Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Truyện ngắn về đề tài an ninh xã hội của lê tri kỷ, hữu ước và nguyễn đình tú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐOÀN THỊ HỒNG THỦY

TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI
AN NINH XÃ HỘI CỦA LÊ TRI KỶ, HỮU ƯỚC
VÀ NGUYỄN ĐÌNH TÚ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐOÀN THỊ HỒNG THỦY

TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI
AN NINH XÃ HỘI CỦA LÊ TRI KỶ, HỮU ƯỚC
VÀ NGUYỄN ĐÌNH TÚ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ


NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Cao Thị Hảo

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Tác giả luận văn

Đoàn Thị Hồng Thủy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

i




LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Cao Thị Hảo - Trường Đa ̣i
học Sư phạm Thái Nguyên về sự hướng dẫn tâ ̣n tình, đầ y đủ, chu đáo và đầ y tinh
thầ n trách nhiệm của cô trong toàn bô ̣ quá trình em hoàn thành luâ ̣n văn.

Em xin trân trọng cảm ơn sự ta ̣o điề u kiêṇ giúp đỡ của Ban chủ nhiê ̣m
Khoa Ngữ Văn và các thầ y cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư pha ̣m Thái
Nguyên để em đươ ̣c thực hiện đề tài luâ ̣n văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, ba ̣n bè, đồ ng nghiêp̣ đã đô ̣ng
viên và nhiê ̣t tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái nguyên, tháng 6 năm 2016
Tác giả luâ ̣n văn

Đoàn Thị Hồng Thủy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

ii




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 11
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 12
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 12
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 12
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 12

Chương 1: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIẾT VỀ ĐỀ TÀI AN NINH XÃ
HỘI VÀ CHÂN DUNG BA NHÀ VĂN LÊ TRI KỶ, HỮU ƯỚC,
NGUYỄN ĐÌNH TÚ .......................................................................................... 13
1.1. Các chặng đường phát triển của mảng văn xuôi viết về đề tài an ninh
xã hội ................................................................................................................ 13
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945................................................................... 13
1.1.2. Giai đoạn từ 1945 - 1975 .................................................................... 15
1.1.3. Giai đoạn sau 1975 .............................................................................. 15
1.2. Khái quát về các nhà văn thuộc lực lượng vũ trang .................................. 17
1.2.1. Tình yêu với nghề ............................................................................... 18
1.2.2. Bản lĩnh chính trị vững vàng............................................................... 19
1.2.3. Những thuận lợi và khó khăn đặc thù của các nhà văn thuộc
ngành công an quân đội khi viết về đề tài an ninh xã hội ............................. 22
1.3. Vài nét khái lược về ba nhà văn ................................................................ 25
1.3.1. Nhà văn Lê Tri Kỷ - anh cả của văn học thuộc ngành công an .......... 25
1.3.2. Nhà văn Hữu Ước - nhà văn thế hệ thứ hai của ngành công an ......... 30
1.3.3. Nhà văn Nguyễn Đình Tú - nhà văn trẻ xuất sắc của quân đội ................ 34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iii




Chương 2: HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG XÃ HỘI PHONG PHÚ SINH ĐỘNG,
ĐẬM TÍNH THỜI SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI AN
NINH XÃ HỘI CỦA LÊ TRI KỶ, HỮU ƯỚC, NGUYỄN ĐÌNH TÚ................... 39
2.1. Phản ánh những tệ nạn trong xã hội hiện đại ............................................ 39
2.1.1. Lợi dụng chức quyền tham nhũng tham ô .......................................... 39

2.1.2. Tệ nạn mại dâm trong đời sống xã hội ................................................... 42
2.1.3. Tệ nạn ma túy đầu độc giới trẻ ............................................................... 46
2.2. Cảnh báo hiện tượng suy thoái về đời sống tinh thần xã hội .................... 50
2.2.1. Sự suy thoái về đạo đức ...................................................................... 50
2.2.2. Sự sa đọa về lối sống........................................................................... 54
2.2.3. Quan hệ thầy trò bị thị trường hóa ...................................................... 59
2.3. Phản ánh hiện tượng vô cảm trong xã hội hiện đại ................................... 63
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI AN NINH XÃ HỘI CỦA
LÊ TRI KỶ, HỮU ƯỚC, NGUYỄN ĐÌNH TÚ .............................................. 67
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của ba nhà văn ............. 67
3.1.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình ...................................................... 67
3.1.2. Khắc họa nhân vật qua nội tâm ........................................................... 79
3.2. Giọng điệu nghệ thuật................................................................................ 85
3.2.1. Giọng điệu vui tươi tự hào .................................................................. 86
3.2.2. Giọng điệu triết lý ............................................................................... 88
3.2.3. Giọng điệu giận dữ căm hận ............................................................... 90
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................. 93
3.3.1. Ngôn ngữ đời thường, giản dị ............................................................. 93
3.3.2 Ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc ........................................................... 94
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iv





MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong bất kỳ thời đại nào, dù thời chiến hay thời bình, vấn đề an ninh
xã hội cũng được đặt lên hàng đầu. Bởi lẽ một quốc gia, một xã hội có thật sự bình
yên và an toàn hay không phụ thuộc rất lớn vào vấn đề an ninh xã hội của quốc
gia, dân tộc đó. Chính vì vậy vấn đề an ninh xã hội luôn là một đề tài được các nhà
văn quan tâm, nhất là trong thời kỳ hiện đại.
Hiện nay, chúng ta đã có khá nhiều những cuộc thi, những trại sáng tác văn
học, những cuộc vận động sáng tác về vấn đề an ninh xã hội do nhà nước, các cơ
quan báo chí (tiêu biểu là Báo Công an nhân dân, Tạp chí Văn nghệ quân đội) tổ
chức, thu hút rất nhiều cây bút chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư. Đặc biệt, từ
nhiều năm qua, Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam đã phối hợp rất chặt chẽ để
tổ chức sáng tác mảng văn học đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc
sống” với các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết và ký. Nhiều tác phẩm văn học về
an ninh trật tự được đánh giá cao cả về mặt nghệ thuật lẫn xã hội. Các tác phẩm đã
đề cập tới nhiều vấn đề “nóng” trong đời sống xã hội liên quan đến an ninh trật tự
xã hội như ma túy, mại dâm, chống buôn lậu. Song song với đó, các nhà văn đã
xây dựng và làm nổi bật hình tượng người chiến sỹ công an nhân dân trên mọi mặt
trận, giúp bạn đọc có cái nhìn cảm thông, chia sẻ với những vất vả, hy sinh thầm
lặng của lực lượng công an nhân dân. Rất nhiều tác phẩm phản ánh sinh động, kịp
thời thực tiễn công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng; đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch; phát hiện, lên án các hành vi tiêu cực, tham nhũng và
cung cấp cho cơ quan Công an nhiều tin, bài có giá trị phục vụ công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Nhiều tác phẩm khác cũng đồng thời phát
hiện, cổ vũ các nhân tố tích cực, các điển hình tiên tiến trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự; vận động các tầng lớp nhân dân tích cực
tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
1.2. Hiện nay, lực lương sáng tác về vấn đề an ninh xã hội trên văn đàn của
nước ta tương đối hùng hậu, ngoài những tên tuổi xuất hiện từ lâu trên văn đàn như


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1




Lương Sỹ Cầm ( Dấu chân trinh sát…), Trần Diễn (Bức thư giải oan, Mã số
07…), Triệu Huấn (Sao đen; Cái Tẩu; Bức tử; Khe ngầm bí hiểm; Những mảnh
đời tan vỡ …), … đã có thêm khá nhiều cây bút trẻ đầy nội lực như Dili (Câu lạc
bộ số 7…), Võ Bá Cường (Tướng bà…), Nguyễn Xuân Thuỷ (Sát thủ online, Có
tiếng người trong gió…), … Và đặc biệt không thể không nhắc đến những nhà văn
xuất thân từ lực lượng vũ trang với ưu thế đặc biệt là được tiếp xúc trực tiếp hàng
ngày với các vấn đề về trật tự, an ninh xã hội. Họ là nguồn lực sung sức nhất
chuyên viết về đề tài này. Ta có thể kể đến Đại tá-nhà văn Nguyễn Hồng Thái
(Đối mặt, Đất nóng, …); Lê Tri Kỷ (Cây đa xanh, Phố vắng, Những tiếng nói
thầm, Sống chìm,…); Đại tá Nguyễn Thụ (Thức tỉnh, Lưới trời lồng lộng, Quả
báo); Chu Thanh Hương (Hoa bay, Bí ẩn Phụng Hoàng Sơn,…); Trung tướngnhà văn Hữu Ước (Một con người, Đêm giông, Vòng vây cô đơn, Vòng xoáy,
Vòng đời…); Đại tá - nhà văn Phùng Thiên Tân (Hồ sơ chưa kết thúc, SBC xung
trận,…),… Và thời điểm này người ta hay nhắc đến nhà văn Nguyễn Đình Tú,
một cây bút với tuổi văn tuổi đời còn khá trẻ cũng xuất thân trong ngành với hàng
loạt truyện ngắn (Thanh tẩy, Không thể nào khác được,Vũ điệu của thị dân…)
và khá nhiều tiểu thuyết viết về đề tài an ninh xã hội (Phiên bản, Kín, Nháp, Hồ
sơ một tử tù,… )…
1.3. Viết về đề tài an ninh xã hội có rất nhiều nhà văn, nhưng có lẽ các nhà
văn thuộc lực lượng vũ trang là viết hay và thật hơn cả. Trong đội ngũ sáng tác
thuộc lực lượng vũ trang về đề tài này, có thể nói Lê Tri Kỷ là nhà văn mở đầu và
tiền trạm. Ông đã đặt nền móng cho những cây bút thuộc thế hệ sau mình trong đó
có Hữu Ước. Viết không nhiều nhưng với những tác phẩm đầy chất đời, tình
người, truyện ngắn của Hữu Ước xứng đáng là nhà văn tiếp theo thuộc lực lượng

vũ trang nối bước Lê Tri Kỷ, giữ ngọn lửa cho những trang văn về đề tài an ninh
xã hội. Thế hệ tiếp theo của các nhà văn thuộc lực lượng vũ trang, các nhà văn trẻ,
mà một trong những đại diện tiêu biểu nhất là Nguyễn Đình Tú đã tiếp tục giữ
vững truyền thống của đàn anh đi trước khi dành sự quan tâm cho đề tài an ninh
xã hội, những đã có nhiều sự đổi thay về nội dung cũng như nghệ thuật, đặc biệt là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2




nhiều day dứt và chiêm nghiệm hơn. Ba nhà văn, ba thế hệ của các nhà văn thuộc
lực lượng vũ trang, con đường sáng tác nghệ thuật của họ đã phản ánh sự phát
triển và lớn mạnh không ngừng của các nhà văn thuộc lực lượng vũ trang cũng
như sự đa dạng và nhiều sắc màu trong đề tài an ninh xã hội.
Tuy có không ít những nghiên cứu về đề tài an ninh xã hội trong sáng tác
của ba tác giả này nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập một cách hệ
thống, cụ thể. Thêm nữa, truyện ngắn viết về đề tài an ninh xã hội của ba nhà văn
trên vẫn chưa dành được sự quan tâm đúng mức. Hầu như chưa có bất kỳ một
công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về vấn đề này. Chính vì vậy chúng tôi quyết
định chọn đề tài Truyện ngắn về đề tài an ninh xã hội của Lê Tri Kỷ, Hữu Ước
và Nguyễn Đình Tú để nghiên cứu. Hy vọng công trình hoàn thành sẽ khẳng định
những đóng góp của ba nhà văn tiêu biểu này cho văn học hiện đại Việt Nam nói
chung và văn học viết về đề tài an ninh xã hội nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn của Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú viết về đề tài an ninh
xã hội đã nổi tiếng trên văn đàn cũng như trong lòng độc giả từ lâu. Và có không ít
bài viết, bài phê bình, cảm nhận về các tác phẩm của ba nhà văn. Các độc giả, các nhà
phê bình tìm đến tác phẩm của họ và tìm thấy ở đó những những mảng hiện thực an

ninh xã hội rất đáng quan tâm.
2.1. Những nghiên cứu về truyện ngắn của nhà văn Lê Tri Kỷ
Trên trang Tonvinhvanhoadoc.vn, nhà báo Phạm Thị Thái trong Nhà văn
Lê Tri Kỷ: Một cuộc đời sôi động và đa sắc văn chương đã nhận xét về truyện
ngắn Lê Tri Kỷ như sau: “Điều đặc biệt hầu hết truyện ngắn, kể cả những thể loại
khác của Lê Tri Kỷ đều lấy cảm hứng, chất liệu từ ngành Công an và đều xoay
quanh mảng đề tài an ninh xã hội.” [43]. Theo chị, “đề tài an ninh xã hội trong
các tác phẩm của Lê Tri Kỷ thu hút người đọc không phải vì thoả mãn trí tò mò
như tên gọi của nó mà vì bài học triết lý nhân sinh sâu sắc toát ra từ mỗi câu
chuyện”[43]. Có lẽ vì vậy nên khi bàn về truyện ngắn Lê Tri Kỷ, nhà nghiên cứu
Đinh Xuân Dũng đã rất tinh tế và sâu sắc khi nhận định truyện “rất Công an mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3




chẳng có gì là trinh thám”[43]. Bài báo đã chỉ ra khá rõ ưu điểm cũng như lợi thế
của tác giả trong khi sáng tác. Xuất thân là công an, tác giả đã viết những câu
chuyện xoay quanh đề tài an ninh xã hội rất thật mà vẫn đậm chất văn chương.
Đây là điều mà không phải nhà văn nào cũng làm được khi viết về đề tài này.
Trong bài Nhà văn Lê Tri Kỷ: Đắc địa trong nghiệt ngã trên trang
nhà báo Toàn Nguyễn lại có nhận xét như sau: “Từ
một đứa trẻ mồ côi mẹ, Lê Tri Kỷ bước vào đời sống Công an khá sớm rồi suốt đời
gắn bó với mảng đề tài Công an như một định mệnh. Ông viết văn như một thứ
mệnh lệnh của đời sống và không làm màu với những con chữ của mình.”[48]. Bài
viết đã phân tích và chỉ ra rất rõ vai trò người anh cả, người dẫn đường của Lê Tri
Kỷ đối với các lớp nhà văn đi sau trong ngành. Nhờ có ông mà các lớp nhà văn đi

sau cũng như người đọc đã từng bước gạt mở được những lớp bụi mờ che phủ và
tìm ra nét đẹp giản dị chân thực nhất của những người chiến sĩ công an. Bởi vậy
ông được đánh giá khá cao: “Lê Tri Kỷ - người tri kỷ cả một đời văn với đề tài
người chiến sỹ Công an, tri kỷ với những phận người bị khuất lấp phía sau những
chứng lý tưởng như minh bạch. Các tác phẩm của ông, bởi vậy, là những hạt vàng
lấp lánh và đắc địa, tôn vinh những chiến công lặng lẽ, những chiến công không
phải là tấm huân chương mà chính là sự đổi thay đẹp đẽ trong mỗi số phận sau
những bi kịch nghiệt ngã nhất của kiếp người.” [48]. Ông không phải là người đầu
tiên viết văn của lực lượng công an nhưng lại là người đầu tiên có cái nhìn tương
đối toàn diện về cuộc đời và nghề nghiệp của người chiến sĩ: “Lê Tri Kỷ lại là
người đầu tiên viết về người Công an ở những khía cạnh đời thường
nhất….Không ngợi ca một chiều, người Công an đã có đời sống, có số phận và để
lại những dấu ấn không dễ phai mờ.”[48]
Tiếp đó, Xuân Thiều trong bài viết Lê Tri Kỷ - Nhà văn tiêu biểu nhất của
ngành Công an nhân dân – một bài viết rất ý nghĩa, được đăng tải trên trang web
thì nhận xét: “Hội Nhà văn Việt Nam, Bộ Nội
vụ và đông đảo bạn đọc đều coi ông là nhà văn tiêu biểu của ngành công an,
người có công đầu khai phá và chăm chút xây dựng phong trào sáng tác và là
ngòi bút tâm huyết về mảng đề tài vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4




mảng đề tài mà nhiều năm trước đây ít được quan tâm của giới văn học nếu không
nói là bỏ quên…”[48]. Đây có thể coi là một trong những bài viết có nhận xét tỉ
mỉ và chính xác nhất về nhà văn. Tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu sưu tầm về
cuộc đời sự nghiệp của Lê Tri Kỷ cũng như những nét nội dung đặc sắc trong các

truyện ngắn của nhà văn: “Đọc truyện ngắn Lê Tri Kỷ, người ta nhận ra sự
nghiêm túc và sâu sắc của nhà văn. Truyện nào ông cũng đặt được vấn đề về nhân
sinh về đạo lý con người. Truyện ngắn của ông phảng phất lối truyện ngắn cổ điển
của Anh, của Pháp , chú ý tới cốt truyện…Truyện chỉ là cái cớ để chuyển tải
những ý tưởng đậm đà chất nhân văn, để làm lan toả những ý thơ. Đọc ông không
ai tìm thấy dấu vết sự buông thả, sự dễ dãi trong từng câu, từng chữ - một đặc
điểm của các cây bút lão thành được đào tạo chặt chẽ ngay từ thời còn học phổ
thông.” [48].
Trên VOV Giao thông có bài viết Lê Tri Kỷ - Một đời văn tài hoa và sâu
sắc của tác giả Phan Quế với nhận xét như sau:“Văn Lê Tri Kỷ cho ta nhiều xúc
động về lòng tốt và cái đẹp của con người trước cuộc sống cho dù nhiều tác phẩm
ông viết thuộc đề tài Công an nhân dân...” [38]. Tác giả bài viết nhớ về nhà văn
với rất nhiều ngậm ngùi: “Ông là người mà khi mất đi nhưng kỷ niệm mãi còn và
cứ lớn dần trong lòng người còn sống. Mọi người nhớ về nhà văn Lê Tri Kỷ bằng
những tình cảm đẹp, những trang văn đẹp ông đã để lại cho đời!”[38].
Ngoài những bài viết này, ta còn có thể kể đến các bài viết Chê vẫn chưa
giận của Hà Hải Hưng, bài viết Ước mong của nhà văn Lê Tri Kỷ của tác giả
Dương Duy Ngữ, cũng đã có nhiều nhận xét xác đáng về tác phẩm, con người của
Lê Tri Kỷ.
Và nói tới những công trình nghiên cứu gần đây nhất về các tác phẩm của
nhà văn Lê Tri Kỷ thì không thể không nhắc đến hai luận văn thạc sĩ của trường
ĐHSP Hà Nội 2, đó là: luận văn Phong cách truyện ngắn Lê Tri Kỷ của tác giả
Phạm Thị Thái viết vào năm 2012 và luận văn Thế giới nhân vật trong truyện
ngắn của Lê Tri Kỷ của Nguyễn Thị Thu Hằng viết năm 2013. Phạm Thi Thái đã
ca ngợi Lê Tri Kỷ là nhà văn có “vai trò tiền trạm, có công đầu khai thác và chăm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5





chút xây dựng phong trào sáng tác văn học trong lực lượng công an đồng thời là
ngòi bút tâm bút tâm huyết, dành trọn nghiệp bút mấy thập kỷ cho mảng đề tài an
ninh xã hội - mảng đề tài mà trước đây ít được quan tâm nếu không muốn nói là
bị bỏ quên trong giới văn học.” [44]. Nguyễn Thị Thu Hằng cũng viết: “Lê Tri
Kỷ là người nghệ sĩ hội tụ cả chữ Tâm và Tài. Trong những năm tháng cuộc đời
mình, ông như con ong cần mẫn mang lại cho đời nhiều mật ngọt. Với quá trình
lao động quên mình, nghiêm khắc, chăm chút cho từng câu chữ, trăn trở trước
những vấn đề phức tạp. Lê Tri Kỷ được coi là người tiên phong mở đường cho
phong trào sáng tác về đề tài an ninh xã hội - mảng đề tài mà trước đây ít được
quan tâm và gặt hái những thành công rực rỡ…”[15].
Nhìn chung, các bài viết của các tác giả trên đã giúp người đọc phần nào
hình dung ra chân dung nhà văn cũng như giá trị các tác phẩm văn chương của
ông. Qua đó cũng khẳng định tác phẩm của Lê Tri Kỷ chủ yếu hướng về đề tài an
ninh xã hội, có ý nghĩa thời đại rất lớn. Tuy nhiên việc nghiên cứu mới chỉ dừng
lại ở tác giả riêng, chưa có công trình nào đặt truyện ngắn Lê Tri Kỷ trong cái nhìn
hệ thống đối sánh cùng với Hữu Ước và Nguyễn Đình Tú.
2.2. Những nghiên cứu về truyện ngắn của nhà văn Hữu Ước:
Viết về truyện ngắn của Hữu Ước đã có một số bài báo quan tâm. Trước
hết, nhà báo Bùi Việt Thắng trong bài viết Men đời trong ly rượu đăng trên báo
Công an nhân dân điện tử đã nhận xét về truyện ngắn Hữu Ước như sau: “Dấu vết
nghề nghiệp in rõ trong truyện của Hữu Ước (trong các truyện "Một con người",
"Trước đêm giao thừa", "Thúy", "Đêm giông", "Anh ấy không nổ súng"). Nhưng
may mắn là, dù có đi sâu vào nghiệp vụ Công an thì tác phẩm vẫn vượt ra được
ngoài cái gọi là đề tài, để còn lại cái hạt nhân quan trọng "văn học là nhân học"
[46]. Đó là những lời nhận xét công tâm và đầy xúc cảm của một “độc giả ruột”
rất yêu mến nhà văn. Tác giả cũng tinh ý khi phát hiện “chất điện ảnh tiềm tàng”
trong các truyện ngắn của Hữu Ước.

Bài nghiên cứu về văn chương Hữu Ước không nhiều nhưng những bài
phỏng vấn về ông lại có số lượng khá đáng kể như: Hữu Ước - người giỏi “đi
trên dây” (Báo Tiền Phong online ), Bất ngờ, Hữu Ước (Văn nghệ công an ), Tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6




là người rất nhiều nước mắt (Tạp chí Đàn ông, Số Tháng 9-2005)… Đó đều là
những bài phỏng vấn gắn liền với sự nghiệp làm báo cũng như cuộc đời nhà văn.
Trong bài phỏng vấn của Nhà văn Hữu Ước : Chật chội dưới trời xanh… (Báo
Công an nhân dân online), nhà báo L.T.T.B lại đi sâu vào tìm hiểu cuộc đời và
con người Hữu Ước: “Hữu Ước sở hữu một cuộc đời như một cuốn tiểu thuyết
lịch sử nhiều chương. Chương nào cũng kịch tính bởi những biến động. Số phận
bé nhỏ của ông nằm trong dòng chảy thời cuộc ấy, và ông là một trong những số
phận điển hình ít nhiều có hàm chứa, ghi dấu những kịch tính của giai đoạn lịch
sử. Tôi nói vậy không ngoa, bởi những ai đã từng sống, chiến đấu, làm việc và
có thời gian trải nghiệm cùng ông trong cuộc đời, dù dài, hay vừa, nhiều hay ít
thì cũng đủ để biết về đời ông.” [2]. Cuộc đời ông lắm đắng cay nhưng chính
những đắng cay ấy lại là điều không thể thiếu để tôi luyện thành một Hữu Ước
như bây giờ: “Hữu Ước là vậy, tận cùng của đau khổ, tận cùng của mất mát, thì
ông lại bật dậy mạnh mẽ như cây xương rồng đơn độc trên sa mạc cát, tự chắt
lọc những giọt sương thanh khiết để lau vết thương, để gói ghém nỗi đau để
gượng đứng lên, tiếp tục sống và chiến đấu. Có lẽ hai từ Chiến đấu luôn thường
trực trong cõi phận của ông, và mệnh người anh hùng như ông thì gian nan là
món nợ tiền kiếp phải trả trong cõi phận ấy.” [2].
Quả thật những bài nghiên cứu về truyện ngắn của Hữu Ước nói chung và
những truyện ngắn viết về đề tài an ninh xã hội của ông nói riêng vẫn còn quá ít.

Tuy nhiên dù ít ỏi chúng cũng đã phần nào khắc họa được chân dung cuộc đời của
nhà văn-nguồn tư liệu bất tận cho chính các tác phẩm của ông.
2.3. Những nghiên cứu về truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Đình Tú
Những năm gần đây, Nguyễn Đình Tú là cái tên nổi đình nổi đám trên văn
đàn, đặc biệt là với thể loại tiểu thuyết. Thế nhưng truyện ngắn mới là bước chân
đầu tiên của ông vào nghiệp làm văn. Nghiên cứu về truyện ngắn của Nguyễn Đình
Tú có thể kể đến bài viết Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú của tiến sĩ
Nguyễn Thanh Tú in trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 631, bài viết Nguyễn Đình
Tú - nhà văn hai trong một của Bùi Việt Thắng đăng trên Báo Văn nghệ trẻ năm
2010 và bài Bốn lời bình về truyện ngắn Nguyễn Đình Tú của tác giả Đoàn Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7




Tâm đăng trên Báo Văn nghệ quân đội số 661 - sau này được mở rộng ra hơn với
luận văn Truyện ngắn các cây bút trẻ quân đội (qua Nguyễn Thế Hùng, Đỗ Tiến
Thụy, Nguyễn Đình Tú).
Trong Nguyễn Đình Tú - nhà văn hai trong một đăng trên trang
Bùi Việt Thắng đã rất tinh tế khi nhận xét về quãng
đường viết truyện ngắn của anh: “Khi bắt đầu khởi nghiệp văn bằng truyện ngắn
có vẻ như Nguyễn Đình Tú viết rất nắn nót, cẩn thận và có cái gì đó đượm vẻ thơ
ngây... Nhưng rồi Nguyễn Đình Tú chuyển hướng viết rất nhanh khi anh bập vào
đời sống thị thành - nơi đó khó mà tìm thấy những nỗi buồn trong suốt nữa... Còn
rất trẻ nhưng văn Nguyễn Đình Tú đã già như một người từng trải, thạo nghề, rất
chỉn chu từ ý tưởng, cốt truyện đến cung cách nói năng, hành động của nhân vật,
ở anh rất khó bắt bẻ, không thấy sự chông chênh, không thấy độ rung quá nhịp
của một trái tim hồi hộp, phấp phỏng. Cái gì cũng đến độ vừa đủ là dừng”[45].

Nguyễn Đình Tú khởi nghiệp bằng truyện ngắn, vì thế không ngạc nhiên
khi ở thời kỳ này văn phong của anh vẫn còn non nớt tươi trẻ. Tuy nhiên, không vì
thế mà truyện ngắn của nhà văn kém chất lượng. Nguyễn Đình Tú đã rất khéo léo
khi xây dựng cốt truyện cũng như nhân vật, thổi “lửa” vào từng câu chữ, từng số
phận và nhìn họ bằng con mắt của người trải đời.
Trong Bốn lời bình về truyện ngắn Nguyễn Đình Tú đăng trên trang
Đoàn Minh Tâm đã nêu ra ba lời bình về truyện
ngắn Nguyễn Đình Tú của các nhà văn có tiếng trong làng viết và một lời bình
của chính mình. Trước tiên, tác giả lấy các lời bình của người đi trước để giới
thiệu với độc giả: “Trong một số lượng tương đối nhiều bài viết nằm rải rác trên
một số báo và tạp chí về cây bút trẻ thuộc thế hệ thứ 4 nhà văn quân đội này, tôi
đã bắt gặp ba lời bình thật đắt về truyện ngắn của anh: Lời bình của nhà văn
Chu Lai, nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng và nhà phê bình văn học Nguyễn
Thanh Tú.”[40].
Trong bài viết, trước tiên tác giả bàn về lời bình của nhà văn nổi tiếng Chu
Lai: “Truyện ngắn của anh có hơi hướng tiểu thuyết ngọ nguậy bên trong. Dấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8




hiệu trước nhất là ở biên độ rộng của đề tài. Các mảng đề tài thường gặp trong
truyện ngắn Nguyễn Đình Tú là chiến tranh và người lính (các truyện Cánh rừng
không yên ả, Đất quê cha, Câu chuyện ngày chủ nhật, Võ công binh nhì…), đạo và
đời (Bên ấy là cuộc đời, Bên bờ hư ảo…), bản năng và lương tri (Nỗi đau biểu
tượng, Ở xứ vô loài…). Cấu trúc truyện trong truyện với nhiều mảng đời, cảnh
đời phối hợp, xen lẫn nhau là dấu hiệu thứ hai về xu thế tiểu thuyết trong truyện
ngắn Nguyễn Đình Tú. Nhà văn trẻ này rất hay triển khai truyện ngắn theo mô

hình xương cá. Nghĩa là từng câu chuyện nhỏ đảm đương vai trò các nhánh, được
sắp xếp, bám dựa vào một tư tưởng chính đóng vai trò trục xương sống một cách
khéo léo sao cho mỗi câu chuyện vừa có tính độc lập tương đối, vừa phụ thuộc lẫn
nhau nhằm phục vụ cho việc diễn đạt tư tưởng đó một cách thuyết phục nhất.”
[40]. Cũng theo Đoàn Minh Tâm cơ sở quan trọng để mọi người đồng tình với
quan điểm của nhà văn Chu Lai về truyện ngắn Nguyễn Đình Tú là: “…phương
diện nhân vật. Truyện ngắn là một lát cắt về cuộc sống, ở đó nhân vật thường chỉ
hiện hữu tại một thời điểm nhất định trong cuộc đời dài dằng dặc của mình. Tuy
nhiên, các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú lại hơi khác một chút. Họ
hiện ra không chỉ ở một mà là ở nhiều những thời điểm quan trọng của cuộc đời…
Chính đặc điểm này đã tạo cho người đọc một “tạo giác” rằng nhân vật truyện
ngắn của Nguyễn Đình Tú có độ sâu, độ trường từa tựa một nhân vật tiểu
thuyết…”[39]. Nhà văn Chu Lai đánh giá cao truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú
khi cho rằng dù là về cấu trúc hay phương diện nhân vật đều mang chất tiểu
thuyết. Điều này khiến cho các truyện ngắn trên có chiều sâu về tư tưởng và đề tài.
Trái ngược với nhà văn Chu Lai, nhà phê bình Nguyễn Thanh Tú lại cho
rằng truyện ngắn có hơi hướng tiểu thuyết chưa hẳn đã là tốt: “Nhân vật chức
năng khi được nhà văn khoác thêm cho tấm áo tư tưởng quá rộng (bằng chứng là
nhiều khi nhân vật “phát ngôn” những điều to tát hay có những hành động vượt
quá thân phận, địa vị, vượt quá giới hạn “chức năng” làm cho nhân vật như bơi
trong tấm áo tư tưởng ấy…”[39]. Quả như vậy, truyện ngắn có tầm tư tưởng quá
lớn thì ngược lại sẽ là gánh nặng cho nhân vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9




Ngược với hai ý kiến trên, nhà phê bình Bùi Việt Thắng lại hướng đến vấn

đề bút pháp. Anh nhận xét: "Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú có cái gì thẳng
băng gọn ghẽ quá." [39]. Đoàn Minh Tâm cho rằng điều này xuất phát từ chất
Luật và Lính trong cuộc đời của nhà văn (nhà văn học Luật và từng làm trong
Viện kiểm sát quân sự). Nhưng điều này lại làm cho truyện ngắn của Nguyễn
Đình Tú có cái đặc trưng của ngành nghề mà lại chưa có sự khác biệt với truyện
ngắn của các nhà văn quân đội trẻ khác.
Sau khi luận bàn về ba lời nhận xét về truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú
thì Đoàn Minh Tâm nêu ra chính ý kiến của mình như sau: “Nguyễn Đình Tú là
nhà văn trẻ, hơn nữa anh lại là nhà văn quân đội. Việc khảo sát các truyện ngắn
Nguyễn Đình Tú viết về đề tài này, xét về mặt đồng đại sẽ giúp chúng ta có thêm
một cái nhìn về bút lực của anh; xét về mặt lịch đại sẽ giúp chúng ta thấy được
phần nào những biến đổi, vận động của dòng văn học viết về người lính và chiến
tranh cách mạng… Nhìn chung, về cơ bản nhân vật người lính thời chiến dưới
ngòi bút Nguyễn Đình Tú không khác mấy so với nhân vật người lính của các nhà
văn quân đội đi trước. Nghĩa là mỗi người lính là một tấm gương sáng ngời về
những phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ: anh dũng, mưu trí, kiên
trung…”[40].
Như vậy, những nhận xét, bình luận nghiên cứu về truyện ngắn của Nguyễn
Đình Tú vẫn còn quá ít. Hơn nữa những bài viết chủ yếu vẫn chỉ xoay quanh
truyện ngắn viết về đề tài người lính và thành thị của nhà văn, chứ không hề đề
cập đến một mảng nổi cộm, đó là truyện ngắn về đề tài an ninh xã hội trong các
sáng tác của Nguyễn Đình Tú.
Qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về đề tài an ninh
xã hội trong truyện ngắn của Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú đã có nhưng
chỉ xuất hiện riêng lẻ theo từng tác giả chứ chưa được nghiên cứu một cách hệ
thống . Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn về đề tài an ninh xã hội của Lê
Tri Kỷ, Hữu Ước và Nguyễn Đình Tú với mong muốn góp phần vào việc nghiên
cứu về truyện ngắn thuộc mảng đề tài này. Những bài viết với mục đích giới thiệu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


10




những bài phỏng vấn, những bài nghiên cứu đi trước sẽ giúp ích rất lớn cho tôi
trong việc nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu, nghiên cứu Truyện ngắn về đề
tài an ninh xã hội của Lê Tri Kỷ, Hữu Ước và Nguyễn Đình Tú trên một số
bình diện chủ yếu như phản ánh hiện thực đời sống phong phú, đậm tính thời sự
và một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu toàn bộ truyện ngắn viết về vấn đề an ninh xã hội của
Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú; cụ thể gồm các tập truyện ngắn sau: Cây
đa xanh (1961), Phố vắng (1965 ), Một người không nổi tiếng (1970), Những
tiếng nói thầm (1978), Không thiện không ác (1988), Cuộc tình thế kỷ (1994),
Tuyển tập truyện ngắn Lê Tri Kỷ (1995) (Lê Tri Kỷ); Vòng vây cô đơn (1995),
Đêm giông (1995), Một con người (2000), Người đàn bà uống rượu (2013) (Hữu
Ước); Bên bờ những dòng chảy (2001), Không thể nào khác được (2002), Nỗi
ám ảnh khôn nguôi (2003), Chuyện lính (2005), Vũ điệu của thị dân (2005),
Đoản khúc mùa thu (2006), Những bước nhảy trong đêm (2008); Thanh tẩy
(2013) (Nguyễn Đình Tú).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu về hiện thực đời sống phong phú, đa dạng trong
truyện ngắn viết về đề tài an ninh xã hội của Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình
Tú và tìm hiểu những nét nổi bật về nghệ thuật thể hiện trong các truyện ngắn này.
Ngoài ra, luận văn còn cung cấp cái nhìn khái quát về đóng góp của truyện
ngắn về đề tài an ninh xã hội của Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú ở cả hai mặt

nội dung và nghệ thuật đồng thời khẳng định vị thế của truyện ngắn viết về đề tài an
ninh xã hội của ba nhà văn trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về đề tài
an ninh xã hội nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11




5. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu luận văn sẽ sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê hệ thống,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
liên ngành, phương pháp so sánh đồng đại-lịch đại và một số thao tác thi pháp học.
6. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu đề tài an ninh xã hội trong truyện ngắn của ba nhà văn Lê Tri Kỷ,
Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú; chúng tôi mong muốn bước đầu sẽ có một cái nhìn
tương đối hệ thống và toàn diện về các sáng tác này. Từ đó chỉ ra đóng góp của Lê
Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú cũng như vị trí của ba nhà văn trong dòng văn
học về đề tài an ninh xã hội hiện nay.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thư mục tài liệu tham khảo, Nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát văn học viết về đề tài an ninh xã hội và chân dung ba
nhà văn Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú.
Chương 2: Hiện thực đời sống xã hội phong phú sinh động, đậm tính thời
sự trong truyện ngắn viết về đề tài an ninh xã hội của Lê Tri Kỷ, Hữu Ước,
Nguyễn Đình Tú.

Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu trong truyện ngắn viết về
đề tài an ninh xã hội của ba nhà văn Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12




PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIẾT VỀ ĐỀ TÀI AN NINH XÃ HỘI
VÀ CHÂN DUNG BA NHÀ VĂN LÊ TRI KỶ, HỮU ƯỚC,
NGUYỄN ĐÌNH TÚ
1.1. Các chặng đường phát triển của mảng văn xuôi viết về đề tài an ninh xã hội
Văn học về đề tài an ninh xã hội đã bắt đầu manh nha ngay từ thời kỳ đầu
xuất hiện chữ Quốc ngữ và với tình hình xã hội biến đổi liên tục của Việt Nam thì
việc nó quan tâm và được phát triển là điều tất yếu, không cần phải bàn cãi. Văn
học về đề tài an ninh xã hội là dòng văn học chuyên viết về những vấn đề liên
quan đến an ninh quốc gia và trật tự, bình an của xã hội. Nó phản ánh những vấn
đề có tính thời sự, các tệ nạn trong xã hội đương thời có ảnh hưởng đến an ninh và
trật tự an toàn xã hội. Chính vì vậy nó có ý nghĩa rất lớn trong cuộc chiến bảo vệ
Tổ quốc và giữ gìn bình yên cho cuộc sống. Tác phẩm văn học về đề tài an ninh
xã hội trong văn học Việt Nam hiện đại xuất hiện từ bao giờ đến nay vẫn chưa
thấy có tài liệu nào nói rõ. Tuy nhiên nếu như ta tính từ thời điểm tác phẩm Thầy
Lazaro phiền của Nguyễn Trọng Quản ra đời (1887) làm mốc thời gian bắt đầu
của truyện ngắn Việt Nam hiện đại thì ta có thể xem xét sự phát triển của văn học
về đề tài an ninh xã hội qua các giai đoạn sau: trước 1945, giai đoạn 1945-1975 và
giai đoạn sau 1975.

1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945
Văn học viết về đề tài an ninh xã hội ở Việt Nam xuất hiện trước tiên dưới
hình thức của các tác phẩm trinh thám. Chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây,
những năm 1920-1930, văn học trinh thám – một dòng văn học vốn rất được ưa
chuộng ở châu Âu mới bắt đầu được độc giả Việt Nam quan tâm và biết đến. Văn
học trinh thám xuất hiện trước tiên thông qua các tác phẩm nổi tiếng của Conan
Doyle, Edgar Allan Poe, Gaston Leroux,.. được dịch ra tiếng Việt. Hầu hết các tác
phẩm dịch này đều được công chúng nhiệt liệt chào đón và bán rất chạy ở các đô
thị. Các nhà văn cũng bắt đầu quan tâm hơn tới những mảng sáng tác này và từ đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13




tiểu thuyết trinh thám bắt đầu ra đời, khởi đầu với tiểu thuyết Mảnh trăng thu của
Bửu Đình xuất bản năm 1930. Mảnh trăng thu đã xuất hiện yếu tố trinh thám với
vụ án giết người, điều tra thủ phạm, dù rằng thời bấy giờ người ta vẫn xếp nó vào
dạng tiểu thuyết ái tình. Ngay sau đó hàng loạt những tác phẩm trinh thám ra đời.
Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của văn học Việt Nam là Vết tay trên trần
của nhà văn Phạm Cao Củng xuất bản năm 1936. Nhà văn sau này cũng đã trở
thành tác gia trinh thám đầu tiên của văn học Việt Nam với khoảng hơn 20 tiểu
thuyết và truyện ngắn mang màu sắc trinh thám, như: Gia tài nhà họ Đặng
(1937), Chiếc tất nhuộm bùn (1938), Người một mắt (1940), Kỳ Phát giết người
(1941), Nhà sư thọt (1941), Đám cưới Kỳ Phát (1942), Bóng người áo tím
(1942), Một cái Tết rùng rợn của Kỳ Phát (1945)... Ngoài ra còn có một số tác
giả khác như Bùi Huy Phồn với Gan dạ đàn bà (1942); Mối thù truyền kiếp
(1942); Tờ di chúc (1943)… hay Thế Lữ với Lê Phong phóng viên (1937), Lê

Phong và Mai Hương, Đòn hẹn (1939), Gói thuốc lá (1940)...
Tuy nhiên lúc bấy giờ ngoài Phạm Cao Củng được đánh giá là tác giả trinh
thám thì các tác giả khác vẫn chưa được xếp vào đúng vị trí của nó. Nếu đọc cuốn
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan ta sẽ thấy rất rõ sự thật này. Ông chỉ xếp duy
nhất Phạm Cao Củng vào mục tiểu thuyết trinh thám, còn Bùi Huy Phồn nằm ở
phần tiểu thuyết hoạt kê, Thế Lữ thì xếp vào thi gia. Các tác phẩm này đều chịu
ảnh hưởng rất lớn từ các nhà văn trinh thám nổi tiếng của phương Tây, tiêu biểu
như Arthur Conan Doyle (Sherlock Homles), Edga Allan Poe (Vụ giết người ở
phố Morgue, Bí mật của Marie Roger, Bức thư bị đánh cắp) hay Agatha Christie
(Thảm kịch bí ẩn ở Styles, Vụ giết người trên sân gôn, Bộ tứ, Bí mật chuyến tàu
xanh, Bí mật trong chiếc vali, Chết như chơi, Ngòi bút tẩm độc, …). Cụ thể,
Phạm Cao Củng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Conan Doyle, còn Thế Lữ lại học hỏi
Edgar Poe nhiều hơn. Như các tiểu thuyết trinh thám phương Tây, Phạm Cao
Củng và Thế Lữ đã xây dựng tác phẩm của mình theo kết cấu kiểu series nhiều
truyện với một nhân vật xuyên suốt. Nhân vật thám tử Kỳ Phát của Phạm Cao
Củng hay phóng viên Lê Phong của Thế Lữ là nhân vật chính của nhiều truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14




giống như nhân vật Dupin của Edgar Poe, thám tử Homles của Conan Doyle và
thám tử Hercule Poirot, Bà Marple, Chánh thanh tra Battle của Agatha Christie.
Có thể thấy giai đoạn từ cuối thập niên 1930 đến trước 1945 là giai đoạn mà
văn học trinh thám Việt Nam tuy mới bắt đầu hình thành nhưng cũng đã xuất hiện
nhiều thành tựu. Trước năm 1975, đây cũng được xem như là thời kỳ văn học
trinh thám Việt Nam hưng thịnh nhất.

1.1.2. Giai đoạn từ 1945 - 1975
Sau năm 1945, dòng văn học trinh thám nói riêng và văn học về đề tài an
ninh xã hội nói chung không có nhiều thành tựu. Ở miền Bắc, dòng văn học này
không còn cơ hội phát triển do sự trưởng thành và nở rộ mạnh mẽ của dòng văn
học cách mạng. Các nhà văn và độc giả quan tâm hơn đến cuộc kháng chiến giành
độc lập thần thánh của dân tộc. Chỉ duy nhất dòng văn học tình báo - phản gián là
còn cơ hội tiếp tục tồn tại. Các tác phẩm này có cơ hội phát triển đến tận sau 1975,
khi mà chiến tranh đã kết thúc. Tiêu biểu nhất theo xu hướng này có thể kể đến
các tiểu thuyết sau: X30 phá lưới (Đặng Thanh), Ông cố vấn (Hữu Mai), Ván bài
lật ngửa (Nguyễn Trương Thiên Lý)…. Tất cả những tác phẩm này đều được xây
dựng trên nguyên tắc người thật việc thật và đã hoàn toàn thoát ly được kiểu kết
cấu được xây dựng ăn theo phong cách series dài tập của trinh thám phương Tây
trong sáng tác của các tác giả Nam Kỳ những năm 30 – 40.
Riêng ở miền Nam, giai đoạn 1945-1975 đã có hướng đi và sự phát triển
riêng. Sau năm 1954, ở miền Nam vì vẫn tồn tại tầng lớp người đọc thị dân ở một
số đô thị lớn (tầng lớp này có yêu cầu về chất lượng cuộc sống cao, trong đó
không thể thiếu giải trí) nên văn học trinh thám có cơ hội tồn tại dù hầu như không
phát triển và xuất hiện rất ít, chủ yếu vẫn là các tác phẩm nước ngoài được dịch
sang tiếng Việt để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc.
1.1.3. Giai đoạn sau 1975
Sau năm 1975, văn học Việt Nam về đề tài an ninh xã hội đã có nhiều cơ
hội và không gian hơn để phát triển. Tuy nhiên, để văn học có thể thoát ly hoàn
toàn khỏi đề tài chính trị, chiến tranh và hậu chiến tranh; để những tác giả trước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15





kia chỉ có thể viết về đề tài trinh thám - tình báo có thể chuyển sang sáng tác về
các vấn đề xã hội an ninh khác thì phải đợi đến tận khi đất nước bước vào sự đổi
mới toàn diện, tức là từ năm 1986. Việc bãi bỏ chế độ bao cấp, xây dựng nền kinh
tế thị trường tự do đã giúp xã hội có nhiều thay đổi căn bản, không những về đời
sống mà cả nhận thức. Nhiều vấn đề nảy sinh trong xã hội mới, cả tích cực lẫn tiêu
cực. Lúc này, các nhà văn cũng được khuyến khích tìm tòi sáng tạo thật mạnh bạo
trên những phương diện mới. Hiện thực đời sống bấy giờ không phải chỉ gói gọn
trong hiện thực chính trị xã hội mà mở rộng ra cả những vấn đề của đời sống nhân
sinh thế sự. Đây chính là cơ sở cho việc mở rộng đề tài trong văn học nói chung,
cũng như việc mở rộng biên độ của đề tài an ninh xã hội trong truyện ngắn nói
riêng. Đây là hệ quả tất nhiên, bởi lẽ các nhà văn là người nhạy cảm hơn ai hết đối
với sự biến động của cuộc sống, và trong tất cả các thể loại văn học thì truyện
ngắn là thể loại dễ biến đổi nhất.
Cơ chế thị trường đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội,
đạo đức nhân cách ngày một suy đồi; vì đồng tiền người ta có thể làm nhiều việc
sai trái, thậm chí bất chấp cả pháp luật và đạo đức. Nhà văn phải là người tiên
phong chỉ ra những góc tối này, từ đó giúp con người tỉnh ngộ, hướng thiện, phục
thiện, căm ghét, tránh xa và bài trừ cái ác. Chính vì vậy nên có lẽ hiện nay đề tài
an ninh xã hội là một trong những đề tài được quan tâm nhiều của các nhà văn.
Mỗi năm có hàng chục thậm chí hàng trăm tác phẩm về đề tài an ninh xã hội ra
đời. Thậm chí các tổ chức xã hội còn tổ chức nhiều cuộc thi để khuyển khích văn
nghệ sĩ viết về đề tài này. Tiêu biểu nhất là cuộc thi “Vì an ninh Tổ quốc và bình
yên cuộc sống” do Bộ công an - Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức. Nhiều
tác phẩm có giá trị đã ra đời từ cuộc thi này như Phiên bản (Nguyễn Đình Tú),
Sát thủ online (Nguyễn Xuân Thủy), Kẻ ám sát cánh đồng (Nguyễn Quang
Thiều), Hoa bay (Chu Thanh Hương), Chạy án (Như Phong)…
Lực lượng sáng tác về đề tài an ninh xã hội vô cùng hùng hậu, từ những nhà
văn “cây đa, cây đề”, những lão tướng đã có tên tuổi trên văn đàn từ trước như
Ma Văn Kháng, Hồ Phương… đến những ngòi bút trẻ tuy còn thiếu kinh nghiệm


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

16




nhưng đầy nội lực sáng tạo như Nguyễn Xuân Thủy, Chu Thanh Hương, Dili,
Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Thế Hùng… Mới đây, nhân dịp kỷ niệm tròn 70 năm
ngày thành lập Lực lượng CAND, Bộ Công an đã tôn vinh 18 nhà văn có nhiều
đóng góp cho văn học về đề tài “Vì An ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống”.
Đó là các nhà văn: Triệu Huấn, Nguyên Hùng, Lê Tri Kỷ, Hữu Mai, Đặng Thanh,
Lương Sỹ Cầm, Trần Diễn, Xuân Đức, Mai Thanh Hải, Nguyễn Thị Ngọc Hải,
Ma Văn Kháng, Văn Phan, Hồ Phương, Hữu Ước, Ngôn Vĩnh, Phùng Thiên Tân,
Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Trần Thiết.
Nhìn chung đội ngũ sáng tác về đề tài an ninh xã hội không thể không kể
đến những nhà văn sáng tác xuất thân từ lực lượng vũ trang công an, quân đội với
đặc điểm nghề nghiệp là thường xuyên cũng như tiên phong trong việc tiếp xúc
đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái tiêu cực trong xã hội. Họ là những cây bút có tư
liệu dồi dào nhất, xông xáo nhất và cho ra đời nhiều tác phẩm chân thực nhất về
đề tài này.
1.2. Khái quát về các nhà văn thuộc lực lượng vũ trang
Trong suốt 70 năm qua, các nhà văn xuất thân từ lực lượng vũ trang (Công
an nhân dân và Quân đội nhân dân), là một đội ngũ sáng tác vô cùng hùng hậu,
không chỉ về đề tài an ninh xã hội mà còn nhiều đề tài khác nữa. Đặc biệt, trong
hai cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Quân đội nhân dân
Việt Nam đã cống hiến cho nền văn học nước nhà rất nhiều nhà văn nhà thơ áo
lính tài hoa như: Chu Lai, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chính
Hữu, Hữu Loan, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Nguyễn Đức Mậu, Sương Nguyệt

Minh… Hiện nay đội ngũ sáng tác trẻ là các nhà văn Quân đội cũng khá hùng hậu,
với các tên tuổi như Nguyễn Đình Tú, Đỗ Bích Thúy, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Thế
Hùng, Phạm Duy Nghĩa… Công an nhân dân Việt Nam tuy có số lượng nhà văn và
thành tích sáng tác chưa rực rỡ bằng quân đội, nhưng người ta cũng khó mà bỏ qua
những tên tuổi như: Lê Tri Kỷ, Lương Sĩ Cầm, Hữu Ước, Phùng Thiên Tân, Trần
Diễn, Khổng Minh Dụ, Đinh Quang Tốn, Hoàng Huệ Thụy, Ngôn Vĩnh, Nguyễn
Hồng Thái, Nguyễn Quang Thiều… Và một số tên tuổi mới như Bùi Anh Tấn,
Nguyễn Như Phong, Trần Thanh Hà, Chu Thanh Hương, Nguyễn Xuân Thủy… Họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

17




viết về rất nhiều đề tài, tuy nhiên nếu nói đến “đặc sản” của các nhà văn xuất thân
từ ngành nghề lực lượng vũ trang thì chắc chắn phải là các sáng tác về đề tài an ninh
xã hội.
1.2.1. Tình yêu với nghề
Nghề công an, bộ đội là một trong những nghề thường xuyên đối đầu trực
tiếp với hiểm nguy. Dù là thời chiến hay thời bình thì bất cứ lúc nào họ cũng có
thể vì nhiệm vụ mà hy sinh tính mạng: “Đất nước đã hòa bình, Người chiến sĩ an
ninh vẫn còn ra trận” (Bước tiếp khúc quân hành - Hoàng Phi). Đại tá Nguyễn
Ích Ngọc, Trưởng phòng Cảnh sát truy nã tội phạm Công an tỉnh Nam Định trong
bài báo Nghề truy nã tội phạm đăng trên báo Nhân Dân điện tử đã trải lòng về
cái nghề của mình như sau: “Nghề gói gọn trong ba chữ: khô, khó và khổ”. Còn
nỗi khổ của người lính, thì có lẽ càng chẳng cần phải nói nhiều, suốt hai cuộc
chiến tranh, các tác phẩm của Quang Dũng, Chính Hữu, Hữu Loan, Thanh Thảo
có lẽ đã cất tiếng giùm họ về những đau khổ và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh
thần. Thế nhưng nét cao đẹp nhất ở những người chiến sĩ lực lượng vũ trang lại

nằm ở phẩm chất tinh thần của họ: “Vì nước quên thân vì dân phục vụ, Luôn răn
mình giữ trọn chữ tâm, Lòng trong sáng thủy chung vì nghĩa lớn, Một đời trọn đạo
với nhân dân” (Vì nghĩa lớn-Nguyễn Văn Dinh).
Xuất thân từ lực lượng vũ trang, không khó hiểu khi các văn nghệ sĩ đã
đang và từng mặc trên mình màu áo xanh cũng giữ cho mình được những phẩm
chất tốt đẹp truyền thống. Các tác phẩm viết về công an quân đội của họ rất thật,
và cũng rất đặc sắc. Trong Một chiều mưa xưa, Phùng Thiên Tân đã khắc họa
được sự hy sinh vĩ đại của một người chiến sĩ công an, khi anh đã gần như dành cả
cuộc đời để gắn bó và che chở cho vợ con của một tên phản cách mạng. Hay nhà
văn Nguyễn Hồng Thái đã miêu tả rất thành công sự trăn trở thương xót và quyết
tâm minh oan cho chị osin của người Công an trong Cuộc truy đuổi nghiệt ngã,
Bức ảnh bị đánh cắp … Đọc các truyện ngắn về người chiến sĩ của các tác giả
khác như Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Đình Tú… ta cũng dễ dàng thấy được
điều này. Không yêu nghề thì không thể nào viết được như thế. Chỉ có những
người thật sự yêu nghề, hiểu nghề, tâm huyết với nghề mới có thể giữ được trái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

18




tim đầy thương yêu bao dung với những kẻ từng sa cơ lạc lối, vẫn giữ được niềm
tin vào những điều tốt đẹp sau khi ngày ngày tiếp xúc, mắt thấy tai nghe bao điều
xấu xa.
Tình yêu nghề của các nhà văn còn được thể hiện qua sự kiên trinh, gắn bó
với nghề của họ. Nhà văn Lê Tri Kỷ đã từng đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau
trước khi chuyển sang ngành công an và khi đã bước vào nghề ông đã gắn bó với
nó tới tận lúc mất. Nhà văn Hữu Ước dù phải chịu án oan nhiều năm nhưng khi có
cơ hội làm lại ông vẫn chọn gắn bó với nghề và là Tổng biên tập của Báo Công an

Nhân dân đã nhiều năm nay. Nhà văn Khuất Quang Thụy sau khi giải ngũ, đã đi
học ở trường viết văn Nguyễn Du nhưng cuối cùng vẫn chọn quay lại làm việc ở
Tạp chí Văn nghệ quân Đội. Nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú tốt nghiệp trường Đại
học Luật Hà Nội nhưng cuối cùng lại chọn khoác lên mình màu xanh áo lính…
Kể từ khi thành lập đến nay, đã hơn 70 năm trôi qua, từ hai cái nôi Quân
đội Nhân dân Việt Nam và Công an Nhân dân Việt Nam, đã có rất nhiều nhà văn
nhà thơ, nhà phê bình lý luận văn học ra đời. Tuy cũng có người đã rời đi nhưng
rất nhiều người đã chọn ở lại, gắn bó với bộ quân phục và cảnh phục của mình, để
rồi từ đó tiếp tục đóng góp nhiều và nhiều hơn nữa cho sự nghiệp văn học nghệ
thuật nước nhà.
1.2.2. Bản lĩnh chính trị vững vàng
Bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng của cán bộ, chiến sĩ quân đội công
an là thước đo phẩm chất chính trị, giá trị nhân cách của Bộ đội Cụ Hồ và Công
an Nhân dân. Theo Thiếu tướng, PGS. TS Nguyễn Bá Dương, Viện trưởng Viện
Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự, Bộ Quốc phòng trong bài viết “Xây dựng
bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội vững
mạnh về chính trị” đăng trên Báo Quân đội nhân dân online thì một người cán
bộ chiến sĩ phải có bản lĩnh chính trị với các thuộc tính bền vững sau đây: “Kiên
định nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Bản
lĩnh chính trị kiên định, vững vàng là vũ khí sắc bén để cán bộ, chiến sĩ tự tin, sẵn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

19




×