Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo lào việt nam từ năm 1992 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 139 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

BOUNGNOK KEOVONGVICHITH

QUAN HỆ HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
LÀO - VIỆT NAM TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

BOUNGNOK KEOVONGVICHITH

QUAN HỆ HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
LÀO - VIỆT NAM TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Mã số: 60220311

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Xuân Kháng
XÁC NHẬN HỌC VIÊN ĐÃ CHỈNH SỬA THEO GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG

Giáo viên hướng dẫn



Chủ tịch hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ khoa học

PGS.TS. Đặng Xuân Kháng

GS.TS. Nguyễn Văn Kim

HÀ NỘI - 2016


LỜI CÁM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn, tôi nhận đƣợc sự quan tâm giúp đỡ
quý báu từ nhiều cá nhân và tập thể. Trƣớc hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban
Giám hiệu, Ban chủ nhiệm Khoa Lịch Sử và bộ môn Lịch sử Thế giới Trƣờng
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian
học tập tại trƣờng.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS. Đặng Xuân
Kháng - Giảng viên khoa Lịch Sử, ngƣời đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và
hƣớng dẫn tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Sự giúp đỡ về mọi mặt từ phƣơng pháp, tài liệu và những lời động viên
góp ý của Thầy đã giúp tôi thêm tự tin và quyết tâm hoàn thành luận văn này.
Việc hoàn thành đề tài này là kết quả của niềm đam mê và lòng quyết
tâm của tôi. Đó cũng chính là tổng hợp của sự giúp đỡ, động viên và ủng hộ
nhiệt tình của thầy giáo, cô giáo, gia đình và bạn bè.
Do những hạn chế về ngôn ngữ nên trong quá trình thực hiện luận văn,
tôi vẫn còn mắc phải không ít sai sót về lỗi chính tả và hình thức trình bày
cũng nhƣ nội dung. Tôi mong nhận đƣợc sự đóng góp của các thầy, cô và các
bạn để luận văn của tôi đƣợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Boungnok KEOVONGVICHITH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ...............................................................4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. ....................................................................4
5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.............................5
6. Đóng góp của luận văn. .................................................................................5
7. Kết cấu của luận văn. .....................................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ MỐI QUAN HỆ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
LÀO - VIỆT NAM ............................................................................................6
1.1. Các điều kiện tiền đề của mối quan hệ hợp tác Lào - Việt ...................6
1.1.1. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên .................................................6
1.1.2. Điều kiện kinh tế hai nƣớc...................................................................8
1.1.3. Dân cƣ, nguồn lao động .................................................................... 10
1.2. Mối quan hệ đặc biệt trong các chặng đƣờng lịch sử. ........................ 12
1.2.1. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp ......................................... 12
1.2.2. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ ........................................... 20
1.3. Quan hệ giáo dục Lào - Việt Nam trƣớc năm 1992 ............................ 35

1.3.1. Quan điểm về chính sách giáo dục của hai nƣớc Lào - Việt Nam ... 35
1.3.2. Quan hệ hợp tác giáo dục Lào - Việt Nam trƣớc năm 1992 ............ 38
Tiểu kết .......................................................................................................... 41
CHƢƠNG 2. QUAN HỆ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO - VIỆT NAM
TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2014 .................................................................. 42
2.1. Bối cảnh Quốc tế .................................................................................... 42
2.2. Hợp tác trong đào tạo Lào - Việt Nam ................................................ 43
2.2.1. Việt Nam đào tạo cho Lào ................................................................ 43
2.2.2. Lào đào tạo cho Việt Nam ................................................................ 44
ii


2.3. Hợp tác bồi dƣỡng cán bộ lãnh đạo quản lý ....................................... 45
2.4. Hợp tác giữa các cơ quan cấp Bộ và các địa phƣơng ......................... 46
2.5. Việt Nam viện trợ và xây dựng cơ sở vật chất giáo dục cho Lào ...... 66
Tiểu kết .......................................................................................................... 71
CHƢƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
QUAN HỆ HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO - VIỆT NAM.... 72
3.1. Một số nhận xét về quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo
Lào - Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2014 ............................................... 78
3.1.1. Những thành tựu đạt đƣợc ................................................................ 78
3.1.2. Hạn chế, tồn tại ................................................................................. 81
3.2. Bài học kinh nghiệm và giải pháp thúc đẩy hợp tác giáo dục và
đào tạo Lào - Việt ......................................................................................... 86
3.2.1. Bài học kinh nghiệm ......................................................................... 86
3.2.2. Giải pháp chung ................................................................................ 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 96
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 101


iii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

Ban Chấp hành

CHDCND

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CHXHCN

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CT

Chủ tịch

ĐCS

Đảng Cộng sản

ĐHĐB


Đại hội đại biểu

ĐNDCM

Đảng Nhân dân Cách mạng

TBT

Tổng Bí thƣ

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quy luật tồn tại và phát triển của nhân loại, nhu cầu hợp tác, giao
lƣu và phát triển quan hệ với bên ngoài của mọi quốc gia, mọi dân tộc là một
nhu cầu tất yếu. Bởi đó không chỉ là điều kiện cần thiết để mỗi cá nhân giao
hòa với cộng đồng dân cƣ, với các nền văn hóa trong và ngoài khu vực, mà
còn là cơ sở để mỗi quốc gia hình thành và phát triển. Con ngƣời không thể
sống biệt lập cũng nhƣ quốc gia không thể thiếu chức năng phát triển các mối
quan hệ với bên ngoài.
Có thể nói lịch sử phát triển của mỗi quốc gia cũng là lịch sử của những
quá trình chuyển biến nội tại và phát triển quan hệ, hợp tác với các nƣớc bên
ngoài. Điều này càng có một ý nghĩa đặc biệt trong xu thế phát triển hội nhập

hiện nay.
Lào và Việt Nam không phải là những trƣờng hợp ngoại lệ. Là những
quốc gia cùng nằm trong bán đảo Đông Dƣơng, cùng thuộc khu vực Đông
Nam Á. Hai nƣớc là anh em, là láng giếng tựa lƣng vào nhau thì mối quan hệ
hợp tác trên nhiều lĩnh vực lại càng sâu đậm hơn bất kỳ một quốc gia nào khác.
Hai nƣớc Lào - Việt Nam có lịch sử gắn bó rất lâu đời trong suốt chiều
dài dựng nƣớc và giữ nƣớc của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy, nhân
dân hai nƣớc đã “chung lƣng đấu cật” để xây dựng mỗi nƣớc phát
triển. Là hai nƣớc láng giềng có nhiều nét tƣơng đồng về văn hóa, Việt Nam
và Lào đã chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc.
Mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời Việt Nam - Lào bắt nguồn từ
tình cảm láng giềng thân thiết, sự gắn bó keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và
nhân dân các bộ tộc Lào đã trải qua muôn vàn thử thách, đƣợc nhiều thế hệ
lãnh đạo hai Đảng và nhân dân hai nƣớc, đặc biệt là Chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản vĩ đại và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu trực tiếp gây dựng nền
1


móng, đƣợc các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nƣớc, cùng nhân
dân hai nƣớc quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp, không ngừng
phát triển và trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng và là mẫu
mực hiếm có trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Mối quan hệ Lào - Việt đã đƣợc hình thành và bền chặt từ những năm
tháng đất nƣớc còn dƣới sự thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Mối
quan hệ này bắt nguồn từ tinh thần đoàn kết vì hòa bình ổn định trên lãnh thổ
và khu trong vực. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1991, hợp tác giữa hai nƣớc Việt
Nam - Lào đã có những điều chỉnh căn bản từ quan điểm “tài nguyên của Lào,
kỹ thuật lao động của Việt Nam và vốn của nƣớc thứ ba” sang nguyên tắc
“hợp tác bình đẳng cùng có lợi, sự kết hợp hài hòa thỏa đáng giữa quan hệ đặc
biệt với thông lệ quốc tế nhằm ƣu tiên, ƣu đãi hợp lý cho nhau”. Sự phát triển

mối quan hệ này đã góp phần xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nƣớc của cả
hai quốc gia trong suốt những năm qua và sẽ đƣợc tiếp tục mở rộng vào
những năm tới. Đặc biệt, sự hợp tác về mặt văn hóa, giáo dục và khoa học
công nghệ giữa Việt Nam - Lào từ năm 1992 cho đến nay đã có những kết
quả đáng ghi nhận, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp đổi mới ở mỗi nƣớc và
đƣa mối quan hệ đặc biệt hai nƣớc lên tầm cao mới, đóng góp cho hòa bình
ổn định và phát triển của khu vực và trên thế giới.
Quốc gia nào cũng thế, giáo dục luôn có một vị trí quan trọng và là
nhân tố để thúc đẩy sự phát triển thịnh vƣơng của mỗi quốc gia đó. Việc học
tập, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục là yếu tố cần thiết để đúc rút
ra những bài học cho sự phát triển ngày càng tốt đẹp hơn.
Trong lĩnh vực giáo dục, sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nƣớc
Việt Nam - Lào cũng đã có bề dày lịch sử, từ buổi ban đầu của thời kỳ cách
mạng, hai nƣớc cùng chiến đấu chung một chiến hào, bộ đội tình nguyện Việt
Nam đã dạy chữ cho các chiến sĩ cách mạng Lào, giúp cho nhiều ngƣời sau
này trở thành những cán bộ ƣu tú, những ngƣời chỉ huy tài năng. Tại vùng
2


giải phóng Lào, nhiều cán bộ giáo dục tình nguyện Việt Nam đã sang giúp
Lào phát triển giáo dục, từ bậc tiểu học, phổ thông trung học, trung học
chuyên nghiệp, đến cao đẳng và đại học.
Xuất phát từ những giá trị truyền thống tốt đẹp đó, tôi lựa chọn đề tài
“Quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo Lào - Việt Nam từ năm 1992 đến
năm 2014” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ Lào và Việt Nam vốn là mối quan hệ tình cảm đặc biệt. Chính
vì thế đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự hợp tác và phát triển giữa hai
nƣớc. Tuy nhiên, chỉ có nhiều công trình nghiên cứu về hợp tác kinh tế, chính
trị còn những công trình nghiên cứu về hợp tác giáo dục thì còn có những hạn

chế nhất định, hoặc có đề cập nhƣng còn mang tính chất chung chung.
Trong công trình Quan hệ đặc biệt hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào
trong giai đoạn 1945 - 2000 của tác giả Lê Đình Chỉnh, tác đã nói về sự giúp
đỡ của các chuyên gia Việt Nam giúp Lào xây dựng đội ngũ giáo viên và nội
dung chƣơng trình đào tạo cho các cấp học ngay từ những ngày đầu kháng
chiến giành độc lập cho dân tộc Lào. Bên cạnh đó tác giả cũng chỉ ra công tác
bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt có đủ năng lực và phẩm chất lãnh đạo
cách mạng cho Lào là nhiệm vụ chiến lƣợc phát triển mối quan hệ Lào và
Việt Nam.
Tác phẩm Lịch sử quan hệ Việt Nam - Lào và Lào - Việt Nam (1930 2007) cũng đề cập nhiều đến việc hợp tác giáo dục và đào tạo giữa hai nƣớc.
Luận văn của Sisavai đề tài: “Những giải pháp chủ yếu để nâng cao
hiệu quả hợp tác đầu tƣ giữa Việt Nam và nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào” chỉ là đánh giá chung nhất về hoạt động đầu tƣ của Việt Nam ra nƣớc
ngoài, so sánh hoạt động đầu tƣ của Việt Nam sang Lào so với hoạt động đầu
tƣ ra nƣớc ngoài nói chung và đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cƣờng
hoạt động đầu tƣ của doanh nghiệp Việt Nam sang Lào.
3


Rất tiếc, ở Lào chƣa có tác giả nào nghiên cứu về vấn đề hợp tác giáo
dục giữa hai nƣớc Lào - Việt nên tôi chủ yếu dựa vào các công trình đã đƣợc
công bố của các tác giả Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích
Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo
giữa Lào và Việt Nam từ năm 1992 đến tháng 9 năm 2015, qua đó đánh giá
những thành công trong lĩnh vực giáo dục giữa hai nƣớc và cả những hạn chế
để vận dụng thực hiện trong các giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Phân tích các điều kiện thuận lợi cũng nhƣ hạn chế trong việc hợp tác
giáo dục và đào tạo giữa hai nƣớc Lào - Việt Nam.
- Trình bày theo hệ thống lịch sử quá trình hợp tác quan hệ giữa hai
nƣớc Lào - Việt Nam đặc biệt là lĩnh vực hợp tác giáo dục.
- Nêu lên những thành công và hạn chế trong quá trình hợp tác giáo dục
giữa hai nƣớc.
- Rút ra những kinh nghiệm để trong quá trình tiếp theo hợp tác giáo
dục giữa Lào - Việt Nam sẽ đạt đƣợc những thành công hơn nữa.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề giáo dục của Lào và Việt Nam trong quá trình hợp tác từ năm
1992 đến năm 2014; Những chủ trƣơng, biện pháp và quá trình tổ chức thực
hiện hợp tác giáo dục và đào tạo giữa hai nƣớc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự hợp tác giữa Lào và Việt Nam song luận chỉ văn tập
trung nghiên cứu về quá trình hợp tác giữa hai nƣớc ở các nội dung nhƣ: văn
bản hợp tác giáo dục và đào tạo bao gồm các nghị định, nghị quyết hoặc chủ
trƣơng đƣờng lối hợp tác của hai Đảng, hai Nhà nƣớc và kết quả của sự hợp
4


tác giáo dục và đào tạo trong giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2014, kể từ khi
hai nƣớc ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật thời kỳ
1992 - 1995 và năm 1992 tại Viêng Chăn ngày 15/2/1992.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp phƣơng pháp lô gíc,
đồng thời trong những nội dung nhất định còn sử dụng phƣơng pháp thống kê,
so sánh để làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn.
Hệ thống hóa các chủ trƣơng, biện pháp và quá trình chỉ đạo, tổ chức
triển khai thực hiện hợp tác giáo dục của hai Nhà nƣớc Lào và Việt Nam từ
năm 1992 đến năm 2014.
Qua đó nêu lên các thành tựu, hạn chế và rút ra một số bài học kinh
nghiệm để quá trình hợp tác sẽ ngày càng thành công hơn nữa ở các giai đoạn
tiếp theo.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu về
quan hệ phát triển giữa Lào và Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
thì luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở mối quan hệ giáo dục và đào tạo Lào - Việt Nam
Chương 2: Quan hệ giáo dục và đào tạo Lào - Việt Nam từ năm 1992
đến năm 2014
Chương 3: Bài hộc kinh nghiệm và giải pháp thúc đẩy hợp tác giáo
dục và đào tạo Lào - Việt Nam trong thời gian tới
5


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ MỐI QUAN HỆ GIÁO DỤC LÀO - VIỆT NAM
1.1. Các điều kiện tiền đề của mối quan hệ hợp tác Lào - Việt
1.1.1. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên
Việt Nam là một quốc gia nằm ở cực đông bán đảo Đông Dƣơng, có
phần đất liền trải dài từ kinh tuyến 102°8′ Đông đến 109°27′ Đông và từ vĩ
tuyến 8°27′ Bắc đến 23°23′ Bắc. Diện tích đất liền vào khoảng 331.698 km².
Việt Nam là một quốc gia nhiệt đới với những vùng đất thấp, đồi núi, nhiều

cao nguyên với những cánh rừng rậm. Đất đai có thể dùng cho nông nghiệp
chiếm chƣa tới 20%. Đất nƣớc bị chia thành miền núi, vùng đồng bằng sông
Hồng ở phía bắc; và dãy Trƣờng Sơn, Tây Nguyên, đồng bằng duyên hải
miền trung, và đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam [ 44. tr 45]
Việt Nam vốn là quốc gia có vị trí địa lý đẹp có nhiều thuận lợi. Nằm
trên ngã tƣ đƣờng hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng với nhiều cảng
biển và các sân bay quốc tế, cùng với các tuyến đƣờng bộ, đƣờng sắt xuyên
Á, đƣờng biển, đƣờng hàng không nối liền với các quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á và thế giới. Hơn thế nữa, Việt Nam là nƣớc có đƣờng bờ biển
dài hơn 3.200 km đây là cơ sở cửa ngõ mở lối ra biển thuận lợi cho Lào, các
khu vực Đông Bắc Thái Lan và Campuchia, Tây Nam Trung Quốc.[ 44. tr 3]
Việt Nam là nƣớc có nhiều tài nguyên thiên nhiên từ tài nguyên đất,
sinh vật, khoáng sản, nƣớc, biển, rừng đến tài nguyên du lịch. Tất cả đều
phong phú. Có thể thấy rằng Việt Nam là quốc gia có rừng vàng, biển bạc.
Đây là cơ hội cho đất nƣớc Việt Nam phát triển bền vững dựa trên những
nguồn lực sẵn có.
Còn đối với Lào: Lào là đất nƣớc có nhiều núi non bao phủ bởi rừng
xanh; đỉnh cao nhất là Phou Bia cao 2.817 m. Diện tích còn lại là bình nguyên
và cao nguyên. Sông Mê Kông chảy dọc gần hết biên giới phía tây, giáp giới
với Thái Lan, trong khi đó dãy Trƣờng Sơn chạy dọc theo biên giới phía đông
giáp với Việt Nam. [52]
6


Lào có nguồn tài nguyên phong phú về lâm, nông nghiệp, khoáng sản
và thuỷ điện. Là một quốc gia không giáp biển duy nhất tại vùng Đông Nam
Á. Lào giáp giới Myanma và Trung Quốc về phía tây bắc, Việt Nam ở phía
đông, Campuchia ở phía nam và Thái Lan ở phía tây. Đây là hạn chế của Lào
trƣớc sự phát triển kinh tế khi giao thƣơng đƣờng biển luôn chiếm một vị trí
quan trọng trong việc phát triển kinh tế ở các nƣớc trên thế giới.

Vị trí địa lý đã tạo điều kiện cho hai nƣớc Lào và Việt Nam có mối
quan hệ hợp tác thƣờng xuyên trong suốt những chặng đƣờng phát triển. Việt
Nam là cửa ngõ thông ra biển cho Lào.
Lào và Việt Nam đều nằm ở trung tâm bán đảo Trung - Ấn, thuộc vùng
Đông Nam Á lục địa. Dãy Trƣờng Sơn có thể ví nhƣ cột sống của hai nƣớc,
tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.
Với địa hình tự nhiên này, về đƣờng bộ cả Việt Nam và Lào đều theo
trục Bắc - Nam. Còn về đƣờng biển, Lào chỉ có thể thông thƣơng qua một số
tỉnh miền Trung Việt Nam. Với điều kiện tự nhiên nhƣ thế, Việt Nam và Lào
vừa có nhiều điểm tƣơng đồng nhƣng cũng có những nét khác biệt.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay,
để hợp tác cùng phát triển, hai nƣớc hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau bằng
tiềm năng, thế mạnh của mỗi nƣớc về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực,
thị trƣờng cũng nhƣ sự phân vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý.
Ngoài ra, Lào và Việt Nam lại nằm kề con đƣờng giao thông hàng hải,
hàng đầu thế giới nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dƣơng và
Ấn Độ Dƣơng cho nên chiếm vị trí địa - chiến lƣợc quan trọng ở vùng Đông
Nam Á. Trong khi đó, dãy Trƣờng Sơn, biên giới tự nhiên giữa Lào và Việt
Nam, đƣợc ví nhƣ bức trƣờng thành hiểm yếu để hai nƣớc tựa lƣng vào nhau,
phối hợp giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lƣợc khống chế những địa bàn then
chốt về kinh tế và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và
Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.
7


Vị trí hình thể là tiền đề để hai nƣớc Lào - Việt Nam hợp tác phát triển
là anh em trong quá trình phát triển xây dựng đất nƣớc. Là những đối tác
chiến lƣợc quan trọng của nhau, cùng hợp tác phát triển trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, giáo dục cũng nhƣ quốc phòng an ninh. Hai dân tộc là ngƣời bạn
thủy chung, đồng cam cộng khổ gắn bó, sẻ chia cùng nhau. Là hai nƣớc láng

giềng gần gũi, cùng chung sống lâu đời trên cùng một bán đảo, cùng chung
nguồn nƣớc Mê Công và dãy Trƣờng Sơn hùng vĩ. [16. tr 5]
1.1.2. Điều kiện kinh tế hai nước
+ Điều kiện kinh tế Lào
Lào là nƣớc nằm sâu trong lục địa, không có đƣờng thông ra biển và
chủ yếu là đồi núi trong đó 47% diện tích là rừng. Có một số đồng bằng nhỏ ở
vùng thung lũng sông Mê Kông hoặc các phụ lƣu nhƣ đồng bằng Viêng Chăn,
Champasack... 45 % dân số Lào sống ở vùng núi. Lào có 800.000 ha đất canh
tác nông nghiệp với 85% dân số sống bằng nghề nông [52]
Nhìn chung, nền kinh tế trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ
nhƣng chƣa có cơ sở bảo đảm ổn định. Các mục tiêu kinh tế-xã hội do các kỳ
đại hội và các chƣơng trình kế hoạch 5 năm đƣợc triển khai thực hiện có hiệu
quả. Lào đang nắm bắt thời cơ, đang tạo nên những bƣớc đột phá và đang có
những tiền đề cho một thời kỳ tăng tốc. Tăng trƣởng GDP năm 2007 đạt 8%,
năm 2008 đạt 7,9%. Thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng dần, năm 2000 đạt
298USD/ngƣời/năm; năm 2006 đạt 546 USD/ngƣời/năm, năm 2007 đạt
678USD/ngƣời/năm, năm 2008 đạt 841USD/ngƣời/năm, năm 2013 đạt 948
USD/ năm và năm 2014 đạt 986 USD/ năm. Đến năm 2020, Lào phấn đấu đạt
GDP bình quân đầu ngƣời khoảng 1.200-1.500 USD/năm. [ 5]
Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VIII (3/2006) đề ra
mục tiêu đến năm 2020: xây dựng vững chắc hệ thống chính trị dân chủ nhân
dân, trong đó Đảng là hạt nhân lãnh đạo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh
trật tự an toàn xã hội; đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng kém phát triển; kinh
8


tế phát triển dựa trên sự phát triển nông nghiệp vững chắc và lấy phát triển
công nghiệp làm cơ sở, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc, tạo chuyển biến cơ bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng tích
cực; phát triển nhịp nhàng các thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế

Nhà nƣớc và kinh tế tập thể đƣợc củng cố và phát triển vững mạnh. GDP tăng
gấp 3 lần so với năm 2000; chủ động mở rộng hợp tác quốc tế.
Mặc dù tốc độ tăng trƣởng cao nhƣng Lào vẫn còn là một đất nƣớc với
cơ sở hạ tầng lạc hậu. Hiện tại, Lào mới có tuyến đƣờng sắt nối thủ đô
Vientiane (Lào) đến tỉnh Nong Khai (Thái Lan) và hệ thống đƣờng bộ mặc dù
đã đƣợc cải tạo nhƣng đi lại vẫn khó khăn. Hệ thống liên lạc viễn thông trong
nƣớc và quốc tế còn giới hạn. Điện sinh hoạt chủ yếu mới có ở khu vực đô thị.
Sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) và sử dụng hơn 80% lực lƣợng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục
nhận đƣợc sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế
khác cũng nhƣ từ đầu tƣ nƣớc ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp
và khai khoáng.
+ Điều kiện kinh tế Việt Nam
Trƣớc năm 1986, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung. Chính sách Đổi mới thực hiện từ năm 1986 thiết lập mô hình
"Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế
đƣợc mở rộng nhƣng các ngành kinh tế then chốt vẫn dƣới sự điều hành của
Nhà nƣớc. Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bƣớc phát triển to
lớn và đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế trung bình khoảng 9%/năm từ 1993
đến 1997, đặc biệt là sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam vào năm
1994.[ 51]
Do ảnh hƣởng của khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, tăng trƣởng
GDP 8,5% vào năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 nhƣng đã tăng lên
đến 4,8% năm 1999. Tăng trƣởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những
9


năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh tế thế giới đang trì trệ. Hiện nay, giới
lãnh đạo Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự do hóa nền kinh tế và thi hành các
chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và

tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn.
Mặc dù có tốc độ phát triển kinh tế cao trong một thời gian dài nhƣng
do tình trạng tham nhũng không đƣợc cải thiện và luôn bị xếp hạng ở mức độ
cao của thế giới cộng với các khó khăn về vốn, đào tạo lao động, đất đai, cải
cách hành chính, cơ sở hạ tầng gây ra cho việc kinh doanh với hàng chục
ngàn thủ tục từ 20 năm trƣớc đang tồn tại và không phù hợp với nền kinh tế
thị trƣờng nên với con số cam kết đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài (FDI) cao
kỷ lục 61 tỉ USD năm 2008 chƣa nói lên đƣợc mức độ tin tƣởng của các nhà
đầu tƣ quốc tế đối với Việt Nam và Việt Nam đang bị các nƣớc trong khu vực
bỏ lại khá xa.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thƣơng mại
Thế giới (WTO) sau khi đã kết thúc đàm phán song phƣơng với tất cả các
nƣớc có yêu cầu (trong đó có những nền kinh tế lớn nhƣ Hoa Kỳ, Liên minh
châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc). Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức WTO vào ngày 11 tháng 1 năm 2007. Và mới đây
Việt Nam cũng đã tham gia ký kết hiệp định đối tác chiến lƣợc kinh tế xuyên
Thái Bình Dƣơng (TPP). Tất cả những điều đó đang chứng tỏ bƣớc tiến mới
về sức mạnh kinh tế của Việt Nam.
Nhƣ vậy, với sự phát triển kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam thì
đây sẽ là điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể giúp đỡ Lào nhiều hơn nữa
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc.
1.1.3. Dân cư, nguồn lao động
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp
quốc công bố ngày 17 tháng 12 năm 2014 thì dân số Việt Nam là hơn 90 triệu
dân, là nƣớc có dân số đông đứng thứ 13 trên thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3
10


trong khu vực Đông Nam Á. Dân cƣ Việt Nam phần đông vẫn còn là cƣ dân
nông thôn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cƣ ở mức

khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi). [44. Tr 53]
Lực lƣợng lao động của Việt Nam hiện nay khoảng 52.207.000 ngƣời;
hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bƣớc vào tuổi lao
động. Lao động Việt Nam đƣợc đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù,
tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm còn nhiều hạn chế.
[44. Tr 51]
Số lƣợng nguồn nhân lực của Việt Nam đƣợc tuyển để đào tạo ở các cấp
tăng nhanh. Điều này có thể đƣợc xem nhƣ là một thành tựu quan trọng trong
lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ, năm 2013, số sinh viên
đại học và cao đẳng là 2.058.922 ngƣời; số sinh viên tốt nghiệp là 405.900
ngƣời; số học sinh các trƣờng trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 ngƣời. Tuy
nhiên, chất lƣợng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo
vùng, miền, địa phƣơng.. chƣa đồng nhất, chƣa thực sự phù hợp với nhu cầu sử
dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nƣớc và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong
toàn bộ lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là
33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ
lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực đƣợc đào tạo
trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng
tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ). [ 32]
Sử dụng nhân lực: Lực lƣợng lao động đã đƣợc thu hút vào làm việc
trong nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8
của Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58 1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là
3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị
là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
11


Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá
đã đƣợc thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực

nhƣ bƣu chính viễn thông, công nghệ thông tin, đóng tàu, công nghiệp năng
lƣợng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam
ngày càng tăng về số lƣợng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh,
từng bƣớc tiếp cận trình độ quốc tế.
Lào và Việt Nam đều là những quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Cùng
sinh tụ trên một bán đảo có nhiều nét tƣơng đồng về các yếu tố địa- chính trị,
địa - kinh tế- văn hóa [41. tr 9] . Hiện tƣợng một tộc ngƣời sống xuyên biên
giới quốc gia của hai nƣớc, hoặc nhiều nƣớc là đặc điểm tự nhiên của sự phân
bố tộc ngƣời ở khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói
riêng. Đặc điểm này đã chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đƣờng
biên giới quốc gia Việt Nam-Lào.
Chính quá trình cộng cƣ, hoặc sinh sống xen cài của những cƣ dân Việt
Nam và cƣ dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nƣớc đã dẫn đến việc cùng
khai thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thủy. Điều
này, thêm một lần nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc
chính là những điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên
hệ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cƣ dân hai nƣớc.
1.2. Mối quan hệ đặc biệt trong các chặng đƣờng lịch sử
1.2.1. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp
Sau khi giành lại đƣợc chính quyền, nhân dân hai nƣớc Việt Nam, Lào
hơn lúc nào hết, chỉ mong muốn đƣợc sống trong hòa bình, tiếp tục hợp tác,
cùng nhau bảo vệ nền độc lập và xây dựng lại đất nƣớc. Chính phủ hai nƣớc
đã ký Hiệp ước tương trợ Lào - Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào Việt , đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu
chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt - Lào.
12


Bất chấp nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nƣớc Việt Nam và
Lào, thực dân Pháp ngang nhiên gây chiến tranh hòng áp đặt lại ách thống trị
của chúng ở Đông Dƣơng. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ

súng đánh chiếm Sài Gòn. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam
Bộ, Nam Trung Bộ của Việt Nam, sang Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi
Đông Dƣơng.
Trƣớc nguy cơ đe dọa nền độc lập dân tộc, Ban chấp hành Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, chủ trƣơng
thống nhất mặt trận Việt- Miên- Lào chống Pháp xâm lƣợc nhằm “Tăng
cƣờng công tác vũ trang tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở thôn
quê, làm cho mặt trận kháng Pháp của Lào - Việt lan rộng và chiến tranh du
kích nảy nở ở thôn quê, đặng bao vây lại quân Pháp ở nơi sào huyệt của
chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào” .
Theo tinh thần đó, quân và dân các địa phƣơng vùng giáp ranh biên
giới Việt Nam - Lào phối hợp đánh quân Pháp ở nhiều nơi. Uỷ ban Kháng
chiến hành chính và Bộ chỉ huy Chiến khu 4 (Việt Nam) thành lập Ban chỉ
huy các mặt trận đƣờng 8, đƣờng 9 và cử một số đơn vị phối hợp với bộ đội
Lào, vừa đánh địch ở Na Pê, Xê Pôn, huyện lỵ Căm Cớt ,vừa làm công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân gây dựng cơ sở, lực lƣợng kháng chiến. Hội
Việt kiều cứu quốc ở các tỉnh, thành phố của Lào động viên, kêu gọi thanh
niên tích cực gia nhập lực lƣợng Liên quân Lào- Việt. Chỉ trong một thời gian
ngắn, Liên quân Lào- Việt đƣợc thành lập ở nhiều nơi, trở thành lực lƣợng vũ
trang cách mạng, hăng hái chiến đấu chống quân xâm lƣợc.
Tiêu biểu cho tình đoàn kết và liên minh chiến đấu của Liên quân LàoViệt trong năm đầu của cuộc kháng chiến là trận chiến đấu bảo vệ Thà Khẹc
ngày 21 tháng 3 năm 1946.
Đồng chí Cay xỏn Phôm vi hẳn đƣa ra nhận định để đẩy cao tinh thần
đoàn kết “Các phong trào có nhiều nhân tố, tự phát, bị bó hẹp trong một số bộ
13


tộc, địa phƣơng, thiếu sự phối hợp của cả nƣớc, đặc biệt là thiếu sự lãnh đạo
của một đảng cách mạng nhân chân chính, lại diễn ra trong hoàn cảnh quốc tế
không thuận lợi, nên cuối cùng bị dập tắt” [7 tr 12]

Và từ giữa năm 1946, sau khi quân Pháp chiếm lại một số tỉnh ở bắc vĩ
tuyến 16 của Lào, các lực lƣợng kháng chiến Lào chuyển sang phía Đông tiến
hành chiến tranh du kích. Đƣợc Ủy ban Kháng chiến hành chính Chiến khu 4
(Việt Nam) giúp đỡ, Hội nghị cán bộ các tỉnh Savẳnnàkhẹt, Khăm Muộn,
Xiêng Khoảng và Hủa Phăn họp tại Vinh, tỉnh Nghệ An (10/1946) để thống
nhất lực lƣợng và hành động. Hội nghị đã quyết định thành lập Uỷ ban giải
phóng Đông Lào để chỉ đạo cuộc đấu tranh tại vùng Đông Lào và đề ra
phƣơng hƣớng đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở
chính trị, củng cố các lực lƣợng vũ trang cách mạng Lào, phát triển chiến
tranh du kích chống thực dân Pháp và tay sai.
Bằng mọi sự nỗ lực, các lực lƣợng vũ trang Việt - Lào đã từng bƣớc tạo
dựng đƣợc niềm tin trong nhân dân, xây dựng thêm nhiều cơ sở kháng chiến
và mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp các tỉnh của Đông Lào.
Quán triệt tinh thần Hội nghị Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng
mở rộng (1/1948) về những chủ trƣơng mới và nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam đối với cách mạng Lào, Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và Bộ
Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam quyết định tăng
cƣờng lực lƣợng sang phối hợp và giúp đỡ nhân dân Lào đẩy mạnh kháng
chiến. Thực hiện chủ trƣơng trên, trong năm 1948, lãnh đạo hai nƣớc Việt
Nam, Lào đã thống nhất quyết tâm và tiến tới thành lập Mặt trận Tây Bắc Lào
nhằm xúc tiến việc xây dựng căn cứ địa Tây Bắc Lào, nối liền với khu Tây
Bắc của Việt Nam; thành lập Ban xung phong Lào Bắc, để xây dựng căn cứ
địa Lào Bắc vững chắc, làm chỗ dựa cho việc xây dựng và phát triển thế trận
chiến tranh nhân dân; thành lập Khu Đặc biệt ở Quảng Nam (Việt Nam) để
làm chỗ dựa xây dựng căn cứ ở Hạ Lào.
14


Nhƣ vậy, trong những năm 1945-1948, liên minh chiến đấu Việt Nam Lào từng bƣớc đƣợc hình thành, phát triển và thu đƣợc nhiều kết quả, góp phần
thúc đẩy quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào gắn bó mật thiết hơn.

Vào đầu năm 1949, Việt Nam đã cử nhiều cán bộ phối hợp với lực
lƣợng kháng chiến Lào mở lớp huấn luyện quân sự và học tập chính trị. Ngày
20/1/1949, Đội Látxavông đƣợc thành lập tại vùng căn cứ Xiềng Khọ (Hủa
Phăn) do đồng chí Kayxỏn Phômvihản làm Tổng Chỉ huy.
Trƣớc bƣớc phát triển mới của cách mạng Lào, Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng (15/6/1949) ra nghị quyết về
sự giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Lào dựa trên một số nguyên tắc
chủ yếu nhƣ: Thực hiện quyền dân tộc tự quyết đi đôi với đẩy mạnh đoàn kết
trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Lào; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ;
cán bộ, chiến sĩ Việt Nam công tác ở Lào phải phục tùng Chính phủ Lào, phải
tôn trọng và đoàn kết với cán bộ Lào. Trong các hoạt động phối hợp chung,
phải có sự thống nhất của lãnh đạo cả hai bên Việt Nam và Lào.
Các quan điểm, nguyên tắc của Đảng nêu trên là những định hướng
quan trọng cho sự hợp tác và hỗ trợ cách mạng Lào, góp phần quyết định tạo
sự thống nhất trong tư tưởng và hành động của cán bộ, chiến sĩ Việt Nam làm
nhiệm vụ quốc tế ở chiến trường Lào.
Thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng,
Đại hội Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến
15/8/1950, tại Tuyên Quang (Việt Nam) đã quyết định thành lập Chính phủ
Kháng chiến Lào, lập Mặt trận dân tộc thống nhất Lào, tức Neo Lào Ítxalạ, do
Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch kiêm Thủ tƣớng Chính phủ. Đại hội
đã đề ra Cƣơng lĩnh chính trị 12 điểm, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tăng
cƣờng đoàn kết quốc tế, trƣớc hết là với Việt Nam và Campuchia, cùng nhau
đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lƣợc và can thiệp Mỹ, góp phần
bảo vệ hòa bình thế giới. Cũng từ đây “Liên minh ba nƣớc thật sự hình thành
và phát triển từ khi có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo “ [ 33 tr 14]
15


Thành công của Đại hội Quốc dân Lào chứng tỏ đƣờng lối, quan điểm

của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng về nhiệm vụ xây dựng thực lực cách mạng
Lào đã đi vào thực tiễn cuộc sống, tạo ra bƣớc phát triển mới cho cuộc kháng
chiến ở Lào, làm cho thế và lực của cách mạng Lào đƣợc tăng cƣờng, liên
minh chiến đấu giữa hai nƣớc Lào và Việt Nam củng cố vững chắc hơn.
Bƣớc sang năm 1951, cục diện chiến tranh biến chuyển ngày càng có
lợi cho cách mạng Việt - Lào, tạo điều kiện đƣa quan hệ đoàn kết, phối hợp
chiến đấu giữa nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng sang một giai đoạn mới. Song,
thực dân Pháp đƣợc sự trợ giúp của đế quốc Mỹ vẫn tăng cƣờng chiến tranh,
gây khó khăn cho cuộc kháng chiến ở từng nƣớc, làm cản trở quá trình phối
hợp chiến đấu giữa nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng.
Trƣớc tình hình đó, Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng đã họp từ ngày 11 đến 19/2/1951, tại xã Vinh Quang (nay là xã
Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam). Đồng chí Cay
xỏn Phômvihản, Trƣởng đoàn đại biểu Lào tham gia Đoàn Chủ tịch đại hội.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết về đƣờng lối, nhiệm vụ chung và đề ra
chủ trƣơng xây dựng ở mỗi nƣớc Việt Nam, Lào, Campuchia một đảng cách
mạng, có cƣơng lĩnh riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để lãnh đạo cuộc
kháng chiến ở từng nƣớc đến thắng lợi hoàn toàn.
Với việc xác định rõ thêm vị trí, vai trò của cách mạng mỗi nƣớc và đề
ra phƣơng hƣớng, biện pháp tăng cƣờng liên minh chiến đấu, Đại hội lần thứ
II của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã mở ra chặng đƣờng phát triển mới của
quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nƣớc Việt Nam, Lào,
Campuchia.
Chấp hành Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, các đồng chí Lào là
đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã tổ chức thành “Nhóm Nhân dân
Lào” làm nòng cốt lãnh đạo phong trào và chuẩn bị cho việc thành lập đảng
chính trị của Lào. Đồng thời, Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam quyết
16



định cho các đảng viên của mình đang hoạt động ở Lào thành lập các tổ chức
Đảng Lao động Việt Nam để vừa lãnh đạo lực lƣợng Việt Nam thực hiện
nghĩa vụ quốc tế tại Lào, vừa giúp “Nhóm Nhân dân Lào” giữ vững sinh hoạt
và lãnh đạo kháng chiến. Phối hợp với “Nhóm Nhân dân Lào”, các tổ chức
Đảng Lao động Việt Nam ở khắp Thƣợng, Trung, Hạ Lào triển khai giáo dục
cho đảng viên cả Việt Nam và Lào nắm vững mục tiêu, yêu cầu xây dựng
chính đảng mácxít của Lào để lãnh đạo kháng chiến thắng lợi. Nhờ đó, công
tác phát triển đảng ở Lào có nhiều tiến bộ, bƣớc đầu tạo cơ sở về mặt tổ chức
cho việc tiến tới thành lập đảng cách mạng của Lào.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa của nhiệm vụ quốc tế: “Giúp bạn là mình tự
giúp mình”, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Thƣợng, Trung đến Hạ
Lào đã vƣợt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, sát cánh cùng quân và dân
Lào đẩy mạnh chiến đấu và công tác.
Với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và cùng với sự đoàn kết và phối
hợp của Việt Nam, trong 2 năm (1951-1952), cuộc kháng chiến của nhân dân
Lào đã giành đƣợc kết quả quan trọng về mọi mặt chính trị, quân sự, văn hóa
xã hội, ngoại giao. Trong các vùng giải phóng và khu du kích, chính quyền
các cấp đƣợc thành lập từ trung ƣơng đến địa phƣơng với đội ngũ cán bộ ngày
càng phát triển và trƣởng thành. Lực lƣợng vũ trang cách mạng Lào lớn mạnh
cả về số lƣợng và chất lƣợng. Trong vùng địch kiểm soát, phong trào đấu
tranh chính trị nổ ra ở nhiều nơi, các cơ sở cách mạng phát triển ở Viêng
Chăn, Xavẳnnakhệt, Pạc Xê…
Tháng 4 năm 1953, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính
phủ Kháng chiến Lào quyết định mở chiến dịch Thƣợng Lào. Quân đội Việt
Nam phối hợp với quân đội Lào Ítxalạ tiến công giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm
Nƣa, một phần Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ.
Từ sau chiến thắng Thƣợng Lào, Ban Cán sự Đảng Lao động Việt Nam
ở Lào đã phối hợp và giúp bạn thành lập “Ban Vận động thành lập Đảng
17



Nhân dân Lào”. Công tác xây dựng đảng ở Lào tiến thêm một bƣớc mới, đạt
đƣợc kết quả căn bản về chính trị, tổ chức, tạo điều kiện cho việc thành lập
chính đảng cách mạng của Lào. Trên thực tế, Ban Vận động thành lập Đảng
Nhân dân Lào đã cùng Mặt trận Lào Ítxalạ lãnh đạo quân và dân Lào đẩy
mạnh kháng chiến, phối hợp chặt chẽ với nhân dân Việt Nam, Campuchia
chiến đấu, đánh bại các thủ đoạn chiến tranh xâm lƣợc của thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ.[ 14]
Bƣớc vào Đông Xuân 1953 - 1954, quân và dân ba nƣớc Việt Nam,
Lào, Campuchia tiếp tục đẩy mạnh tiến công trên khắp các chiến trƣờng.
Từ đầu tháng 12/1953, trƣớc sức tiến công của bộ đội chủ lực Việt
Nam, quân Pháp phải bỏ Lai Châu, rút về cố thủ ở Điện Biên Phủ và tăng
cƣờng lực lƣợng, biến nơi đây thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở
Đông Dƣơng.
Ngày 13/3/1954, quân và dân Việt Nam mở đầu cuộc tiến công tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến trƣờng chính Việt Nam,
quân và dân Lào liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự từ Bắc xuống Nam
Lào để kiềm chế lực lƣợng địch, đồng thời ủng hộ mặt trận Điện Biên Phủ
300 tấn gạo chiến lợi phẩm thu đƣợc sau chiến thắng Thƣợng Lào.
Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ, quyết liệt và anh dũng, ngày
7/5/1954 tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Từ đây, cục
diện chiến tranh Đông Dƣơng chuyển sang thế có lợi cho cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia tại Hội nghị Giơnevơ.
Tại Hội nghị, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên
bố lập trƣờng có tính nguyên tắc của việc lập lại hòa bình ở Đông Dƣơng,
phải thừa nhận lực lƣợng kháng chiến của Lào và Campuchia do chính phủ
kháng chiến hai nƣớc đó lãnh đạo; các lực lƣợng kháng chiến Lào,
Campuchia phải có khu tập kết của mình…Cuộc đấu tranh giữa đại diện Việt
Nam và đại diện Pháp về phân chia giới tuyến tạm thời, khu vực tập kết và địa
18



vị chính trị của lực lƣợng kháng chiến Lào, Campuchia diễn ra gay gắt và kéo
dài trong nhiều phiên họp.
Do những thắng lợi vang dội của quân và dân ba nƣớc Việt Nam, Lào,
Campuchia, ngày 21/7/1954, đối phƣơng phải ký tuyên bố chung và các hiệp
định về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dƣơng. Nƣớc Pháp và các nƣớc tham
gia hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia. Đó là cơ sở pháp lý quốc tế rất quan
trọng để nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng tiến lên giành độc lập, hoàn thành
thống nhất đất nƣớc ở mỗi nƣớc.
Hội nghị Giơnevơ công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Lào; Pathết Lào là lực lƣợng chính trị độc lập, hợp pháp, có quân
đội, có vùng tập kết ở hai tỉnh Sầm Nƣa và Phôngxalỳ; các nhà chức trách hai
phái (Pathết Lào và Chính phủ Vƣơng quốc Lào) sẽ cùng nhau thƣơng lƣợng
để giải quyết vấn đề chính trị trên cơ sở bảo đảm quyền tự do, dân chủ của
nhân dân, thành lập chính quyền liên hiệp, hòa hợp dân tộc thông qua tổng
tuyển cử tự do…
Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơ ne vơ
là một thắng lợi quan trọng của sự nghiệp đoàn kết kháng chiến của nhân dân
ba nƣớc Đông Dƣơng nói chung, của hai nƣớc Việt Nam, Lào nói riêng trong
cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Thắng lợi đó
thể hiện nghị lực, quyết tâm của Việt Nam và Lào trong cuộc chiến đấu chống
kẻ thù chung, kết tinh sức mạnh đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu giữa
nhân dân và quân đội hai nƣớc, tạo nền móng vững chắc cho sự phối hợp, liên
minh chiến đấu giữa Việt Nam và Lào ngày càng nâng cao trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc (1954-1975). Thành công đó là bắt nguồn
từ sự đoàn kết của ba nƣớc Đông Dƣơng “ Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ra
đời do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập, đánh dấu bƣớc ngoặt lịch sử của ba
nƣớc Đông Dƣơng “ [ 7. tr 14]

19


×