
hiện được các quan hệ đằng sau cái nhìn đó, chẳng hạn, độ lớn thực sự của vật, chiều sâu của
vật…và những lần tri giác sau thì khác những lần tri giác trước vì ít nhiều đã có cái mà H.
Helmholtz gọi đó là “kinh nghiệm”.
+ Các phát hiện của ông hoàn toàn đúng, nhưng giải thích nguyên do của sự kiện đó, ông
đã mắc sai lầm là quay về với luận điểm duy tâm của “thuyết năng lượng chuyên biệt” của
J.P. Muller (1801-1858). Thực nghiệm của ông cũng chỉ rõ, khi tri giác mắt người nhìn sự
vật tác động vào nó không phải chỉ có một lần mà mắt nhìn sự vật nhiều lần, vận động xung
quanh vật thể. Rõ ràng là có sự phối hợp của các cơ quan vận động và chính nhờ thế mà
con người có biểu tượng không gian 3 chiều về sự vật. Hình ảnh cảm tính thu được trong tri
giác sự vật không đơn thuần chỉ do một cơ quan cảm giác đem lại mà có sự phối hợp vận
động của nhiều cơ quan cảm giác khác như nghe (thính giác), sờ mó (xúc giác) v.v…Cảm
giác, tri giác là các hiện tượng tâm lý phản ánh thế giới tự nhiên bên ngoài con người thông
qua hoạt động của não, là hình ảnh chủ quan về hiện tượng khách quan bên ngoài. Các giác
quan của con người cùng với đường thần kinh hướng tâm, ly tâm và trung ương thần kinh
tương ứng được gọi là “bộ máy phân tích” .
+ Các thực nghiệm của H. Helmholtz cũng như nhiều thực nghiệm khác ở thời kỳ này
đã dẫn con người đi đến bác bỏ cái gọi là “năng lượng chuyên biệt” của các giác quan và
khẳng định mỗi giác quan có liên quan và thích ứng với một loại kích thích, chẳng hạn: ánh
sáng liên quan đến mắt, âm thanh liên quan đến tai…

- Các công trình nghiên cứu của H. Helmholtz đã giúp ta đi đến những kết luận quan
trọng:


+Thế giới khách quan bên ngoài tác động trực tiếp vào các giác quan của con người tạo ra
những xung động thần kinh trong các giác quan.
+Nhờ hoạt động của các giác quan mà con người có được những hình ảnh tương ứng với
sự vật hiện tượng khách quan bên ngoài. Hoạt động của các giác quan giữ vai trò quan trọng
quyết định quá trình nhận biết sự vật.
+Kinh nghiệm đã tham gia tích cực vào việc tạo thành hình ảnh cảm tính.
→ Rõ ràng là có một loại hiện tượng mà từ trước đến nay chưa có một khoa học nào
chuyên tâm nghiên cứu. Hiện tượng mà từ hàng nghìn năm trước đó Socrate, Platon,
Democrite, Aristote và sau này là Descartes đã nói tới. Đó là hiện tượng tâm lý. Hiện tượng
tâm lý người là có thật.
→ Cùng với các kết quả đạt được của Helmholtz, nhiều người đã buộc phải để tâm tới
một vấn đề có ý nghĩa to lớn hơn là xác định đối tượng của khoa học tâm lý. Helmholtz đã lần
lượt công bố các kết quả nghiên cứu của mình trong các công trình mang tên “Học thuyết về
cảm giác nghe là cơ sở sinh lý học của lý thuyết âm nhạc” (1863), “Quang học sinh lý học”
(1863).
b. Tâm vật lý học.
Tâm vật lý học là một dòng nghiên cứu đi sâu làm rõ quan hệ giữa cường độ kích thích
với hình ảnh tâm lý xuất hiện và biểu thị chúng bằng công thức toán học.
- Hai đại biểu lớn nhất của dòng phái này là G.Fechner (1801-1887) và E.Weber (17951878) (cả hai đều là người Đức).
- Khi nghiên cứu phản ứng của da và cơ bắp, E. Weber đã tìm ra công thức biểu thị mối
tương quan giữa phản ứng cảm tính và tác nhân kích thích từ bên ngoài vào. Đồng thời ông
cũng phát hiện ra ngưỡng cảm giác sai biệt. Khẳng định tương quan giữa kích thích vật lý và
phản ứng cảm giác là tương quan có tính quy luật. Với từng loại cảm giác, ngưỡng sai biệt là
một hằng số.
- Cùng với Weber, Fechner cũng tiến hành các nghiên cứu tương tự và tìm ra công thức
biểu thị mối tương quan giữa kích thích và cảm giác. Đó là: cường độ của cảm giác tỷ lệ thuận

với lôgarít cường độ kích thích. C= k.lgS (trong đó C là cường độ cảm giác, S là cường độ
kích thích, k là một hằng số tuỳ thuộc vào từng loại kích thích)
=> Ngày nay công thức này được gọi là công thức Fechner- Weber để ghi nhớ công lao
hai nhà bác học đã tìm ra nó. Các kết quả do tâm vật lý học đem lại đã minh chứng cho việc
khẳng định các quá trình tâm lý là có thật, có thể biểu đạt được nó qua các công thức toán học,
đồng thời có thể nghiên cứu các hiện tượng tâm lý bằng phương pháp thực nghiệm tức là bằng
các phương pháp khách quan. Phương hướng này cần được ủng hộ vì đây chính là các tư
tưởng duy vật trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người.
c. Nghiên cứu thời gian phản ứng
- Đây là hướng nghiên cứu nhằm vào làm rõ mối tương quan giữa hiện tượng sinh lý và
hiện tượng tâm lý bằng phương pháp thực nghiệm.
- Người tiến hành nghiên cứu theo hướng này là là F.K.Donders (1818-1889) nhà sinh lý
học người Hà Lan, viện sĩ thông tấn viện hàn lâm khoa học Saint- Pétersbourg (từ năm 1887)


- F.K. Donders dựa trên kết quả nghiên cứu của Helmholtz đã tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn: Đo thời gian phản ứng (viết tắt là tp). Thời gian phản ứng được xác định như sau: Bắt
đầu bằng kích thích tác động vào giác quan và kết thúc khi có một phản xạ tương ứng. Đem so
sánh thời gian phản ứng (tp) với thời gian dẫn truyền (tx), người ta nhận thấy tp>tx. Từ kết
quả trên ông cho rằng sở dĩ có sự chênh lệch đó là vì đã có các quá trình tâm lý tham gia vào.
Hay nói cách khác sở dĩ có sự chênh lệch đó là vì quá trình thần kinh diễn ra phức tạp hơn (do
có các pha bổ sung đó là các quá trình tâm lý). Một lần nữa nhận thấy có sự tồn tại thực của
các hiện tượng tâm lý . Hiện tượng này là khách quan và hoàn toàn có thể xác định được.
- Donders và các cộng sự của ông đã phân ra 3 loại phản ứng tâm lý: Phản ứng tâm lý
đơn giản; Phản ứng tâm lý lựa chọn; Phản ứng tâm lý phân biệt.
- Nghiên cứu thời gian phản ứng của F. Donders đã chỉ ra rằng: Trong thực tế có một
hiện tượng khác với hiện tượng trong sinh lý học thần kinh nghiên cứu, đó chính là hiện tượng
tâm lý chứ không phải là sinh lý. Đồng thời bằng công trình nghiên cứu của mình Donders
cũng chỉ ra là có thể dùng phương pháp khách quan để nghiên cứu hiện tượng tâm lý ở con
người. Và việc nghiên cứu đó phải được tiến hành bằng một khoa học mới đó là khoa học tâm

lý học.
=> Có thể nói những nghiên cứu của Helmholtz, Fechner, Weber, Donders... đã góp
phần quan trọng vào việc đưa tâm lý học trở thành một khoa học độc lập vào năm 1879.
2. W.Wundt và sự ra đời của tâm lý học
Sự kiện năm 1879 trong lịch sử tâm lý học gắn liền với tên tuổi của W.Wundt (18321920), nhà tâm lý học người Đức.
Tâm lý học của Wundt được thể hiện trên một số tư tưởng chính sau đây:
Thứ nhất:
- Toàn bộ tâm lý học của Wundt xuất phát từ quan niệm coi con người là một thể thống
nhất tâm- vật lý trong đó có những hiện tượng có thể thấy được như các cử động, mắt nhìn, tay
sờ…Trung tâm tâm lý người là một điểm cố định của ý thức được bao quanh bởi các vòng
tròn: vòng tiêu cự, vòng chú ý, trường ý thức, ngưỡng ý thức.
- Tất cả các hiện tượng tâm lý đều ở trong vòng các hiện tượng tinh thần của con người
và đều xuất phát từ ý thức. Wundt coi tâm lý là cái thứ nhất, mọi cái trong thực tại đều bắt
nguồn từ ý thức. Do đó, tâm lý học do Wundt chủ trương thực chất là tâm lý học duy tâm.
Tâm lý học duy tâm của Wundt còn được gọi là tâm lý học nội quan, tâm lý học ý chí luận.
Thứ hai: Wundt đưa ra khái niệm Tổng giác. Đây là khái niệm quan trọng trong hệ thống
lý luận của Wundt.
Theo quan niệm của Wundt thì tổng giác là hạt nhân của ý thức, ý chí của con người.
Tổng giác là một cái gì đó không hiểu được vốn có trong thế giới nội tâm của con người .
Tổng giác phản ứng với những cái do cảm giác, tri giác mang lại, giúp cho con người “cảm
thấy” những cái xảy ra trong mình. Nhờ có “tổng giác” mà trong con người có đủ mọi thứ do
mình tạo ra và tất cả những cái đó không liên quan gì đến hoạt động với thế giới bên ngoài.
Tổng giác tạo thành “con người tí hon” nằm trong và điều khiển “con người thể xác to
lớn”bên ngoài.


Thứ ba: Tâm lý học của Wundt tuân theo “nguyên tắc siêu hình”.
- Wundt quan niệm, “con người tí hon” được tồn tại và nhận thức theo nguyên tắc đóng
kín trong thế giới nội tâm. Mỗi người tự mình hiểu lấy chính mình. Không ai có thể hiểu mình
ngoài bản thân mình. Do đó tâm lý học của Wundt là tâm lý học duy tâm, chủ quan, ý chí

luận. Đó cũng chính là tâm lý học nội quan lấy phương pháp nội quan làm phương pháp duy
nhất để nghiên cứu tâm lý con người. Nội quan tức là tự quan sát, tự thể nghiệm trong chính
mình. Phương pháp này do Descartes (Pháp) và Locke (Anh) khởi xướng từ thế kỷ XVII. Tâm
lý học của Wundt thực chất là cái vòng luẩn quẩn, phản ánh sự bế tắc của tâm lý học duy tâm,
nội quan.
- Vào năm 1879 khi làm giáo sư triết học ở Leipzig, Wundt đã tổ chức ra phòng thực
nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới .Ông cũng đã công bố một cương lĩnh mới về xây
dựng khoa học tâm lý: Xây dựng tâm lý học thực nghiệm và tâm lý học xã hội.
+Về tâm lý học thực nghiệm, ông chủ trương tiếp tục nghiên cứu các vấn đề tâm sinh lý
học các giác quan và tâm vật lý học.
+ Với tâm lý học xã hội, ông chủ trương nghiên cứu tâm lý học dân tộc, nghiên cứu tinh
thần dân tộc qua các truyện cổ tích, thần thoại.Theo Wundt, những tư tưởng tâm lý học dân tộc
tồn tại trong các sản phẩm văn hoá như truyện cổ tích, truyện dân gian, thần thoại, trong phong
tục tập quán của các dân tộc… và để hiểu được những tư tưởng tâm lý học dân tộc này phải
dùng phương pháp thuật lại và suy diễn từ các sản phẩm văn hoá.
Trong các nghiên cứu của mình, Wundt đã cố gắng đề cập tới mảng tâm lý học xã hội
nhưng những quan điểm xuất phát của ông còn nhiều hạn chế, mới đạt được ở mức độ mô tả,
suy diễn có tính chất chủ quan về hiện tượng tâm lý dân tộc.
- Trên cơ sở của phòng thực nghiệm tâm lý học, cũng theo sáng kiến của Wundt, năm
1880 viện tâm lý học được thành lập. Viện này đã nhanh chóng trở thành trung tâm đào tạo
các nhà tâm lý học cho các nước trên thế giới như ở Đức, Nga, Pháp, Mỹ...Nhiều người xuất
phát từ viện này đã trở thành nổi tiếng như E. B.Titchener (1867-1927) ở Mỹ, G.I. Trenpanov
(1862-1936) ở Nga…
- Sau sự kiện này, các phòng thực nghiệm tâm lý học lần lượt ra đời ở nhiều nước châu
Âu và châu Mỹ. Phòng thực nghiệm tâm lý học ở Mỹ được thành lập vào năm 1889. Đến năm
1920, số lượng các phòng thực nghiệm tâm lý học ở các nước đã lên đến con số 100.
- Các công trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm tâm lý học và viện tâm lý học được
Wundt cho công bố trong tập “Các công trình nghiên cứu triết học” (1881). Có thể coi đây là
tập san tâm lý học đầu tiên trên thế giới. ý nghĩa của tập san này là ở chỗ: đây là nơi để những
người làm công tác nghiên cứu tâm lý học, các nhà khoa học thường xuyên trao đổi ý kiến,

tranh luận và học hỏi lẫn nhau, tiếp sức cho nhau, khích lệ nhau vì sự nghiệp chung của tâm lý
học.
- Mười năm sau sự kiện này, năm 1889, các nhà tâm lý học thế giới đã có cuộc gặp gỡ
nhau tại Paris (Pháp) và cũng từ những năm đó, cứ vài ba năm một lần, các nhà tâm lý học
quốc tế lại tổ chức gặp gỡ nhau luân phiên ở các nước. Có thể xem đây là đại hội quốc tế của
các nhà tâm lý học.


=> Có thể nói, trong hàng loạt các sự kiện diễn ra vào những năm cuối thế kỷ XIX thì sự
kiện Wundt tổ chức ra phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên vào năm 1879 là sự kiện nổi bật
nhất. Sự kiện này ghi nhận sự trưởng thành đầy đủ của một ngành khoa học mới là khoa học tâm
lý. Chính vì lẽ đó mà các nhà tâm lý học lấy đây như một cái mốc đánh dấu sự ra đời của tâm lý
học với tư cách là một khoa học độc lập.
VẤN ĐỀ 6: TÂM LÝ HỌC GESTALT

1. Nguồn gốc nảy sinh của tâm lý học Gestalt.
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tâm lý học thế giới đi vào cuộc khủng hoảng. Đó là
cuộc khủng hoảng về phương pháp luận. W. Wundt đã đóng góp công lao to lớn cho việc ra
đời của Tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập, nhưng tâm lý học của Wundt thực
chất là tâm lý học duy tâm. Bằng phương pháp nội quan trong việc nghiên cứư tâm lý, nền tâm
lý học này cũng đã đi vào bế tắc. Việc xuất hiện nhiều dòng phái tâm lý học khác nhau ở
nhiều nước trong việc tìm kiếm một lối thoát cho tâm lý học cũng là một nhu cầu khách quan..
ở Mỹ, xuất hiện tâm lý học chức năng của W.James (1842-1910) và Angell (1869-1949). E.
Titchener (1867-1927), học trò của Wundt, người đại diện toàn quyền tâm lý học nội quan ở
Mỹ trước tình trạng khủng hoảng này cũng đã chủ trương xây dựng tâm lý học cấu trúc, trong
đó ông coi tâm hồn là tổ hợp nhiều qúa trình xảy ra trong “cái tôi ” với tính cách là kinh
nghiệm chủ quan. Quan niệm của Titchener đã làm cho tâm lý học tách rời cuộc sống và do
vậy tâm lý học cấu trúc của ông cũng không tránh khỏi con đường bế tắc. Tâm lý học mô tả
của W. Dilthey (1833-1911) và Spơranghe về thực chất cũng là tâm lý học nội quan, tâm lý
học giảng giải theo kiểu của Wundt, mặc dầu chính các ông đã ra tuyên bố ly khai với nền tâm

lý học nội quan của Wundt.
- Một điều kiện lịch sử quan trọng của việc hình thành dòng phái tâm lý học Gestalt là sự
khủng hoảng trong khoa học tự nhiên. Cuộc khủng hoảng trong vật lý học từ góc độ phương
pháp luận là biểu hiện sự sụp đổ của quan niệm siêu hình về cấu trúc của vật chất, coi vật chất
được cấu tạo từ những nguyên tử đơn lẻ, cứng nhắc. Chính vì thế mà từ năm 1907 đến 1913 đã
xuất hiện 3 dòng phái tâm lý học: tâm lý học Gestalt; tâm lý học hành vi; phân tâm học.
- Tâm lý học Gestalt ra đời vào năm 1913, thời kỳ khủng hoảng của tâm lý học thế giới,
do bộ ba các nhà tâm lý học cấu trúc người Đức tên là M. Wertheimer (1880-1943), V.Kohler
( 1887-1967), K. Koffka (1886-1941) lập ra. Đây là một trường phái chuyên nghiên cứu về tri
giác, ít nhiều nghiên cứu về tư duy con người nhằm chống lại tâm lý học nội quan, đồng thời
chống lại cả tâm lý học liên tưởng, tham vọng xây dựng một nền tâm lý học khách quan theo
kiểu mẫu của vật lý học.
* Về cơ sở triết học ảnh hưởng đến sự nảy sinh của tâm lý học Gestalt, có thể kể đến:
- Triết học tiên nghiệm của E. Kant (1724-1804):
+ Là nhà triết học duy tâm người Đức, người khởi xướng phép biện chứng tiên nghiệm và
nền triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
+ “Vật tự nó”, theo quan niệm của Kant, là vật thể tồn tại độc lập với ý thức, ta không thể
nhận thức được nhưng lại phù hợp với những biểu tượng của con người.
+ Kant đưa ra phạm trù tiên thiên và cho rằng, không gian, thời gian, tính nhân quả và các
quy luật tự nhiên không phải là đặc tính của bản thân sự vật mà là đặc tính của giác tính con


×