Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 44 trang )

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU HIẾN PHÁP
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ( nay
là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ) đến nay, nước ta có mấy bản
Hiến pháp ? các bản Hiến pháp đó được Quốc Hội thông qua vào ngày, tháng,
năm nào ?
Trả lời
Tính từ thời điểm nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nay là nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ) được thành lập đến nay , nước ta đã có 5 bản Hiến
pháp được Quốc Hội thông qua . Các bản hiến pháp đó là :
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta : Cách mạng tháng
tám năm 1945 thành công, ngay sau khi đọc bản
tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tại
phiên
họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời , chủ tịch Hồ Chí
Minh
đã đặt vấn đề về sự cần thiết là phải có một bản Hiến
pháp
cho Nhà nước Việt Nam . Hiến pháp nước Việt Nam
Dân
Chủ Cộng Hòa được Quốc Hội khóa I, chính thức
thông
qua vào ngày 9/11/1946, tại Kỳ họp thứ 2.
Bản Hiến pháp thứ hai được Quốc Hội ban hành là bản
Hiến
pháp
năm 1959: Nam 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ ;
nước ta tạm
thời bị chia cách làm hai miền , miền Bắc được hoàn
toàn


giải
Bản
Hiến
pháp
nước
Việt
Nam
Dân
phóng và từng bước đi lên xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, còn miền Nam đặt dưới
Cộng Hòa năm 1946
tầm kiểm soát của Mỹ - Ngụy . Vào ngày 31/12/1959, bản dự thảo Hiến pháp đã
được Quốc Hội khóa I thông qua tại Kỳ họp thứ 11 . Đồng thời , chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký lệnh công bố Hiến pháp năm 1959 vào ngày 01/01/1960.
Bản Hiến Pháp thứ ba, đó là bản Hiến pháp năm 1980: Cuộc Tổng tuyển cử bầu
Hiến pháp năm 1959
ra Quốc Hội chung cho cả nước đã thành công rực rỡ vào ngày 25/4/1976. Kỳ họp
đầu tiên của Quốc Hội khóa VI quyết định đổi tên nước thành nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 được Quốc Hội khóa VI Kỳ họp
thứ 7 thông qua ngày 18/12/1980, bản Hiến pháp đã thể hiên được một Tuyên ngôn


của Nhà nước chuyên chính vô sản dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến
pháp của một thời kì xây dựng Chủ Nghĩa Xã
Hội trên phạm vi cả nước.
Bản Hiến pháp thứ tư, đó là bản Hiến pháp
năm
1992:
Sau một
thập kỷ

được
ban
hành ,
Hiến pháp năm 1980
Hiến
pháp đã trở nên không phù hợp với tình hình
Hiến pháp năm 1992
của thế giới, cùng với đó là những chủ trương
đổi mới kinh tế của Đảng. Bởi lẽ đó mà tại kỳ họp thứ 11 ,Quốc hội khóa VII đã
thông qua bản Hiến pháp năm 1992 vào ngày 15/4/1992. Vào ngày 25/12/2001, tại
kỳ họp thứ 11, Quốc Hội khóa X đã chính thức thông qua nghi quyết số
51/2001/QH10 sửa đổi , bổ sung 23 Điều của Hiến pháp 1992.
Bản Hiến pháp hiên Tại mới được ban hành là bản
Vào ngày 28/11/2013, Quốc Hội khóa XIII, Kỳ họp
qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Nam được thay thế cho bản Hiến
pháp năm 1992 ( được sửa đổi, bổ
sung năm 2001).

Hiến pháp 2013 :
thứ 6 đã thông
Việt

Câu 2 : Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013
Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ
ngày, tháng, năm nào? So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm
2001) có bao nhiêu điều được giữ nguyên? Có bao nhiêu điều được sửa đổi, bổ
sung? Điều sửa đổi, bổ sung nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?
Trả lời



Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày 01/01/2014.
So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) , Hiến pháp
2013 được giữ nguyên 7 Điều, bổ sung 12 Điều mới và sửa đổi 101 Điều. Cùng với
đó, Hiến pháp 2013 có bố cục 11 chương, 120 Điều giảm được 1 chương và 27
Điều so với Hiến pháp 1992.


Đối với Hiến pháp 2013, có bố cục gọn thể hiện được ý trong cách lý luận, kỹ
thuật lập hiến chặt chẽ , đáp ứng được yêu cầu của một đạo luật cơ bản, thể hiện
được tính ổn định lâu dài. có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến;
bố cục hợp lý, chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng
tầm là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài; phản
ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và
đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước,
về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Điều làm cho tôi tâm đắc nhất thể hiện
rõ ở Điều 3 đã được sửa đổi bổ sung trong Hiến pháp 2013, với Hiến pháp 1992
nội dung cho rằng:”Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy về mọi mặt của
nhân dân, thực hiện tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” ;
còn trong Hiến pháp 2013 tại Điều 3 thì cho rằng:” Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ; công nhận , tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh , mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện

phát triển toàn diện”. Đây được xem như một điểm nhấn trong bản Hiến pháp
2013, đây là một điểm tiến bộ mới so với các bản Hiến pháp trước đó, theo đó thì
Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Qua Điều 3 của Hiến pháp 2013 , thể hiện rõ được quyền “dân chủ” , một Nhà
nước thật sự do nhân dân làm chủ , quyền con người được nâng lên rõ rệt, đó cũng


chính là lòng mong mỏi của toàn dân và tự hào về bản Hiến pháp:

Để có tính ổn định lâu dài thì Hiến pháp phải
thể hiện ý chí, nguyện vọng của người dân.

Quyền con người được năng lên rõ rệt qua bản Hiến pháp năm 2013.

Hiến pháp 2013 đã đặt quyền con người, quyền công dân lên vị trí thứ hai, sau chế
độ chính trị và đây không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về mặt cơ học mà là sự nhận
thức về dân chủ, về trách nhiệm của Hiến pháp, của cả hệ thống chính trị, nhất là
của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân.


Câu 3: Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân…”. Bạn hãy nêu và phân tích ngắn gọn các quy định của Hiến pháp
năm 2013 về những cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Trả lời:
Tại khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định” Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà

nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân qua bản Hiến pháp năm 2013.
thức”.
Tại khoản 2 Điều 4 quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
Nhân dân, phục vụ Nhân dân,chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân về những quyết định của mình ”.


Điều 14 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật ( tại khoản 1 ) .
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (tại khoản 2) ” .

Người dân hăng hái tham gia hoạt đông về văn hóa, chính trị…

Tại Điều 53 thì quy định “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà
nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý ”.
Tại Điều 65 quy định “Lực lượng vũ
trang nhân dân tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và
Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân
dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất
nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.


Bộ đội với người dân


Tại điều 69 quy định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp thông qua cơ quan Quốc hội.

Tại Điều 6 thì quy định đa dạng hơn về thực hiện quyền lực của nhân dân so với
Hiến pháp 1992, đặc biệt hơn nó thể hiện rõ về quyền lực Nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp , sâu sắc hơn nữa là vai trò làm chủ của nhân dân “Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
Bên cạnh đó thì công dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp
được quy định như sau :
Thứ nhất, ở Điều 27
quy định “Công dân
đủ mười tám tuổi trở
lên có quyền bầu cử
và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên có quyền
ứng cử vào Quốc hội,
Hội đồng nhân dân.
Việc thực hiện các
quyền này do luật
định”.Đó là cách thức
Cách thức bầu cử vào Quốc Hội, hội đồng nhân dân.

thực hiện quyền bầu cử vào Quốc Hội, hội đồng nhân dân.
Thứ hai, thực hiện tham gia ý kiến đối với Dự thảo Hiến pháp, về việc thành lập,
giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính: “ Việc thành lập, giải thể, nhập,
chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và


theo trình tự, thủ tục do luật định” ( quy định
tại khoản 2, Điều 110 ). “Ủy ban dự thảo Hiến
pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và
trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp” ( được quy
định tại khoản 3, Điều 120).

Lấy ý kiến Nhân dân

Thứ ba, Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả
nước (được quy định tại khoản 1, Điều 28).
Thứ tư là tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân: “Công dân
đủ mười tám tuổi trở lên có
quyền biểu quyết khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu ý
dân”(quy định tại Điều 29) ;
“Quyết định trưng cầu ý
dân” ( quy định tại khoản
15, Điều 70); “Tổ chức
trưng cầu ý dân theo quyết
định của Quốc hội”( quy
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trực tiếp làm việc với dân
định tại khoản 13, Điều 74);” Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp

do Quốc hội quyết định” ( được quy định tại khoản 4, Điều 120).
Ngoài ra, Công dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ đại diện,được
thể hiện như sau:
Thứ nhất , ở Điều 6 quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” .
Thứ hai , thông qua hoạt động của đại biểu Quốc Hội, đại biểu hội đồng nhân
dân. Tại Điều 79 ( khoản 1 và 2) quy định “Đại biểu Quốc hội là người đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả
nước. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu
thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ
quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt
động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi,
đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo”. Tại khoản 1, Điều 115 quy định “Đại biểu Hội đồng nhân
dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ
chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo
với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu,


kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu
Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ
vận động Nhân dân thực hiện Hiến
pháp và pháp luật, chính sách của
Nhà nước, nghị quyết của Hội
đồng nhân dân, động viên Nhân
dân tham gia quản lý nhà nước”.
Thứ ba, thông qua vai trò của

Những Đại biểu Quốc hội của dân, do dân và vì dân.


Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, nó được
quy định tại khoản 1 Điều 9: “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân
tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
Đại hội khóa VIII của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam
tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thứ tư, thông qua Vai trò của Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu
chiến binh Việt Nam; được quy định tại khoản 2 Điều 9: Công đoàn Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được
thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của
Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thông qua vai trò của công đoàn Việt Nam, thì được quy định tại Điều 10 đó là
“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động,



chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động;
tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về
những vấn đề liên quan đến quyền,
nghĩa vụ của người lao động; tuyên
truyền, vận động người lao động học
tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”.
Câu 4: Những quy định nào của
Hoạt động của Công đoàn khẳng định
Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc?
Trả lời
Thứ nhất , việc quy định tư tưởng đại đoàn kết trong bản Hiến pháp :


Đại đoàn kết dân tộc thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước, đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội. Hay nói theo cách khác , đó chính là tư tưởng xây dựng, củng
cố, mở rộng lực lượng cách
mạng trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân

tộc là một trong những nhân tố
quan trọng nhất đảm bảo thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Với cương vị là lãnh tụ tối cao
của Đảng, người đứng đầu Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa 24 năm liền, Người đã tập
hợp, quy tụ được các dân tộc,
Khối Đại đoàn kết các dân tộc
các giai cấp, tầng lớp, đảng phái,
tôn giáo, nhân sỹ trí thức yêu nước, đồng bào trong nước cũng như kiều bào ở
nước ngoài, xây dựng khối đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng, từ
cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng XHCN. Người đã trở thành linh hồn
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng rộng rãi và bền vững. Đại đoàn kết
dân tộc rõ ràng đã trở thành một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng cũng như
trong hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong những cống hiến to lớn
của Người đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý
luận và thực tiễn to lớn.
V ai trò và ý nghĩa của Đại đoàn kết dân tộc: Đại đoàn kết dân tộc đã tập hợp và
phát huy sức mạnh toàn dân làm nên những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp
dựng nước, hội nhập quốc tế thì vấn đề đại đoàn kết toàn dân càng có ý nghĩa sâu
sắc.
Thứ hai, những quy định của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc được thể hiện như sau :
Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 2013 khẳng định truyền thống đoàn kết
của dân tộc Việt Nam “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao
động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc
nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây
dựng nên nền văn hiến Việt Nam”.



Ở trong Điều 5 của Hiến pháp 2013 thì lại quy định “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên
đất nước Việt Nam.Các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia
rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ
viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp
của mình. Nhà nước thực hiện chính sách
phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các
Sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát
giúp
nhau nhiều
cùng phát
triển
giữađồng
các
triển với đất nước”. Về mặt xã hội, cần khẳng địnhđỡtrong
năm
qua,
dân tộc.
bào các dân tộc thiểu số luôn được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị, quản
lý xã hội, quản lý nhà nước. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia chính quyền
các cấp ở các địa phương, đại diện và phát biểu cho quyền lợi của dân tộc mình
và cả các dân tộc thiểu số anh em ngày càng tăng. Những chương trình phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng núi, ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đã góp

phần cải thiện nhiều mặt đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc
thiểu số tại đây. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng có đông người dân tộc thiểu số đã giảm từ
32,6% năm 2009 xuống còn 24,3% năm 2012. Cơ sở hạ tầng ở các vùng này cũng
đã có sự cải thiện rõ rệt: 98,6% số xã miền núi đã có đường ô-tô đến trung tâm;
99,8% số xã và 95,5% số thôn được sử dụng điện sinh hoạt. Năm 2011, Chính
phủ đã phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam
đến năm 2020. Người dân tộc thiểu số ở tất cả các vùng miền được tạo điều kiện
tham gia các hoạt động văn hóa mang bản sắc dân tộc mình. Năm 2012, 100% số
xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở,
tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc giáo dục tiểu học bình quân cả nước đạt gần 98%,
trong đó 95% số trẻ em dân tộc thiểu số được đến trường.
Tại khoản 1 Điều 9 quy định là “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội,
dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Với vị trí và thành phần của Mặt trận cho
thấy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò hết sức
quan trọng trong thực hiện kiểm soát một cách hệ thống thường xuyên và bằng


pháp luật đối với quyền lực nhà nước; là cơ sở để nhân dân giám sát và phản
biện; nhằm nâng cao hiệu lực giám sát và chất lượng hiệu quả phản biện của nhân
dân, vừa nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của nhân dân vừa tạo sự đồng
thuận cao trong xã hội,
trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.

Cũng ở trong khoản 2
Điều 9 quy định: “Công
đoàn Việt Nam, Hội nông
dân Việt Nam, Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Hội cựu chiến
binh Việt Nam là các tổ
chức chính trị - xã hội được
thành lập trên cơ sở tự
nguyện, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , sự phát huy sức mạnh đại
chính đáng của thành viên,
hội viên tổ chức mình;
cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.
Trong Điều 10 thì quy định: “Công đoàn Việt
Nam
là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và
của
người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện,
đại
diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi
ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia
quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm
tra,
thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ

chức,
đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận
động
người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng
nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
Ở trong điều 14 thì quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,


đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Thuật ngữ “quyền con người” tuy đã
được sử dụng trong Hiến pháp năm 1992, tuy nhiên chưa thể hiện đầy đủ và sâu
sắc quan niệm về chủ quyền Nhân dân.
Để mọi người, công dân thực hiện các
quyền của mình thì Hiến pháp quy định
trách nhiệm của Nhà nước trong việc
bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền công dân.
Tại Điều 42 quy định trong quyền
xác định dân tộc, ngôn ngữ được sử
dụng, đó là “Công dân có quyền xác
định dân tộc của mình, sử dụng ngôn
ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao
tiếp”. Tất cả các tỉnh, vùng có đông
người

dân
thiểu
sốcông
đềunhận,
có trường
trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường
Quyền
contộc
người
được
tôn trọng,
bảo
vệ,
bảo
đảm
theo
Hiến
pháp

pháp
luật
.
dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế,
tài chính, giáo dục, y tế. Từ năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82
quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số: Nghị định này
áp dụng cho người dạy tiếng dân tộc thiểu số và người dân tộc thiểu số học tiếng
dân tộc thiểu số đã có chữ viết ở các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo
dục thường xuyên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà nước tập trung đầu tư,
ưu tiên việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu đối với các dân tộc thiểu số ít người.
Tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc cũng được quy định trong lĩnh vực y tế, chăm

sóc sức khỏe cho nhân dân, đồng bào dân tộc
thiểu số, những
vùng đặc biệt gặp khó khăn về kinh tế - xã hội;
được quy định tại
khoản 1, Điều 58: “Nhà nước, xã hội đầu tư
phát
triển
sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân
dân, thực hiện bảo
hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm
sóc sức khoẻ cho
đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền
núi, hải đảo và
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn”. Mạng lưới
chăm sóc y tế cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số cũng phát
triển nhanh chóng: 99,39% số xã đã có trạm y
tế, 77,8% số xã
đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đến năm 2011, có
94,2% số thôn có
cán bộ y tế. Các dịch bệnh (đặc trưng điển
hình) ở vùng dân
tộc thiểu số như sốt rét, bướu cổ cơ bản đã
được khống chế
và đẩy lùi; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm đáng kể... Đồng bào các dân tộc
thiểu số được tiếp cận nhiều hơn các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đồng bào nghèo
được khám, chữa bệnh miễn phí.
Quan tâm, Chăm sóc sức khỏe

cho đồng bào dân tộc thiểu số.


Quy định trong lĩnh vực văn hóa: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại” (được quy định tại khoản 1, Điều 60) .

Đồng thời cũng được quy định trong lĩnh vực giáo dục( tại khoản 1, khoản 2
Điều 61): “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu
hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục;
chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo
dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không
thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục
trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học
bổng, học phí hợp lý.Nhà nước ưu tiên phát
triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiênNền
sử Giáo
dụng,
triển
nhân
tài;dân
tạo
dụcphát
đến với
Đồng
bào các
điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được

họcsố.văn hoá và học nghề”.
tộc thiểu
Bên cạnh đó nó cũng được quy định
trong vị trí, vai trò, chức năng, Nhiệm vụ
của Hội đồng dân tộc và Chủ tịch Hội đồng
dân tộc( được thể hiện rõ tại khoản 2 và 3
của Điều 75): “Hội đồng dân tộc nghiên
cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác
dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi
hành chính sách dân tộc, chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi
và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.Chủ tịch
Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên
họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện
chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định
thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ
phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc”.

Cuộc Thảo luận của Hội đồng dân tộc.


Sự đoàn kết, hợp tác giữa các dân tộc trong một quốc gia sẽ làm cho những
giá trị tinh hoa của các dân tộc hòa nhập vào nhau, bổ sung cho nhau làm phong
phú thêm giá trị chung của quốc gia – dân tộc. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là
quyền thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc dù đông người hay ít người,
có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không
có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất kì dân tộc
nào. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc
phục

chênh
trong
pháttộctriển
Sứcvề
mạnh
to lớnlệch
của khối
Đạitrình
đoàn độ
kết dân
làm kinh tế văn hóa giữa các dân tộc do
nên sử
chiến
Điện
Biên Phủ
dội trong quan
lịch sử.
lịch
đểthắng
lại có
ý nghĩa
cơvang
bản.Trong
hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền
bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều
bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Những giá trị chung đó sẽ trở thành cơ sở liên kết
các dân tộc chặt chẽ, bền vững hơn. Trong cơ cấu Chính phủ, Ủy ban Dân tộc của
Chính phủ là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc

trong phạm vi cả nước, tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc thiểu số thực
hiện Hiến pháp, pháp luật, theo dõi kiểm tra vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây
dựng hệ thống, chỉ tiêu, bộ dữ liệu về dân tộc thiểu số; điều tra, nghiên cứu tổng
hợp về tên gọi, về phong tục tập quán các dân tộc thiểu số; thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện chính sách dân tộc, pháp luật trong lĩnh vực dân tộc; lắng nghe và giải
quyết nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số... theo quy định của Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện
và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực vượt qua mọi khó khăn,
thử thách. Nhiều chương trình mục tiêu đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số thực sự
hỗ trợ, hướng dẫn đồng bào các dân tộc vươn lên tiếp cận với tiến bộ khoa học - kỹ
thuật vào sản xuất. Sự nghiệp y tế, giáo dục có nhiều tiến bộ, đặc biệt Nhà nước đã
thực hiện những chính sách đặc thù chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, nên đội ngũ cán
bộ là người dân tộc thiểu số đã trưởng thành, có tri thức, năng lực, dám nghĩ, dám
làm, làm gương trong vận động đồng bào xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng nông
thôn mới bền vững, chăm lo toàn diện đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào,
bảo vệ cuộc sống yên vui của đồng bào dân tộc thiểu số. Từ sự tôn trọng nhau,
cùng nhau giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa, các dân tộc lại càng tôn vinh các giá
trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, càng củng
cố, tăng cường tình đoàn kết bền chặt. Đồng bào các dân tộc không nghe theo kẻ
xấu kích động, chia rẽ đoàn kết các dân tộc, không phân biệt xuôi ngược, không
trông chờ, ỷ lại mà đồng sức, đồng lòng bảo vệ thành quả cách mạng, quyết tâm
xây dựng quê hương giàu đẹp.
Đồng bào các dân tộc chung tay xây
dựng đất nước.


Câu 5. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân? Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?
Trả lời

Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân thì có một số điểm mới như sau :
Hiến pháp 2013 quy định tại Điều 3: “Nhà
nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện”.

Hướng người dân đến với nền
văn minh nhân loại.

Ở Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.


Ở Điều 15 Hiến pháp 2013 quy định : “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa
vụ công dân; 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; 3. Công dân
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; 4. Việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Ở Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định: “1.Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật; 2.Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn


hóa, xã hội”.
Ở Điều 17 Hiến pháp 2013 quy định: “1.Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam; 2.Công dân Việt Nam không thể
bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác; 3.Công dân Việt Nam ở nước ngoài được
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”.
Tại Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng
con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.


Tại Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định : “1. Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ
hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm; 2. Không ai
bị bắt nếu không có quyết định của
Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân
dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam, giữ người do
luật định; 3. Mọi người có quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể người và
hiến xác theo quy định của luật.
Việc thử nghiệm y học, dược học,
khoa học hay bất kỳ hình thức thử
nghiệm nàokhác trên cơ thể người
Mỗi con người không ai có quyền xâm phạm

phải có sự đồng ý của người được
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
thử nghiệm”.
Tại khoản 1 Điều 21 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ
danh dự, uy tín của mình.Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình được pháp luật bảo đảm an toàn”.
Trong Điều 22 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Công dân có quyền có nơi ở hợp
pháp; 2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào
chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý; 3. Việc khám xét chỗ ở do
luật định”.
Trong Điều 23 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư
trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện
các quyền này do pháp luật quy định”.
Trong Điều 24 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng
trước pháp luật; 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộquyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để vi phạm pháp luật”.


Trong Điều 27 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên
có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội,
Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định”.
Tại khoản 1 và 2 Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền
khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp
luật”.

Trong Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”.
Trong Điều 34 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm an
sinh xã hội”.
Trong Điều 36 Hiến pháp 2013 quy
định: “1. Nam, nữcó quyền kết hôn, ly
hôn.Hôn nhân theo nguyên tắctự nguyện,
tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau; 2. Nhà nước bảo
hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi
của người mẹ và trẻ em”.
Trong Điều 37 Hiến pháp 2013 quy
định: “1. Trẻ em được Nhà nước, gia đình
và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục;
được tham gia vào các vấn đề về trẻ
em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược
đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao
động và những hành vi khác vi phạm
quyền trẻ em; 2. Thanh niên được Nhà
nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học
tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí
tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân
Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi,
tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao
động
vệđộng
Tổ quốc;
bỏ mặc,
lạmsáng
dụng,tạo

bócvà
lột bảo
sức lao

3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và
xã hội
trọng,
chăm
sóctrẻ
vàem.
phát
những
hànhtôn
vi khác
vi phạm
quyền
huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong Điều 42 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc
của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”.


Trong Điều 43 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong
môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”.
Trong Điều 47 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo
luật định”.
Ở khoản 6 Điều 96 Hiến pháp 2013 quy định: “Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà
nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”.
Tại khoản 3 Điều 102 Hiến pháp
năm 2013 đã quy định: “Tòa án nhân
dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân”.

Sự công lý nằm trong Tòa án nhân dân

Tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất”.


Điểm mới trong Hiến pháp năm 2013 mà tôi tâm đắc nhất đó là: Tại Điều 14
quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng". So với Hiến pháp năm 1992 thì Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ quyền con người, quyền công dân chỉ sẽ hạn chế trong một số trường hợp
nhất định, tránh tình trạng xâm phạm quyền con người, quyền công dân. So với
Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, thay cụm từ "mọi công dân"
thành "mọi người", cụ thể tại Điều 16 quy định "Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội". Bổ sung thêm quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng
con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật"
Mọi người có quyền sống, tính mạng con người được pháp luật bảo hộ, không ai bị

tước đoạt tính mạng trái luật”. Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự
đổi mới quan trọng theo hướng ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền
và quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng cũng có quyền đó; quyền
công dân là quyền của người có quốc tịch Việt Nam…Để mọi người, công dân
thực hiện quyền của mình thì Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà
nước là phải ban hành văn bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người
và công dân thực hiện đầy đủ các quyền của mình. Qua đó thể hiện và khẳng định
giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp.

Hiến pháp quy định về quyền con người rất rõ ràng và để tích cực công cuộc phát triển đất nước.


Các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được thể hiện
trong 36 điều của Hiến pháp mới, làm rõ nội dung quyền con người, quyền công
dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quy định quyền công dân không
tách rời nghĩa vụ công dân.Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của con
người từ lúc sinh ra; quyền công dân trước hết cũng là quyền con người nhưng việc
thực hiện nó gắn liền với quốc tịch, tức là vị thế pháp lý của công dân trong quan
hệ với Nhà nước, được Nhà nước bảo đảm đối với công dân của nước mình. Chỉ
những người có quốc tịch mới được hưởng quyền công dân của quốc gia đó như
quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước…Quyền con người và quyền
công dân có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau. Vì vậy, các quy định trong
chương II Hiến pháp mới được bố cục đan xen nhau chứ không tách bạch thành
quyền con người và quyền công dân. Các quy định của chương này được sắp xếp
theo các nhóm quyền nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa quyền con người và
quyền công dân. Theo đó, lần lượt là những quy định chung về quyền con người,
quyền công dân; các quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa;
các nghĩa vụ công dân. Kế thừa Hiến pháp 1992, Hiến pháp mới tiếp tục long trọng
tuyên bố, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,

quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
được thể hiện ở chỗ, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật và trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Đây là quy định
mới mà Hiến pháp 1992 chưa đề cập, lần này được ghi nhận trong Hiến pháp mới
để phù hợp với Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền và Công ước về các quyền dân
sự, chính trị mà nước ta là thành viên. Cùng với việc được hưởng các quyền, mọi
người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác, không để việc thực hiện quyền
con người, quyền công dân xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác. Hiến pháp mới tiếp tục hiến định các quyền con người,
quyền công dân cơ bản như trong Hiến pháp 1992 với những bổ sung, sửa đổi làm
cụ thể và sâu sắc hơn. Các quyền về dân sự, chính trị bao gồm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm,
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình, không ai bị bắt nếu không có quyết
định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm soát nhân dân
(trừ trường hợp phạm tội quả tang); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bí mật về thư tín, điện tín và các hình
thức trao đổi riêng tư khác; quyền có nơi ở hợp pháp của công dân và quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở của mọi người, việc khám xét chỗ ở phải do luật định;
quyền tự do đi lại và cư trú trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp


cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật; quyền bình
đẳng nam, nữ; quyền bầu cử và ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; quyền biểu quyết khi tổ chức trưng cầu ý dân; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền
tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền được bồi thường về vật chất,
tinh thần và phục hồi danh dự nếu bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật. Nhóm quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa bao

gồm: quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế; quyền tự do kinh doanh
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; quyền được bảo đảm an sinh xã hội;
quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, nơi làm việc; quyền kết hôn, ly
hôn; quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập; quyền nghiên
cứu khoa học, công nghệ, sáng tạo văn học nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các
hoạt động đó. Khoản 2, Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việc quy định về hạn chế quyền là cần thiết để
bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thực hiện một cách minh bạch,
phòng ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ phía các cơ
quan nhà nước. Trong Hiến pháp 2013 thể hiện quyền con người là một điểm nhấn
và bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp quyền và thực hiện quyền con người
ở Việt Nam; làm rõ hơn quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghiên cứu và thụ
hưởng các kết quả khoa học; quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ
mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền được sống trong môi trường trong
lành…. Hiến pháp còn khẳng định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không
bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; được
nhà nước bảo hộ, không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác. Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh
dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt, giam giữ người do luật định. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ
thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học,
khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự
đồng ý của người được thử nghiệm. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín

của mình. Mọi công dân có quyền có nơi ở hợp pháp, có quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở và việc khám xét chỗ ở do luật định; có quyền tự do đi lại và cư trú ở
trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định pháp
luật; có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ai được xâm phạm tự do tín


×