Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Hợp Tác Xã, Một Số Vấn Đề Về Lý Luận Và Thực Tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 75 trang )

1


LỜI NÓI ĐẦU

4

PHẦN MỘT: BÀN VỀ BẢN CHẤT HỢP TÁC XÃ

5

I. Khái niệm

6

1. Khái niệm “Hợp tác”

6

2. Khái niệm “Hợp tác xã” (HTX)

7

II. Bản chất hợp tác xã (HTX)

9

1. HTX là mô hình “tự trợ giúp” của người dân

9


2. Kinh tế hợp tác xã (HTX) – một loại hình kinh tế tập thể

11

3. Lợi ích của việc tham gia hợp tác xã (HTX)

12

5. Khi nào thì phương thức hợp tác hợp tác xã được sử dụng?

17

6. Tính chất doanh nghiệp trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã

18

7. Phân biệt HTX với các loại hình doanh nghiệp

19

8. Hợp tác xã theo quy định của dự thảo Luật hợp tác xã (sửa đổi)

24

PHẦN HAI: NHẬN DIỆN VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA HỢP TÁC XÃ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
27
I. Ba nguyên tắc cơ bản của mô hình HTX kiểu mới

27


1. Tự trợ giúp

27

2. Tự quản lý

27

3. Tự chịu trách nhiệm

28

II. Ý nghĩa xã hội của hợp tác xã

29

1. Ý nghĩa xã hội của hợp tác xã

29

2. Phương thức kinh doanh bằng hình thức hợp tác xã so với các phương thức kinh doanh khác trên thị
trường

30

III. Vai trò của hợp tác xã trong phát triển nền kinh tế thị trường

34


1. Đóng góp của HTX vào nền kinh tế

34

2. Đóng góp của HTX vào công tác gìn giữ an ninh và phát triển xã hội

35

PHẦN BA: QUYỀN TỰ CHỦ CỦA HTX, NHỮNG HẠN CHẾ CỦA
DỰ THẢO LUẬT HTX (SỬA ĐỔI) VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN
CỦA HTX TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
36
I. Quyền tự chủ của HTX

36

II. Những hạn chế của dự thảo Luật HTX sửa đối đối với quyền tự chủ
của HTX
37
1. Trên thực tế Dự thảo Luật HTX có vô hiệu hóa Điều lệ HTX?

37

2. Dự thảo Luật HTX quá chi tiết sẽ làm cho khung pháp lý không có tính ổn định

38

3. Hạn chế kinh doanh của HTX là trái cơ chế thị trường và gây bất lợi cho chính xã viên HTX

41


2


4. Không thể ép buộc xã viên sử dụng dịch vụ HTX

45

5. Không phải ai muốn vào HTX cũng được

47

6. Phân chia lợi nhuận của HTX

51

III. Động lực phát triển của HTX trong nền kinh tế thị trường

54

NGUỒN: Ý KIẾN CỦA ÔNG CHRISTIAN ALBRECHT, CHUYÊN
GIA
LIÊN
ĐOÀN
HTX
CHLB
ĐỨC
ĐĂNG
TẠI
WWW.VNBUSINESS.VN/INDEX.PHP?Q=ARTICLES/ LUẬT HTX

SỬA ĐỔI: CẦN GỠ BỎ CÁC HẠN CHẾ VÀ RÀNG BUỘC | THỜI
BÁO KINH DOANH
58
PHẦN BỐN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ VÀ
QUẢN TRỊ HỢP TÁC XÃ
59
I. Vai trò của Nhà nước đối với việc quản lý và phát triển HTX

59

II. Vai trò của Nhà nước đối với HTX

61

1. Nhà nước tạo dựng khuôn khổ pháp lí cho HTX

61

2. Nhà nước có nên hỗ trợ tài chính cho HTX?

62

3. Một số hạn chế của dự thảo Luật HTX (sửa đổi) liên quan đến quản lý nhà nước và hỗ trợ HTX

63

4. Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước thông qua tính khả thi của Luật

65


III. Kinh nghiệm các hình thức hỗ trợ của Nhà nước đối với HTX

66

1. Việc hỗ trợ phải theo tiêu chí cụ thể và chủ yếu theo ngành

66

3. Hỗ trợ HTX tham gia các chương trình ưu đãi, khuyến khích như các loại hình doanh nghiệp khác

66

4. Hỗ trợ cho các Hiệp hội, liên minh, hệ thống liên kết của HTX

67

3


LỜI NÓI ĐẦU
Không chỉ Việt Nam hay các nước đang phát triển mới có Hợp tác xã
(HTX) và cần HTX. Mô hình kinh tế HTX được hình thành từ giữa thế kỷ 19, bắt
đầu từ các nước phát triển như Anh, Pháp, Đức,… và nhanh chóng được phổ biến
trên toàn thế giới. Đặc biệt, mô hình HTX đã tỏ ra thích ứng và phù hợp với cơ chế
kinh tế thị trường, đem lại lợi ích kinh tế thiết thực cho người dân và kinh tế-xã
hội nói chung.
Ở Việt Nam, khái niệm HTX đã xuất hiện từ hàng chục năm nay. Mô hình
HTX đã có nhiều đóng góp quan trọng trong thời kỳ xây dựng miền Bắc XHCN và
kháng chiến thống nhất đất nước. Tuy nhiên, đó là mô hình HTX của nền kinh tế
kế hoạch tập trung, bao cấp trước kia. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, khi

Việt Nam bắt đầu thực hiện “Đổi mới”, nền kinh tế được chuyển dần sang cơ chế
thị trường, theo đó kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân được thừa nhận và tôn vinh đã
dần dần thay thế mô hình kinh tế tập thể, kinh tế HTX kiểu cũ. Càng ngày, mô
hình kinh tế HTX kiểu cũ càng trở nên lạc hậu và không thể phát triển trong nền
kinh tế theo cơ chế thị trường.
Vào thời kỳ này, hàng chục vạn HTX ở các ngành nghề đã ngừng hoạt động
hoặc giải thể. Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần… dần đã từng bước thâm nhập và khẳng định vị thế của mình. Bên cạnh đó,
trong khu vực HTX, khái niệm về HTX kiểu mới cũng dần được tiếp nhận. Tuy
nhiên, do mô hình HTX kiểu cũ của nền kinh tế kế hoạch tập trung và bao cấp tồn
tại quá lâu và quá nặng nề nên sự ảnh hưởng của nó vẫn còn. Do vậy, cho đến nay,
cách hiểu về HTX kiểu mới vẫn nửa vời, vẫn còn nhiều cách nhìn nhận “nhập
nhằng” về HTX với tổ chức mang nặng tính xã hội hơn là kinh doanh, thậm chí
còn coi HTX như đơn vị hành chính, HTX là tổ chức tự cung tự cấp, không được
tự chủ trong kinh doanh, không được thừa nhận và đối xử bình đẳng như các
doanh nghiệp trên thị trường.
Chính vì vậy, với mục đích giúp đại biểu có cái nhìn toàn diện hơn về hợp
tác xã, từ đó có thể áp dụng một số kiến thức trong công tác thẩm tra, chỉnh sửa
một số nội dung trong Dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi), Trung tâm Bồi dưỡng đại
4


biểu dân cử xin giới thiệu chuyên san Hợp tác xã – Một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn để đại biểu dùng làm tài liệu tham khảo.

Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử

PHẦN MỘT: BÀN VỀ BẢN CHẤT HỢP TÁC XÃ
5



I. Khái niệm
1. Khái niệm “Hợp tác”
Khái niệm “hợp tác” không chỉ có ở hợp tác xã mà còn có ở các loại hình
doanh nghiệp khác như: Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 Thành viên, công ty cổ
phần; công ty liên doanh, … Khái niệm “hợp tác” là một khái niệm chung khi các
chủ thể khác nhau mong muốn và tự nguyện cùng chung nhau kinh doanh, đầu tư,
chung nhau “làm ăn”.
“Hợp tác” ĐỐI VỐN là những người có cùng chung một nhu cầu, một mục
đích nào đó đều có thể hợp tác với nhau theo những phương thức hợp tác nhất
định. Phương thức “hợp tác” tại các doanh nghiệp khác có pháp nhân như Công ty
TNHH 2 Thành viên, công ty cổ phần; công ty liên doanh,…cũng là phương thức
hợp tác theo hình thức ĐỐI VỐN. Quan hệ giữa các thành viên góp vốn với nhau
được xác lập theo mức độ góp vốn của từng thành viên. Người góp vốn nhiều có
nhiều quyền biểu quyết tương ứng so với người góp vốn ít. Và như vậy, người góp
vốn nhiều có thể ảnh hưởng lớn, thậm chí áp đảo người góp vốn nhỏ và chi phối
hoàn toàn doanh nghiệp. Điều đó là hợp pháp và hợp lệ.
Một vài ví dụ như, ví dụ thứ nhất: Ba cá nhân có thể hợp tác với nhau để lập
ra một công ty trách nhiệm hữu hạn theo tỷ lệ 20: 30: 50; tài sản của công ty
TNHH là tài sản chung của tập thể 3 thành viên góp vốn. Ví dụ 2: 10 cá nhân hoặc
tổ chức có thể cùng nhau góp vốn thành lập công ty cổ phần, mỗi người góp 10%;
tài sản của công ty cổ phần là tài sản chung của tập thể 10 cổ đông góp vốn. Ví dụ
3: Một công ty liên doanh, đối tác trong nước 51% và đối tác nước ngoài 49% thì
tài sản công ty liên doanh là tài sản chung của cả hai bên góp vốn.
Tiếp theo, “Hợp tác” ĐỐI NHÂN, ngược lại, cũng là một loại hình doanh
nghiệp, hoạt động như doanh nghiệp. Hợp tác xã (HTX) có phương thức hợp tác
khác giữa các thành viên góp vốn. Đó là phương thức hợp tác theo hình thức ĐỐI
NHÂN. Theo đó, các thành viên tuy góp vốn nhiều ít khác nhau, nhưng hoàn toàn
bình đẳng và dân chủ với nhau, không có chuyện “cá lớn ép cá bé”. Tất cả mọi
thành viên góp vốn ít hay nhiều đều chỉ có một quyền biểu quyết như nhau.

Với phương thức hợp tác theo hình thức ĐỐI NHÂN trong nội bộ như vậy,
số đông các thành viên HTX dù góp vốn ít, thậm chí rất ít, nhưng vẫn có quyền và
có thể định hướng cho hoạt động HTX của mình. Việc lựa chọn hình thức kinh
6


doanh, chiến lược kinh doanh của HTX, lựa chọn sản phẩm, dịch vụ, lựa chọn
phân khúc thị trường,…là quyền của HTX cũng giống như các loại hình doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, quyền của HTX lại thuộc về số đông xã viên và họ được
quyền và được phép quyết định theo đúng nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm
và đương nhiên là theo hướng có lợi cho họ nhất, đem lại lợi ích cho họ. Đây
chính là điểm thể hiện HTX là doanh nghiệp đặc thù.
2. Khái niệm “Hợp tác xã” (HTX)
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm HTX, trong đó có 4
cách hiểu chính:
Cách hiểu 1
HTX là tổ chức kinh tế nhưng là công ty hoạt động tối đa hóa lợi nhuận như
phần lớn các doanh nghiệp có pháp nhân là công ty cổ phần, công ty TNHH, ….
Với cách hiểu này thì HTX chưa và khó thể hiện tính xã hội và nhân văn
cao như mong muốn. Trong trường hợp này, HTX chịu sự chi phối của những
người góp vốn lớn, có thể đem lại lợi ích cho nền kinh tế và cho một số ít người
góp vốn lớn, chứ chưa đem nhiều lợi ích cho số đông thành viên là người góp vốn
nhỏ.
Cách hiểu 2
HTX là tổ chức mang nặng tính từ thiện, lấy việc giúp đỡ người nghèo,
người khó khăn là chính. Với cách hiểu này, HTX chỉ tồn tại nếu có tổ chức bao
cấp hay có nguồn “tài trợ” thường xuyên. HTX làm ra thì ít mà tiêu là chính nên
khó tồn tại lâu dài và nhất là không thể đáp ứng nhu cầu số lượng thành viên lớn.
Cách hiểu 3
HTX hoạt động như doanh nghiệp, có các quyền như doanh nghiệp khác,

cạnh tranh trên thị trường với các loại hình doanh nghiệp khác và mang tính xã hội
nhân văn cao do thu hút người nghèo, người yếu thế và đem lại lợi ích cho họ. Với
cách hiểu này, HTX có thể phát triển bền vững, thật sự tự chủ, về lâu dài không
nhất thiết cần sự hỗ trợ cụ thể về tài chính của nhà nước, đem lợi ích lâu dài cho xã
viên và cho xã hội.
Đây chính là cách hiểu phổ biến trên thế giới, nhất là ở tất cả các nước có
mô hình HTX kiểu mới thành công.
7


Cách hiểu 4
HTX có hoạt động kinh doanh nhưng không được coi hoạt động như doanh
nghiệp; hạn chế các hoạt động cạnh tranh và quyền của HTX trên thị trường.
Do đó, tính xã hội, nhân văn của HTX vẫn phần nào mang màu sắc của tính
“từ thiện”, mang tính “chỉ định” như “hạn chế HTX tham gia thị trường”, “bắt
buộc phải sử dụng dịch vụ của HTX”,…. Điều đó dẫn đến tình trạng HTX dễ ỷ thế
độc quyền, không phát triển được, không cạnh tranh được và tất yếu dẫn đến khó
khăn, cần sự bao cấp nhiều của Nhà nước.
Với cách hiểu này, HTX rất dễ trở lại mô hình HTX kiểu cũ thời bao cấp,
HTX không đem lại lợi ích lâu dài cho xã viên, cho xã hội nói chung và thành viên
sẽ xa rời HTX.
HTX theo Thông lệ quốc tế
Theo thông lệ và cũng là sự phổ biến ở các nước trên thế giới, đặc biệt tại
các nước đang có mô hình HTX thành công thì HTX được nhìn nhận và thừa nhận
là một trong các loại hình Doanh nghiệp. Điều này cũng được thể hiện trong định
nghĩa HTX của Liên đoàn HTX quốc tế: HTX là doanh nghiệp chung của các
thành viên. Đồng thời với tính xã hội và nhân văn rất cao của mình, HTX cũng
được nhìn nhận là một doanh nghiệp đặc thù.
Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà nội dung quan trọng nhất về HTX hoạt động như doanh nghiệp, coi HTX là một loại hình doanh nghiệp đặc thù lại
không đựợc tiếp nhận. Và chính vì thế dẫn đến những tranh luận không đáng có về

bản chất HTX kiểu mới. Điều đó kéo theo những hệ lụy rất lớn cho HTX và thành
viên của họ, ảnh hưởng đến sự tồn tại, cạnh tranh và phát triển bền vững của các
HTX.
Có ý kiến cho rằng, tại các nước phát triển, HTX được thừa nhận là một
doanh nghiệp vì nó có quá trình thành lập và phát triển từ cả hơn một trăm năm
nay. Còn Việt Nam mới xây dựng HTX nên không thể coi HTX là doanh nghiệp
hay hoạt động như doanh nghiệp được. Nhưng trên thực tế, ngay từ đầu, các HTX
ở các nước đó đã được coi là doanh nghiệp. HTX là doanh nghiệp chung của
những người nghèo khó hơn, yếu thế hơn nhằm đem lại lợi ích kinh tế cho họ,
giúp họ cạnh tranh tốt hơn. Qua đó cải thiện hoạt động kinh tế của họ một cách
hiệu quả và bền vững.
8


HTX là doanh nghiệp đặc thù. Tính đặc thù của nó là tính đối nhân, không
phải đối vốn như Công ty cổ phần, Công ty TNHH,… Thông lệ quốc tế, các nước
đều coi và thừa nhận HTX là Doanh nghiệp,định nghĩa của ICA cũng coi HTX là
doanh nghiệp, Luật HTX hiện hành của Việt Nam cũng khẳng định: HTX hoạt
động như DN. Thực tế hiện nay các HTX hoạt động kinh doanh tốt, hiệu quả cũng
đều đang hoạt động như các loại hình DN khác. Xã viên là các cá nhân, hộ gia
đình, pháp nhân kinh doanh, tự nguyện thành lập HTX để kinh doanh thì HTX
cũng phải là doanh nghiệp đặc thù và bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Vì
vậy, cần phải xác định rõ: “HTX là doanh nghiệp đặc thù, hoạt động bình đẳng
với các loại hình doanh nghiệp khác”. Khi đã là doanh nghiệp thì không thể hạn
chế các quyền hợp pháp và sự tự chủ của HTX. Các vấn đề khác như thành viên,
thị trường, tài sản HTX… do HTX tự quyết định, thông qua Đại hội xã viên, đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu xã viên, đem lại lợi ích cho xã viên.
Một mặt khác của khái niệm HTX kiểu mới là tính tương trợ giúp nhau giữa
các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân vừa và nhỏ trong xã hội. Khía cạnh này cũng đã
được Liên minh HTX quốc tế (ICA) cũng nhấn mạnh: “HTX là tổ chức sở hữu tập

thể và quản lý dân chủ, hoạt động theo các giá trị: tự trợ giúp, tự chịu trách
nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. HTX coi con người là trung
tâm và giúp đỡ xã viên thông qua việc ra quyết định một cách dân chủ, mở ra các
phương thức giúp xã viên đạt được những mong muốn về kinh tế, xã hội và văn
hóa.” (Trích dẫn từ Thông điệp của Tổng thư ký Liên hiệp quốc nhân Ngày Quốc
tế HTX 2009. Nguồn: www.un.org ; Sách tham khảo: Liên hiệp quốc với phong
trào HTX quốc tế, trang 148, từ dòng 13 đến dòng 23)
II. Bản chất hợp tác xã (HTX)
1. HTX là mô hình “tự trợ giúp” của người dân
Nói đến HTX là người ta thường nói đến khái niệm “tự trợ giúp”. Đây là
một khái niệm không còn mới ở Việt Nam, được nhắc đến và khẳng định ngày
càng nhiều khi đề cập đến bản chất mô hình, giá trị hay tính chất của mô hình
HTX kiểu mới. Chẳng hạn theo xã luận của Báo Nhân dân ngày 22/03/2006 thì
“Trong chiến lược xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, các Hợp tác xã (HTX) những tổ chức kinh tế - xã hội mang tính chất tự trợ giúp của chính người dân,
đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo”, "Mô hình kinh tế HTX
9


được xây dựng trên cơ sở sự tự trợ giúp và hỗ trợ lẫn nhau, không phải là một tổ
chức từ thiện. Ở những quốc gia bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính, các
ngân hàng HTX và các tổ chức tín dụng lại mở rộng cho vay, thay vì cắt giảm như
các tổ chức tài chính khác, qua đó giúp làm giảm tác động của sự khan hiếm tín
dụng đối với những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của mô hình kinh tế này và sự cần thiết phải có những loại tổ chức
khác nhau nhằm tăng cường sự bền vững của hệ thống tài chính"
Theo Tổng thư ký Liên hiệp quốc tại Đại hội đồng Liên hợp quốc năm
2003: "Về kinh tế, hợp tác xã là tập hợp những người sản xuất nhỏ để nâng cao
năng lực, hiệu quả hoạt động, đảm bảo cho họ có thể tồn tại và phát triển trong
môi trường cạnh tranh, nhất là khi bị các doanh nghiệp lớn chèn ép. Về xã hội,
hợp tác xã là tổ chức tự trợ giúp, giúp các cá nhân hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau

trong lao động và đời sống, phát huy hoạt động của cộng đồng”.
Phát biểu tại Hội thảo góp ý cho dự thảo Luật HTX (sửa đổi) do Ủy ban
kinh tế của Quốc hội tổ chức ngày 14/5/2012, Gs.Ts. Hans Muenkner, nguyên
Viện trưởng Viện Hợp tác xã (ĐH Tổng hợp Marburg - Đức) cho rằng: cần xem
xét hoàn thiện khái niệm HTX, phải nhận thức rõ bản chất của mô hình HTX là
mô hình tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm. Theo giáo sư, điều này đã được nhắc
nhiều trong dự thảo Luật, tuy nhiên, trong dự thảo vẫn có một chương về hỗ trợ
của Chính phủ. Theo ông, cần chú ý giữ được bản chất HTX là mô hình tự chủ, tự
quyết định của người dân trong bối cảnh nhiều can thiệp, hỗ trợ như vậy từ phía
Nhà nước. Ông cho rằng, điều HTX cần nhất để phát triển bền vững là sự hỗ trợ về
tư vấn, đào tạo và một khuôn khổ pháp lí thuận lợi cho HTX chứ không phải là sự
hỗ trợ về tài chính. Trên thế giới, mô hình HTX là mô hình tự trợ giúp, HTX tự lấy
nguồn lực của chính mình, tự vươn lên chứ không trông chờ vào sự hỗ trợ của
Chính phủ hay bên ngoài. Điển hình như tại Singapore, nguồn quỹ của HTX
không lấy từ Chính phủ mà là nguồn thặng dư từ các HTX thành viên. Tại Đức
cũng vậy, trong hệ thống HTX không có cơ quan nào của Nhà nước.
Đánh giá:
Vậy thế nào là “tự trợ giúp” ? Nguyên tắc tự trợ giúp chính là đề cao tinh
thần tự lực cánh sinh theo nghĩa tự mình giúp mình, tự mình cứu mình, không
trông chờ người khác, nguồn lực khác. Muốn tự mình giúp mình, cứu mình thì
trước tiên phải tự mình có ý tưởng, tự mình bỏ sức, bỏ vốn. Sau đó là tự mình làm,
10


tự mình quản lý, tự mình chịu trách nhiệm về việc làm tốt hay dở. Mình làm mình
hưởng, không ai làm thay mình và cũng không ai chịu trách nhiệm hộ mình. Tự
làm, tự vươn lên để tự cứu mình khỏi khó khăn, nghèo khổ,... Không đợi nhận hỗ
trợ từ bên ngoài, vì những hỗ trợ có thể không kịp thời, lại chưa chắc đúng nhu
cầu cần được hỗ trợ. Đây là khái niệm tự trợ giúp, đề cao và khuyến khích tinh
thần tự lực cánh sinh của người dân để vượt khó, để đem lại lợi ích cho chính họ.

Như vậy, “tự trợ giúp” thực sự là một nội hàm rất quan trọng trong khái
niệm HTX, có ý nghĩa mang tính “khai sinh” ra mô hình kinh tế HTX và là nền
tảng mang tính định hướng cho mô hình kinh tế này. Tuy nhiên, trong cách đề cập
tới xây dựng mô hình HTX kiểu mới, kể cả nhận thức về quản lý Nhà nước đối với
HTX, đặc biệt là liên quan đến xây dựng khuôn khổ pháp lý, chính sách cho HTX,
như mới đây nhất là dự thảo Luật HTX (sửa đổi) dường như đã bị coi nhẹ nội hàm
“tự trợ giúp” trong khái niệm HTX, chưa đánh giá đúng mức, thậm chí bị bỏ qua
nội hàm này, dẫn đến những cách nhìn chưa hoàn toàn đúng, chưa phù hợp về
quản lý nhà nước đối với HTX.
2. Kinh tế hợp tác xã (HTX) – một loại hình kinh tế tập thể
Lấy ví dụ cụ thể, chẳng hạn có 3 cá nhân hợp tác với nhau để lập ra một
công ty trách nhiệm hữu hạn theo tỷ lệ 20 : 30 : 50; tài sản của công ty TNHH là
tài sản chung của tập thể 3 thành viên góp vốn.
Ví dụ: 10 cá nhân hoặc tổ chức có thể cùng nhau góp vốn thành lập công ty
cổ phần, mỗi người góp 10%; tài sản của công ty cổ phần là tài sản chung của tập
thể 10 cổ đông góp vốn.
Một công ty liên doanh, đối tác trong nước 51% và đối tác nước ngoài 49%
thì tài sản công ty liên doanh là tài sản chung của cả hai bên góp vốn.
Một HTX tiểu thủ công nghiệp khi thành lập có 7 xã viên; tài sản của HTX
là tài sản thuộc sở hữu tập thể của 7 xã viên đó. Một HTX dịch vụ nông nghiệp có
259 xã viên; tài sản thuộc sở hữu HTX là tài sản thuộc sở hữu tập thể 259 xã viên.
Một Quỹ tín dụng nhân dân có 1350 thành viên, sau 15 năm hoạt động, tài
sản của Quỹ là tài sản thuộc sở hữu tập thể 1350 thành viên.
Như vậy, về mặt sở hữu, cũng giống như tài sản của công ty TNHH nhiều
thành viên hay công ty cổ phần, tài sản HTX đương nhiên là tài sản riêng của tập
11


thể một nhóm người nhất định. Đó là những người tham gia là thành viên và góp
vốn vào HTX. Nhà nước, chính quyền không tham gia góp vốn và không có vai

trò là người chủ sở hữu hay đồng chủ sở hữu tài sản HTX. Vai trò của Nhà nước,
chính quyền là vai trò quản lý nhà nước theo qui định của pháp luật. Nói cách khác
chữ “tập thể” ở đây là một nhóm người có xác định chứ không phải là “toàn dân”
hay “cả cộng đồng” một cách không xác định.
Mặc dù vậy, kinh tế HTX vẫn có thể được hiểu là kinh tế tập thể. Bởi vì,
mọi quyết định cuối cùng và cao nhất của HTX là quyết định của tập thể đa số
thành viên theo tính đối nhân, mỗi người một phiếu biểu quyết, bất kể góp vốn
nhiều hay ít. Đây chính là đặc trưng riêng của HTX, giúp HTX phân biệt rất rõ với
các loại hình doanh nghiệp khác theo nguyên tắc đối vốn. Chính nhờ nguyên tác
đối nhân này mà HTX sẽ phải định hướng hoạt động, mục tiêu, chiến lược kinh
doanh vì lợi ích của số đông thành viên. Khác với doanh nghiệp đối vốn, không
một xã viên nào, dù góp vốn cao bao nhiêu có thế chi phối hay thao túng HTX,
làm HTX biến tướng gây ảnh hưởng đến quyền lợi, lợi ích của đa số xã viên HTX.
3. Lợi ích của việc tham gia hợp tác xã (HTX)
Tổ chức và hoạt động của HTX thể hiện một nguyên tắc rất đơn giản và cổ
xưa trong tổ chức xã hội của loài người: Nếu một cá nhân không có đủ khả năng
để thực hiện công việc nhằm đạt được mục tiêu nào đó thì tất yếu cá nhân đó sẽ
phải tìm cách hợp sức với những cá nhân khác. Trong số rất nhiều nhu cầu, mục
tiêu của từng cá nhân cụ thể thì tất yếu có những nhu cầu, mục tiêu mà nhiều hoặc
đa số cá nhân trong xã hội đều có chung. Từ những mục tiêu, lợi ích chung này,
các cá nhân trong xã hội đã tìm ra nhiều phương pháp để hợp tác với nhau để cùng
đạt được mục tiêu, lợi ích chung và việc thành lập ra một tổ chức để thực hiện là
một trong những phương pháp đã phát huy hiệu quả tích cực.
HTX tập hợp và cung cấp dịch vụ, sản phẩm có nhu cầu chung cho các các
xã viên, tận dụng được lợi thế của việc cung ứng hàng hóa, sản phẩm với số lượng
lớn. Từ đó, vị trí trên thị trường của các xã viên được đề cao hơn nhiều so với việc
họ trực tiếp thực hiện các hoạt động mua, bán, tiêu dùng. Có thể nói rằng, qua
phương thức hợp tác dưới hình thức hợp tác xã, các xã viên đã tạo ra cho mình lợi
thế độc quyền nhất định, lợi thế này thậm chí có thể tạo ra cho xã viên quyền lực
thực sự trên thị trường.

12


Bên cạnh đó, sự phụ thuộc lẫn nhau trong chuỗi dây chuyền sản xuất, cung
ứng hàng hóa, sản phẩm có nhu cầu chung của các xã viên cũng là lý do của việc
tham gia hợp tác xã. Thử lấy ví dụ đối với hợp tác xã nông nghiệp của những
người nuôi bò sữa tỉnh Sóc Trăng (Evergrowth): Các nông dân nuôi bò sữa nếu
không có hợp tác xã sẽ phải bán sản phẩm của mình hàng ngày cho nhà sản xuất
sữa cho dù giá cả của mặt hàng này lên xuống thế nào đi chăng nữa, thậm chí có
thể xuống dưới giá thành.
Với việc liên kết hoạt động thông qua HTX, các xã viên có thể đạt được
những thỏa thuận tốt hơn, ổn định hơn với các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào
để nuôi bò cũng như doanh nghiệp sản xuất sữa bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên, cần
chú ý rằng các thỏa thuận này chưa chắc đã đảm bảo hợp tác xã sẽ được cung ứng
nguyên liệu đầu vào rẻ hơn so với giá thị trường cũng như sữa nguyên liệu được
bao tiêu với giá cao hơn giá thị trường (nội dung này chúng tôi sẽ phân tích sâu
hơn ở phần sau). Ưu điểm ở đây chỉ là các xã viên giảm đi sự phụ thuộc vào các
đối tác bên ngoài thông qua hoạt động của HTX. Nói cách khác, thay vì phụ thuộc
nhiều vào các đối tác bên ngoài, thì thông qua mô hình HTX, các xã viên đã chấp
nhận nâng cao sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các xã viên với nhau và với hợp tác xã.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc lợi ích vào một tập thể các cá nhân thông qua hình
thức hợp tác xã đôi khi mang lại những tác động tiêu cực nhiều hơn cho xã viên so
với sự phụ thuộc vào một doanh nghiệp đối tác bên ngoài. Bởi vì, trong một tập
thể bao gồm nhiều cá nhân thì tất yếu sẽ có những lợi ích khác nhau. Lợi ích của
các cá nhân xã viên trong một tập thể có thể mâu thuẫn với nhau dưới nhiều hình
thức khác nhau, bên cạnh khả năng mâu thuẫn lợi ích của xã viên nói chung với lợi
ích của Ban quản trị hợp tác xã nói riêng. Một thách thức đặt ra đối với phương
thức hợp tác HTX là, để có thể tồn tại, hợp tác xã phải giải quyết được vấn đề cân
bằng giữa các lợi ích khác nhau này. Bên cạnh đó, HTX không phải là một tổ chức
từ thiện, không có các nguồn tài trợ và không tồn tại nhờ vào tấm lòng của những

người khác. Do đó, để có thể tồn tại, HTX cũng phải tham gia vào thương trường,
giao dịch với các đối tác bên ngoài để tìm kiếm giá trị thặng dư. Phần giá trị thặng
dư này một phần được dùng để bù đắp chi phí hoạt động và bổ sung vào khối tài
sản không chia của HTX, phần còn lại sẽ được phân phối lại ngay cho các xã viên
thông qua việc giảm giá thành sử dụng dịch vụ của HTX trong các giao dịch giữa
HTX với xã viên.
13


Trong bối cảnh phải cạnh tranh với các mô hình hợp tác khác, ví dụ như các
loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp, bên cạnh nhiệm vụ
cân bằng các lợi ích trong nội bộ của HTX thì mô hình này phải thỏa mãn được
những yêu cầu cao hơn. Đó là HTX phải chứng minh được lý do và sự tồn tại của
nó đem lại lợi ích cho các xã viên, người thành lập và duy trì hoạt động của HTX
bên cạnh hoạt động kinh doanh với các đối tác bên ngoài.
Nói một cách khác, từ luận điểm này chúng ta có thể nhận ra mô hình HTX
vừa có đặc điểm của một tổ chức xã hội vừa có đặc điểm của một doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh. HTX là một tổ chức kinh tế tạo ra những lợi thế về lợi ích
cho các thành viên xã viên và cũng phải chấp nhận sức ép rất lớn trên thị trường
không kém những loại hình doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng lĩnh vực.
4. Lợi ích của việc giữ hoạt động kinh tế của riêng cá nhân xã viên bên
cạnh hoạt động của hợp tác xã (HTX)
Sự sụp đổ của mô hình công xã nông thôn của các nước Xô-viết và HTX
kiểu cũ ở Việt Nam trước đây là minh chứng cho thấy việc xóa bỏ hoàn toàn kinh
tế riêng lẻ của từng xã viên để cùng thực hiện hoạt động kinh tế chung trong mái
nhà hợp tác xã là một phương thức hợp tác không thành công. Các xã viên có
những năng lực làm việc khác nhau nên khối lượng, giá trị hàng hóa, sản phẩm họ
làm ra cũng khác nhau. Nếu gộp chung mọi hoạt động kinh tế của xã viên vào hoạt
động của hợp tác xã, trong khi hợp tác xã lại hoạt động dựa trên nguyên tắc dân
chủ trực tiếp thì tất yếu có sự mâu thuẫn về lợi ích giữa những người làm việc tốt,

có năng suất lao động cao, có khả năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của hợp tác xã với những người làm việc kém hơn. Do vậy, mỗi cá nhân xã viên sẽ
mất đi động lực sáng tạo và năng lực làm việc nổi trội và tất yếu hoạt động của
hợp tác xã không thể đạt kết quả cao. Giải quyết mâu thuẫn này yêu cầu sự tồn tại
hoạt động kinh tế riêng lẻ của từng xã viên, có như vậy mới bảo đảm được mối
tương quan giữa năng lực, trình độ và kết quả thụ hưởng, mới khuyến khích được
sự phát triển của sản xuất. Trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, với đặc điểm là một
nước nông nghiệp, với tư duy làm ăn nhỏ lẻ vẫn còn bám sâu trong cách thức sản
xuất, kinh doanh thì lợi ích của kinh tế cá nhân, hộ gia đình lại càng được nhìn
nhận rõ hơn. Do đó, bên cạnh lợi ích của việc hợp tác là không thể phủ nhận thì
vai trò của kinh tế cá nhân cũng đóng vai trò quyết định sự tồn tại của kinh tế hợp
tác xã. Một khi hoạt động kinh tế riêng lẻ của từng xã viên vì lý do nào đó mất đi
14


thì vai trò của hợp tác xã cũng không còn nữa, điều này có nghĩa kinh tế hợp tác
khi đó cũng không còn lý do tồn tại.
Mô hình kinh tế HTX là một loại hình tổ chức kinh tế đã được hình thành từ
lâu đời, được phát triển và phổ biến trên toàn thế giới. Đặc biệt, mô hình HTX đã
tỏ ra thích ứng và phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường với nhiều hình thái phát
triển phong phú, sinh động. Các tổ chức kinh tế HTX, dù hoạt động ở lĩnh vực
nào, ngành nghề nào, ở quốc gia nào, bên cạnh các quy định pháp luật chung như
các doanh nghiệp khác, cũng đều chịu sự điều chỉnh của Luật Hợp tác xã hoặc qui
định pháp lý đặc thù dành riêng cho HTX. Khuôn khổ pháp lí của mỗi nước có thể
khác nhau ở các qui định chi tiết, nhưng tất cả về cơ bản đều giống nhau trong việc
thể hiện bản chất chung và các đặc thù riêng của HTX.
Nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, có thể nhận thấy
sự tồn tại song song mang tính tương hỗ rất thú vị giữa hai mặt đối lập trong một
mô hình tổ chức kinh tế hợp tác xã, khác biệt hoàn toàn với các loại hình doanh
nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay công ty hợp danh

theo quy định hiện hành của Luật doanh nghiệp. Một mặt, các xã viên tạo ra tổ
chức hợp tác xã để cùng thực hiện một số hoạt động kinh tế chung. Mặt khác, luôn
có sự độc lập về mặt kinh tế đối với các xã viên khác và với hợp tác xã, nếu hoạt
động kinh tế riêng lẻ của các xã viên vì lý do nào đó không còn, thì lý do cho sự
tồn tại của hợp tác xã đó cũng biến mất.
Các xã viên không trực tiếp (cho dù hoàn toàn có thể tự làm được) thực hiện
giao dịch mua hoặc bán sản phẩm, hàng hóa mà họ có nhu cầu chung với nhà cung
cấp mà chuyển việc thực hiện các giao dịch này cho một tổ chức kinh tế độc lập do
họ thành lập nên và đồng sở hữu. Nếu nhìn dưới góc độ thương mại thông thường
thì việc làm này có vẻ như không phù hợp lắm với nguyên tắc “mua tận gốc, bán
tận ngọn”, cần hạn chế tối đa các khâu trung gian để tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên,
xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù giữa xã viên với hợp tác xã của họ, việc hình
thành thêm chủ thể trung gian giữa xã viên với nhà cung cấp hoặc tiêu thụ dịch vụ,
hàng hóa không những không gia tăng chi phí trung gian, mà ngược lại, còn giúp
các xã viên tối đa được lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bản
thân. Thay vì tiếp tục duy trì việc thực hiện hợp đồng mua, bán với thị trường bên
ngoài, các xã viên có chung nhu cầu đã “nội bộ hóa” việc mua, bán hàng hóa, sản
phẩm thông qua tổ chức hợp tác xã và lý do để họ làm như vậy xuất phát từ lợi ích
15


của việc mua, bán hàng hóa, sản phẩm tập trung với số lượng lớn sẽ có giá thành
tốt hơn là mua, bán riêng lẻ trực tiếp giữa các xã viên với các nhà cung cấp hoặc
tiêu thụ dịch vụ, hàng hóa.
Mặt khác, các xã viên vẫn giữ được sự độc lập về mặt kinh tế đối với các xã
viên khác và với hợp tác xã. Các xã viên hợp tác xã, trên thực tế, đã không hợp
nhất mọi hoạt động kinh tế của họ vào tổ chức hợp tác xã, cho dù lợi ích của việc
mua chung, bán chung rất rõ ràng. Như vậy, các xã viên phải có những lợi ích nào
đó lớn hơn khi lựa chọn phương thức không hợp nhất mọi hoạt động kinh tế của
họ vào hoạt động của hợp tác xã.

Về cơ bản, ngày nay xã viên vào hợp tác xã nông nghiệp, ruộng đất nhà ai
vẫn của nhà ấy. Xã viên chỉ góp vốn để mua sắm một số tài sản chung cần thiết
để làm dịch vụ cho chính mình mà một hộ không làm được hoặc làm kém hiệu
quả. Thay vì chủ yếu làm dịch vụ cho người khác như các hợp tác xã dịch vụ,
thậm chí 95% các hợp tác xã chuyển đổi, thì xã viên không góp vốn thêm mà chỉ
tiếp tục khai thác các hệ thống thủy lợi và cơ sở vật chất đã có từ trước. Do vậy,
đa số các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay có rất ít vốn, bình quân chỉ có 816
triệu đồng. Trong đó 31% là vốn lưu động và thực tế 80% hợp tác xã đang làm
dịch vụ thủy lợi, 30% làm dịch vụ cung ứng vật tư, 97% làm dịch vụ chuyển giao
tiến bộ kỹ thuật, 20% làm dịch vụ làm đất.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát, phát biểu tại
phiên thảo luận của Quốc hội về dự án Luật Hợp tác xã, tháng 6/2012.

16


5. Khi nào thì phương thức hợp tác hợp tác xã được sử dụng?
Từ những nhận xét ở phần trên có thể thấy tính chất của tổ chức hợp tác xã
được xác định bởi hai yếu tố lợi ích có mối liên hệ tác động qua lại là yếu tố lợi
ích của việc cùng mua chung, bán chung và yếu tố lợi ích của hoạt động kinh tế
độc lập. Mối tương quan giữa hai lợi ích sẽ quyết định đến việc các xã viên có lựa
chọn mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của hợp tác xã hay là lựa chọn
các phương thức hợp tác kinh doanh khác. Nếu như có sự mất cân đối giữa hai loại
lợi ích này thì rất khó để các xã viên lựa chọn hình thức hợp tác xã. Thật vậy, khi
lợi ích của việc hợp tác tăng cao, vượt xa lợi ích của hoạt động kinh tế cá nhân và
đủ bù đắp cho chi phí cơ hội khi từ bỏ hoạt động kinh tế riêng lẻ thì các xã viên sẽ
lựa chọn mô hình tổ chức doanh nghiệp đối vốn và những xã viên sẽ trở thành cổ
đông hoặc người làm thuê trong doanh nghiệp đó, bởi vì đây mới là phương thức
hợp tác chặt chẽ và mang lại hiệu quả cao nhất trong các phương thức hợp tác.
Nếu lợi ích của hoạt động kinh tế độc lập tăng cao, các xã viên sẽ không có nhu

cầu hợp tác vì phương thức hợp tác không đem lại cho họ nhiều lợi ích hơn là hoạt
động kinh tế riêng lẻ thì các xã viên sẽ hoạt động với tư cách là những chủ thể độc
lập chứ không tham gia vào hợp tác xã. Ngược lại, nếu như có sự cân đối lợi ích
giữa việc hợp tác và hoạt động kinh tế riêng lẻ, có nghĩa là khi xã viên nhận thấy
cần thiết phải giữ hoạt động kinh tế cá nhân, nhưng việc hợp tác với nhau thông
qua mô hình hợp tác xã sẽ giúp hoạt động kinh tế cá nhân của họ tối đa hóa được
lợi ích thì đó sẽ là động lực thúc đẩy các xã viên tham gia vào hợp tác xã.
Do đó, xét ở góc độ kinh tế học, khi lựa chọn phương thức tổ chức kinh
doanh, cho dù đó là hoạt động kinh doanh lớn, quy mô rộng hay chỉ là hoạt động
kinh doanh nhỏ lẻ hoặc trồng trọt, chăn nuôi ở quy mô gia đình, cá nhân thì rõ
ràng mối tương quan lợi ích giữa hợp tác và làm ăn riêng lẻ đóng vai trò quan
trọng. Ví dụ, đối với những hoạt động kinh doanh như kinh doanh tiền tệ, bảo
hiểm thì phương thức kinh doanh riêng lẻ không thể cạnh tranh được với phương
thức hợp tác thành lập một chủ thể pháp nhân là trung gian đứng ra thực hiện thay
cho các nhà đầu tư, vì các cá nhân bị hạn chế bởi năng lực tài chính, quản trị, uy
tín, phạm vi hoạt động… Ngược lại, đối với những hoạt động kinh doanh trong
các lĩnh vực như nông nghiệp, với đặc điểm quan hệ sản xuất còn ở mức độ thấp,
hộ gia đình là chủ thể tham gia chủ đạo trong hoạt động sản xuất nông nghiệp thì
mô hình hợp tác hợp tác xã lại tỏ ra có ưu thế hơn. Bởi vì các cá nhân, hộ gia đình
17


hoạt động sản xuất nông nghiệp không thể chỉ dựa vào họ để thực hiện hoạt động
sản xuất, mà còn phụ thuộc vào những yếu tố như giống, thủy lợi, phòng chống
thiên tai, dịch bệnh, tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là những nhu cầu chung mà
những cá nhân, hộ nông dân cùng sản xuất nông nghiệp trong một phạm vi địa
giới nhất định đều cần và vì lý do đó, họ cần đến hợp tác xã. Như vậy, có thể thấy
rằng mô hình hợp tác hợp tác xã chỉ thích hợp với một số ngành nghề nhất định và
trong một phạm vi lãnh thổ nhất định mà thôi.
6. Tính chất doanh nghiệp trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã

Bên cạnh tính chất là một hiệp hội không lấy lợi nhuận làm mục tiêu chủ
yếu, mà nhằm mục tiêu cao nhất là đem lại lợi ích cho thành viên, từ đó giúp thành
viên tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao sức cạnh tranh đối với hoạt động kinh tế, hoặc
tăng thu nhập, tạo việc làm, cải thiện đời sống cho chính mình thì tổ chức và hoạt
động của hợp tác xã vẫn mang những đặc điểm của một doanh nghiệp. Đó là:
- Có sự góp vốn để tạo nên tài sản của hợp tác xã. Việc thực hiện góp vốn là
nguyên tắc cơ bản đòi hỏi mọi xã viên phải thực hiện, bao gồm cả những chủ thể
có nhu cầu gia nhập hợp tác xã.
- Các xã viên cùng nhau chia sẻ rủi ro và cùng hưởng lợi ích có được từ kết
quả hoạt động của hợp tác xã. Trong mối quan hệ giữa xã viên với hợp tác xã, xã
viên vừa là đồng chủ sở hữu hợp tác xã, vừa là khách hàng và là người sử dụng
cuối cùng sản phẩm và dịch vụ của hợp tác xã. Mọi xã viên cùng nhau tham gia
vào việc quản trị hoạt động của hợp tác xã và nếu hoạt động của hợp tác xã có hiệu
quả, tạo ra giá trị thặng dư thì các xã viên sẽ cùng được chia sẻ phần giá trị thặng
dư này trên nguyên tắc tỷ lệ sử dụng dịch vụ do hợp tác xã cung cấp. Trong trường
hợp ngược lại, nếu hoạt động của hợp tác xã không có hiệu quả, dẫn đến mất vốn
thì các xã viên sẽ không được hưởng thặng dư trong việc sử dụng dịch vụ của hợp
tác xã, thậm chí là mất phần vốn góp.
- Trong quan hệ giữa hợp tác xã với các đối tác bên ngoài, hợp tác xã là một
chủ thể kinh doanh có các quyền và nghĩa vụ bình đẳng giống như mọi loại hình
doanh nghiệp khác. Hợp tác xã được quyền thực hiện các hoạt động kinh doanh
trong các lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm; có tài sản riêng và tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính mình; có nguy cơ bị Tòa án tuyên bố phá
sản nếu như không thanh toán được nợ đến hạn.
18


7. Phân biệt HTX với các loại hình doanh nghiệp
Như vậy, doanh nghiệp, giống như hợp tác xã, về bản chất cũng là một
phương thức liên minh của những cá nhân nhằm mục đích thực hiện những mục

tiêu kinh doanh cụ thể. Tuy nhiên, những loại hình doanh nghiệp điển hình được
tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc đối vốn. 1 Ngược lại, nguyên tắc hoạt động cơ
bản của hợp tác xã là đối nhân, quyền lực và lợi ích của các thành viên không phụ
thuộc vào mức độ góp vốn mà vào mức độ tham gia sử dụng dịch vụ của hợp tác
xã.
Nguyên tắc biểu quyết công bằng, mỗi xã viên một phiếu biểu quyết ngang
nhau không phụ thuộc vào mức độ góp vốn của xã viên là một nguyên tắc đặc thù
riêng có trong mô hình tổ chức kinh tế hợp tác xã. Nguyên tắc này đảm bảo quyền
điều hành hợp tác xã được phân chia đều cho mọi xã viên, kể cả các xã viên yếu
thế về kinh tế cũng có tiếng nói ngang bằng với những xã viên khác có điều kiện
kinh tế tốt hơn. Và như vậy, quyền điều hành hợp tác xã sẽ không bị rơi vào tay
một hoặc một nhóm xã viên có khả năng tài chính có thể hướng hoạt động của hợp
tác xã đi ngược lại lợi ích của các xã viên yếu thế khác.
Có quan điểm cho rằng, HTX là nơi thực hiện chính sách xã hội, ví dụ như
khi nói HTX của người lao động, khi có đóng góp một chút vốn, có nhu cầu việc
làm là HTX bắt buộc phải nhận, cho dù người đó không có đủ điều kiện sức khỏe
hay khả năng lao động tốt. Chúng tôi cho rằng, quan niệm như vậy về HTX kiểu
mới là chưa chính xác. Mô hình hợp tác xã thực chất là một công cụ để xã viên
phát triển kinh tế của bản thân xã viên mà thôi, thông qua hoạt động mua chung,
bán chung để tận dụng lợi thế của người bán hàng/người mua hàng với số lượng
lớn. Trong quan hệ giữa xã viên và hợp tác xã, lợi ích của hoạt động sản xuất, kinh
doanh hay tiêu dùng của xã viên mới là lợi ích được đặt lên hàng đầu, trên cơ sở
đó, xã viên thông qua hoạt động mang tính kinh doanh dịch vụ của hợp tác xã để
tối đa hóa lợi nhuận của hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng của mình.
Khác với các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại theo quy định của Luật
doanh nghiệp, tuy đều được coi là pháp nhân có địa vị pháp lý độc lập so với các
thành viên đã tạo ra nó, nhưng giữa doanh nghiệp và hợp tác xã lại có điểm rất
khác biệt về lợi ích. Doanh nghiệp có lợi ích độc lập của nó so với lợi ích của các
1


Luật Doanh nghiệp có quy định về công ty hợp danh, là loại hình doanh nghiệp hoạt động trên nguyên tắc đối
nhân. Tuy nhiên, trên thực tế mô hình liên minh này không thực sự phát triển ở Việt Nam.

19


thành viên góp vốn. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có một mục tiêu đầu tiên
và tiên quyết là tạo ra lợi ích cho bản thân doanh nghiệp chứ không phải là lợi ích
của các thành viên. Lợi ích của các thành viên góp vốn chỉ được thể hiện gián tiếp
thông qua việc phân chia lợi nhuận do kết quả sản xuất kinh doanh tốt của doanh
nghiệp hoặc do tăng giá trị của phần vốn góp trên thị trường chuyển nhượng.
Trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp, các
cá nhân tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp không được phép đặt lợi ích của
các thành viên góp vốn lên trên lợi ích của doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp được
lập nên nhằm mục đích giao dịch với các đối tác không phải là các thành viên đã
góp vốn lập ra doanh nghiệp để có thể đạt được mục đích tối đa hóa lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Trong trường hợp có giao dịch giữa doanh nghiệp và các thành viên
góp vốn vào doanh nghiệp thì vẫn phải bảo đảm nguyên tắc của thị trường, có
nghĩa là thành viên góp vốn vào doanh nghiệp không được phép có sự ưu tiên hơn,
lợi ích nhiều hơn so với các đối tác bình thường khác của công ty. Thậm chí, mọi
giao dịch giữa doanh nghiệp với thành viên góp vốn của doanh nghiệp và những
người có liên quan của thành viên góp vốn đều được đặt dưới sự kiểm soát chặt
chẽ hơn nhiều so với các giao dịch tương tự của doanh nghiệp với đối tác thông
thường theo nguyên tắc kiểm soát giao dịch tư lợi được quy định trong Luật doanh
nghiệp.
Trong khi đó, chúng ta có thể thấy một điều trái ngược hẳn trong quan hệ
giao dịch giữa hợp tác xã với các xã viên. Có thể nói rằng, hợp tác xã được các xã
viên tạo ra để thực hiện hoạt động kinh doanh như một cánh tay nối dài của hoạt
động sản xuất, kinh doanh hay tiêu dùng của các xã viên, là công cụ của xã viên
trong việc hạn chế chi phí bỏ ra hoặc gia tăng giá trị nhận được. Xuất phát từ

nguyên lý đó, các giao dịch giữa hợp tác xã và những người góp vốn thành lập ra
nó chiếm tỷ trọng chủ yếu trong các hoạt động của hợp tác xã, bởi vì đây chính là
lý do để hợp tác xã được thành lập.
Một điểm khác biệt căn bản nữa giữa hợp tác xã và doanh nghiệp, đó là hợp
tác xã không có lợi ích riêng, độc lập với lợi ích của các xã viên. Trong mọi hoạt
động, hợp tác xã đều có một mục tiêu đầu tiên và tiên quyết là tạo ra lợi ích cho
các xã viên chứ không phải là lợi ích của chính hợp tác xã. Do đó, lợi ích của các
xã viên được thể hiện trực tiếp thông qua việc giao dịch với hợp tác xã, hưởng các
ưu đãi về chi phí, giá mua, giá bán hay các lợi ích khác tốt hơn những đối tác
20


không phải là xã viên khi thực hiện các giao dịch tương tự với hợp tác xã. Chính vì
trách nhiệm cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho xã viên với chi phí phi thị trường nên
lợi nhuận tích lũy được của hợp tác xã thường là không đáng kể. Do đó, pháp luật
của nhiều nước trên thế giới không đánh thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hợp
tác xã mà chỉ đánh thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập của các xã viên.
HTX cũng là một loại hình doanh nghiệp
Theo thông lệ quốc tế, các nước đều coi và thừa nhận HTX là Doanh
nghiệp. Định nghĩa của ICA cũng coi HTX là doanh nghiệp chung của các cá nhân
có cùng nhu cầu, mục đích tự nguyện thành lập.
Luật HTX hiện hành của Việt Nam xác định HTX hoạt động như doanh
nghiệp, bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Thực tế hiện nay các HTX
hoạt động kinh doanh tốt, hiệu quả cũng đều đang hoạt động như các loại hình
doanh nghiệp khác. Những người lãnh đạo HTX giỏi đều là những người tâm
huyết, có đầu óc kinh doanh giỏi được tôn vinh, khen thưởng là các doanh nhân
tiêu biểu, doanh nhân thành đạt. Xã viên là các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
kinh doanh, tự nguyện thành lập HTX để kinh doanh thì HTX cũng phải là doanh
nghiệp đặc thù và bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Ngoài các điểm đặc trưng nêu trên của HTX giữa HTX và các doanh nghiệp

nói chung có rất nhiều điểm tương đồng, giống nhau. Chúng ta có thể nhận thấy ở
Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2005:
“1. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
2. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật và cả trên thực tế, HTX có đủ mọi
tiêu chí khác mà một doanh nghiệp bất kỳ (cổ phần, TNHH,...) cần có:


Có vốn điều lệ, có đăng ký kinh doanh,



Phải đóng thuế môn bài,



Có phương án kinh doanh hiệu quả,
21




Có bộ máy kinh doanh, tổ chức kinh doanh,


Phải cạnh tranh trên thị trường, nghiên cứu thị trường,

marketing, xúc tiến thương mại, bán hàng,…


Có hệ thống hạch toán, kế toán kinh doanh,



Phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp,



Được phân phối lợi nhuận, được chia lãi/ chia cổ tức,


Chịu trách nhiệm khi thua lỗ trong phạm vi vốn góp, phá sản
theo cùng một Luật Phá sản Việt Nam,

Được góp vốn, thành lập công ty/doanh nghiệp trực thuộc để
kinh doanh trên thị trường


……..

Tại sao HTX cũng là doanh nghiệp?
Wed,28/03/2012 - 10:29:30 PM
Ngày 26/3, tại buổi tọa đàm “Đóng góp ý kiến cho Luật HTX sửa đổi”
do Ủy ban kinh tế Quốc hội khóa 13 và Viện Friedrich Ebert tổ chức,
các đại biểu đã nghe và trao đổi với những quan điểm, ý kiến và kinh
nghiệm do các chuyên gia HTX của CHLB Đức trình bày. Thời báo
Kinh Doanh giới thiệu ý kiến trao đổi của ông Christian Albrecht,

chuyên gia Liên đoàn HTX CHLB Đức tại Việt Nam.
Doanh nghiệp (DN) được hiểu là một hình thức pháp lý của đơn vị kinh
doanh (hình thức tổ chức, đơn vị kinh tế, hoạt động kinh doanh). Các tính
chất của một DN là: hướng tới lợi nhuận; hoạt động trên thị trường; thực
hiện các quy trình chuyển đổi (đầu vào/đầu ra - Input/Output); thuộc vào
một ngành nào đó; mang tính rủi ro (rủi ro kinh doanh); là một hệ thống
khép kín gồm xác định mục tiêu - phân tích - quyết định.
Tất cả những tiêu chí nêu trên đều có ở HTX. Tuy nhiên, HTX còn có đặc
thù được bổ sung là nhiệm vụ hỗ trợ thành viên, không tối đa hóa lợi nhuận
22


và nguyên tắc “một thành viên, một lá phiếu, không phụ thuộc vào vốn góp”.
Quyền bỏ phiếu đặc biệt theo hình thức đối nhân này nhằm bảo đảm nhiệm
vụ hỗ trợ thành viên được thực hiện. Thành viên được quan tâm và đồng thời
tự hỗ trợ nhau và do đó họ chọn hình thức DN của HTX để có thể cạnh tranh
với những người tham gia thị trường khác trong hệ thống kinh tế thị trường.
Theo quy định hiện hành cũng như thực tế cho thấy, có rất nhiều điểm chung
giống nhau giữa HTX và các DN khác như: phải đăng ký kinh doanh (giấy
đăng ký kinh doanh, giấy phép kinh doanh); phải đóng thuế theo quy định
bao gồm thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng và cả thuế thu nhập DN; HTX
cũng như các DN khác phải thực hiện đủ tất cả những luật và quy định của
các cơ quan chuyên ngành và bộ chuyên ngành; phải có vốn điều lệ do người
sở hữu góp vốn (là thành viên); HTX phải đáp ứng các yêu cầu về vốn điều
lệ và trích quỹ dự phòng cho tương lai. Cả HTX và DN khác đều cần đến lợi
nhuận để có thể bảo đảm về mặt tài chính cho sự tồn tại.
Mặt khác, nhìn từ góc độ quản lý, điều hành cho thấy: quản lý HTX cũng
như mọi DN khác cần những người có đầu óc kinh doanh và công cụ kinh
doanh cần thiết như chiến lược và mục tiêu kinh doanh, kế hoạch kinh
doanh, nghiên cứu thị trường tốt, Marketing, định hướng thị trường và định

hướng khách hàng. Về mặt tổ chức HTX cũng như các DN khác, cần điều lệ
và các cơ quan, bộ máy giống nhau theo luật định (ban quản trị, ban kiểm
soát, ban giám đốc, đại hội xã viên), cả hai đều cần một bộ máy tổ chức kinh
doanh cần thiết như nhau (mua hàng, bán hàng, sản xuất, sự phân chia, thẩm
quyền).
HTX cũng như DN khác chịu sự giám sát của Nhà nước. Họ cần một hệ
thống quản lý nội bộ và điều hành kinh doanh đúng quy định, phải đáp ứng
những yêu cầu về kế toán, báo cáo tài chính và hạch toán kế toán. Cán bộ
quản lý điều hành và cán bộ kế toán của HTX cũng như DN khác cần có
những kiến thức theo yêu cầu và kiến thức chuyên môn.
Cũng như DN khác, HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tự đưa ra những
quyết định cho việc kinh doanh của mình. Họ có thể tự xác định đối tác, hoạt
động kinh doanh của mình và có thể tham gia góp vốn vào công ty khác
cũng như tự thành lập DN. HTX cũng như DN phân chia lợi nhuận theo
23


nguyên tắc nhất định. Cơ sở để phân chia lợi nhuận là theo vốn điều lệ.
Cuối cùng, các chủ sở hữu của HTX cũng như chủ sở hữu của các DN khác
phải chịu rủi ro về tài chính trên cơ sở cổ phần họ đóng góp. Và HTX cũng
như các DN khác đều hoạt động theo cùng chung một luật phá sản (Điều 1,
Luật Phá sản Việt Nam 2004).
Tóm lại, giữa HTX và DN khác có nhiều điểm giống nhau hơn là điểm khác
nhau. HTX phải được thừa nhận một cách đầy đủ là DN có đặc thù riêng, vì
HTX cũng phải đối mặt với những điều kiện kinh tế thị trường như một DN
chung định hướng kinh doanh để có thể đáp ứng nhu cầu kinh tế của thành
viên.
Về cơ bản, mô hình HTX và Luật HTX phải có sự hấp dẫn và khuyến khích
thành viên sẵn sàng đầu tư vào HTX. Hình thức pháp lý của HTX cũng phải
hấp dẫn thế hệ trẻ của một đất nước (thế hệ mai sau). Nhà bác học Albert

Einstein đã nói: “Tôi phải đặt mình vào tương lai, bởi vì tôi muốn sống ở
đó”. HTX kết nối thành viên với thị trường, tạo ra khả năng tiếp cận thị
trường. HTX là đối tác thương mại của thành viên - HTX có triển vọng
tương lai tốt đẹp.
Nguồn: Tham luận của Ông Christian Albrecht, chuyên gia Liên đoàn
HTX CHLB Đức

8. Hợp tác xã theo quy định của dự thảo Luật hợp tác xã (sửa đổi)
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng hợp tác xã là một mô hình tổ
chức kinh tế mang tính chất lưỡng tính, vừa là tổ chức mang tính cộng đồng trợ
giúp lẫn nhau giữa các thành viên không vì mục tiêu lợi nhuận, lại vừa là một
doanh nghiệp có các quyền, nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh giống như các
loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Do đó, tranh luận về
việc hợp tác xã có phải là một loại hình doanh nghiệp trong quá trình xây dựng
Luật Hợp tác xã sẽ có câu trả lời mang tính mở.
Để trả lời, cần xem xét quan hệ cụ thể mà hợp tác xã đó tham gia. Nếu xét
trong quan hệ với các xã viên thì Hợp tác xã sẽ thể hiện bộ mặt của một hiệp hội,
một tổ chức mang tính xã hội hoạt động phi lợi nhuận cho tổ chức đó, nhưng vẫn
24


mang lại lợi nhuận cho các thành viên. Còn trong quan hệ giữa hợp tác xã với các
đối tác thương mại của nó thì chắc chắn phải coi hợp tác xã cũng là một loại hình
doanh nghiệp như các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Do đó,
nếu định nghĩa hợp tác xã như quy định trong dự thảo Luật Hợp tác xã do Chính
phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII, tại Điều 4, như sau:
“Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân, tự chủ và bình đẳng với
các loại hình doanh nghiệp, được quản lý dân chủ, do ít nhất 07 thành viên tự
nguyện thành lập theo quy định của Luật này, hợp tác giúp đỡ nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu chung của các thành viên”. Với định nghĩa này, thì rõ ràng chưa xác định

rõ bản chất của hợp tác xã hoạt động như một doanh nghiệp trong mối quan hệ ra
bên ngoài, đồng thời cũng không phù hợp với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
(khóa IX) về kinh tế tập thể, trong đó xác định rõ: "Hợp tác xã là loại hình doanh
nghiệp được vay vốn bình đẳng như doanh nghiệp hoặc các thành phần kinh tế
khác".
… trong dự thảo Luật không quy định hợp tác xã là doanh nghiệp hay hợp tác xã
hoạt động như một loại hình doanh nghiệp. Nhưng một số qui định như dự thảo
đã toát lên bản chất hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp. Dự
thảo Luật vừa né tránh hợp tác xã là doanh nghiệp, nhưng nếu qui định như các
điều khoản trên và nội dung trong Luật thì vô hình chung lại công nhận hợp tác
xã là doanh nghiệp. Đây là vấn đề cần được làm rõ một khi chúng ta xác định
đúng bản chất của hợp tác xã thì các nội dung khác xuyên suốt của dự thảo Luật
mới toát lên được, và như vậy mới đáp ứng được mục tiêu, quan điểm sửa đổi
Luật hợp tác xã.
Đại biểu Hồ Thị Thủy, phát biểu tại phiên thảo luận của Quốc hội về dự án
Luật Hợp tác xã, tháng 6/2012.
Do vậy, phương thức hợp tác hợp tác xã, về bản chất, là một loại hình
doanh nghiệp chưa được quy định trong Luật doanh nghiệp hiện hành. Đây
là điều có thể hiểu được, vì Luật doanh nghiệp của Việt Nam hiện vẫn chưa
quy định một số loại hình doanh nghiệp đã tồn tại trên thế giới. Việc dự thảo
Luật hợp tác xã không thừa nhận hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp
chỉ căn cứ vào những điểm khác biệt giữa hợp tác xã với các loại hình doanh
nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp hiện hành là chưa thực sự phù
hợp với bản chất của hợp tác xã. Dự thảo Luật hợp tác xã nên quy định theo
25


×