Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Bàn về công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH tại cơ quan BHXH việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.52 KB, 70 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu...........................................................................................................2
Chương I 5
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH.....................................................................5
VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỔ BHXH............................................................5
I. Khái quát chung về BHXH.........................................................................5
1. Vai trò của BHXH.....................................................................................5
2. Đối tượngcủa BHXH và công tác quản lý đối tượng tham gia.................7
3. Các chế độ BHXH.....................................................................................9
4. Quỹ BHXH..............................................................................................12
II. Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.........................................17
1.Các phương thức quản lý đối tượng tham gia BHXH..............................17
2. Điều kiện, đối tượng, phạm vị cấp sổ BHXH.........................................26
3. Quản lý sổ BHXH...................................................................................30
Chương II....................................................................................................32
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỔ BHXH.....................................32
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................32
I. Khái quát chung về chính sách BHXH qua các giai đoạn.....................32
1. Giai đoạn 1945- 1986..............................................................................32
2. Giai đoạn 1987 đến 1995.........................................................................34
3. Giai đoạn từ 1995 đến nay:.....................................................................37
II. Thực trạng quản lý và sử dụng sổ BHXH trong giai đoạn 1996-2004.
.........................................................................................................................39
1. Trình tự cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH............................................39
2.Các quy định về sử dụng sổ BHXH.........................................................45
3. Thực trạng cấp và quản lý sổ BHXH......................................................47
Chương III.........................................................................................................55
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
CÔNG TÁC CẤP VÀ QUẢN LÝ SỔ BHXH..............................55
I. Phương hướng cơ bản...............................................................................55
1. Công cụ quản lý.......................................................................................55


2. Tiêu chí và nội dung phản ánh................................................................55
II. Một số đề xuất và kiến nghị.....................................................................56
1. Kiến nghị chung......................................................................................56
2. Một số đề xuất cụ thể...............................................................................58


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế- xã hôi, tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam; khi
định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong đó có chính sách giải quyết
một số vấn đề xã hội, tại Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác
định quan điểm: " Các vần đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh
thân xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mọi người
dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước
ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội" và phải giả quyết tốt viêc"
Thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH, bảo đảm đời sông người nghỉ hưu được
ổn định, từng bước được cải thiện". Trong đường lối và chiến lược phát triển
kinh tế xã hội, khi đề cập đến việc giả quyết tốt các vấn đê xã hội, Nhgị quyết
Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh:"Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm
an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao
động thuộc các thành phần kinh tế".
BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước đối với người
lao động, nhằm đảm bảo và ổn định đời sống của họ khi không có khả năng lao
động hay khi gặp rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, lúc về già…Quá
trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội gắn liền với sự phát triển của

đất nước. Ngày từ ngày đầu thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ
tịch Hồ Chí Min đã ký Sắc lện số 27/SL (1946) về việc thực hiện một số chế độ
BHXH cho người lao động. Năm 1961 Chính phủ ban hành Nghị định số
218/CP ngày 27/12/1961 về " Điều lệ tạm thời quy định các chế độ BHXH xã
hội đối với công nhân viên chức Nhà nước". Đến ngày 26/01/1995 Chính phủ đã
ban hành Điều lệ BHXH kèm Nghị định 12/CP, chuyển đổi căn bản về Bảo
hiểm xã hội từ cơ chế bao cấp chủ yếu dựa vào nguồn Ngân sách Nhà nướcđảm
bảo sang cơ chế quỹ Bảo hiểm xã hộ dựa trên nguyên tắc do người lao động,
người sử dụng lao động, Ngân sách Nhà nước đóng góp và hỗ trợ; tham gia Bảo
hiểm xã hội không chỉ người lao động trong khu vực Nhà nước mà còn mở rộng
đối với tất cả những người lao động thuộc thành phần kinh tế khác. Để đảm bảo
các quyền lợi về BHXH đối với người lao động, ghi nhận quá trình làm việc có
đóng BHXHvà làm cơ sở để giải quyết các chế độ BHXH theo quy định tại các

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

2


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Điều 182,183 chướng XV của Bộ luật Lao động người tham gia Bảo hiểm xã
hội được cấp sổ Bảo hiểm xã hội.
Sổ BHXH là phương tiện, công cụ quản lý và giải quyết chế độ bảo hiểm
của hệ thống BHXH Việt nam, đồng thời cũng là phương tiện theo dõi, sử dụng
của người lao động trong quá trình tham gia đóng và giải quyết chế độ BHXH.
Từ những đòi hỏi về thực tế nêu trên, là một sinh viên được đào tạo trong
chuyên ngành bảo hiểm của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, em luôn mong

muốn có được cơ hội tìm hiểu sâu hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt
động Bảo hiểm xã hội hiện nay ở Việt nam trên cơ sở đó để củng cố , hoàn thiện
và nâng cao kiến thức nghề nghiệp của mình.Với lòng say mê của cá nhân em
về lĩnh vực Bảo hiểm xã hội nên trong thời gian thực tập tại Bảo hiểm xã hội
Việt Nam, được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo trong chuyên ngành cùng sự
giúp đỡ tận tình của các cán bộ trong cơ quan, em đã chọn đề tài:" Bàn về công
tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH tại cơ quan BHXH Việt nam" cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi và trọng tâm nghiên cứu.
Do những hạn chế về thời gian kiến thức và tư liệu vì vậy phạm vi nghiên
cứu của chuyên đề chỉ khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như sự
cần thiết khách quan khi sử dụng sổ BHXH trong quá trình quản lý và giải quyết
chính sách cho người lao động. Mặt khác sổ Bảo hiểm xã hội là một trongnhững
hình thức, công cụ quản lý riêng có của Việt Nam, nó là phương tiện quản lý,
giám sát, kiểm tra của cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Đồng thời nó cũng là
phương tiện sử dụng của người lao động trong quá tình làm việc, tham gia và
hưởng các chế độ về Bảo hiểm xã hội. Do vậy, chuyên đề tập trung đi sâu phân
tích đánh giá thực trạng cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH trong thời gian qua,
từ đó em xin nêu ra một số đề xuất nhằm nâng cao vai trò của công tác cấp, quản
lý và sử dụng sổ BHXH
Trong phần lý luận của chuyên đề em trình bày một số khái quát về
BHXH và công tác quản lý sổ BHXH. Trong phần thực tế, thực trạng hoạt động
của công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH được đưa ra phân tích. Ngoài ra
em còn tìm hiểu và đề xuất một số biện pháp với hy vọng phần nào có thể khắc
phục các khó khăn, tồn tại trong công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH gặp
phải hiện nay.

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

3



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

3. Phương pháp nghiên cứu:
Cũng như các đề tài nghiên cứu khoa học khác, chuyên đề này lấy chủ
nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu.
Phương pháp này đòi hỏi nghiên cứu về Bảo hiểm xã hội trong mối liên hệ chặt
chẽ với điều kiện kinh tế và với cơ chế quản lý kinh tế, đảm bảo tính khách
quan, toàn diện, lịch sử cụ thể của việc nghiên cứu, phân tích từng vấn đề của đề
tài. Ngoài ra chuyên đề còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp dãy số thời gian, phương pháp phân tích so sánh, điều tra xã hội
học, thông kê dữ liệu… để phân tích đánh giá nhằm đưa ra những giải pháp
hoàn thiện công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH trong quá trinh quản lý
thu và giải quyết các chế độ Bảo hiểm.
4. Cấu trúc của chuyên đề:
Với tất cả những điều trên. Chuyên đề được bố cục như sau:
Chương I: Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội và công tác quản lý sổ
BHXH.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý sổ BHXH ở Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của công
tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH.
Với khả năng hạn chế của một sinh viên, nên mặc dù đã hết sức cố gắng
nhưng chắc chắn trong bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong được sự đóng góp ý kiến, phê bình của thầy cô giáo, các cán bộ trong
ngành và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Hải Đường- giáo
viên hướng dẫn cùng các cán bộ công tác tại Ban thu Bảo hiểm xã hội Việt Nam

đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này!

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

4


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Chương I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH
VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỔ BHXH
I. Khái quát chung về BHXH
1. Vai trò của BHXH
Trong quá trình lao động và sản xuất người lao động thường gặp rất nhiều
biến cố rủi ro do nhiều nguyên nhân khác nhay làm ảnh hưởng đến cuộc sống
của cá nhân và gia đình họ. Có những biến cố xảy ra ngay trong quá trình lao
động cũng có những biến cố xảy ra ngoài quá trình lao động. Trước những biến
cố rủi ro này người lao động gặp rất nhiều khó khăn và xã hội bị mất an toàn do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Tình trạng này càng diễn ra phổ biến khi nền sản
xuất phát triển, khi có sự thuê mướn lao động, nhân công. Khi nền sản xuất hàng
hoá đã phát triển đến một mức độ nhất định việc thuê mướn lao động diễn ra
ngày càng phổ biến, mâu thuẫn chủ - thợ bắt đầu phát sinh. Trong số rất nhiều
mâu thuẫn khác nhau, những mâu thuẫn sau càng trở lên gay gắt..Việc đấu tranh
giữa hai bên để giải quyết mâu thuẫn ngày càng trở lên phức tạp và mang tính xã
hội rộng khắp. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu
thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác
buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng

được tính toán một cách chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với
người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ
tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà
nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải
những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro bất
lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình
họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được
bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn
không cần thiết. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc
chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao
động. Như vậy, có thể hiểu BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc
mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ
tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

5


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

phần đảm bảo an toàn xã hội. Với sự ra đời như trên BHXH đã có vai trò rất lớn
đối với xã hội:
- BHXH có thể thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy
ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động
khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm

và khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động sẽ
được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần
thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định.
- BHXH còn góp phần phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử
dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này
dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập. Như vậy, BHXH có vai trò rất lớn trong góp phần thực hiện công bằng
xã hội.
- Kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng
suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi người lao động khoẻ
mạnh họ tham gia lao động sản xuất và được chủ sử dụng lao động trả lương
hoặc tiền công. Nhưng khi họ bị ốm đau, thai sản, tại nạn lao động hoặc khi về
già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Chính vì vậy mà cuộc
sống của họ và gia đình luôn luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó,
người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc.Từ
đó, họ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh
tế.
- BHXH còn giúp cho mối quan hệ giữa người lao động với người sử
dụng lao động ngày càng gắn bó hơn. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao
động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn tồn tại, khách quan về
tiền lương, tiền công, thời gian lao động…Thông qua BHXH những mâu thuẫn
đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới đều thấy nhờ có BHXH
mà họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau.

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

6



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

2. Đối tượngcủa BHXH và công tác quản lý đối tượng tham gia.
2.1. Đối tượng của BHXH
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh
tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Từ năm 1883, ở
nước phổ ( CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm y tế. Một số nước
Châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến năm 1920 mới có đạo luật về BHXH.
Tuy ra đời lâu như vậy,nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan
điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH vơi
đối tượng tham gia BHXH.
Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị mất
đi do người lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già
yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động
bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm của người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.
Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nướcmà đối tượng
này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối
với các viên chức Nhà nước,những người làm công hưởng lương. Việt Namcũng
không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không biình đẳng
giữa tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH,ngoài người lao
động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của
Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của
họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận
sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm

quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao
động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng hiếm có của BHXH. Nó
quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển cảu BHXH một cách ổn định và
bền vững.

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

7


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

2.2. Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.
Bộ luật lao động đã có một chương về BHXH, trong đó quy định các đối
tượng sau đây phải áp dụng các chế độ BHXH:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên;
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước
ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác;
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ
quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể;
- Người lao động làm việc trong cá doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ, lực
lượng vũ trang ;
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cửlàm việc trong các cơ quan quản lý
Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện

- Côngchức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính
sự nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ươngđến
cấp huyện;
Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng ở ngoài nước
mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện
BHXH bắt buộc
Các đối tượng quy định trên gọi chung là người lao động.
Cùng với đối tượng tham gia BHXH được mở rộng hơn so với trước đây,
thì loại hình tham gia BHXH cũng được thống nhất: BHXH bắt buộc và BHXH
tự nguyện. Vấn đề này bước đầu đã tạo ra sự bình đẳng giữa những người lao
động thuộc các thành phần kinh tế. với đối tượng đã được quy định như ở trên,
hiện nay cả nước ta đã có khoảng 15% lực lượng lao động tham gia BHXH.
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

8


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

3. Các chế độ BHXH
3.1. Quan điểm của tổ chức Lao Động Quốc Tế
Theo công ước Giơnever số 102 ra đời tháng 6 năm 1952 tổ chức này có
khuyến cáo BHXH thế giới phải bao gồm 9 chế độ sau đây:
 Chăm sóc y tế.
 Trợ cấp ốm đau.
 Trợ cấp thất nghiệp.
 Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
 Trợ cấp tuổi già.

 Trợ cấp gia đình.
 Trợ cấp sinh đẻ.
 Trợ cấp khi tàn phế
 Trợ cấp cho những người còn sống.
3.2. Cơ sở hình thành và đặc điểm hệ thống các chế độ BHXH.
 Hệ thống các chế độ BHXH được hình thành trên cơ sở:
- Cơ sở sinh học liên quan đến người lao động
- Phân ngành kinh tế quốc dân.
- Cơ sở ngành nghề,vệ sinh an toàn lao động và bảo hộ lao động.
- Điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ.
 Hệ thống các chế độ BHXH có đặc điểm chủ yếu sau:
- Được xây dựng trên cơ sở pháp luật của quốc gia.
- Mang tính chất phân tán rủi ro, chia sẻ tài chính

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

9


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

- Mức chi trả cho từng chế độ căn cứ chủ yếu vào mức dóng góp của
các bên tham gia và đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả.
- Phần lớn các chế độ trong hệ thống được chi trả định kỳ (đối với
các chế độ dài hạn)
- Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH được hưởng
( BHXH phải chi và người lao động có quyền được hưởng).
- Mức chi trả phụ thuộc vào quỹ dự trữ, vào quy mô của quỹ và vào

từng chế độ bảo hiểm.
- Hệ thống các chế độ BHXH được điều chỉnh và hoàn thiện cho phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội của từng nước. Sự phát triển theo điều kiện
này có thể liên quan đến nội dung từng chế độ hoặc liên quan đến tất cả hệ
thống.
3.3. Hệ thống các chế độ BHXH.
Theo điều 2 của Điều lệ BHXHViệt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao
gồm 5 chế độ: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tại
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. So với trước
đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động đã bị loại bỏ. Nội dung của 5 chế độ trên
được quy định thống nhất trong chương II của Điều lệ:


Chế độ trợ cấp ốm đau:

Chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu
nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Việc thiết kế chế độ này như hiện
hành đã tránh được những hiện tượng lạm dụng và bình quân hoá trong khi xét
trợ cấp. Đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng BHXH, đồng thời có tính đến
yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH. Tuy nhiên trong
qúa trình thực hiện, vẫn còn một số vấn đề phải tiếp nghiên cứu xem xét như:
không quy định thời gian dự bị trước khi hưởng BHXH; thời hạn hưởng tối đa
chưa rõ; thủ tục, danh mục các bệnh dài hạn quy định đã lâu, cần phải bổ sung
một số bệnh mới..v.v.


Chế độ trợ cấp thai sản:

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD


10


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Thiết kế chế độ này như hiện nay đã giúp lao động nữ có được khoản trợ
cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Hơn nữa,
việc quy định thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiệnvà môi trường lao động
nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khácnhau. Qua
thực tiễn, chế độ này còn một số điểm cầnkhắc phục như: còn đan xen giữa
chính sách BHXH với chính sách dân số , kế hoạch hoá gia đình; thời gian dự
bị trước khi được hưởng cũng chưa có…v.v.


Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp:

Thực tiễn triển khai chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã
góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động
không may bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp. Đồng thời chế độ này còn quy
định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra
TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này dựa trên cơ sở tỷ lệ
suy giảm khả năng lao động là hợp lý. Tuy nhiên, cần phải xác định rõ hơn
TNLĐ xảy ta trên đường đi từ nhà tới nơi làm việc và ngược lại, danh mục bệnh
nghề nghiệp cần phải được bổ sung vì có một số loại bệnh mới phát sinh nhưng
chưa được xếp vào bệnh nghề nghiệp v.v…


Chế độ hưu trí:


Đây là chế độ nhằm cung cấp một khoảng trợ cấp thay thế cho phần thu
nhập không được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. Nội dung chế độ này đã
khắc phục được những hạn chế trước đây như: Việc quy đổi thời gian công tác;
bóc tách được phần lớn các chế độ ưu đãi xã hội khỏi chế độ hưu trí v.v… vì thế
đã đảm bảo được sự công bằng bình đẳng giữa đóng và hưởng BHXH; giữa các
nhóm lao động khác nhau. Tuy vậy, chế độ này vẫn còn nhiều điểm nổi cộm cần
khắc phục như: Tuổi đời về hưu giữa các ngành, các nhóm lao động; những
người được hưởng trợ cấp một lần đưa vào chế độ là chưa hợp lý, vì những
người này chưa đủ tuổi, vừakhông đủ tích luỹ cần thiết để hưởng trợ cấp. Đây
chỉ là sự trả lại một phần số tiền cho người lao động khi họ không còn quan hệ
lao động nữa, do quỹ BHXH đảm nhận.


Chế độ tử tuất:

Một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất đó là chế độ tử
tuất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

11


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết; khi xây
dựng chế độ này, đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và
yếu tố xã hội giữa người sống và người chết. Đặc biệt là có tính đến yếu tố kế

thừa đối với thân nhân của người chết. Song, việc quy định đối tượng được
hưởng bao gồm cả bố mẹ bên vợ, bên chồng là chưa hợp lý. Vì bố mệ bên vợ,
bên chồng còn có thân nhân của cả hai bên chụi trách nhiệm. Điều này cần
phảia căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để thống nhất quy định v.v…
4. Quỹ BHXH
4.1. Khái niệm
Sự ra đời, tồn tại phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế- xã hội của từng quốc gia, vào điều kiện lịch sử trong thời kỳ nhất định
của đất nước. Trình độ kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia càng phát triển thì các
chế độ BHXH được áp dụng càng mở rộng, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với
người lao động càng được nâng cao và khi kinh tế phát triển, người lao động có
thu nhập cao càng có điều kiện tham gia BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài chính trung
gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn tại và gắn với mục đích bảo
đảm cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc
mất thu nhập từ lao động mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Như
vậy, Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà
nước.
4.2. Nguồn quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác ( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu
tư phần quỹ nhàn rỗi)

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

12



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Trong nền kinh tế hành hóa, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho
người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao
động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro,mà
là lời ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần
BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phảo chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà minh thuê mướn.
Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối
quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để
BHXH cho mình vừa biểu hiện sự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa
có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì
thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể
thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà
nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử
dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ- thợ trong lĩnh vực
BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra bằng nhiều hình thức, biện
pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và
hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt
động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các
nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng
lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ
vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ

hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được
cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động
phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, chính phủ trả chi phí y tế
và trợ cấp gia đình, chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động
cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định,
Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH
v.v…
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

13


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới
Tên nước

Chính phủ

Tỷ lệ đóng góp
của người lao
động so vơi tiền
lương (%)

Tỷ lệ đóng góp
của người sử dụng
lao động so với

quỹ lương (%)

CHLB Đức

Bù thiếu

14,8-18,8

16,3-22,6

CH Pháp

Bù thiếu

11,82

19,68

Inđônêxia

Bù thiếu

3,0

6,5

Philipin

Bù thiếu


2,85-9,25

6,85-8,05

Malaixia

Chi toàn bộ chế
độ ốm đau, thai
sản

9,5

12.75

Ở nước ta, từ 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai
nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp,
phần còn lại do Ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ
BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp
15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị
trường, chính phủ đã ban hành Nghị đinh 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ
BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, trong
các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau
đây:
- Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của
những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ
hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ
hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH

đối vơi người lao động.
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

14


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

- Các nguồn khác.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết
định sự cân đối thu, chi quỹ BHXH. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một
nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp
toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ
tính toàn khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ
đó cơ cơ sở xác định mức phí đóng.
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức
hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng.
Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại
khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và
Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều
kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH
vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: cân bằng thu- chi, lấy số đông bù số ít và có
dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu
BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức:
P= f1 + f2 + f3

Trong đó:

P- Phí BHXH
f1 - Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
f2 - Phí dự phòng
f3 - Phí quản lý

Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối
với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời
gian ngắn ( thường là một năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ…Vì
vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các
chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

15


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v…quá trình đóng và quá trình hưởng
BHXH tương đối độc lập nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho
nên, sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải dược dàn trải trong cả
thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ
BHXH có dự trữ đủ lớn
Như vậy, để xác định được mức phí phải đóng và mức hưởng BHXH phải
dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động theo độ
tuổi, giới tính, ngành nghề…Ngoài ra con phải xác định và dự báo được tuổi thọ
bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của người lao động.

4.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH.
*Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một
loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ
BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già
phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ
yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc
gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những nước quy định: nam 60 tuổi
và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những nước quy định nam 65
tuổi và nữ 60 tuổi v.v… Hoặc khi các điều kiện hưởng trợ cấp cho các chế độ
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến yếu tố: Điều kiện và môi
trường lao động; bảo hộ lao động… Các yếu tố này thường có quan hệ và tác
động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ
và toàn hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ
thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của người lao
động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ
thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống
chung của các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ
cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao động đang
làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức lương hay tiền
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

16


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

công. Ở các nước kinh tế phát triển do mức lương cao, nên tỷ lệ này thường
thấp và ngược lại ở những nước đang phát triển do mức tiền lương còn thấp nên
phải áp dụng một tỷ lệ khá cao.
Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so
với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số
nước đã tìm cách khắc phục như: Trả ngay một phần khi nghỉ hưu hoặc suốt đời
tính theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ
lệ phần trăm quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử
dụng cho chi phí quản lý như: tiền lương cho những người làm việc trong hệ
thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi
khác v.v…Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư
quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.
Quá trình đầu tư quỹ phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả
năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội.

II. Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.
1.Các phương thức quản lý đối tượng tham gia BHXH.
1.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua các công cụ pháp
luật.
Một trong những công cụ quản lý của Nhà nước về BHXH là các chế định
pháp luật đối với các đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội. Chính sách Bảo hiểm
xã hội là một chính sách mở cả về nội dung và phương thức thực hiện; không
phải ngay một lúc, một thời điểm các chế định pháp luật về đối tượng tham gia
BHXH đã được quy định một cách đầy đủ, bao hàm được toàn bộ cộng đồng
dân cư có nhu cầu về BHXH; mà các chế định đó được bổ sung, sửa đổi hoàn
chỉnh dần dần. Do vậy, đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội được Nhà nước điều
chỉnh trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội

của đất nước; đáp ứng được nhu cầu và khả năng tài chính của các tầng lớp dân
cư.
Thông qua các chế định pháp luật chúng ta có thể nhận dạng cụ thể đối
tượng tham gia Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế với những yêu cầu, đặc điểm
của từng giai đoạn, từng thời kỳ, cụ thể như sau:
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

17


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

1.1.1- Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội
Ngay từ khi mới thành lập, nước Việt Nam Dân chủ Công hoà, theo Sắc
lệnh số 105/SL năm 1946, đối tượng điều chỉnh là người lao động được BHXH
theo loại hình hưu trí.
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1959 tại Điều 32 quy
định đối tượng là người lao động có quyền được Bảo hiểm xã hội và ngày
27/12/1961 Hội đồng chính phủ có Nghị định số 218/CP ban hành Điều lệ tạm
thời về các chế độ Bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước.
Thông tư Liên Bộ số 14/TT-LB ngày 09/06/1988 của Liên Bộ Tài chínhBộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn quy định cụ thể về đối tượng
tham gia Bảo hiểm xã hội là tất cả các cơ quan hành chính sự nghiệp như cơ
quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, khoa học kỹ thuật, văn
hoá, nghệ thuật, thông tin y tế, giáo dục… các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc
kinh tế quốc doanh bao gồm cả xí nghiệp kinh doanh thuộc Bộ quốc phòng, Nội
vụ …có cán bộ, công nhân viên chức thuộc đối tượng hưởng Bảo hiểm xã hội.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được sửa
đổi bổ sung tại Điều 56 đã nêu Nhà nước quy định về chế độ BHXH đối với

viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương.
Giai đoạn từ 01/04/1993 đến 31/12/1994 đối tượng tham gia BHXH đã
được điều chỉnh thay đổi một cách cơ bản và đã được mở rộng. Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 43/CP ngày 22/06/1993 quy định tạm thời chế độ BHXH
và Nghị định số 66/CP ngày 30/09/1993 quy định tạm thời chế độ BHXH đối
với lực lượng vũ trang trong đó quy định bắt buộc đối với công nhân viên chức
thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, các tổ chức Đảng, đoàn
thể. Người lao động làm việc và hưởng lương hoặc tiền công ở doanh nghiệp có
sử dụng từ 11 lao động trở lên. Người lao động trong các tổ chức, doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt; BHXH tự nguyện
đối với người lao động ngoài đối tượng trên.
Giai đoạn từ 01/05/1995 đến 31/12/2002. trong giai đoạn này Nhà nước
đã có những điều chỉnh căn bản về các chính sách xã hội trong đó có chế độ
BHXH, Căn cứ Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5,
Quốc hội khoá IX ngày 23/06/1995 và được thực hiện từ ngày
01/01/1995,Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 ban hành
Điều lệ BHXH trong đó đã quy định rõ các đối tượng phải nộp BHXH bắt buộc
bao gồm người trong các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thuộc các thành
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

18


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, người lao
động làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức nước ngoài, các đơn vị có vốn
đầu tư của nước ngoài, người lao động làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn

thể, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính sự nghiệp….. Cán bộ xã
phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí được quy định tại Điều 03 Nghị định số
09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ; Người lao động Việt Nam đi
làm việc có thời hạn tại nước ngoài quy định tại Nghị định số 152/1999/NĐ-CP
ngày 20/09/1999 của Chính phủ.
Giai đoạn từ ngày 01/01/2003 đến nay Chính phủ ban hành Nghị định số
01/2003/NĐ- CP ngày 09/01/2003 sửa đổi bổ sung Nghị đinh số 12/CP ngày
26/01/1995 của Chính Phủ ban hành Điều lệ BHXH. Đối tượng tham gia BHXH
bắt buộc theo quy định tại khoản 1, Điều 1, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày
09/01/2003 của Chính phủ được mở rộng đến người lao động làm việc theo hợp
đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác
định thời hạn trong các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh
nghiệp; cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo
dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác; hộ sản
xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, trạm y tế xã phường, thị trấn; người lao động
xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp dồng lao động từ đủ 3 tháng trở
lên trong các hợp tác xã thành lập và hoạt độnt theo Luật hợp tác xã; các tổ chức
khác có sử dụng lao động.
1.1.2. Đối tượng tham gia BHYT.
Đối tượng tham gia BHYT đã được điều chỉnh và ấn định bởi các quy
định pháp luật xác định trong các văn bản từ Hiến pháp, Pháp lệnh đến các Nghị
đinh, Quyết định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ
ngành liên quan.
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2002/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc
hội tại điều 39 đã ghi: "Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự
nghiệp sức khoẻ của nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi
người dân được chăm sóc sức khỏe"
Lệnh của chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam số
36/L/CTN ngày 10/09/1994 công bố pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà

nước:" Bà mẹ Việt Nam anh hùng"; Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách
mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

19


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

chiến, người có công giúp đỡ Cách mạng; trong đó tại Điều 5, 9,11,15 quy định
về đối tượng và quyền lợi được Nhà nước mua Bảo hiểm y tế. Nghị định số
28/CP ngày 29/04/1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của pháp lện ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình
liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công
giúp đỡ cách mạng, tai Điều 62 mục I về chăm sóc sức khỏe đã nêu rõ đối tượng
được hưởng bảo hiểm y tế là những người có công với Cách mạng nếu không
phải là người hưởng lương, hưởng BHXH.
Các quy định pháp luật về đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế là người lao
động, người hưởng các chính sách xã hội của Nhà nước, người được hưởng bảo
trợ xã hội, các tầng lớp nhân dân…được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật
thể hiện tại Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/08/1998 của Chính phủ ban
hành Điều lệ Bảo hiểm y tế trong đó quy định về đối tượng tham gia Bảo hiểm y
tế và đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.
Ngoài ra, Nhà nước còn có những văn bản quy định pháp luật điều chỉnh
chính sách, chế độ về BHYT đối với từng loại đối tượng cụ thể. Quyết định số
139/2002/QĐ/TTg ngày 15/10/2002 của thủ tướng Chính phủ về việc khám
chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế cho đối tượng người nghèo. Nghị định số
63/2002/NĐ-CP ngày 18/06/2002 của Chính phủ quy định về việc khám chữa

bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế cho đối tượng là thân nhân sỹ quan tại ngũ…
Nhà nước với chức năng của mình, nhằm đảm bảo các chính sách, chế độ
về Bảo hiểm xã hội được thực thi đầy đủ, đúng quy định đã xác lập về trách
nhiệm và quyền lợi của các bên khi tham gia BHXH bằng các văn bản quy phạm
pháp luật. Tuỳ theo yêu cầu và mức độ khác nhau trong từng phạm vi và mức độ
mà các quy phạm pháp luật đó điều chỉnh các mối quan hệ về Bảo hiểm xã hội
và Bảo hiểm y tế giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan thực
hiện chính sách phù hợp với từng loại đối tượng, từng loại hình tham gia Bảo
hiểm xã hội.
Trước hết, với phương pháp khoa học về định tính, các quy phạm pháp
luật đã điều chỉnh từng phạm vi, từng lĩnh vực và từng đối tượng cụ thể trong
quá trình tham gia và thực hiện chính sách chế độ về Bảo hiểm xã hội. Phân
định rõ các chức năng, phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm và quyền lợi của từng
cơ quan quản lý nhà nước về Bảo hiểm xã hội, cơ quan thực hiện chính sách,
chế độ về Bảo hiểm xã hội và các đối tượng trong mối quan hệ ba bên về
BHXH: người lao động, đơn vị sử dụng lao động và cơ quan Bảo hiểm xã hội.
Trong từng phạm vi điều chỉnh đó cũng đã phân định rõ cho từng lĩnh vực về
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

20


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

chính sách, chế độ, tài chính, kế toán, thống kê, báo cáo….một cách cụ thể, rõ
ràng và khoa học.
1.2. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ quản lý là
sổ BHXH và phiếu khám chữa bệnh.

Đối tượng tham gia BHXH, BHYT rất đa dạng, phong phú. Có người là
cán bộ, công chức Nhà nước; có người làm việc trong các cơ quan dân cử; có
người lao động làm thuê cho các đơn vị sử dụng lao động trong nước hoặc nước
ngoài; có người ra nước ngoài để làm thuê; có người thuộc diện chính sách xã
hội được Đảng và Nhà nước quan tâm ưu đãi trong việc mua, cấp thẻ BHYT,
phiếu KCB, có người tự đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi về BHXH…Có
đối tượng hôm nay tham gia BHXH ở địa bàn này, ngày mai ở địa bàn khác;
thời gian tham gia tuỳ theo loại hình có thể là vài tháng nhưng cũng có thể là
hàng chục năm. Do vậy, việc phân định, xác lâp một phương thức, một công cụ
để theo dõi, quản lý các đối tượng tham gia BHXH, BHYT trong một thời gian
hay một thời kỳ nhất định là rất cần thiết.
Để quản lý sự nghiệp BHXH cần có các công cụ quản lý; ở Việt Nam
hiện nay một trong những công cụ quản lý đó là sổ BHXH, phiếu KCB; đây là
những công cụ quản lý đắc lực nhằm quản lý chặt chẽ những biến động về đối
tượng: mức đóng của các thời kỳ, thời gian đóng, sự di chuyển, biến động về
công việc, các chế độ đã hưởng…Sổ BHXH, phiếu KCB không chỉ cần thiết đối
với cơ quan BHXH mà cần thiết cả cho người tham gia BHXH, BHYT, cần thiết
cho người sử dụng lao động , cơ quan quản lý đối tượng , đảm bảo việc quản lý,
theo dõi việc thực hiện nghĩa vụ và đảm bảo quyền lợi đối với người tham gia
BHXH. Đồng thời sổ BHXH, phiếu KCB còn là căn cứ,chứng từ gốc,là hồ sơ
phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng trong việc
giám sát thực hiện các chế định của Nhà nước về chính sách BHXH.
1.2.1. Sử dụng công cụ quản lý là sổ BHXH và phiếu KCB được điều
chỉnh bằng các chế định pháp luật.
1.2.1.1. Sổ BHXH là một trong 3 loại công cụ quản lý.
Sổ BHXH là một trong 3 loại công cụ quản lý mà người sử dụng lao động
phải lập, người lao động được cấp theo quy định của Bộ Luật lao động, gồm: Sổ
lao động- sổ lương- Sổ BHXH.

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD


21


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Sổ BHXH là một trong những công cụ quản lý đối với người lao động
than gia BHXH, được chế đinh bởi pháp luật; được cấp, quản lý, sử dụng theo
những quy định của Nhà nước.
Sổ BHXH do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp và chứng thực. Sổ
BHXH cấp cho người lao động đã được điều chỉnh và ấn định bởi các quy phạm
pháp luật xác định tại Bộ Luật lao động, trong các Nghị định của Chính phủ và
các văn bản quy phạm pháp luật khác của Nhà nước, đó là:
- Người sử dụng lao động phải lập sổ BHXH xã hội cho người lao động.
Người lao động được cấp sổ BHXH theo quy định của pháp luật (diều 182-183Bộ Luật lao động).
- Người lao động có quyền được nhận sổ BHXH(Điều 43- Nghị đinh số
12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ).
- Quân nhân, công an nhân dân được cấp sổ BHXH để hưởng các chế độ
BHXH theo quy định. Sổ BHXH làm căn cứ hưởng BHXH…( Điều4, 38- Nghị
định số 45/CP ngày 15/07 của Chính phủ
- Sổ BHXH dùng để ghi chép quá trình làm việc và đóng BHXH của
người lao động tham gia BHXH; làm căn cứ để giải quyết các chế độ BHXH
theo quy định của pháp luật ( Quyết định số 1443/LĐTBXH ngày 09/10/1995
của Bộ LĐ- TB&XH )…
Về chức năng và thẩm quyền cấp sổ BHXH, các văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước đã chỉ rõ: BHXH Việt Nam chịu trách nhiệm in và tổ chức
cấp phát sổ BHXH đến từng người tham gia BHXH. Sổ BHXH do cơ quan
BHXH cấp cho các đối tượng tham gia BHXH theo quy định của Nhà nước;

người tham gia BHXH phải có sổ BHXH; người sử dụng lao động có trách
nhiệm lập danh sách đối tượng (thuộc diện tham gia BHXH theo quy định của
pháp luật) do đơn vị quản lý để đăng ký, cấp sổ BHXH theo mẫu quy định của
BHXH Việt Nam; ghi và xác nhận nội dung quy định trong sổ BHXH, quản lý
sổ BHXH trong thời gian người lao động làm việc tại đơn vị.
Như vậy, có thể thấy sổ BHXH là một trong những chứng cứ pháp lý của
người lao động tham gia BHXH được chế định bởi Pháp luật; được cấp- sử
dụng- quản lý dựa trên những căn cứ pháp lý cao nhất, được pháp luật thừa
nhận.
1.2.1.2. Phiếu KCB được cấp cho các đối tượng tham gia BHYT và được
chế đinh bởi các quy phạm pháp luật.

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

22


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Các văn bản của Nhà nước đã điều chỉnh về đối tượng tham gia BHYT,
trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHYT, cơ quan tổ chức thu
BHYT và quản lý cấp, phát phiếu khám chữa bệnh.
BHYT do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá
nhân, tập thể và cộng đồng xã hội, để tăng cường chất lượng trong việc khám
chữa bệnh. Các chế độ BHYT được thực hiện với hai hình thức bắt buộc và tự
nguyện. Các đối tượng tham gia BHYT dù dưới hình thức nào cũng được cấp
phiếu KCB. Theo Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 58/1998/NĐCP ngày 13/08/1998 của Chính phủ, cơ quan BHXH có trách nhiệm thu tiền
BHYT, cấp thẻ BHYT, phiếu KCB và hướng dẫn việc quản lý, sử dụng thẻ

BHYT, phiếu KCB; Nghị định số 100/2002/NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH
Việt Nam ghi rõ: cơ quan BHXH Việt Nam có nhiệm vụ và quyền hạn chỉ đạo,
tổ chức thu các khoản đóng BHXH bắt buộc và tự nguyện, cấp các loại sổ, thẻ
BHXH.
1.2.2. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ quản lý
là sổ BHXH và phiếu KCB.
1.2.2.1. Thông qua sổ BHXH:
- Quản lý đối tượng tham gia thông qua kết cấu sổ BHXH:
Để ghi nhận quá trình làm việc có đóng BHXH và các chế độ BHXH đã
hưởng của người lao động cần phải có phương thức và công cụ quản lý quá
triình đó. Đồng thời phải đòi hỏi công cụ đó phải chứa đựng được đầy đủ những
yếu tố cần thiết liên quan đến thân nhân, điều kiện quản lý và căn cứ pháp lý,
trên cơ sở đó giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Công cụ quản lý
đó chính là sổ BHXH.
Sổ BHXH được dùng để ghi chép quá trình làm việc và đóng BHXH của
người tham gia BHXH, làm căn cứ giải quyết các chế độ BHXH theo quy định
của pháp luật.
Với kết cấu của sổ BHXH thể hiện như một loai hồ sơ gốc, một lý lịch
gốc về BHXH của người lao động trong suốt quá trình làm việc có đóng
BHXH. Trên sổ BHXH nhân thân của người lao động, quá trình làm việc, cấp
bậc, chức vụ, chức danh nghề, công việc, đơn vị làm việc, địa điểm đơn vị đóng
trong từng giai đoạn, từng thời kỳ đều được thể hiện đầy đủ, rõ ràng. Sổ BHXH
được xác nhận bởi tất cả các thành viên trong mối quan hệ bao bên về BHXH là
người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH.
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

23



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

Sổ BHXH với kết cấu bao gồm những chỉ tiêu về mức tiền lương làm căn
cứ đóng BHXH, tỷ lệ người lao động, người sử dụng lao động và mức tiền
lương, tiền công đóng BHXH từng kỳ, thời gian đã đóng BHXH.
Người lao động có đóng BHXH theo quy định của pháp luật mới được
cấp sổ BHXH và người lao động chỉ có thể được hưởng chế độ BHXH khi có
đóng đầy đủ, kịp thời tiền BHXH theo đúng quy định. Đó là một nguyên tắc,
một quyền lợi và là một trách nhiệm của mỗi bên trong quá trình tham gia
BHXH.
Khi người lao động thông qua sổ BHXH có thể kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm đóng BHXH của người sử dụng lao động, cũng
như quyền lợi về các chế độ BHXH mà mình đã được hưởng. Đồng thời, bằng
việc triển khai cấp sổ BHXH trên phạm vị toàn quốc, những người lao động
thuộc diện tham gia BHXH chưa được đóng và hưởng các chính sách chế độ về
BHXH sẽ có thêm cơ sở để yêu cầu người sử dụng lao động phải thực hiện trách
nhiệm và đảm bảo quyền lợi về BHXH cho mình.
Người lao động cũng sẽ được tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng và
thanh toán kịp thời, đầy đủ, giảm bớt các thủ tục hồ sơ khi hưởng các chế độ
BHXH, khi di chuyển đơn vị, địa bàn làm việc, tạm ngừng tham gia BHXH do
thôi việc chưa được hưởng BHXH…nếu đã có sổ BHXH.
- Quản lý đối tượng tham gia thông qua nội dung phản ánh:
Nếu diễn đạt trên cơ sở nội dung mà nó thể hiện, thì sổ BHXH được dùng
để ghi chép quá trình làm việc, thời gian tham gia, mức tiền đóng BHXH của
người lao động của từng giai đoạn, từng thời kỳ trong suốt quá trình người lao
động làm việc và tham gia BHXH theo quy định của Pháp luật.
Nếu phân tích nội dung sổ BHXH thể hiện tính khoa học về quản lý đối
tượng tham gia BHXH theo phương diện tài chính- tiền tệ thì đó là một loai

chứng từ gốc, mà trên đó ghi chép và phản ánh đầy đủ giá trị và thời gian tham
gia BHXH của người lao động; giá trị và mức đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động và của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về thực hiện
chế độ BHXH.
Nếu nhìn nhận về nội dung phản ánh của sổ BHXH để phân biệt đối
tượng tham gia BHXH thì sổ BHXH là căn cứ để xác định người lao động
không tham gia BHXH, bất kể họ làm việc ở khu vực kinh tế nào, thuộc khu vực
nhà nước hay tư nhân quản lý, lao động ở trong nước hay ở nước ngoài theo quy
định của pháp luật. Những người có sổ BHXH sẽ được hưởng những chính sách,
SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

24


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: TS. Nguyễn Hải Đường

chế độ về BHXH theo phạm vi, mức độ họ tham gia mà những người lao động
không đóng BHXH sẽ không được hưởng các quyền lợi đó.
1.2.2.2. Thông qua phiếu khám chữa bệnh.
- Quản lý đối tượng thông qua kết cấu và nội dung phản ánh của phiếu
KCB:
Phiếu KCB là một trong những công cụ quản lý nghiệp vụ BHXH, được
hình thành, hoàn thiện trong quá trình quản lý đối tượng tham gia BHYT. Phiếu
KCB do cơ quan BHYT trước đây và BHXH Việt Nam hiện nay phát hành và
cấp cho đối tượng tham gia BHYT sử dụng để khám chữa bệnh theo một mẫu có
kết cấu và nội dung thống nhất trong toàn quốc.
Phiếu KCB BHYT được hiểu là một loại giấy tờ xác nhận các quyền lợi
được hưởng về BHYT của người có tên ghi trên giấy tờ đó khi khám chữa bệnh

theo quy định của Nhà nước. Để có được quyền lợi về BHYT thì đối tượng phải
tham gia BHYT với hình thức bắt buộc hoặc tự nguyện. Để quản lý theo dõi đối
tượng tham gia BHYT và quản lý trong quá trình khám chữa bệnh của đối tượng
tham gia BHYT nhằm đảm bảo quyền lợi của đối tượng đúng chính sách, chế độ
của Nhà nước; chi trả về quyền lợi đúng đối tượng được hưởng, cơ quan BHXH
đã sử dụng phiếu KCB BHYT là công cụ quản lý với những tiêu thức, nội dung
phù hợp, đảm bảo được yêu cầu quản lý, thuận tiện cho đối tượng trong quá
trình sử dụng.
Với mục đích quản lý, theo dõi đối tượng tham gia BHYT trong quá trính
đóng BHYT và tạo sự thuận tiện cho đối tượng trong quá trình khám chữa bệnh
tại các cơ sở y tế; Phiếu KCB có kết cấu nhỏ, gọn với nội dung phản ánh bao
gồm các tiêu thức liên quan đến thân nhân của đối tượng như họ, tên, ngày tháng
năm sinh, nơi ở hoặc đơn vị làm việc, giới tính, nơi đăng ký khám chữa bệnh
ban đầu, phạm vi khám chữa bệnh và thời hạn sử dụng của phiếu KCB.
- Quản lý đối tượng thông qua phạm vi khám chữa bệnh và thời hạn sử
dụng.
Phân tích theo quyền lợi, phiếu KCB theo chế độ BHYT không phải
thanh toán chi phí khám chữa bệnh ( không cùng chi trả), cơ quan BHXH trả
thay và một loại cơ quan BHXH thanh toán 20% chi phí khám chữa bệnh ( cùng
chi trả). Khi người có thẻ BHXH đi khám chữa bệnh đúng quy định

SVTH: Đàm Thị Thu Hà - BH43B - ĐHKTQD

25


×