Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bài tập nhóm môn Công pháp quốc tế về hiệp hội các quốc gia đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.94 KB, 17 trang )

VAI TRÒ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA
ASEAN

I. KHÁI QUÁT VỀ ASEAN
1. Thành viên
2. Quá trình hình thành và phát triển
3. Cơ cấu tổ chức
II. VAI TRÒ CỦA ASEAN
1. Đối với các nước thành viên
a. Trên lĩnh vực an ninh – chính trị
b. Trên lĩnh vực kinh tế
c. Trên các lĩnh vực văn hóa – xã hội
2. Đối với khu vực châu Á và Quốc tế
III.
1.
2.
3.

NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA ASEAN
Từ khi ra đời đến hiệp ước Bali 1976
Theo hiệp ước Bali 1976
Theo Hiến chương ASEAN

IV. KẾT LUẬN

1


I. KHÁI QUÁT VỀ ASEAN:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of Southeast Asia Nations, viết tắt là
ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đơng


Nam Á. Khu vực ASEAN có 500 triệu dân, diện tích rộng 4,5 triệu km 2 (số liệu năm 2001).
Ngày nay, ASEAN là một tổ chức bao gồm các nước Đơng Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng
đối với Châu Á và thế giới. ĐNÁ nằm giữa Trung Quốc, Ấn Độ và trên con đường qua lại giữa Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương, cho nên từ lâu khu vực này ln giữ vai trị hết sức quan trọng
trong hoạt động thương mại Đông – Tây.
1. Thành viên:
Hiện nay, tổ chức ASEAN gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo ngày gia nhập:
- Các quốc gia sáng lập (ngày 8 tháng 8 năm 1967):
Cộng hồ Indonesia
Liên bang Malaysia
Cộng hồ Philippines
Cộng hịa Singapore
Vương quốc Thái Lan
- Các quốc gia gia nhập sau:
Vương quốc Brunei (ngày 8 tháng 1 năm 1984)
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (ngày 28/7/1995)
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 23/7/1997)
Liên bang Myanma (ngày 23/7/1997)
Vương quốc Campuchia (ngày 30/4/1999)
- Ứng cử viên:
Đông Timo: Dự kiến năm 2012 mới được gia nhập.
- Quan sát viên:
Papua New Guinea: quan sát viên của ASEAN.
2. Q trình hình thành và phát triển:
ASEAN có tiền thân là một tổ chức được gọi là Hiệp hội Đông Nam Á, thường được gọi tắt
là ASA, một liên minh gồm Philippines, Malaysia và Thái Lan được thành lập năm 1961. Tổ chức
này nhanh chóng tan rã do khơng vượt qua được mâu thuẫn về lợi ích dân tộc. Đến ngày 8 tháng 8
năm 1967, ngoại trưởng của 5 quốc gia – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan –
gặp gỡ tại Bangkok và ký Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok và thành lập tổ
chức khu vực này lấy tên là Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN).

Sau này có thêm 5 nước gia nhập, đó là:Vương quốc Brunei (ngày 8 tháng 1 năm 1984),
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (ngày 28/7/1995), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày
23/7/1997), Liên bang Myanma (ngày 23/7/1997), Vương quốc Campuchia (ngày 30/4/1999).
Hiện nay có Đơng Timo đang là ứng cử viên, dự kiến năm 2012 mới được gia nhập. Và Papua New
Guinea đang là quan sát viên của ASEAN.
Sau Hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các
hợp tác bị thất bại vào giữa thập niên 1980. Hợp tác kinh tế chỉ thành công lại khi Thái Lan đề nghị
khu vực thương mại tự do năm 1991.

2


Trong thập kỷ 90, ASEAN nổi lên như là một tổ chức tiểu khu vực hoạt động năng nổ và
hữu hiệu, tuy nhiên cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính từ giữa năm 1997 đang đặt ra một số
thách thức lớn đối với ASEAN.
Ngày nay, trên lĩnh vực kinh tế, ASEAN đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc tự
do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Thương mại hàng hoá nội khối hiện nay đã đạt hơn
320 tỷ đô la mỗi năm. Bên cạnh đó, ASEAN cũng đã có những tiến triển tích cực trong tự do hoá
thương mại dịch vụ, mở cửa thu hút đầu tư, hợp lý hoá thủ tục hải quan, hài hoà các tiêu chuẩn và
giảm khoảng cách phát triển.
Trên lĩnh vực phi kinh tế, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) cùng với các tổ chức về Quốc
phòng, Luật và Tội phạm xuyên quốc gia thuộc ASEAN đã tăng cường đối thoại giữa các chính phủ/
tổ chức liên quan, thúc đẩy sự hiểu biết sâu sắc hơn về những thách thức ảnh hưởng đến ASEAN (và
các đối tác của ASEAN), đồng thời tăng cường năng lực của các tổ chức liên quan trong việc giải
quyết các vấn đề trên thông qua việc chia sẻ thông tin. ASEAN cũng giải quyết các vấn đề liên quan
đến các thảm hoạ tự nhiên (như động đất và sóng thần), sự lan truyền các dịch bệnh (như SARS,
cúm gia cầm và HIV và AIDS) theo một cách thức hiệu quả hơn thông qua việc hợp tác tốt hơn và
cơ chế sẵn sàng đối phó với tình trạng khẩn cấp.
Cơng dân ASEAN đang cố gắng hiểu nhau tốt hơn thông qua một loạt các sáng kiến về văn
hoá xã hội. Để củng cố và tăng cường việc xây dựng cộng đồng ASEAN, tháng 12 năm 2005, các

nhà Lãnh đạo ASEAN quyết định thiết lập Hiến chương ASEAN.
Năm 2008 ASEAN đã hoàn thành đàm phán để ký kết các thoả thuận quan trọng như: Hiệp
định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) thay thế Hiệp định CEPT/AFTA (1992), dự kiến có
hiệu lực vào cuối năm 2009; Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) thay thế cho Hiệp định khu
vực đầu tư ASEAN (AIA) và Hiệp định về xúc tiến và bảo hộ đầu tư ASEAN; Gói cam kết thứ 7
trong khn khổ Hiệp định khung của ASEAN về dịch vụ (AFAS); Một số thoả thuận hợp tác, công
nhận lẫn nhau trong lĩnh vực y tế, xây dựng... .Các nước ASEAN bước đầu xây dựng Biểu đánh giá
thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC Scorecard) và triển khai Kế hoạch Truyền thông về
Cộng đồng Kinh tế ASEAN nhằm quảng bá lợi ích của ASEAN đối với cơng chúng, bảo đảm tính
bền vững và hiệu quả thực thi cam kết của từng nước ASEAN.
Đặc biệt trong những năm gần đây ASEAN đang tích cực hơn trong việc hợp tác với các
nước bên ngoài. Năm 2008, các cuộc đàm phán FTA giữa ASEAN với các đối tác ngồi khối diễn ra
sơi động. ASEAN đã hồn thành đàm phán để ký kết 3 hiệp định lớn với 4 đối tác quan trọng như
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP); Hiệp định thành lập Khu vực
thương mại tự do ASEAN với Úc và Niu Dilân (AANZFTA); Hiệp định Thương mại hàng hóa
ASEAN - Ấn Độ (AIFTA);
Về định hướng năm 2009:
Hiệp hội đã xác định một số nhiệm vụ quan trọng như: Triển khai Hiệp định thương mại
hàng hóa ASEAN (ATIGA), hồn thành xây dựng lộ trình về cam kết giảm thuế trong khn khổ
ATIGA; Đàm phán về lộ trình đưa mặt hàng xăng dầu, thuốc lá ra khỏi Danh mục GE của Việt
Nam; Triển khai các dự án, chương trình tạo thuận lợi thương mại; Xây dựng và thực hiện Kế hoạch
Truyền thông ASEAN (ASEAN Communication Plan) để mọi đối tượng từ doanh nghiệp, người dân
đến các cơ quan quản lý trang bị đủ thông tin, kiến thức nắm bắt tốt nhất lợi ích của hội nhập; Tổ
chức thực hiện Kế hoạch Tổng thể về Cộng đồng Kinh tế ASEAN; Triển khai thực hiện Hiệp định
Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA); Tiếp tục đàm phán Gói cam kết mở cửa thị trường mới về thương
mại dịch vụ trong khuôn khổ AFAS.
Về hợp tác với đối tác ngoài khối, ASEAN chỉ tập trung vào một số mảng đàm phán hiện có,
bao gồm: Hiệp định thương mại dịch vụ và Hiệp định đầu tư ASEAN - Ấn Độ; Hiệp định FTA
ASEAN-EU (do Việt Nam là nước điều phối); Hiệp định đầu tư ASEAN - Hàn Quốc .


3


3. Cơ cấu tổ chức:
Qua 42 năm hình thành và phát triển, cho đến ngày nay cơ cấu tổ chức của ASEAN đang được từng
bước hoàn thiện.
Khi mới thành lập vào năm 1967, bộ máy ASEAN còn rất giản đơn, bao gồm 4 đầu mối/cơ
chế chủ yếu:
- Hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM),
- Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) để điều phối các công việc thường nhật của ASEAN giữa các
Hội nghị AMM.
- Các Uỷ ban chuyên trách và các Uỷ ban thường trực gồm các chuyên gia và quan chức trên các
lĩnh vực cụ thể
- Ban thư ký Quốc gia ở mỗi nước thành viên để thay mặt nước mình thực hiện các công việc cuả
Hiệp hội và phục vụ các cuộc họp của ASEAN .
Về sau, với các quyết định của 4 Hội nghị Cấp cao ASEAN các năm 1976, 1977, 1987 và
đặc biệt là vào 1992, cơ cấu tổ chức chung của ASEAN cũng như chức năng của từng bộ phận đã
từng bước được hình thành và củng cố. Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:
1- Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước/chính phủ ASEAN (ASEAN Summit)
2- Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting-AMM)
3- Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM)
4- Hội nghị Bộ trưởng các ngành:
5- Các hội nghị cấp Bộ trưởng hoặc tương đương khác
6- Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng (Join ministerial meeting-JMM)
7- Tổng thư ký ASEAN
8- Uỷ ban thường trực ASEAN ( ASEAN Standing committee-ASC)
9- Cuộc họp các quan chức cao cấp ( Senior Officials Meeting-SOM)
10- Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials Meeting- EOM)
11- Cuộc họp các quan chức cao cấp khác
12- Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting-JCM)

13- Các cuộc họp của ASEAN với các Bên đối thoại
15- Uỷ ban ASEAN ở các nước thứ ba
16- Ban thư ký ASEAN
II. VAI TRỊ CỦA ASEAN:
1.Đối với khu vực Đơng Nam Á:
Có thể nói sự gia đời của ASEAN là bước đầu hình thành một cơ chế chung để đảm bảo an ninh
chính trị,kinh tế, xã hội của các quốc gia Đơng Nam Á.
Nhân dịp kỉ niệm 40 năm thành lập ASEAN, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã thống
nhất đưa ra bản hiến chương của riêng mình, với tên gọi là Hiến chương của hiệp hội các nước
Đông Nam Á. Hiến chương ASEAN là văn kiện pháp lý tổng thể tạo khung pháp lý và khuôn khổ
thể chế nhằm thúc đẩy các hoạt động hợp tác, liên kết khu vực và xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Hiến chương ASEAN xác định mục tiêu phát triển:
1.Duy trì và thúc đẩy hịa bình, an ninh và ổn định và tăng cường hơn nữa các giá trị hướng tới hịa
bình trong khu vực;
2. Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế và
văn hóa - xã hội;
3. Duy trì Đơng Nam Á là một Khu vực khơng có vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí hủy diệt hàng
loạt khác;

4


4. Đảm bảo rằng nhân dân và các Quốc gia thành viên ASEAN được sống hồ bình với tồn thế giới
nói chung trong một mơi trường cơng bằng, dân chủ và hoà hợp;
5. Xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất với sự ổn định, thịnh vượng, khả năng cạnh
tranh và liên kết kinh tế cao, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, bao gồm sự chu chuyển tự do
hàng hóa, dịch vụ và dòng đầu tư; di chuyển thuận lợi của các doanh nhân, những người có chun
mơn cao, những người có tài năng và lực lượng lao động, và sự chu chuyển tự do hơn các dòng vốn;
6. Giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN thông qua hợp tác và giúp đỡ lẫn
nhau;

7. Tăng cường dân chủ, thúc đẩy quản trị tốt và pháp quyền, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền và các
quyền tự do cơ bản, với sự tơn trọng thích đáng các quyền và trách nhiệm của các Quốc gia thành
viên ASEAN;
8. Đối phó hữu hiệu với tất cả các mối đe dọa, các loại tội phạm xuyên quốc gia và các thách thức
xuyên biên giới, phù hợp với nguyên tắc an ninh toàn diện;
9. Thúc đẩy phát triển bền vững nhằm bảo vệ môi trường khu vực, tính bền vững của các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo tồn di sản văn hóa và chất lượng cuộc sống cao của người dân khu vực;
10.Phát triển nguồn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo lâu
dài, trong khoa học và công nghệ, để tăng cường quyền năng cho người dân ASEAN và thúc đẩy
Cộng đồng ASEAN
11.Nâng cao phúc lợi và đời sống của người dân ASEAN thông qua việc tạo điều kiện để họ tiếp cận
bình đẳng các cơ hội về phát triển con người, phúc lợi và công bằng xã hội;
12.Tăng cường hợp tác trong việc xây dựng cho người dân ASEAN một môi trường an tồn, an ninh
và khơng có ma túy;
13.Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân, trong đó khuyến khích mọi thành phần xã
hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây dựng cộng đồng ASEAN;
14.Đề cao bản sắc ASEAN thông qua việc nâng cao hơn nữa nhận thức về sự đa dạng văn hoá và
các di sản của khu vực; và
15.Duy trì vai trị trung tâm và chủ động của ASEAN như là động lực chủ chốt trong quan hệ và hợp
tác với các đối tác bên ngoài trong một cấu trúc khu vực mở, minh bạch và thu nạp.
( Điều 1 – Hiến chương của hiệp hội các nước Đông Nam Á)
Hiến chương ASEAN trở thành một văn kiện có quy chế chính thức, ràng buộc các
thành viên vào một khung pháp lý có giá trị cao. Hiến chương ra đời là một nhu cầu tất yếu khách
quan và là bước chuyển giai đoạn quan trọng của Hiệp hội sau 40 năm tồn tại và phát triển, đồng
thời phản ánh sự trưởng thành của ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của
các nước thành viên ASEAN, nhất là của các vị lãnh đạo, về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết
chặt chẽ, vững mạnh hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương, để hỗ trợ cho mục tiêu hịa bình và phát
triển của cả khu vực cũng như của từng nước thành viên.
Những năm đầu mới thành lập, ASEAN đã chủ trương giải quyết mâu thuẫn và xung đột
bằng thương lượng, xây dựng lịng tin, tạo mơi trường ổn định để hợp tác và phát triển.

Năm 1971, ASEAN đưa ra đề nghị xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hào bình, tự
do và trung lập bằng một bản tuyên bố Kuala Lumpur ( ZOPFAN ), nhằm trung lập hóa Đơng Nam
Á. Với tun bố này ASEAN đã thể hiện rõ cho thế giới biết về một ASEAN giờ đây khơng cịn né
tránh nữa mà đã chính thức cơng khai tư tưởng chính trị của mình.
Tháng 2/1976, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất của ASEAN đã diễn ra tại Bali và thông
qua hai văn kiện quan trọng là: “Tuyên bố hoà hợp ASEAN” và “Hiệp ước thân thiện và hợp tác
Đông Nam Á”. (TAC). “Tuyên bố hoà hợp ASEAN” đã thể hiện mục tiêu là cũng cố tình đồn kết về
chính trị, phối hợp thống nhất quan điểm và hành động.

5


Qua 42 năm tồn tại, ASEAN đã phát huy vai trò to lớn trong việc bảo vệ ổn định và an ninh
khu vực, thúc đẩy sự phồn vinh và phát triển của khu vực, đẩy mạnh hội nhập ở Đông Nam Á và
quốc tế.
a.Trên lĩnh vực an ninh - chính trị:
Tổ chức ASEAN thành lập với mục đích hoạt động nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến
bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực. Thúc đẩy hịa bình ổn định khu vực bằng việc tơn
trọng cơng lý và nguyên tắc pháp luật trong quan hệ giữa các nước trong khu vực, tuân thủ hiến
chương Liên Hợp Quốc; Duy trì sự hợp tác chặt chẽ, cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực
có cùng tơn chỉ và mục đích.
* An ninh:
Hiến chương ASEAN nhấn mạnh biện pháp hàng đầu để giải quyết các tranh chấp giữa
các thành viên ASEAN là thông qua đối thoại, trao đổi ý kiến và thương lượng. Các thành viên
ASEAN cũng thừa nhận một thực tế là có khả năng các bên tranh chấp đã hết sức cố gắng, nhưng
đối thoại, trao đổi ý kiến và thương lượng cũng không thể giúp giải quyết được tranh chấp. Trong
những trường hợp như vậy, Hiến chương quy định các bên có thể thỏa thuận giải quyết các tranh
chấp bằng các phương thức mơi giới, trung gian, hịa giải hoặc trọng tài.
* Phương thức giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN
- Đối thoại, trao đổi ý kiến và thương lượng

Phù hợp với pháp luật quốc tế hiện đại cũng như căn cứ vào truyền thống của ASEAN, Hiến chương
ASEAN nhấn mạnh biện pháp hàng đầu để giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên ASEAN là
thông qua đối thoại, trao đổi ý kiến và thương lượng. Các thành viên ASEAN cũng thừa nhận một
thực tế là có khả năng các bên tranh chấp đã hết sức cố gắng, nhưng đối thoại, trao đổi ý kiến và
thương lượng cũng không thể giúp giải quyết được tranh chấp. Trong những trường hợp như vậy,
Hiến chương quy định các bên có thể thỏa thuận giải quyết các tranh chấp bằng các phương thức
môi giới, trung gian, hòa giải hoặc trọng tài.
- Giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên ASEAN theo các cơ chế đã được quy định trong các
văn kiện liên quan
Một là, đối với các tranh chấp liên quan đến các văn kiện của ASEAN, các thành viên
ASEAN có tranh chấp sẽ giải quyết các tranh chấp theo cơ chế đã được quy định trong các văn kiện
liên quan.
Hai là, đối với các tranh chấp liên quan đến các hiệp định kinh tế của ASEAN mà trong các
hiệp định đó không quy định các thủ tục giải quyết tranh chấp thì Hiến chương xác định các thành
viên ASEAN có tranh chấp sẽ áp dụng các phương thức đã được nêu trong Nghị định thư Viên Chăn
về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp. Như vậy, từ nay về sau khi thỏa thuận các hiệp định
kinh tế mới của ASEAN, các thành viên ASEAN cũng có thể khơng cần có điều khoản về giải quyết
tranh chấp liên quan hiệp định đó.
Ba là, đối với các tranh chấp khơng liên quan các văn kiện của ASEAN thì Hiến chương quy
định các thành viên ASEAN có tranh chấp sẽ áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp đã được
xác định trong Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam á và các quy tắc thủ tục của Hiệp ước
đó.
Bốn là, đối với các tranh chấp liên quan các văn kiện khác của ASEAN mà trong các văn
kiện đó khơng quy định phương thức giải quyết thì Hiến chương quy định sẽ xây dựng các cơ chế
giải quyết thích hợp, kể cả trọng tài.
Năm là, nếu sau khi các phương thức như vậy khơng đem lại kết quả thì các tranh chấp sẽ
được trình lên Hội nghị cấp cao quyết định.

6



* Chính trị:
- Duy trì và thúc đẩy hịa bình, an ninh và ổn định và tăng cường hơn nữa các giá trị hướng tới hịa
bình trong khu vực;
- Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế và văn
hóa - xã hội;
- Duy trì Đơng Nam Á là một Khu vực khơng có vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí hủy diệt hàng
loạt khác;
- Đảm bảo rằng nhân dân và các Quốc gia thành viên ASEAN được sống hồ bình với tồn thế giới
nói chung trong một mơi trường cơng bằng, dân chủ và hồ hợp;
- Tăng cường dân chủ, thúc đẩy quản trị tốt và pháp quyền, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền và các
quyền tự do cơ bản, với sự tơn trọng thích đáng các quyền và trách nhiệm của các Quốc gia thành
viên ASEAN;
- Đối phó hữu hiệu với tất cả các mối đe dọa, các loại tội phạm xuyên quốc gia và các thách thức
xuyên biên giới, phù hợp với nguyên tắc an ninh toàn diện;
- Tăng cường hợp tác trong việc xây dựng cho người dân ASEAN một môi trường an tồn, an ninh
và khơng có ma túy;
- Duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như là động lực chủ chốt trong quan hệ và hợp
tác với các đối tác bên ngoài trong một cấu trúc khu vực mở, minh bạch và thu nạp.
b. Trên lĩnh vực kinh tế:
Phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia trong vùng. Chính sự tương
đồng về vị trí địa- kinh tế, địa- chính trị, ASEAN là một khối kinh tế- thương mại khu vực liên kết
10 quốc gia.. Để có được sự liên kết khu vực về kinh tế, giữa các thành viên ASEAN đã trải qua
những khó khăn và thử thách:
+ Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã phá hoại các nền kinh tế ASEAN, rơi vào
tình trạng đình đốn. Sức hấp dẫn của các nước ASEAN giảm sút, bắt đàu từ tháng 7/1997 các ngân
hàng và các ngành công nghiệp là những nạn nhân đầu tiên và hậu quả là một lượng lớn người lao
động bị mất việc thu nhập giảm xuống. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn và lợi nhuận khỏi
các nước này, cạnh tranh quốc tế xấu đi. Hệ thồng ngân hàng q nhiều yếu kém khơng kiểm sốt
được. FDI chảy vào các nền kinh tế ASEAN giảm 33,6% sau khi đã giảm 12,5% trong năm 1997.

Khủng hoảng cũng ảnh hưởng mậu dịch nội bộ ASEAN. Kim ngạch buôn bán giữa các thành viên
Hiệp hội chỉ tăng 4,7% năm 1997 so với 28,8% năm 1993-1996. Đối với từng thành viên mức
độ ảnh hưởng cũng khác nhau. Hai nước nặng nề nhất là Indonexia và Thái lan. Dự tính GDP Thái
Lan giảm 4,5-5,5%. Kinh tế Indonexia giảm 10% hoặc hơn thế vào năm 1998, trong khi đó lạm phát
lại lên tới 7%-10%. Kinh tế Singapo bị ảnh hưởng nhưng mức độ nhẹ hơn. Các nước khơng có khả
năng thanh tốn nợ.
+ Nhằm thốt khỏi khủng hoảng thì vai trị của ASEAN nói chung và các nước ASEAN nói riêng
được đặt ra. ASEAN kêu gọi các nước thành viên tích cực giúp đỡ lẫn nhau đối phó tai họa
chung. Trong hơi nghị các nhà lãnh đạo ASEAN tổ chức vào 15/12/1997. Họ đã “Nhấn mạnh rằng
các ASEAN cần phải tiếp tục đoàn kết tỏ rõ quyết tâm đối mặt với những khó khăn”.
+ Mặc dù tình hình tài chính rối loạn các nhà lãnh đạo Nhà nước, chính phủ ASEAN vẫn tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN được ra đời tại hội nghị thượng
đỉnh ASEAN làn thứ I năm 1992 tại Singapo), khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và kế hoạch hợp tác
công nghiệp ASEAN (AICO). Các nhà lãnh đạo ASEAN cịn kêu gọi và khuyến khích đầu tư vào
các dự án hạ tầng cơ sở và tăng thu hút của thị trường vốn trong khu vực với các nhà đầu tư quốc tế.
+ Kế hoạch giám sát ASEAN là một cơ chế “Chú trọng đến các rủi ro có thể có, kiến nghị các
chính sách đối phó kịp thời và khuyến khích hành động sớm để tránh rủi ro”.

7


+ Kế hoạch hành động Hà Nội có khung thời gian là 6 năm (1999-2004). Theo kế hoạch này
ASEAN thực thi những biện pháp đẩy nhanh phục hồi kinh tế và tài chính gây ra. Kế hoạch này chia
làm 8 chương trình, chương trình quan trọng liên quan đến kinh tế: tăng cường hợp tác tài chính và
kinh tế vĩ mô, tăng cường hội nhập kinh tế, đẩy mạnh phát triển KH-CN trọng tâm phát triển cơ sở
hạ tầng, giải quyết tác động khủng hoảng kinh tế và tài chính. Động lực chính của kế hoạch này là
tăng cường hội nhập kinh tế lớn hơn và thành lập nhanh một khu vực kinh tế ASEAN.
+ Vai trò của hiệp hội ASEAN tạo sự phục hồi nhanh chóng nền kinh tế, trong đó là nỗ lực
chung của các nước thành viên.
Sau những nỗ lực cải cách phục hồi của từng thành viên ASEAN- những nước vừa trải qua cuộc

khủng hoảng tài chính tiền tệ khá nặng nề với sự vực dậy của nền kinh tế diễn ra với mức độ khác
nhau. Với Thái Lan thì trong tháng 8/1999 các hoạt động xuất nhập khẩu , công nghiệp đã tăng ở
mức 2 chữ số. Công nghiệp chế tạo tăng ở mức 17,7% so với 14,5% trước đó 1 tháng, xuất khẩu tăng
15% so với cùng kì 1998, nhập khẩu tăng 25%, lấy lại được niềm tin của nhà đầu tư. Ỏ Indonexia
các nhà đầu tư nước ngoài lại tiếp tục bỏ vốn vào nền kinh tế. Cuối tháng 5 năm 1998 tổng số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Indonexia đã lên tới 58,20 tỷ USD. Xuất khẩu tăng 20% so với cùng
kỳ năm 1998 đời sống ổn định trở lại. Cũng như Indo và Thái Lan thì nền kinh tế Philipin, Malaixia
cũng có dấu hiệu tăng trưởng. Philipin xuất siêu đạt 60 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu tăng 13,2%
sáu tháng đầu năm 1999 đạt 2,838 tỷ USD. Các nền kinh tế khác của ASEAN kể cả nền kinh tế mới
cũng đều đạt được những thành tựu : Xuất khẩu của Mianma tăng 7,5%, Lào 9%, kinh tế Việt Nam
đạt mức tăng trưởng 5,3%.
+ ASEAN kể từ khi thành lập đã coi hợp tác kinh tế là một trong những nội dung hợp tác chủ
yếu trong hoạt động của hiệp hội. Từ “Tun bố về sự hịa hợp ASEAN” thơng qua năm 1976,
“Tuyên bố Singapo năm 1972” và hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN thông qua
năm 1992 và đến “Tầm nhìn ASEAN năm 2020”, thơng qua năm 1997.
+ Các chương trình hợp tác của ASEAN với tổ chức là một cộng đồng khu vực mậu dịch tự do được
thông qua như hợp tác về thương mại thỏa thuận ưu đãi thương mại rồi đến khu vực mậu dịch tự do
ASEAN. Tại hội nghị cấp cao ở Bali (Indonexia) (7/10/2003), đã quyết định xây dựng ASEAN
thành một cộng đồng kinh tế (AEC) vào năm 2020 theo đó ASEAN sẽ trở thành một thị trường
duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất có sự chu chuyể tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và nhân
cơng có tay nghề. ASEAN cũng sẽ hợp tác và liên kết chặt chẽ hơn trong các lĩnh vực kinh tế chuyên
ngành, công nghệ khoa học, phát triển nhân lực thể chế. Như vậy với tiến trình này trong hai thập
niên tới, ASEAN sẽ tiến gần hơn về phía một thị trường chung theo khuynh hướng “mở”, với hình
thái liên kết kinh tế với đối tác bên ngoài. Các khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc,
ASEAN - Ấn Độ (AIFTA), ASEAN – Nhật Bản (AJCEP/FTA); hợp tác và liên kết kinh tế ASEAN
–EU, ASEAN –MỸ, khu vực mậu dịch tự do ASEAN –Mỹ và khu vực mậu dịch tự do Đông Á
(EAFTA) trong tương lai sẽ tạo mạng lưới dày đặc liên kết có tâm là ASEAN.
3. Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
Cộng đồng Văn hoá Xã hội ASEAN đã giúp tạo ra một "xã hội quan tâm lẫn nhau" trong khu
vực với cam kết chống đói nghèo, bệnh tật và bảo vệ mơi trường. Công dân ASEAN đang cố gắng

hiểu nhau tốt hơn thông qua một loạt các sáng kiến về văn hoá xã hội. Ví dụ Trại hè Thanh niên
ASEAN và Diễn đàn Văn hố Thanh niên ASEAN tạo cơ hội tìm hiểu văn hoá lẫn nhau giữa thanh
niên ASEAN để giúp họ phát triển sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc về sự đa dạng văn hoá cũng như
hiểu biết rõ hơn về cộng đồng ASEAN. Một thí dụ minh hoạ khác là trong lĩnh vực giáo dục. Các
sinh viên và giảng viên của các trường đại học ASEAN đang tăng cường giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm thông qua các chương trình như các khố nghiên cứu ASEAN, trao đổi nghiên cứu và biệt
phái viện sỹ. Các Bộ trưởng giáo dục ASEAN cũng đang hợp tác về đào tạo giáo viên và phát triển

8


chương trình giảng dạy, đặc biệt là chia sẻ kinh nghiệm về phát triển cộng đồng đa sắc tộc, đa văn
hoá.
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng các nước ASEAN hầu hết là các nước đang phát
triển, sinh sống trên 1 khu vực địa lý không lớn và các dân tộc đều có nguồn gốc gần gũi với nhau,
có sự giao lưu với nhau từ rất sớm với nền văn hóa có những sự tương đồng nhất định giữa các quốc
gia trong khu vực. Chính điều này làm cho mối giao lưu văn hóa – xã hội trong ASEAN rất dễ thực
hiện. Nó ngày càng đóng vai trị quan trọng giúp các quốc gia trong khối có cơ hội hiểu nhau hơn,
giúp cho việc đoàn kết trong khối tốt hơn. Việc này được các quốc gia trong khối hết sức khuyến
khích…
Kể từ khi chính thức được thành lập ngày 08.08.1967 tại Bangkok. Tuy rằng Tuyên bố Băng
Cốc năm 1967 là bản tuyên ngôn thành lập ASEAN nêu rõ 7 mục tiêu trong phát triển kinh tế và văn
hóa hợp tác thúc đẩy tiến bộ xã hội của các thành viên trên tinh thần duy trì hịa bình và ổn định khu
vực. Nhưng trên thực tế thì vấn đề văn hóa xã hội vẫn chưa được ASEAN quan tâm vì tuy đề ra mục
tiêu hợp tác về kinh tế và xã hội, nhưng do tình hình chiến tranh Đơng Dương, vấn đề chính trị và an
ninh khu vực lại trở thành mục tiêu đặc biệt quan trọng, chi phối hoạt động của ASEAN trong một
phần tư thế kỷ tiếp theo.
Sau chiến tranh VN, Mỹ rút quân ra khỏi ĐNA và từ đó các hoạt động chung của ASEAN
cũng như những hoạt động về Văn hóa – Xã hội đã được chú trọng hơn trước rất nhiều. Nhất là khi
Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác giữa các nước ASEAN được kí tại Bali tháng 2 năm 1976 (hay cịn

gọi là Hiệp ước Bali 1) thì những hoạt động văn hóa – xã hội của ASEAN đã được tổ chức 1 cách
thực tế hơn. Các nước thành viên cam kết làm hết sức mình để đẩy mạnh hợp tác đa phương và song
phương trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hố, khoa học, kĩ thuật, hành chính và các vấn đề
khác trên cơ sở bình đẳng, khơng phân biệt đối xử, cùng có lợi, thúc đẩy sự nghiệp hồ bình, hồ
hợp và ổn định trong khu vực, tự cường khu vực, tự tin, tự lực cánh sinh, công bằng xã hội, nâng cao
đời sống của nhân dân; duy trì các cuộc tiếp xúc và tham khảo ý kiến thường xuyên với nhau về các
vấn đề quốc tế và khu vực nhằm phối hợp quan điểm, hành động và chính sách…
Rất nhiều hoạt động về văn hóa xã hội đã được ASEAN tổ chức. Ví dụ có thể kể đến như
Tàu thành niên ASEAN, Liên hoan văn hóa thanh niên ASEAN, Lễ hộ ẩm thực ASEAN, Hội thi tay
nghề ASEAN… Những hoạt động này góp phần rất lớn vào sự hiểu biết lẫn nhau cũng như nâng cao
trình độ và khả năng của các thành viên trong khối. Mặt khác, các hoạt động văn hóa – xã hội khác
cũng rất được ASEAN chú trọng, như các hoạt động giáo dục; chống khủng hoảng tài chính tồn
cầu; chống biến đổi khí hậu; y tế và dịch bệnh bởi đây là những vấn đề ảnh hưởng rất lớn tới các
nước thành viên vì phần lớn các nước ASEAN đều là các nước đang phát triển.
Có rất nhiều hoạt động, dự án, chương trình hợp tác trong ASEAN về các lĩnh vực phát triển
nhân lực, an toàn vệ sinh lao động, lao động di cư, đào tạo nghề, lao động việc làm, bảo hiểm xã hội,
chăm sóc người cao tuổi, khuyến trợ cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật, giải quyết nạn bạo lực
gia đình, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, phát triển mơ hình chăm sóc dựa vào
cộng đồng cho các nhóm yếu thế…
+ Về phát triển con người, ASEAN sẽ nâng cao cuộc sống và đời sống của người dân ASEAN
thông qua tạo cách tiếp cận động đồng đều đối với các cơ hội phát triển con người, thúc đẩy và đầu
tư vào giáo dục và học tập suốt đời, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao năng lực, khuyến khích đổi
mới và tinh thần doanh nghiệp, thúc đẩy sử dụng công nghệ thông tin và khoa học và công nghệ ứng
dụng trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
+ Về phúc lợi và bảo hiểm xã hội, sẽ cam kết nâng cao mức sống và điều kiện sống của người dân
ASEAN thơng qua xóa đói giảm nghèo, bảo đảm phúc lợi và BHXH, xây dựng một mơi trường an
tồn, tin cậy và không ma tuý, nâng cao khả năng bền vững trước thảm họa và giải quyết những mối
quan tâm và y tế.

9



+ Về quyền và bình đẳng xã hội, cam kết thúc đẩy bình đẳng xã hội và lồng ghép quyền của người
dân vào chính sách của mình và mọi mặt của đời sống, bao gồm quyền và phúc lợi của các nhóm bị
thiệt thịi, dễ bị tổn thương và bị gạt ra bên lề xã hội như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người
khuyết tật và lao động di cư. Nâng cao năng lực các thiết chế quốc gia về bình đẳng giới và phát
triển phụ nữ thơng qua các hoạt động tuyên truyền, hội nghị, hội thảo theo lịch của Ủy ban; phối hợp
với các cơ quan liên quan tham gia qúa trình thành lập Ủy ban Quyền phụ nữ và Trẻ em ASEAN.
+ Về đảm bảo môi trường bền vững, sẽ hướng tới việc đảm bảo môi trường xanh và trong quản lý
và bảo tồn bền vững dầu mỏ, nguồn nước, khoáng sản, năng lượng, đa dạng sinh học, rừng, các tài
nguyên biển và ven bờ cũng như thúc đẩy việc đảm bảo chất lượng nguồn nước và khơng khí cho
khu vực ASEAN. ASEAN sẽ tích cực tham gia vào các nỗ lực tồn cầu nhằm góp phần giải quyết
những thách thức mơi trường tồn cầu trong đó có biến đổi khí hậu, bảo vệ tầng ơ-zơn cũng như phát
triển và ứng dụng công nghệ thông tin thân thiện với mơi trường vì nhu cầu bảo vệ môi trường bền
vững.
+ Về tạo dựng bản sắc ASEAN, xác định bản sắc ASEAN là cơ sở của lợi ích khu vực Đông Nam
Á. Đây là nhân cách, chuẩn mực, giá trị và tín ngưỡng chung nên ASEAN sẽ lồng ghép và nâng cao
hơn nữa nhận thức về ASEAN và giá trị chung theo tinh thần thống nhất trong đa dạng ở mọi tầng
lớp xã hội.
+ Về thu hẹp khoảng cách phát triển, sẽ thu hẹp khoảng cách phát triển đặc biệt khía cạnh xã hội
của phát triển giữa ASEAN-6 và các nước Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam và trong ASEAN
nơi một số nhóm biệt lập sống dưới mức phát triển vẫn còn tồn tại.
Theo Hiến chương ASEAN mới được thông qua, các nước sẽ xây dựng cộng đống văn hóa –
xã hội vào năm 2015. Hi vọng sau khi xây dựng thành cơng cộng đồng văn hóa – xã hội thì các hoạt
động cũng như vai trị trên mặt này của ASEAN đối với các nước thành viên sẽ ngày càng được tăng
cường…
III. VAI TRÒ CỦA ASEAN VỚI KHU VỰC CHÂU Á VÀ THẾ GIỚI
Trước đây, ASEAN chỉ có Mỹ và Tây Âu là các bên đối thoại thì nay mở rộng ra cả Nhật
Bản, Trung Quốc, Nga… . Điều này đã rằng buộc các nước lớn đảm bảo cho Đơng Nam Á hồ
bình và phát triển.

Từ ngày 14 đến 16/12/1997, tại Kuala Lumpur, lần đầu tiên tổ chức các cuộc họp cấp cao
khơng chính thức giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc và ASEAN với từng
nước và đưa ra tuyên bố chung cấp cao ASEAN – Trung Quốc, ASEAN - Nhật Bản, ASEAN – Hàn
Quốc. Điều này nhằm phát triển quan hệ giữa ASEAN và các nước Đơng Á.
Nhằm tăng cường hồ bình và an ninh thế giới, ASEAN đã thúc đẩy mối quan hệ với Liên
Hợp Quốc. Tuyên bố Singapo năm 1992 đã khẳng định: “ASEAN sẽ tham gia tích cực vào mọi cố
gắng nhằm đảm bảo cho LHQ là công cụ then chốt để duy trì hồ bình và an ninh quốc tế, ASEAN
sẽ khuyến khích mọi cố gắng nhằm tăng cường vai trị và khả năng của LHQ trong việc gìn giữ và
kiến tạo hồ bình phù hợp với Hiến chương LHQ”. Tại các cuộc họp hàng năm của Đại hội đồng
LHQ các ngoại trưởng ASEAN đều tổ chức họp, thống nhất lập trường về những vấn đề quốc tế và
khu vực và cùng trao đổi với Chủ tịch Đại hội đồng và Tổng thư kí LHQ về các vấn đề cùng quan
tâm.
Trong mối quan hệ giữa ASEAN và EU đã diễn ra những cuộc đối thoại từ những năm
1978 về những vấn đề cùng quan tâm như: giải trừ quân bị, tầm quan trọng của Hiệp ước không phổ
biến vũ khí hạt nhân. Qua đó phát triển tồn diện mối quan hệ Á – Âu.
“ASEAN – trái tim của một châu Á năng động”, câu khẩu hiệu đó đã cho chúng ta thấy vai trò
ngày càng quan trọng của ASEAN đối với châu Á cũng như toàn thế giới…

10


ASEAN đã phát huy vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hịa bình, ổn định và phát
triển khơng chỉ ở Đơng Nam Á mà cịn cả khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. ASEAN đã
khơng ngừng mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác với các bên đối thoại, khởi xướng thành cơng
và đóng vai trị quan trọng tại nhiều diễn đàn đối thoại và hợp tác ở khu vực như ASEAN+3,
ASEAN+1, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Á - Âu (ASEM), và mới đây là Hội nghị
cấp cao Đông Á (EAS), thông qua đó tạo điều kiện để các nước bên ngồi tham gia và đóng góp xây
dựng vào q trình hợp tác ở khu vực, hỗ trợ mục tiêu củng cố hòa bình và phát triển của ASEAN.
ASEAN có nhiều thành cơng về mặt chính trị vì trong một Châu Á có nhiều cường quốc
kinh tế mới nổi lên như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản thì Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) được

ASEAN thành lập năm 1994 là nơi duy nhất để các cường quốc gặp gỡ thường xuyên, thoải mái và
thể hiện quyền lực của mình, là diễn đàn an ninh đa phương duy nhất tại khu vực châu Á để các quốc
gia trong khu vực có thể trao đổi rộng rãi với nhau các mối quan tâm cũng như quan ngại về an ninh,
chính trị. Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) do ASEAN tạo lập là cơ chế đối thoại an ninh duy
nhất tại châu Á đã thu hút sự tham gia của hầu hết các cường quốc trên thế giới như Mỹ, EU,
Nhật, Nga, Trung Quốc, Canada, Úc, New Zealand v.v...Cơ chế này có vai trị tích cực trong việc
duy trì hịa bình, an ninh và ổn định ở khu vực Châu Á và có thể coi nó là trung tâm của việc
phát triển kiến trúc an ninh khu vực. Hiệp định Thân thiện và Hợp tác (TAC) của ASEAN còn
thu hút được sự tham gia của Ấn Độ, Úc, New Zealand, Trung Quốc. EU gần đây cũng bày tỏ ý định
tham gia vào hiệp định TAC. Như vậy, mặc dù khơng có sức mạnh vật chất như Trung Quốc và
Nhật Bản trong khu vực, nhưng sức mạnh mềm, hay nói cách khác là các sáng kiến, cơ chế ngoại
giao và giá trị của ASEAN đã được các nước bên ngoài khu vực ghi nhận và sử dụng. Vì vậy,
ASEAN đóng vai trị cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra một diễn đàn khu vực tốt và rộng rãi. ARF
sẽ tiếp tục là diễn đàn chính cho đối thoại an ninh khu vực trong đó ASEAN đóng vai trị là
động lực chính. Rõ ràng trong bối cảnh các quốc gia châu Á cũng như ngoài châu Á có nhiều lợi ích
đan xe, vẫn có nhiều sự nghi kị về an ninh, chính trị thì việc có 1 diễn đàn như ARF là 1 nơi rất tốt
để các quốc gia có thể thảo gỡ những bất đồng, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Đây là một sự
đóng góp rất lớn về mặt chính trị của ASEAN với khu vực.
Ngồi việc tổ chức rất thành cơng ARF và biến nó trở thành trung tâm của việc phát triển
kiến trúc an ninh khu vực, ASEAN ngày càng thể hiện vai trị trung tâm của mình trong việc liên kết
khu vực. Có thể kể ở đây đó chính là việc ASEAN đã là trung tâm trong việc tổ chức và liên kết
các quốc gia trong Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) với 10 nước ASEAN và các nước liên
kết như Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia, NewZealand, Nga. EAS sẽ là một diễn đàn đối thoại
rộng rãi về các vấn đề chiến lược, chính trị và kinh tế, hướng tới mục tiêu thúc đẩy hịa bình, ổn định
và thịnh vượng ở Đông Á; EAS là một phần của cấu trúc khu vực, hỗ trợ các diễn đàn và tiến trình
hiện có, nhất là với khn khổ hợp tác ASEAN + ba nước Đông Á; EAS sẽ là một tiến trình mở,
thu nạp, minh bạch và hướng ngoại, với ASEAN giữ vai trị chủ đạo.
ASEAN ngồi việc là trung tâm liên kết của khu vực Đơng Á cịn liên kết với nhiều khu vực
khác mà tiêu biểu là liên kết với Liên minh châu Âu (EU). Đó chính là Diễn đàn hợp tác kinh tế Á –
Âu (ASEM). Việc hình thành diễn đàn này có sự đóng góp rất lớn từ ASEAN và nó có vai trị rất

to lớn trong việc thúc đẩy đối thoại chính trị để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và thống
nhất quan điểm của hai châu lục đối với các vấn đề chính trị và xã hội của thế giới; xây dựng quan
hệ đối tác một cách toàn diện và sâu rộng giữa hai châu lục Á, Âu để thúc đẩy trao đổi thương mại
và đầu tư giữa các nước thành viên; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, môi
trường, phát triển nguồn nhân lực... để tạo sự tăng trưởng bền vững ở cả châu Á và châu Âu.
Trong Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, vai trị của ASEAN ngày càng
có tiếng nói quan trọng. Các thành viên của khối chiếm 6/12 thành viên sáng lập và hiện chiếm 1/3
tổng số thành viên của ASEM. Có thể nói, hiện nay ASEAN đang đóng vai trị điều phối viên các

11


hoạt động của APEC vì các nước lớn có thể tìm thấy sự yên tâm khi tiếp xúc với nhau qua ASEAN
do vẫn cịn những nghi kị, bất đồng khó có thể giải quyết 1 sớm 1 chiều…
ASEAN sẽ có lợi từ quá trình cải cách các thể chế quốc tế hiện nay nhằm thể hiện vai trị và
vị trí đang lên của Châu Á. Qủa thực cơ cấu thể chế quốc tế hiện nay chưa thể hiện được vai trò của
Châu Á. Chẳng hạn, vẫn như trước đây, người đứng đầu các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế
giới và Qũy tiền tệ quốc tế phải là người Mỹ và người Châu Âu cho dù sức mạnh kinh tế của các
nước Châu Á đã khác trước. Cơ chế G7 khơng có sự tham gia chính thức của Trung Quốc, Ấn Độ
như hiện nay cũng khó có thể quản trị tốt được mọi vấn đề quốc tế. Trong tương lại không xa, các tổ
chức và cơ chế quốc tế sẽ cần phải được cải tổ lại theo hướng trao quyền quản trị các vấn đề khu vực
và thế giới cho các nước Châu Á. ASEAN chắc chắn sẽ được hưởng lợi từ xu hướng này và sẽ có
ảnh hưởng ngày càng lớn trong các vấn đề quốc tế. Thực tế, với việc lập cơ chế ASEAN+3 và đi
đầu trong việc thiết lập cơ chế Hội nghị thượng định Đông Á (EAS) như thời gian vừa qua,
ASEAN cho thấy năng lực thiết lập cơ chế quốc tế để quản trị các vấn đề tồn cầu.
Với vị trí nằm ở sườn đông nam của châu Á, chặn ngay yết hầu tuyến hàng hải huyết mạch
nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Đơng Nam Á là khu vực có vị trí chiến lược có nhiều
tuyến đường biển đặc biệt quan trọng với thương mại thế giới, cũng như có nhiều than, dầu khí và
nhiều hàng hóa khác.
Đơng Nam Á với gần 600 triệu dân và GDP đạt 1.100 tỉ USD nên ngày càng có vai trị

quan trọng trong nền kinh tế thế giới, không những là các đối tác thương mại lớn với các quốc gia
trên thế giới mà còn là 1 trong những nhân tố ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự liên kết
kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực do nằm trong khu vực có các nền kinh tế phát triển năng
động. Các nền kinh tế ASEAN cũng có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hơn tỷ lệ trung bình thế giới, ở
mức 5,9% so với 5,1% tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình của thế giới năm 2006. Chỉ trong vài năm
qua, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các nước ASEAN.
Một số nước ASEAN còn tranh thủ được nguồn đầu tư tăng lên của Nhật Bản do Nhật Bản áp dụng
chiến lược “Trung Quốc+” để tăng đầu tư vào ASEAN nhằm tránh rủi ro của việc quá tập trung hợp
tác với Trung Quốc.
Cũng giống như trong lĩnh vực chính trị, ASEAN ngồi vai trò ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế thế giới cũng là tác nhân chính để liên kết kinh tế giữa các quốc gia trong
khu vực. Cơ chế ASEAN + 3 đang là 1 cơ chế liên kết kinh tế rất hiệu quả giữa ASEAN với Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Ngay từ đầu, ASEAN được thừa nhận là “lực lượng cầm lái”, người
điều phối của tiến trình hợp tác ASEAN + 3. Trong vai trò này, ASEAN tiến hành tổ chức, lập
chương trình nghị sự cho các hội nghị ASEAN + 3 ở các cấp độ khác nhau. Trong mười năm qua,
ASEAN đã tiến hành các hoạt động quan trọng đóng góp vào sự phát triển hợp tác ASEAN + 3, đặc
biệt là việc thể chế hoá tiến trình này, tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Đơng Á lần đầu tiên. Cơ chế
này đã giúp cho kinh tế của ASEAN cũng như các nước trên có thêm sự phát triển mạnh mẽ khi
hàng hóa cũng như vốn được lưu chuyển dễ dàng giữa các nước. Mặt khác, khu vực mậu dịch tự do
giữa ASEAN và các nước lớn trong khu vực đang dần được hình thành cũng giúp cho ASEAN nâng
cao đáng kể vai trị của mình trong nền kinh tế khu vực cũng như thế giới. Cộng đồng Đơng Á cũng
là 1 sáng kiến cực kì quan trọng của ASEAN trong liên kết kinh tế khu vực. Tuy nó chưa trở
thành hiện thực nhưng rõ ràng điều này cho thế vai trò của ASEAN ngày càng quan trọng trong việc
phát triển cũng như liên kết kinh tế khu vực…
ASEAN cịn có 1 vai trị nhất định về văn hóa – xã hội đối với khu vực châu Á và thế giới.
ASEAN đã tích cực xây dựng nhiều chương trình hoạt động nhằm kết nối VHXH với các nước
trong khu vực châu Á và thế giới, tăng cường thêm sự hiểu biết giữa các quốc gia. Các hoạt động
đó như Tàu thanh niên ASEAN – Nhật Bản, Hội trại các dân tộc ASEAN – Trung Quốc… hay gần

12



đây nhất là năm giao lưa văn hóa Mê Kơng – Nhật Bản đã làm cho sự liên kết về văn hóa của
ASEAN với các quốc gia ngồi khối thêm bền chặt. ASEAN cũng rất tích cực tham gia vào các
hoạt động khác như giáo dục; chống khủng hoảng tài chính tồn cầu; chống biến đổi khí hậu; y tế
và dịch bệnh cũng như bình đẳng giới, bình đẳng xã hội cũng như phát triển quyền con người, thu
hẹp khoảng cách phát triển, giải quyết các vấn đề liên quan đến các thảm hoạ tự nhiên (như động đất
và sóng thần), sự lan truyền các dịch bệnh (như SARS, cúm gia cầm và HIV và AIDS) theo một
cách thức hiệu quả hơn thông qua việc hợp tác tốt hơn và cơ chế sẵn sàng đối phó với tình trạng
khẩn cấp.… Các quốc gia trên thế giới cũng như các tổ chức quốc tế ngày càng đánh giá cao vai
trò của ASEAN trong lĩnh vực này…
IV. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA ASEAN:
Những NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA ASEAN được xây dựng trên tinh thần và nguyên tắc
của Hiến chương LHQ, 10 nguyên tắc của hội nghị Á – Phi ( Băng Dung ) và các nguyên tắc đã
được nêu ra trước đó của ASEAN.
1.Từ khi ra đời đến trước hiệp ước Bali 1976:
Khi mới thành lập vào năm 1967, bộ máy ASEAN còn rất giản đơn, bao gồm 4 đầu
mối/cơ chế chủ yếu: Hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM), một
Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) để điều phối các công việc thường nhật của ASEAN giữa các
Hội nghị AMM. Các Uỷ ban chuyên trách và các Uỷ ban thường trực gồm các chuyên gia và quan
chức trên các lĩnh vực cụ thể và Ban thư ký Quốc gia ở mỗi nước thành viên để thay mặt nước mình
thực hiện các cơng việc cuả Hiệp hội và phục vụ các cuộc họp của ASEAN.
Nhìn chung, những hoạt động trong thời kì này của ASEAN cịn rất mờ nhạt. Do chúng
ta thấy rõ ràng ASEAN khơng có Hiến chương riêng, trong 9 năm đầu ASEAN khơng có một Ban
thư ký để phối hợp hoạt động của mình. Chính vì khơng có 1 Hiến chương riêng, khơng có 1 Ban
thư kí chung để phối hợp hoạt động giữa các thành viên nên cho dù khi Tuyên bố Băng cốc đã nói rõ
những mục tiêu của ASEAN nhưng rõ ràng các hoạt động của ASEAN còn rất nhiều sự lúng túng,
không đi vào thực chất cũng như không giúp gì được nhiều cho các thành viên trong các vấn đề kinh
tế - văn hóa – xã hội như mục tiêu đã đề ra. Thêm nữa, việc chiến tranh Đông Dương ngày càng lan
rộng cũng như việc các cường quốc ngày càng can dự mạnh mẽ hơn vào cuộc chiến tranh này đã

khiến cho ASEAN xa rời các mục tiêu kinh tế - xã hội như ban đầu mà dần sa đà vào vấn đề chính
trị và an ninh khu vực vì do điều kiện lịch sử khi ấy, nó đã trở thành mục tiêu đặc biệt quan trọng,
chi phối hoạt động của ASEAN trong một phần tư thế kỷ tiếp theo.
2.Theo hiệp ước Bali:
Sau gần ba thập kỷ tồn tại và phát triển, các Quốc gia thành viên ASEAN đã dần cùng nhau
xây dựng và khẳng định các nguyên tắc chính làm cơ sỏ cho quan hệ trong nội bộ và Quốc gia thành
viên của Hiệp hội và giữa các nước này với các nước khác trong và ngoài khu vực. Những nguyên
tắc đó đã được phản ánh trong nhiều văn kiện được ASEAN thông qua. Nổi lên là:
a. Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN nhấn mạnh u cầu ln ln tn thủ 6 ngun
tắc chính đã được nêu trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đơng Nam Á, cịn gọi là Hiệp ước
Bali hay TAC (Treaty of Amity and Coopearation), ký tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ I
tại Bali ngày 24-2-1976 là:
- Cùng tơn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, tồn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các
dân tộc.
- Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình mà khơng có sự can thiệp, lật
đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài.
- Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

13


- Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hồ bình.
- Lên án việc đe doạ hoặc sử dụng vũ lực.
- Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
b. Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội:
- Việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như trong các lĩnh vực quan trọng của
ASEAN dựa trên nguyên tắc nhất trí (consensus), tức là một quyết định chỉ được coi là của ASEAN
khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thơng qua. Ngun tắc này địi hỏi phải có q trình đàm
phán lâu dài, nhưng bảo đảm được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây
là một nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của ASEAN .

- Một nguyên tắc quan trọng khác chi phối hoạt động của ASEAN là nguyên tắc bình đẳng. Nguyên
tắc này thể hiện trên 2 mặt. Thứ nhất, các nước ASEAN , không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều
bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia xẻ quyền lợi. Thứ hai, hoạt động của tổ
chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, tức là các chức chủ toạ các cuộc họp của ASEAN
từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cho các cuộc họp đó được phân đều cho các
nước thành viên trên cơ sở luân phiên theo vần A,B,C của tiếng Anh.
- Để tạo thuận lợi và đẩy nhanh các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN , trong Hiệp định khung
về tăng cường hợp tác kinh tế ký tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 ở Xin-ga-po 2/1992, các
nước ASEAN đã thoả thuận nguyên tắc 6-X, theo đó hai hay một số nước thành viên ASEAN có thể
xúc tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu các nưóc cịn lại chưa sẵn sàng tham gia, không cần
phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.
c. Các nguyên tắc khác:
Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số các ngun tắc, tuy khơng
thành văn, khơng chính thức song mọi người đều hiểu, tôn trọng và tự giác áp dụng như:
- Nguyên tắc "cho và nhận", có đi có lại (give and take): Theo nguyên tắc này, trong quá trình hợp
tác giữa các nước ASEAN , nếu nước A nhân nhượng nước B một vấn đề này thì nước B đến lượt
mình, trong một dịp khác, sẽ đáp lại bằng một nhân nhượng khác cho nước A. Đây có thể gọi là
nguyên tắc quân tử trong quan hệ giữa các nước ASEAN ;
- Nguyên tắc tế nhị, lịch sự, khơng gây đối đầu, có thái độ hữu nghị, thân thiện;
- Nguyên tắc ngoại giao thầm lặng, cá nhân, khơng tun truyền tố cáo qua báo chí;
- Ngun tắc giữ gìn đồn kết ASEAN , giữ bản sắc chung của tổ chức này.
3. Theo Hiến chương ASEAN:
Ngày 20/11/2007, các nhà lãnh đạo ASEAN họp tại Singapore đã ký bản hiến chương
đầu tiên của khối, nhằm thiết lập một khuôn khổ luật pháp và thể chế chung của ASEAN. Lần
đầu tiên sau 40 năm tồn tại, các nhà lãnh đạo ASEAN đã cùng đặt bút ký vào bản Hiến chương
ASEAN, đặt nền móng về pháp lý cho q trình vận hành của hiệp hội. Việc ký kết bản hiến chương
ngày 20/11 được coi là bước tiến lớn tới việc thể chế hóa cuộc "hội nhập sâu" của khối khi đưa ra
những cơ sở pháp lý về trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi thành viên, định hướng quan hệ với các đối
tác bên ngồi…
Với bản hiến chương này, ASEAN sẽ có đủ tư cách pháp lý ký các công ước quốc tế, cho

phép nâng cao vai trò của khối. Cơ chế điều hành của ASEAN là tổng thư ký và ban thư ký cũng
được củng cố nhằm đảm bảo việc điều phối giữa các ủy ban, các bộ phận được tiến hành tốt hơn.
Ngồi ra, sẽ có bốn phó tổng thư ký được chỉ định nhằm hỗ trợ tổng thư ký. Hiến chương cũng đưa
ra đề xuất là hội nghị thượng đỉnh của khối được tiến hành hai lần/năm để các lãnh đạo có thêm thời
gian bàn bạc các vấn đề của khối. Và cũng lần đầu tiên, một tổ chức theo dõi về nhân quyền của khối
sẽ được thành lập.

14


Hiến chương ASEAN cũng đã đề ra các nguyên tắc cơ bản của ASEAN . Đó là những tư
tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung đối với các quốc gia
thành viên.Các nguyên tắc hoạt động của ASEAN theo Hiến chương ASEAN bao gồm :
(a) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, tồn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả
các Quốc gia thành viên
Chủ quyền là thuộc tính chính trị- pháp lý khơng thể tách rời của mỗi quốc gia. Trong phạm
vi lãnh thổ của mình, quốc gia thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà khơng có bất
kỳ sự can thiệp nào từ bên ngồi , thơng qua những quyết định về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội nhưng phải trên cơ sở ý chí chủ quyền của nhân dân. Sự thực hiện chủ quyền quốc gia
chỉ có thể trọn vẹn khi quốc gia vừa đạt được lợi ích của mình mà khơng xâm phạm đến lợi ích hợp
pháp của các quốc gia khác.
Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các
quốc gia thành viên là nền tảng quan trọng nhất trong hệ thống các nguyên tắc hoạt động cơ bản của
ASEAN. Đó là cơ sở để các quốc gia thành viên phát triển mọi mặt theo xu hướng ổn định, hội nhập,
tiến bộ.
(b) Cùng cam kết và chia sẻ trách nhiệm tập thể trong việc thúc đẩy hịa bình, an ninh và thịnh
vượng ở khu vực;
Các quốc gia thành viên phải ký các cam kết về bảo vệ hịa bình, an ninh trong khu vực và
phải tuân thủ thực hiện những điều ước đã ký. Bất kỳ việc xâm phạm hịa bình, an ninh giữa các
quốc gia trong khu vực đều bị coi là vi phạm nguyên tắc của ASEAN và phải chịu hậu quả về việc

xâm phạm này.
(c) Không xâm lược, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay các hành động khác dưới bất kỳ
hình thức nào trái với luật pháp quốc tế;
Như chúng ta đã biết, trong luật quốc tế, việc một chủ thể dung các loại sức mạnh nhằm
khống chế, đe dọa tấn công, tấn công hoặc cưỡng bức trái pháp luật quốc tế đối với một chủ thể khác
trong quan hệ quốc tế là hành vi vi phạm luật quốc tế.
Trên tinh thần của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hiến chương ASEAN đã nhấn mạnh hơn nữa tới
nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải khước từ mọi hành động xâm lược, việc sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống lại sự bất khả xâm phạm lãnh thổ, biên giới của các quốc gia
khác.
(d) Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hịa bình
Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp ln là khả năng tiềm ẩn, phát sinh từ các mối quan hệ
giữa các quốc gia . Nguyên nhân xảy ra tranh chấp là sự va chạm xung đột về quyền lợi giữa các
quốc gia , sự khác biệt về đường lối chính trị, kinh tế giữa các quốc gia hoặc nhóm các quốc gia và
cả sự khác biệt về cách nhìn nhận, giải quyết các vấn đề pháp lý quốc tế.
Hiến chương Asean đã ghi nhận giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hịa bình là
ngun tắc bắt buộc chung nhất, theo đó tất cả các quốc gia trong khối Asean phải có nghĩa vụ giải
quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hịa bình. Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện
pháp hịa bình để giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. Cùng với sự phát triển
các quá trình hội nhập khu vực và hợp tác quốc tế, những biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua
các tổ chức khu vực như Asean sẽ đem đến những kết quả tích cực, góp phần vào việc bảo vệ hịa
bình, an ninh quốc tế.
(e) Không can thiệp vào công việc nội bộ của các Quốc gia thành viên ASEAN;
Nguyên tắc này cũng bắt buộc các quốc gia thành viên có nghĩa vụ không can thiệp vào công
việc của các quốc gia khác. Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại
chủ quyền, nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của các quốc gia.

15



Cấm dùng các biện pháp kinh tế chính trị, và các biện pháp khác để bắt buộc các quốc gia
khác phụ thuộc vào mình.
Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của
các quốc gia khác.
Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của các quốc gia khác.
(f) Tôn trọng quyền của các Quốc gia thành viên được quyết định vận mệnh của mình mà
khơng có sự can thiệp, lật đổ và áp đặt từ bên ngoài;
Nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc
gia thành viên Asean. Mỗi quốc gia đều có quyền tự lựa chọn cho mình chế độ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội phù hợp với nguyện vọng của dân tộc. Các quốc gia thành viên trong khối Asean phải có
nghĩa vụ tuân thủ nguyên tắc này.
(g) Tăng cường tham vấn về các vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích chung của
ASEAN
Lợi ích của cả khu vực luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các buổi họp của các
nhà lãnh đạo của các quốc gia. Bởi vậy, những vấn đề quan trọng có liên quan đến lợi ích của khu
vực phải được các quốc gia nêu ra bàn luận, tham vấn, tìm cách giải quyết phù hợp nhất nhằm bảo
đảm quyền lợi của các quốc gia trong khu vực.
(h) Tuân thủ pháp quyền, quản trị tốt, các nguyên tắc của nền dân chủ và chính phủ hợp hiến;
Mỗi quốc gia đều có chế độ chính trị riêng của mình. Tuy nhiên, dù chế độ chính trị có khác
nhau nhưng từng thành viên phải luôn tuân thủ các nguyên tắc của nền dân chủ, chính phủ hợp hiến,
bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của nhân dân được thực hiện đầy đủ, mang lại lợi ích cho tồn thể
dân tộc.
(i) Tôn trọng các quyền tự do cơ bản, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, và công bằng xã hội;
Một nguyên tắc mới không được quy định trong hiệp ước Bali nhưng đến bản hiến chương
Asean này đã được quy định đó là ngun tắc tơn trọng và bảo vệ nhân quyền. Nguyên tắc này quy
định nghĩa vụ các quốc gia đối với các vấn đề về quyền con người, bảo vệ quyền con người .
(j) Đề cao Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế bao gồm cả luật nhân đạo quốc tế
mà các Quốc gia thành viên đã tham gia;
Hiến chương Liên hợp quốc là một văn kiện pháp lý vô cùng quan trọng đối với cộng đồng

quốc tế, quy định các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mà tất cả các quốc gia đều phải tuân thủ.
Bên cạnh đó luật pháp quốc tế trong đó có luật nhân đạo quốc tế sẽ là cơ sở để các quốc gia áp dụng,
thực hiện trong quan hệ quốc tế cũng như trong khu vực.
(k) Không tham gia vào bất kỳ một chính sách hay hoạt động nào, kể cả việc sử dụng lãnh thổ
của một nước, do bất kỳ một Quốc gia thành viên ASEAN hay ngồi ASEAN hoặc đối tượng
khơng phải là quốc gia tiến hành, đe dọa đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự ổn định chính trị
và kinh tế của các Quốc gia thành viên ASEAN;
(l) Tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ngơn ngữ và tơn giáo của người dân ASEAN, đồng thời
nhấn mạnh những giá trị chung trên tinh thần thống nhất trong đa dạng;
(m) Giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong các quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hố và xã
hội với bên ngồi, đồng thời vẫn duy trì tính chủ động, hướng ra bên ngồi, thu nạp và khơng phân
biệt đối xử; và
(n) Tuân thủ các nguyên tắc thương mại đa biên và các cơ chế dựa trên luật lệ của ASEAN
nhằm triển khai có hiệu quả các cam kết kinh tế, và giảm dần, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các rào cản
đối với liên kết kinh tế khu vực, trong một nền kinh tế do thị trường thúc đẩy.
Các nguyên tắc này cơ bản dựa trên 5 nguyên tắc trước kia trong hiệp ước Bali năm
1976 nhưng khi được đưa vào hiến chương sẽ tạo nên cơ sở vững chắc và giá trị pháp lý cho
nó, đồng thời hiến chương cũng đưa ra ngun tắc mới đó là tơn trọng quyền con người. Sở dĩ
có nguyên tắc này là vì hiện nay vấn đề quyền con người đang được đề cao trên thế giới nhất là ở các

16


nước Châu Âu. Ở Châu Âu vấn đề tôn trọng bảo vệ quyền con người rất được xem trọng và muốn
thu hút đầu tư và giao lưu hợp tác kinh tế thì vấn đề quyền con người phải được đề ra và giả quyết.
Điều 14 chương IV của bản Hiến chương đặt ra vấn đề thành lập một cơ quan nhân quyền, hoạt động
trên phạm vi mà Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN sẽ quyết định. Tuy nhiên vấn đề này đang gặp phải
một số khó khăn vì tình hình nhân quyền ở một số nước (Mianma…).
Hiến chương có ý nghĩa quan trọng đối với ASEAN trong bối cảnh Hiệp hội đang nỗ lực
hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN trên 3 trụ cột vào 2015. Hiến chương ASEAN sẽ biến khối

này thành một thực thể mới và trao thêm quyền hạn cũng như làm tăng vai trò của Ban Thư ký
ASEAN…
Với việc Hiến chương có hiệu lực, ASEAN sẽ hoạt động dựa trên một khung pháp lý vững
vàng. ASEAN sẽ có tư cách pháp nhân trong quan hệ với các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế,
qua đó gia tăng vị thế quốc tế của Hiệp hội với các đối tác bên ngoài. Bộ máy tổ chức và phương
thức hoạt động của ASEAN sẽ có nhiều chuyển biến đáng kể, góp phần đối phó tốt hơn với những
thách thức đang đặt ra, khắc phục những khiếm khuyết vừa qua và cải tiến chất lượng cũng như hiệu
quả các chương trình, hoạt động hợp tác của Hiệp hội. Việc 10 nước thơng qua Hiến chương theo
đúng lộ trình gửi thông điệp rõ ràng của ASEAN về cam kết nghiêm túc của Hiệp hội cũng như khả
năng hiện thực hóa các kế hoạch hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Hiến chương ASEAN trở thành một văn kiện có quy chế chính thức, ràng buộc các
thành viên vào một khung pháp lý có giá trị cao. Hiến chương sẽ mở một cánh cửa cho thị trường
chung ASEAN trong vòng 7 năm nữa. Tuy cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay có thể cản
trở thực hiện mục tiêu trong khung thời gian đó.
V.KẾT LUẬN:
Kể từ khi Hiến chương ASEAN ra đời, ASEAN đã trở thành một tổ chức có cơ cấu chặt chẽ
hơn nhằm đáp ứng tốt hơn những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập khu vực, sự mở rộng các
mối quan hệ đối ngoại và toàn cầu hố nhanh chóng. Hiến chương ASEAN đã thiết lập một khuôn
khổ và nền tảng pháp lý cho ASEAN tái cơ cấu cơ chế hiện hành của nó và cải tiến quá trình ra
quyết định nhằm củng cố hiệu lực và đảm bảo việc thực hiện đúng tiến độ tất cả Hiệp định và quyết
định của ASEAN. Có thể nói 1 cách hình tượng rằng ASEAN chính là trái tim của 1 châu Á
năng động.
Là thành viên thứ 7 của ASEAN, Việt Nam có thêm những điều kiện để mở mang quan hệ
hợp tác với nhiều đối tác ngoài khu vực, đồng thời nâng cao đáng kể vai trò của VN trên nhiều diễn
đàn quốc tế quan trọng khác. Việt Nam ln chủ động, tích cực thực hiện các hoạt động, kế
hoạch, chương trình, dự án hợp tác của ASEAN, góp phần quan trọng cho sự phát triển và
thành cơng của Hiệp hội, củng cố xu thế hịa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực, nâng cao vị
thế quốc tế của Hiệp hội.
Mối quan hệ giữa Việt Nam – ASEAN chuyển hố theo từng thời kì. Đó là mối quan hệ
chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hào hợp, hợp tác. Các mối giao lưu giữa VN với các nước

ASEAN ngày càng được mở rộng, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, làm phong phú thêm
nền văn hóa của mỗi nước, là nền tảng cho sự phát triển bền vững của đại gia đình các quốc gia
Đông Nam Á.

17



×