Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

BÀI TẬP NHÓM MÔN THỊ TRƯỜNG VỐN Thực trạng đầu tư chứng khoán tại Việt Nam? Vai trò của khối đầu tư ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.1 KB, 34 trang )

Kinh tế Đầu tư – CH19A
BÀI TẬP NHÓM MÔN THỊ TRƯỜNG VỐN
NHÓM 3 – ĐỀ TÀI:
“Thực trạng đầu tư chứng khoán tại Việt Nam?
Vai trò của khối đầu tư ngoại?”
Học viên thực hiện:
1. Nguyễn Thị Phương Thảo (CH 190327)
2. Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh
3. Vũ Hải Linh
4. Đặng Thúy Hà
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN
I. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1. Định nghĩa hoạt động đầu tư chứng khoán
Hoạt động đầu tư chứng khoán là cá nhân hay tổ chức thực hiện việc mua
– bán chứng khoán trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. “Đầu tư chứng khoán
là canh bạc đối với những người không cần mất công hiểu biết về nó, nhưng
thật ra nó là một trò chơi đầy trí tuệ và mất nhiều công sức. Nó có thể là con
đường để nhà đầu tư đạt đỉnh vinh quang nhưng cũng có thể là nơi gieo mình
xuống vực thẳm.”
1.2. Phân loại hoạt động đầu tư chứng khoán

1
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Có nhiều cách phân loại đầu tư chứng khoán, theo mục đích đầu tư thì
hoạt động đầu tư chứng khoán có thể chia thành:
Đầu tư ngân quỹ: Hoạt động đầu tư ngân quỹ thường được thực hiện bởi
các tổ chức kinh tế và các NĐT lớn. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu
cầu dự phòng và dự trữ, các tổ chức kinh tế và các NĐT lớn thường phải nắm
giữ một lượng tiền khá lớn. Tuy nhiên, tiền không phải là tài sản sinh lời nên các
đối tượng này thường có xu hướng tăng cường đầu tư vào các tài sản sinh lời,


giảm dự trữ tiền. Nhưng việc này cũng tiềm ẩn khả năng rủi ro do khả năng
thanh toán kém. Để khắc phục điều này, nhà quản trị tài chính thường đầu tư vào
các chứng khoán ngắn hạn có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền như tín
phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng…
Đầu tư hưởng lợi: Khác với đầu tư ngân quỹ nhằm đáp ứng khả năng
thanh toán, hoạt động đầu tư hưởng lợi nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận từ
hoạt động đầu tư có được từ lợi tức của tài sản đầu tư như cổ tức hàng năm, hay
từ lợi tức của trái phiếu. Bên cạnh đó, NĐT có thể thu được chênh lệch giá
chứng khoán và các quyền lợi khác (nếu có).
Đầu tư phòng vệ: Hoạt động đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận lớn
nhưng cũng hàm chứa rủi ro cao. Vì vậy, các công cụ phòng vệ xuất hiện ngày
càng nhiều nhằm giúp NĐT phòng tránh rủi ro như: hợp đồng giao sau, hợp
đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền mua…
Đầu tư nắm quyền kiểm soát: Cổ phiếu cho phép chủ sở hữu có quyền
kiểm soát công ty phát hành thông qua quyền nhận thông tin, quyền tham dự và
biểu quyết tại ĐHCĐ. Số lượng cổ phiếu nắm giữ thường quyết định khả năng
biểu quyết, kiểm soát của NĐT. Một số NĐT lớn, chủ yếu là NĐT tổ chức như
các doanh nghiệp hoặc các ngân hàng lớn thường thực hiện hoạt động đầu tư
nắm quyền kiểm soát. Một hình thái khác của đầu tư nắm quyền kiểm soát là
hoạt động đầu tư mạo hiểm. Một số tổ chức đầu tư lớn tìm kiếm cơ hội đầu tư từ
các công ty chưa phát triển, đặc biệt yếu kém về công nghệ quản lý. Thông qua
nắm quyền kiểm soát, họ thực hiện tái cấu trúc công ty, thay đổi quản lý, công
nghệ và cải thiện hình ảnh trong công chúng đầu tư và sẽ thực hiện bán cổ phiếu
khi giá tăng.
1.3. Nhà đầu tư chứng khoán
Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-98 đã dành nguyên cả Điều 2,
Chương I để giải thích các thuật ngữ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Trong Nghị định này, nhà đầu tư là người sở hữu chứng khoán, người mua hoặc
dự kiến mua chứng khoán cho mình.
1.4. Đối tượng tham gia hoạt động đầu tư chứng khoán

1.4.1. Các Nhà Đầu tư Chứng khoán

2
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-98 đã dành nguyên cả Điều 2,
Chương I để giải thích các thuật ngữ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Trong Nghị định này, Nhà đầu tư là người sở hữu chứng khoán, người mua
hoặc dự kiến mua chứng khoán cho mình.
Các Nhà Đầu tư bao gồm nhà đầu tư có tổ chức như ngân hàng, CTCK,
công ty bảo hiểm, các doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của nhóm nhà đầu tư này
là quy mô vốn đầu tư lớn, có tính tập trung hoá hoạt động đầu tư cao, hoạt động
chuyên nghiệp với danh mục đầu tư đa dạng và linh hoạt. Đặc biệt, các tổ chức
kinh doanh chứng khoán như ngân hàng, CTCK còn có thể đảm nhận vai trò tạo
lập thị trường, trên cơ sở đó đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Các Doanh nghiệp cũng là đối tượng đầu tư quan trọng trên thị trường.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của đối tượng này thường kém chuyên nghiệp hơn,
chủ yếu tập trung ở hoạt động đầu tư ngân quỹ nhằm đáp ứng khả năng thanh
toán chi trả và hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát.
Bên cạnh các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư cá nhân có vai trò
quan trọng trong việc làm tăng tính sôi động của thị trường. Các Nhà đầu tư cá
nhân thường thực hiện hoạt động đầu tư hưởng lợi thông qua việc mở tài khoản
và lưu ký chứng khoán tại các Công ty Chứng khoán. Nhiều nước trên thế giới
cho phép Nhà đầu tư được ký hợp đồng và mở tài khoản tại nhiều Công ty
chứng khoán. Biện pháp này giúp Nhà đầu tư có thể thực hiện phân tán đầu tư,
tận dụng lợi thế của từng Công ty CK trong việc thực hiện các giao dịch. Đồng
thời, các Công ty CK buộc phải cạnh tranh với nhau, từ đó làm tăng chất lượng
dịch vụ cung cấp và giảm chi phí, làm lợi cho Nhà đầu tư. Ở Việt Nam, hiện mới
chỉ cho phép các NĐT được mở một tài khoản tại một CTCK.
Các Nhà đầu tư cá nhân thường gặp bất lợi về quy mô đầu tư, do vậy chi
phí đầu tư cao, khả năng phân tán rủi ro và đa dạng hoá đầu tư kém, tính chuyên

nghiệp thấp. Danh mục đầu tư của các Nhà đầu tư cá nhân ở Việt Nam thường
đơn giản, chủ yếu là cổ phiếu (bao gồm cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết).
Hơn nữa, việc hoạch định danh mục đầu tư còn thiếu khoa học và quản lý thụ
động. Chứng khoán thường được lựa chọn còn theo cảm tính, do vậy chất lượng
đầu tư không cao.
Phân loại Nhà đầu tư chứng khoán:
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán.
- Theo chủ thể đầu tư, Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư
cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Theo phạm vi đầu tư, nhà đầu tư chứng khoán có thể chia thành: nhà đầu
tư nội và nhà đầu tư ngoại;

3
Kinh tế Đầu tư – CH19A
1.4.2. Các nhà phát hành
Nhà phát hành lớn nhất trên thị trường là Chính phủ, chính quyền địa
phương, các DN, ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác. Hoạt
động phát hành chứng khoán của các trung gian tài chính làm tăng khả năng tích
tụ và tập trung vốn trên thị trường. Chính phủ và chính quyền địa phương phát
hành trái phiếu và công cụ nợ ngắn hạn nhằm huy động tiền để bù đắp thiếu hụt
ngân sách và chi tiêu cho các dự án đầu tư.
Các DN phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ nợ ngắn hạn nhằm
huy động vốn đáp ứng các nhu cầu sản xuất - kinh doanh. Phần lớn lượng vốn
này được dùng để đầu tư mua sắm các tài sản thực, do vậy làm tăng năng lực sản
xuất của nền kinh tế.
Các trung gian tài chính như ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính
khác cũng có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Chứng khoán do đối
tượng này phát hành có khối lượng lớn và độ an toàn khá cao, do vậy thường
hấp dẫn đối với công chúng đầu tư.

1.4.3. Các trung gian tài chính
Tổ chức trung gian đầu tư bao gồm các CTCK, công ty quản lý quỹ, các
tổ chức bảo hiểm, ngân hàng và trung gian đầu tư khác. Các CTCK thường thực
hiện hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành, tự doanh.
Khác với CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện hoạt
động uỷ thác đầu tư hoặc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán và thực
hiện quản lý danh mục đầu tư chứng khoán cho khách hàng (những người sở
hữu chứng chỉ quỹ).
Các công ty bảo hiểm là trung gian đầu tư điển hình. Thông qua hoạt động
khai thác bảo hiểm, các công ty bảo hiểm thu hút lượng vốn lớn trong nền kinh
tế và thực hiện hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi, chủ yếu vào chứng khoán
1.5. Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ chính thức hoạt động từ cuối năm
2000. Tuy còn non trẻ với những ưu khuyết điểm riêng nhưng có lợi thế được
thừa hưởng di sản kiến thức và kinh nghiệm từ các thị trường chứng khoán thế
giới. Hầu hết các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam không có đồng vốn nhàn rỗi
để có thể đầu tư lâu dài vào những công ty hay thương hiệu danh tiếng thế giới.
Hầu hết các công ty có tên niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán ớ Việt
Nam đều mới cổ phần hóa trong khoảng 10 năm gần đây. Một số công ty có
danh tiếng mới bán các cổ phiếu đầu tiên của mình nhưng đã giành được sự chú
ý rộng rãi từ các nhà đầu tư chứng khoán. Đây chính là điểm khác biệt chính của
thị trường chứng khoán Việt Nam trong khoảng thời gian 5, 10 năm tới.

4
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Phần lớn những nhà đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay đều là
những tay chơi không chuyên, họ đầu tư chứng khoán như một hình thức kinh
doanh phụ với mong muốn có cơ hội nhân bội đồng vốn nhàn rỗi của mình. Do
hầu hết các nhà đầu tư đang có một công việc chính phải lo nên không thể có
thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu thị trường chứng khoán. Phần lớn các nhà đầu

tư VN bỏ tiền ra mua một số cổ phiếu theo lời giới thiệu của ai đó hoặc mua qua
môi giới, sau đó họ chờ đợi, theo dõi giá cố phiếu tăng hay giảm, lời hay lỗ, gần
như hoàn toàn phó mặc cho may rủi. Đây là cách mà những nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp như Warren Buffett không bao giờ chấp nhận.
Những người thực sự hưởng được lợi nhuận từ thị trường chứng khoán
hiện nay là những nhà môi giới, lên hay xuống, lời hay lỗ họ đều có phần.
Thị trường chứng khoán là đồng hồ đo sức mạnh của nền kinh tế. Sự phát
triển của thị trường chứng khoán cũng đồng nghĩa với sự phát triển của nền kinh
tế. Để thị trường chứng khoán thực sự phát triển, đã đến lúc cần phải có sự liên
kết của các nhà đầu tư tự do dưới danh nghĩa một công ty hay một tập đoàn đầu
tư chuyên nghiệp với sức mạnh tài chính đủ để có thể tác động và chi phối mạnh
đến thị trường. Các nhà đầu tư Việt Nam không thể chậm trễ hơn nữa khi thực tế
hiện nay có một số công ty, tập toàn đầu tư của nước ngoài đã thực sự bước
chân vào và phần nào chi phối sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Các rủi ro thường gặp trong hoạt động đầu tư chứng khoán
Rủi ro phá sản (Bankruptcy risk)
Khi mà một công ty phá sản, mặc nhiên cổ phiếu của công ty đó tụt dốc
không phanh và mức thấp nhất có thể là chả còn giá trị gì. Một thống kê vui
nhân cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi cho thấy, nêu cách đây 1 năm bạn có
1000 USD, mua cổ phiếu của hãng máy bay Delta Airline thì giờ chúng trị giá
49USD, nếu là của hãng bảo hiểm AIG thì giờ chúng có giá 33 USD, nếu là của
ngân hàng Lehman Brothers thì giờ chúng trị giá 1USD. Còn nếu mua bia uống
thì đống vỏ lon bia mang bán đồng nát sẽ được khoảng 200USD.
Rủi ro kinh doanh (Business risk)
Cổ phiếu của bạn đương nhiên sẽ tụt mất giá trị nếu tình trạng kinh doanh
của công ty không thuận lợi. Khi có những thay đổi trong tình trạng này, công ty
có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ tức.
Rủi ro kinh doanh cũng có hai loại cơ bản: bên ngoài và nội tại. Rủi ro
kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty.

Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công
ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động.

5
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Công ty cũng chịu những rủi ro đến từ bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các
yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể, như chi phí tiền vay, sự cắt giảm ngân
sách, mức thuế nhập khẩu tăng, sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh.
Doanh số của một số ngành công nghiệp thép, ô tô có xu hướng bám sát
chu kỳ kinh doanh trong khi doanh số của một số ngành khác lại có xu hướng đi
ngược lại. Các chính sách Nhà nước cũng là một phần của rủi ro bên ngoài, các
chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua tác
động về chi phí và nguồn vốn.
Rủi ro thị trường (Market risk)
Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn
mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổ, chỉ vì cách nhìn nhận của các
nhà đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm cổ phiếu nói riêng.
Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối
với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa
trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
nhưng đôi khi cũng chẳng do gì cả mà chỉ là vấn đề tâm lý.
Rủi ro lãi suất (Interest rate risk)
Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro hệ thống, hay còn gọi là rủi ro
không phân tán được khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. Rủi ro lãi suất nói
đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai,
nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung.
Rủi ro cơ sở (Basis risk)
Là rủi ro mà các khoản đầu tư bù đắp vị thế trong một chiến lược phòng
ngừa rủi ro không thay đổi theo các hướng đối ngược nhau. Mối tương quan
không hoàn hảo giữa các khoản đầu tư bù đắp vị thế đã tạo ra các khoản lỗ hoặc

lãi tiềm ẩn trong một chiến lược phòng ngừa rủi ro và do đó đã làm gia tăng
thêm rủi ro cho vị thế của nhà đầu tư (nhà phòng ngừa rủi ro).
Rủi ro hối đoái (Transfer risk)
Rủi ro thị trường hối đoái khi người nợ nước ngoài không thể chi trả bằng
loại tiền tệ (ngoại tệ) theo yêu cầu của chủ nợ.
Rủi ro sức mua (Purchasing power risk)
Rủi ro sức mua đến từ biến động của sức mua của đồng tiền thu được khi
đầu tư vào một thị trường chứng khoán. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát
đối với khoản đầu tư. Nếu coi khoản đầu tư là một khoản tiêu dùng ngay, ta có
thể thấy rằng khi một người mua cổ phiếu, anh ta đã bỏ mất một số cơ hội mua
hàng hoá hay dịch vụ trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó. Nếu, trong khoảng

6
Kinh tế Đầu tư – CH19A
thời gian nắm giữ cổ phiếu đó, giá cả hàng hoá dịch vụ tăng, nhà đầu tư đã bị
mất một phần sức mua.
Rủi ro tài chính (Financial risk)
Liên quan đến những rủi ro từ cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện
của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi
phải được thanh toán cho chủ nợ trước khi trả cổ tức cho cổ đông nên nó có tác
động lớn đến thu nhập của họ. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong
phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một
công ty không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính.
Bằng việc đi vay, công ty đã thay đổi dòng thu nhập đối với cổ phiếu
thường. Cụ thể là, việc sử dụng tỷ lệ vay nợ gây những hệ quả quan trọng đối
với những người nắm giữ cổ phiếu thường, đó là làm tăng mức biến động trong
thu nhập của họ, ảnh hưởng đến dự kiến của họ về thu nhập, và làm tăng rủi ro
của họ.
Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk)
Rủi ro khi ngân hàng phải bán lỗ tài sản để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức

thời. Thí dụ, người gửi tiền yêu cầu có tiền mặt ngay.
Danh sách này có thể còn kéo dài kha khá nữa. Và chúng ta có thể tự nhủ
là dù sao thị trường vẫn còn may mắn vì các tay chơi đều chả bao giờ xem từ
điển khi quyết định. Nếu không phải thế thì ai biết được thị trường liệu có còn
tồn tại

7
Kinh tế Đầu tư – CH19A
II. QUY TRÌNH ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
2.1 Tìm hiểu thị trường
Tìm hiểu thị trường giúp cho nhà đầu tư có được cái nhìn toàn cục về thực
trạng của thị trường chứng khoán - nơi mà họ đang đặt kỳ vọng khai thác lợi
nhuận. Khi tìm hiểu thị trường, nhà đầu tư nên tập trung vào các thông tin sau:
- Quá trình phát triển của thị trường (ổn định hay không?);
- Các biến cố lịch sử của thị trường và lý giải các biến cố đó;
- Các nhân tố (vĩ mô và vi mô) có thể gây ảnh hưởng tới thị trường;
- Tình trạng hiện tại của thị trường.

8
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Với các nội dung như trên, nhà đầu tư có thể chủ động nhận biết các đặc
điểm về qui luật vận động của thị trường, cũng như xác định được xuất phát
điểm tham gia vào thị trường của mình đang ở đâu trong chu trình vận động ấy.
2.2 Xác định chứng khoán mục tiêu
Đây là bước mà nhà đầu tư phải tiến hành sơ bộ lọc ra các mã chứng khoán
có khả năng đầu tư dựa trên những hiểu biết và phán đoán của mình. Để thực
hiện bước này, nhà đầu tư nên có sự quan sát ngay từ bước Tìm hiểu thị trường
và tiếp tục củng cố nhận định của mình bằng phân tích sơ bộ dựa trên những
thông tin đại chúng và/hoặc thông tin riêng.
2.3 Thu thập và sàng lọc thông tin/ Lựa chọn danh mục đầu tư

Thu thập và sàng lọc thông tin là một quá trình thường xuyên trước và sau
khi tiến hành đầu tư. Với nhóm chứng khoán tiềm năng đã được lựa chọn từ
bước trên, nhà đầu tư có thể tập trung thu thập và phân tích thông tin chi tiết hơn
để lựa chọn chứng khoán tối ưu cho danh mục đầu tư của mình. Lưu ý rằng cảm
tính có thể đem lại thành công chứ không phải sự chắc chắn, do đó, chỉ những
chứng khoán có đầy đủ căn cứ thực tế mới được chọn vào Danh mục. Nhà đầu
tư cũng nên cân nhắc về tính “mở” thông tin của chứng khoán thành phần nhằm
giảm thiểu những hạn chế trong việc theo dõi và quản lý danh mục sau đầu tư.
Trong quá trình lọc chứng khoán thành phần, nhà đầu tư cũng nên chú trọng
phân tán rủi ro bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ví dụ, nhà đầu tư có thể
kết hợp chứng khoán theo sự đối trọng về mức độ rủi ro (các chứng khoán có tần
suất dao động lớn kết hợp với các chứng khoán có tần suất dao động nhỏ), đối
trọng giữa những ngành có đặc điểm sản xuất kinh doanh độc lập với nhau,
v.v…Việc đa dạng hóa danh mục giúp cho nhà đầu tư tránh được rủi ro hệ thống
khi trong danh mục xuất hiện quá nhiều (hoặc toàn bộ) chứng khoán có cùng
một tập tính vận động.
Nếu như trước đầu tư, việc thu thập thông tin để phục vụ xác định danh mục
đầu tư, thì sau đó, thông tin cần được cập nhật để phát hiện sớm các nguy cơ và
cơ hội. Tuy nhiên, việc theo dõi và cập nhật thông tin liên quan tới tất cả các
chứng khoán thành phần không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được dễ
dàng, đặc biệt với các nhà đầu tư không chuyên. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro và

9
Kinh tế Đầu tư – CH19A
nâng cao hiệu quả đầu tư, nhà đầu tư nên có bước rà soát và phân tích thông tin
ngay khi cảm nhận được những diễn biến bất thường (tích cực và tiêu cực) của
thị trường.
2.4 Xác định các tiêu chí đầu tư
Xác định tiêu chí đầu tư tránh cho nhà đầu tư rơi vào tình thế bị động trong
kinh doanh, tạo công cụ phòng bị rủi ro và đóng vai trò như những chuẩn mực

để xây dựng nguyên tắc đầu tư.
Các tiêu chí đầu tư - như nội dung chủ đạo của hoạt động đầu tư - liên quan
chủ yếu tới việc quản lý lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro dự kiến. Hai vấn đề này có
thể xác định được dễ dàng hơn với sự trợ giúp của các công cụ quản lý chuyên
biệt, song nhà đầu tư cá nhân vẫn có thể thực hiện theo cách riêng của mình dựa
trên điều kiện tài chính và khả năng phân tích chủ quan.
2.5 Theo dõi Danh mục đầu tư
Đây là quá trình giám sát danh mục dựa trên các tiêu chí đầu tư đã đề ra từ
bước trên. Trong bước này, thông tin tiếp tục được cập nhật và phân tích theo
mức độ thường xuyên có thể của nhà đầu tư. Mức độ ấy có thể khác nhau giữa
mỗi nhà đầu tư, song phải đảm bảo phát hiện kịp thời được những biến động bất
thường của thị trường và của chứng khóan thành phần. Trong trường hợp các
tiêu chí đầu tư đạt mức hoặc bị vi phạm, chúng ta nên lập tức trở lại bước 3 để
xác định nguyên nhân của biến động và tiến hành chỉnh sửa tiêu chí đầu tư,
thanh lý hoặc cắt lỗ. Tuy nhiên, riêng việc chỉnh sửa tiêu chí đầu tư chỉ nên thực
hiện khi có những bằng chứng xác thực về xu thế thị trường, tránh lạm dụng dẫn
đến phá vỡ nguyên tắc “Một quan điểm” (trình bày dưới đây).
2.6 Thanh lý/Cut loss
Đây là bước cuối cùng, dễ dàng và cũng là khó khăn nhất. Dễ dàng là vì khi
nhà đầu tư nhận được các tín hiệu cho phép thanh lý /Cut loss một phần hoặc
toàn bộ chứng khoán danh mục thì động tác duy nhất phải làm là tiến hành bán
chứng khoán. Vậy đâu là khó khăn?
* Nguyên tắc “một quan điểm”

10
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Rất thường xuyên, chúng ta phải đối mặt với khó khăn ra quyết định bán
chứng khoán vào thời điểm Thị trường đang có những biến động tăng hoặc giảm
mạnh mẽ. Nếu như tâm lý “càng để càng lãi” thường xuất hiện trong điều kiện
thị trường thuận lợi thì việc khó chấp nhận từ bỏ một phần tài sản của mình khi

thị trường suy giảm cũng khá phổ biến.
Nguyên tắc “một quan điểm” các chuẩn mực chúng ta đã xác định từ bước 4
phải được đảm bảo thực hiện khi hội đủ các căn cứ cho phép phát tín hiệu Bán.
Điều này đặc biệt quan trọng với vai trò giúp cho nhà đầu tư không mâu thuẫn
với chính mình. Thử hình dung, nếu bạn vượt qua nguyên tắc mình đặt ra và
may mắn kiếm được nhiều hơn số lãi dự kiến, những lần sau, bạn sẽ có xu
hướng tiếp tục phá vỡ các nguyên tắc thay vì đánh giá lại khả năng phân tích, dự
đoán trước đầu tư. Như vậy, bạn đã đánh mất niềm tin vào bản thân, vào năng
lực ra quyết định của chính mình.
Xung quanh vấn đề này, có một câu hỏi thú vị là: “Vậy tại sao tôi phải bỏ
qua cơ hội được nhiều hơn hoặc mất ít hơn?”. Câu trả lời thật đơn giản: “Từ bỏ
cũng là một nghệ thuật trong đầu tư!”.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN
3.1 Khả năng sinh lời từ khoản đầu tư chứng khoán trong tương lai.
Mục đích trước hết của đầu tư chứng khoán là nhằm thu được lợi nhuận
trong tương lai, vì vậy khả năng sinh lời của khoản đầu tư chứng khoán là nhân
tố cần được xem xét hàng đầu. Tuy nhiên khả năng sinh lời của chứng khoán lại
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực,ngành nghề kinh doanh,
chính sách kinh tế của nhà nước; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường; chính sách chi trả cổ tức… Vì thế để tối đa hóa lợi nhuận, nhà đầu tư
cần phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân tố có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh
lợi để lựa chọn quyết định đầu tư cho phù hợp.
3.2 Mức độ rủi ro có thể gặp của loại chứng khoán được đầu tư.
Để có thể thu được lợi nhuận tối đa trong đầu tư chứng khoán nhà đầu tư còn
phải biết cách để tối thiểu hóa các rủi ro có thể gặp. Việc đánh giá mức độ rủi ro
trong đầu tư chứng khoán không chỉ đối với từng loại chứng khoán riêng rẽ mà

11
Kinh tế Đầu tư – CH19A

còn đối với toàn bộ danh mục đầu tư chứng khoán nhằm hạn chế và phân tán rủi
ro. Thông thường, mức độ rủi ro có sự khác biệt nhất định giữa các chứng khoán
vón và chứng khoán nợ, giữa chứng khoán có thời hạn thanh toán khác nhau,
giữa chứng khoán có khả năng chuyển đổi hoặc không chuyển đổi, giữa chứng
khoán của các doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh khác nhau… Việc đánh giá
mức độ rủi ro đầu tư chứng khoán cũng đòi hỏi năng lực, kỹ năng phân tích
đánh giá rủi ro nhất định của các nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường.
3.3 Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư.
Tính thanh khoản (hay còn gọi là tính lỏng) của chứng khoán là khả năng dễ
dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt. Thông thường khi có số tiền mặt
nhàn rỗi nhà đầu tư thường đầu tư chứng khoán để thu lợi nhuận, song khi cần
tiền mặt để đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại muốn
chuyển nhượng chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Nếu các chứng khoán
mà họ sở hữu có khả năng thanh khoản cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện
ích không khác gì việc nắm giữ tiền mặt thì sẽ khuyến khích họ đầu tư chứng
khoán và ngược lại. Do đó tính thanh khoản của chứng khoán cũng là một yếu tố
quan trọng để các nhà đầu tư cần xem xét, lựa chọn.
3.4 Mức độ và khả năng kiếm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp.
Đôi khi mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp
cũng là một nhân tó được xem xét đến khi lựa chọn quyết định đầu tư chứng
khoán. Quyền hạn và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán thường được tăng
thêm theo mức độ nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp. Vì vậy khi đầu tư chứng
khoán họ cũng cần cân nhắc quy mô đầu tư sao cho có thể đạt được mục đích
kiểm soát chi phối hoạt động của doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc thực hiện mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình.
PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2010

12
Kinh tế Đầu tư – CH19A

1. Ý nghĩa của chỉ số giá trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Khái niệm: Chỉ số giá thị trường hay còn gọi là số trung bình là chỉ số
được hình thành trên cơ sở dựa vào giá của các cổ phiếu riêng lẻ, có thể là của
toàn bộ các cổ phiếu được giao dịch trên thị trường hoặc có thể chị gồm giá của
nhóm các cổ phiếu trên thị trường.
Ở Việt Nam, chỉ số giá dựa vào giá của toàn bộ các cổ phiếu được giao
dịch trên thị trường, giá của nhóm các cổ phiếu trên thị trường (như chỉ số
Nikkei – 250 trên TTCK Nhật Bản, chỉ số Dow Jones trên TTCK Mỹ…)/
Cổ phiếu được chọn thường là cổ phiếu của các công ty lớn, có sức mạnh
trong các ngành kinh tế và được mua bán nhiều nhất. Với phạm vi và đối tượng
tính như vậy, chỉ số giá phản ánh xu hướng vận động chung của toàn bộ thị
trường.
Chỉ số giá là một thông tin không thể thiếu trong bất cứ một thông báo
nào về hoạt động giao dịch trên TTCK.
Chỉ số giá thị trường rất quan trọng đối với những người tham gia TTCK,
đặc biệt là thị trường cổ phiếu, dù với tư cách là nhà đầu tư, chuyên gia tư vấn,
môi giới hay các nhà làm chính sách. Nó được các sở giao dịch, các công ty, các
tổ chức cung cấp dịch vụ trên thị trường tính và công bổ rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Ở Việt Nam, chỉ số VN- Index do Trung tâm
giao dịch chứng khoán (TTGDCK) thành phố Hồ Chí Minh công bố.
Chỉ số giá cổ phiếu tăng cho thấy toàn bộ hoặc phần lớn các cổ phiếu tăng
giá; ngược lại chỉ số giá giảm chứng tỏ các cổ phiếu đang giảm giá. Diễn biến
của chỉ số giá cổ phiếu có mối quan hệ tương đối chặt chẽ với tình hình kinh tế
và các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong những thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng
thuận lợi, chỉ số giá cổ phiếu thường tăng, một phần do những người đầu tư tin
tưởng vào triển vọng phát triển của các doanh nghiệp nên có nhu cầu mua cổ
phiếu nhiều hơn khiến cho giá cổ phiếu tăng. Tuy nhiên, cũng có thời điểm chỉ
số giá cổ phiếu giảm do sự giảm giá của một số cổ phiếu cá biệt, nhưng xu
hướng chính vẫn không bị phá vỡ nếu đó chỉ là sự sụt giảm tạm thời và chỉ số
giá có thể phục hồi tăng trở lại sau sự sụt giảm đó. Nhưng khi các nhà phân tích

và giới đầu tư có nhận định bị quan về tình hình kinh tế, họ sẽ không mấy tin
tưởng vào kết quả kinh doanh tốt đẹp của các doanh nghiệp trong tương lai, thì
cổ phiếu sẽ không còn hấp dẫn, giá của chúng trên thị trường sẽ giảm khiến chỉ
số giá giảm. Do đó, bên cạnh việc bám sát biến động giá của các cổ phiếu cụ
thể, việc theo dõi diễn biến của chỉ số giá cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc ra quyết định đầu tư. Nó sẽ giúp bạn có được một cái nhìn tổng quát về
thị trường, trên cơ sở đó đưa ra được những quyết định đầu tư mang tính chiến
lược và dài hạn chứ không phải chỉ nhằm mục đích kiếm lời từ những biến
động giá tạm thời.
Nhìn cung, xu thế chủ đạo của thị trường có hai dạng chính là xu thế giá
lên và xu thế giá xuống.
Ở xu thế giá lên, giá cổ phiếu có thể lên xuống hàng ngày, hàng tuần. Sau

13
Kinh tế Đầu tư – CH19A
mỗi lần giảm, giá lại được khôi phục là và đạt đến một mức cao hơn, nên xét về
dài hạn, giá vận động theo chiều đi lên khi thị trường là thị trường lên giá.
Ngược lại, ở xu thế thứ hai (xu thế giá xuống), giá cổ phiếu không thể
khôi phục lại được sau mỗi lần rớt giá, nếu ó thì giá cũng chỉ nhích lên một chút,
không thể đạt được mức ban đầu, rồi sau đó lại rơi xuống mức thấp hơn. Trong
trường hợp này, người ta nói thị trường đang xuống giá.
Đối với nhà đầu tư dài hạn, điều quan trọng là phải xác định được điểm
đầu và điểm kết thúc của xu thế. Chẳng hạn, trường hợp lý tưởng có thể mua
được cổ phiếu ở mức thấp nhất, và nắm giữ cổ phiếu đó cho đến khi đạt mức cao
nhất – tức là thời điểm trước khi xu thế bị đảo chiều- thì bán. Tuy nhiên, đây
không phải là một việc dễ dàng và rất khó thực hiện được trong thực tế. Muốn
làm được điều này phải cố một sự trải nghiệm lâu năm trên thị trường. Thông
thường, chỉ có thể mua bán cổ phiếu ở những thời điểm gần với thời điểm lý
tưởng đó và khi khoảng chênh lệch giữa điểm thực hiện với lý thuyết càng nhỏ
thì thành công của bạn càng lớn. Hiện nay, hầu hết các nhà đầu tư trên thị trường

chưa mấy quan tâm tới những xu thế này của chỉ số giá mà chỉ hướng tới mục
tiêu kiếm lời từ chênh lệch giá phát sinh do những biến động giá ngắn hạn.
2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1. Giai đoạn 2000-2005: Sự ra đời của thị trường Chứng khoán
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc
đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM ngày 20/7/2000
và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy
giờ, chỉ có hai doanh nghiệp niêm yết hai loại cổ phiếu (REE và SAM) với số
vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn
sốt năm 2001( chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm
nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu
niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN index sụt từ 571.04 điểm vào
ngày 25/04/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4
tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường
với lời nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh
bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận, thì trong 5 năm chỉ
số Vn- index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến 130 điểm.
Lý do chính là ít hàng hóa, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi
tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư trong nước, trong khi “room” cũng hết.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
(TTGDCKHN) chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ
năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên
49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút

14
Kinh tế Đầu tư – CH19A
được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị
trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành

của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Ta có thể nhận định rõ được điều đó thông qua bảng số liệu sau:
N
ĂM
SỐ
CÔNG TY NIÊM
YẾT
MỨC VỐN HÓA
THỊ TRƯỜNG (%GDP)
SỐ LƯỢNG
CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN
SỐ TÀI
KHOẢN CHỨNG
KHOÁN
2
000
5 0.28 3 2,908
2
001
5 0.34 8 8,774
2
002
20 0.48 9 13,520
2
003
22 0.39 11 15,735
2
004
26 0.64 13 21,616

2
005
332 1.21 14 31,316
Theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết
năm 2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán Việt Nam đạt gần 40,000 tỷ đồng,
chiếm 0.69% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện có 4,500 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35,000
tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương , thu hút 28,300
tài khoản giao dịch. Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng
khoán gấp đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị
cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt gần 1%.
2.2. Sự phát triển đột phá của thị trường Chứng khoán Việt Nam
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển
“đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn
mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”. Sở giao dịch Tp.HCM,
Trung tâm giao dịch Hà Nội và thị trường OTC.
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường
chứng khoán Việt Nam trở thành “điểm” có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế
giới, chỉ sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày
càng “hút hồn” các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

15
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam
non trẻ đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được
với khối lượng vốn hóa tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
Cuối năm 2006, chỉ số Vn-index tăng 2.5 lần so với đầu năm, tổng giá trị
vốn hóa đạt 13.8 tỷ USD (chiếm 22.7% GDP). Giá trị cố phiếu do các nhà đầu
tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16.4% mức vốn hóa
của toàn thị trường.

Hàng ngày có khoảng 80 – 100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là
những cổ phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị
trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối
lượng giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán Tp.HCM. Số công ty niêm yết
tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao
dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong
vòng một năm, chỉ số VN- index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối năm
2005 lên 800 điểm cuối 2006.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu
ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những
người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện
tượng “bong bóng” là có thật. Mức vốn hóa của TTCK Việt Nam đã tăng đột
biến, tháng 12/2006 đạt 18.8 tỷ USD( chiếm 22.7%GDP). Đặc biệt,số lượng các
nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng
12/2006, có trên 120,000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó
gần 2,000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, kỷ lục mới của chỉ số VN- index được xác lập ở mốc 809.86
điểm. Với HNX- index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu
năm, chỉ số VN-index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HNX-index tới 170%.
Đây là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn
tượng. Tính đến phiên ngày 29/12/2006, Trung tâm giao dịch Chứng khoán
Tp.HCM đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu
với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến
87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt
29 nghìn tỷ đồng. Xét riêng về mức vốn hóa cổ phiếu, toàn thị trường chứng
khoán chính thức Việt Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220
nghìn tỷ đồng, tương đương với 13.8 tỷ USD.
2.3. Thị trường Chứng khoán bùng nổ
Giai đoạn 2007, Luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp

phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị
trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết
được tăng cường.
-VN- index đạt định 1,170.67 điểm

16
Kinh tế Đầu tư – CH19A
-HNX – index chạm mốc 459.36 điểm
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các
phiên giao dịch có nhiều biến động, chỉ số của cả 3 sàn giao dịch đều có biên độ
giao động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VN –index đạt 927.02
điểm, HNX-index dừng ở mức 323.66 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động Vn-
index đạt mức tăng trưởng là 23.3%, HNX- index tăng 33.2% so với mức điểm
thiết lập vào cuối năm 2006.
Tính từ đầu năm 2007 đến ngày 28/12/2007 , SGDCK Tp.HCM đã thực
hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2.3 tỷ
chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224,000
tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2.8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình
quân mỗi phiên giao dịch có 9.2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương
đương với 980 tỷ đồng.
TTGDCK Hà Nội đã thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng
khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616.3 triệu chứng khoán tương đương
với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63,859 tỷ dồng, tăng gấp 6 lần về
khối lượng và 15.8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch
tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/ phiên
trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/ phiên.
Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trường, bên cạnh những thành công,
TTCK năm 2007 qua một năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những giai
đoạn thăng trầm nhất định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt thất
thường : giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường bắt đầu

hạ nhiệt và điều chỉnh mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt phục hồi
trước khi đi vào thoái trào trong 4 tháng cuối năm.
* Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt song cao, khiến chỉ số của cả 2
sàn giao dịch đều lập kỷ lục : chỉ số VN –index đã đạt mức đỉnh là 1,170.67
điểm sau 7 năm hoạt động và HNX- index thiết lập mức đỉnh 459.36 điểm sau 2
năm hoạt động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với
tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị
trường trong giai đoạn này lên đến con số 398,000 tỷ đồng. So với tổng giá trị
vốn hóa 492,900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã
chiếm tỷ trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị vốn hóa của
thị trường không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng mà do yếu tố
giá cả cổ phiếu tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng
loạt các cổ phiếu từ Blue- chip, penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên
sàn… tất cả đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch

17
Kinh tế Đầu tư – CH19A
đầu năm, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng trên 100% như :
STB(728,000 đ/cp), FPT(665,000 đ/cp), DHG(394,000 đ/cp), REE(285,000
đ/cp), SSI (255,000 đ/cp), SAM(250,000 đ/cp), KDC(246,000
đ/cp),VNM(212,000 đ/cp), ACB(292,000 đ/cp)… Yếu tố quan trọng góp phần
vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải kể đến sức cầu trên thị trường
tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên giao dịch lên
đến hàng nghìn tỷ đồng. Tại sàn Tp.HCM, bình quân mỗi phiên giao dịch đạt
trên 1000 tỷ đồng, sàn Hà Nội cũng đạt con số 300 tỷ đồng.
* Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ tháng 4/2007 đến đầu tháng
9/2007

Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà
nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện
pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiểm chế sự
tăng trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có
những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra
trong một khoảng thời gian rất dài ( từ cuối tháng 3 cho đến đầu tháng 9)
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và
HNX, tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. VN- index chỉ
trong vòng 1 tháng đã rơi xuống mức 905.53 điểm (24/04/2007), giảm tới 22,6%
so với mức đỉnh vào tháng 3. HNX- in dex trở về mốc 321.44 điểm
(24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh. Thị trường đã mất điểm quá nhanh
chỉ trong một thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ phiếu đã trở về gần
mức giá thiết lập vào đầu năm.
Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn
cuối tháng 5/2007 khi VN-index quay trở về môc 1,107.52 điểm (23/05/2007).
Nhưng do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường
trước đó như Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,…, thị trường nhanh chóng
trở lại trạng thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn đầu
tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883.9 điểm của VN-index(06/08/2007) và
247.37 điểm của HNX –index (23/08/2007).
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu tháng 8), sàn
Tp.HCM có những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh
(ngày 30/07/2007 chỉ có 3,296,340 cổ phiếu được giao dịch), sàn Hà Nội cũng
chỉ có vẻn vẹn 600,000 cổ phiếu được chuyển nhượng thành công (ngày
08/08/2007 khớp lệnh 603,100 cổ phiếu). Giai đoạn này, các nhà đầu tư nước
ngoài cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của khối này trên cả 2 sàn giao
dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của khối nhà đầu tư nước
ngoài trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so với
giai đoạn đầu năm.
Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm


18
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian
đầu tháng 9 đến cuối tháng 10/2007. Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục
hồi nhanh chóng, đặc biệt là các mã cổ phiếu blue- chip trên cả 2 sàn đều lấy lại
được những gì đã mất trong 6 tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ
phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào
tháng 3. Trong giai đoạn này, VN-index đã có những phiên giao dịch vượt lên
ngưỡng 1,100 điểm (1,106.6 điểm vào ngày 31/10/2007), HNX-index cũng gần
chạm trở lại ngưỡng 400 điểm (393.59 điểm ngày 01/10/2007).
Đà tăng giá của các cổ phiếu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét nhất ở
nhóm các cổ phiếu blue-chip như DHG, FPT, VIC… tại HOSE và nhóm cổ
phiếu Sông Đà :S99, SDA,S91… tại HNX. Lượng giao dịch bình quân phiên tại
HOSE luôn ở trên mức 10 triệu cổ phiếu (phiên giao dịch kỷ lục đạt 19,047,000
cổ phiếu vào ngày 01/10/2008), sàn HNX cũng đạt lượng giao dịch bằng ½ sàn
HOSE với trung bình phiên có 5 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng. Tuy nhiên
sự phục hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ
sau 1 phiên tăng điểm. Chính điều này đã dẫn tới việc các nhà đầu tư bị đọng
vốn, trong khi nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia
tăng. Tương quan cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả
về giá lẫn khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch. VN- index giảm xuống dưới
ngưỡng 1000 điểm và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng chứng khoán
chuyển nhượng rất hạn chế.
2.4. Giai đoạn 2008:
Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm
2008 với sự sụt giảm mạnh.
Nhìn lại thị trường sau 1 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị
trường : chỉ số giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã cổ
phiếu rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vối của khối

ngoại, sự can thiệp của các cơ qua điều hành và sự ảm đảm trong tâm lý các nhà
đầu tư.
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua
việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, đặc biệt là các doanh nghiệp quy
mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phiếu Nhà nước trong các doanh
nghiệp đã cổ phần hóa, chưa kể hàng loạt ngân hàng, công ty chứng khoán,
doanh nghiệp… phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình
trạng thị trường chứng khoán có nguy cơ thừa “hàng”.
Tính từ đầu năm 2008 đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 3 giai
đoạn chính.
. Giai đoạn 1: từ tháng 1 tới tháng 6 – Thị trường giảm mạnh do tác động
của tình hình kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921.07, VN- index đã mất đi gần 60% giá trị

19
Kinh tế Đầu tư – CH19A
và trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới
trong nửa đầu năm 2008.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ
yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát,
chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép
giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chạn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều
hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ đó là:
- UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch
- SCIC tham gia vào mua cổ phiếu
- MHTM được vận động ngừng giải chấp
- Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn
hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác

động tới tâm lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có
tới 71 phiên VN-index giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-index giảm
điểm liên tiếp từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6/2008. Sau 103 phiên giao dịch,
VN-index giảm mất 550.52 điểm, tương đương 59.77%. Bình quân trong mỗi
phiên, toàn thị trường có 8.02 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển
nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu tác động nhiều nhất là nhóm
cổ phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các công ty
bất động sản).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can
thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng
cộng trong năm 2008, UBCKNN đã có 4 lần thay đổi biên độ dao động giá trên
cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà
suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, chính phủ đã đưa
ra 19 giải pháp ứng cứu thị trường như : cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên
thị trường, kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ
phiếu quỹ…
Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm
đã đưa đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng bắt đầu gia
tăng với mức trung bình 2.07%/tháng trong 2 tháng cuối năm 2007. Tiếp nối xu
thế này, trong quý I/2008, chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân
3.06%/tháng và đạt định vào tháng 5/2008 với mức tăng 3.91%. Trong chu kỳ
tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm lương thực được coi là yếu tố tác
động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 6, giá lương thực đã tăng 57.22%
so với tháng 12/2007.

20
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự
biến động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị trường hàng hóa và thị

trường tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động mạnh. Trên thị trường hàng
hóa, xăng dầu – loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát của Chính phủ - đã
được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ NHNN và NHTM liên
tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động từ sức ép lạm pháp, lãi suất từ
các NTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 – 18% đối với huy động
tiền gửi và 20 – 21% đối với các khoản vay. Đặc biệt các sản phẩm huy động
vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống ngân hàng trong giai
đoạn này. Sự căng thẳng về thanh khoản và sự xáo trộn về dòng chảy của tiền
gửi huy động là nỗi lo của các NHTM trong giai đoạn này. Thâm hụt thương mại
cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với mức trung bình là khoảng 2.6 tỷ
USD/tháng. Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào
tháng 3/2008 với mục tiêu kiềm chế lạm pháp và thâm hụt thương mại. Các
chính sách chủ yếu được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi
suất cơ bản và thắt chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
. Giai đoạn 2 : tháng 6 tới đầu tháng 9 – Phục hồi trong ngắn hạn.
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue-chip như STB, FPT, DPM…
và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, cả hai sàn chứng
khoán đã có được những phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VN-index
và HNX-index liên tiếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường
xuyên có được những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là giai đoạn thị trường
hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch và giá trị
giao dịch thường xuyên ở mức cao. Vn-index tăng được 168.55 điểm, tương
đương 45.52%, khối lượng giao dịch bình quân đạt 16.9 triệu cổ phiếu và chứng
chỉ quỹ, tương đương 599.18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu
dầu khí(tăng 80.33%), nguyên vật liệu và công nghệ(tăng 89.78%). Các đại diện
tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu này bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
. Giai đoạn 3 : từ tháng 9 tới tháng 12 – thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm
do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Đây là thời kỳ VN- index rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ

đáy thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này,
VN-index mất 223.48 điểm, tương đương 41.45%. Khối lượng giao dịch trung
bình đạt 15.82 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, tương đương 497.58 tỷ đồng/
phiên. Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự
lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới. Hòa cùng xu thế
giảm điểm của TTCK các nước, 2 chỉ số chứng khoán tại sàn HOSE và HNX
liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HOSE, 49 phiên VN- index
mất điểm, đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286.85 điểm vào ngày
10/12/2008.

21
Kinh tế Đầu tư – CH19A
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ
NHNN, xen lẫn giữa những phiên giảm điểm, TTCK Việt Nam vẫn có những
phiên phục hồi mạnh. Tuy nhiên, các “con song” trên thị trường thường rất ngắn
và không ổn định. Kết thúc giai đoạn này, VN-index giảm mất 239.52 điểm,
tương đương 43.15%. Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc về
nhóm cổ phiếu các ngành nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ.
Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai đoạn này được nhận định một phần do
sự tác động của xu thế chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc tăng
khá chóng mặt của các cổ phiếu này trong giai đoạn trước đó. Một trong những
đề tài nóng hổi và được báo giới chú ý trong những tháng cuối năm là phong
trào trả cổ tức bằng tiền mặt, với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm yết.
Nguồn vốn FII vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy
nhiên, kể từ cuối tháng 8/2008 cùng với sự sụt giảm mạnh của TTCK thế giới
nói chung, TTCK Việt Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những
dấu hiệu về khả năng đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi TTCK cũng bắt đầu xuất
hiện, thể hiện qua việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng cuối năm.
Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại có sự lo ngại về giảm phát
do chỉ số CPI tăng trưởng âm trong những tháng cuối năm. Trong quý cuối

năm,CPI đã giảm 0.23% trong tháng 10 và tăng lên thành 0.81% trong tháng
12(so với tháng 12/2007) và xấp xỉ 23%( so với bình quân 2007). Giải pháp tài
chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông qua việc
điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản nhằm kích cầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp
lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại.
2.5. Giai đoạn năm 2009
Nếu như 2008 được coi là một năm rất đáng quên khi các chỉ số liên tục
sụt giảm thì bước sang 2009, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có
sự phục hồi tương đối ấn tượng, không ít thời điểm đã để lại những dấu ấn quan
trọng trong lịch sử 9 năm phát triển với những kỷ lục mới. Nhìn lại diện mạo
TTCK Việt Nam 2009, có thể điểm lại một số cột mốc đáng ghi nhớ.
Năm 2009 đã để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát
triển của TTCK. Những kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết
lập: phiên giao dịch ngày 24-2, VN-Index đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm,
HNX-Index lùi về dưới mốc 100 điểm khi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là
78,06 điểm. Tuy nhiên, bước sang tháng 3-2009, các nhà đầu tư (NĐT) đã lấy lại
được niềm tin khi TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11-
2008: VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng
tăng mạnh. Tính đến hết ngày 30-6, VN-Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%),
HNX-Index tăng 44,57 điểm (42,66%) so với thời điểm kết thúc năm 2008. Đây
là một bước tiến dài của TTCK trong nước khi VN-Index đã đạt tốc độ tăng lớn
thứ 8 trong tổng số 89 chỉ số chứng khoán quan trọng trên thế giới khi tăng được

22
Kinh tế Đầu tư – CH19A
46% so với thời điểm đầu năm 2009. Kỷ lục về khối lượng giao dịch tại sàn
HOSE được thiết lập vào ngày 10-6 với 101.774.520 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ
được chuyển nhượng, con số tương tự tại HNX là 56.522.170 cổ phiếu.
Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh

mẽ với nhiều kỷ lục về giá trị và khối lượng giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày
22-10, TTCK vươn tới đỉnh điểm của đợt sóng thứ 2 là mức 624,10 điểm. Đây
cũng là mức cao nhất của thị trường sau 394 phiên giao dịch kể từ ngày 14-3-
2008. Trong khoảng thời gian này, thanh khoản liên tục đạt kỷ lục trên cả hai
sàn. Đối với sàn HOSE, phiên giao dịch ngày 23-10 được coi là "siêu thanh
khoản" khi lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay cả về khối lượng và giá trị giao
dịch với hơn 136 triệu đơn vị được chuyển nhượng, tương ứng giá trị giao dịch
lên đến 6,414 nghìn tỷ đồng; sàn HNX đạt kỷ lục với hơn 67,23 triệu cổ phiếu
được chuyển nhượng cùng 3,04 nghìn tỷ đồng được giải ngân. TTCK tăng
trưởng mạnh mẽ, nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành điểm sáng
ấn tượng khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á.
Một ấn tượng khác của TTCK là sự phát triển mạnh mẽ về quy mô. Tính
đến tháng hết tháng 11-2009, đã có 430 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được niêm
yết. Tổng giá trị vốn hóa thị trường lên tới hơn 669 nghìn tỷ đồng (39 tỷ USD),
tương đương 55% GDP của năm 2008. Mức vốn hóa này tăng gần gấp 3 lần so
với thời điểm cuối năm 2008. Năm 2009 cũng đánh dấu sự lên sàn của hàng loạt
doanh nghiệp (DN) lớn như Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank và Vietinbank
Sự góp mặt của các “đại gia” này đồng nghĩa với việc nguồn cung trên thị
trường ngày càng đa dạng hơn. Trong đó, Vietcombank giao dịch 112,3 triệu cổ
phiếu, là DN có vốn hóa lớn nhất thị trường, với trên 56.000 tỷ đồng, gấp hơn 2
lần "quán quân" trước đó là ACB (28.000 tỷ đồng). Trong khi đó, Bảo Việt
(BVH) niêm yết toàn bộ 573 triệu cổ phiếu và Vietinbank có 121,2 triệu cổ
phiếu. Các “đại gia” này đều chào sàn thành công, đáp ứng được mong đợi của
NĐT. Giá cổ phiếu các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng nhờ vậy đã tăng
trong một thời gian khá dài và trở thành những cổ phiếu "nóng" trên thị trường.
Năm 2009 cũng để lại những ấn tượng mạnh mẽ về các dòng vốn vào - ra
thị trường. Các chuyên gia đều lên tiếng khẳng định: một trong những nguyên
nhân khiến thị trường "nóng" là do khối các công ty chứng khoán "tung" các đòn
bẩy tài chính hỗ trợ NĐT. Khảo sát tại các công ty chứng khoán mới hay, kể từ
khi chứng khoán hồi phục, nhằm gia tăng lợi nhuận, hầu hết công ty chứng

khoán đều phối hợp với một hay một vài đối tác tài chính để hỗ trợ vốn cho các
NĐT. Tại một số công ty chứng khoán, tỷ lệ sử dụng đòn bẩy có thể đạt 100-
200%. Hình thức hỗ trợ rất đa dạng và thông thoáng, NĐT vốn ít thì được cầm
cố từ 40-70% giá trị tiền hay cổ phiếu trong tài khoản để mua tiếp cổ phiếu.
Hàng nghìn NĐT đã liên tiếp quay vòng đồng tiền bằng vay mượn nhằm gia
tăng lợi nhuận khiến sức cầu được khuếch đại lớn gấp nhiều lần thực lực. Nguồn
lực từ các đòn bẩy tài chính đã khiến thị trường liên tiếp thiết lập các kỷ lục về

23
Kinh tế Đầu tư – CH19A
thanh khoản nhưng kèm theo đó là những nỗi lo ngày càng lớn dần. Cuối tháng
6-2009, Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UB CKNN) đã phải lên tiếng yêu cầu
các công ty chứng khoán thực hiện nghiêm túc các quy định, đồng thời ngừng
ký các hợp đồng repo mới. Tác động từ văn bản của UB CKNN đã giúp giảm rủi
ro trên TTCK nhờ hạn chế được những dòng tiền ngắn hạn theo kiểu T +, từ đó
NĐT bớt lo lắng với các dòng tiền nợ, làm cho tính ổn định của thị trường tăng
lên.
Không ít chuyên gia đã bất ngờ trước diễn biến của TTCK trong năm qua.
Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng trưởng, TTCK Việt Nam năm 2009 được coi là có
tốc độ tăng trưởng rất cao, tới 60-70%, nhưng xét một cách toàn diện lại có
không ít dấu hiệu bất ổn. Trước hết, TTCK có dấu hiệu phục hồi nhưng không
bền vững: Chỉ số VN-Index giảm mạnh 22% từ đỉnh 633,2 điểm ngày 23-10
xuống mốc 490,6 điểm ngày 27-11. Khối lượng giao dịch từ tháng 11 đến hết
năm sụt giảm mạnh so với hai tháng 9, 10. Càng về cuối năm, thanh khoản của
thị trường càng trở nên đáng lo ngại.
Chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng và gói kích thích kinh tế năm 2009
của Chính phủ là động lực chính để TTCK phục hồi. Tuy nhiên, do những căng
thẳng trên thị trường ngoại hối, nguy cơ lạm phát và nợ Chính phủ gia tăng nên
trong hai tháng cuối năm 2009, chính sách tiền tệ bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt.
Hơn nữa, từ nửa cuối tháng 10-2009, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân

hàng phải chấm dứt cho vay chứng khoán. Theo ước tính của các chuyên gia, có
tới 20-50% dòng tiền trên TTCK đến từ nguồn vốn kích thích kinh tế (đòn bẩy
tài chính). Cầu trên TTCK đã chịu tác động mạnh từ những điều chỉnh trên và
dẫn tới tính thanh khoản của thị trường giảm sút. Thực tế cho thấy, những tác
động thực đến luồng tiền vào TTCK cũng như những tác động tâm lý thái quá đã
khiến các chỉ số chứng khoán rơi vào chu kỳ giảm điểm từ tháng 11 cho đến
cuối năm. Tính từ đỉnh cao xác lập trong năm thì VN-Index đã mất khoảng 30%
về điểm số. Nhiều thời điểm, NĐT lao vào xả hàng vì sợ "lịch sử lặp lại" -
chứng khoán có thể sẽ lập đáy như thời điểm đầu năm. Trong báo cáo Vietnam
Monitor mới ra về tình hình kinh tế và thị trường tài chính - chứng khoán của
Việt Nam, Ngân hàng HSBC cũng cho rằng TTCK Việt Nam gần đây đã "hụt
hơi" so với các thị trường ở châu Á (hoạt động kém thứ hai trong quý IV ở khu
vực châu Á).
Một vấn đề cần lưu ý nữa là giá cổ phiếu của TTCK Việt Nam đang ở
mức cao so với các nước trong khu vực. Theo một số chuyên gia, nếu giả định
mức tăng trưởng EPS (thu nhập tính trên mỗi cổ phiếu) trong 12 tháng tới là
20% thì hệ số P/E của 12 tháng tới sẽ là 19,1 lần. Đây là mức P/E cao hơn hẳn
các thị trường cùng tầm với Việt Nam như Thái Lan (12 lần), Trung Quốc (14,7
lần), Inđônêxia (14,6 lần) và Philíppin (15 lần). Trong báo cáo mới nhất, HSBC
tiếp tục khẳng định chứng khoán Việt Nam đang đắt đỏ hơn so với các thị
trường cùng khu vực khác. Đây là một trong những nguyên nhân khiến NĐT

24
Kinh tế Đầu tư – CH19A
ngoại rút vốn khỏi thị trường thời gian qua.
Bên cạnh đó, sự biến động của TTCK, cũng như thị trường vàng, thị
trường ngoại tệ ở Việt Nam, không theo một quy luật nào đã cho thấy những bất
ổn của thị trường phát sinh từ chính những yếu tố nội tại. Thị trường tài chính bị
phân khúc, chưa có sự minh bạch cũng như thông tin chưa được cập nhật chuẩn
xác đến NĐT, trong khi yếu tố tâm lý luôn bị chi phối nặng nề bởi các tin đồn.

Trên thị trường vẫn có khoảng trống pháp lý cho đầu cơ, lũng đoạn.
2.6. Giai đoạn 2010
Trong quí 1/2010, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam tiếp tục trải
qua những thăng trầm và chỉ thay đổi rất ít so với cuối năm 2009. Tại phiên giao
dịch ngày 31/3/2010, TTCK Việt Nam có những diễn biến trái chiều. Trên sàn
giao dịch TP. Hồ Chí Minh, Vn-index đóng cửa ở mức 499,24 điểm (giảm 1,48
điểm so phiên trước và tăng 4,47 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/12/2009)
với 52.760.980 cổ phiếu được khớp lệnh, đạt giá trị giao dịch là 2.014,789 tỉ
đồng. Tại sàn Hà Nội, Hn-index giảm 3 phiên liên tiếp và đóng cửa tại mức
160,55 điểm, giảm 1,82 điểm so phiên trước và giảm 7,62 điểm so cuối năm
2009, khối lượng giao dịch đạt 22,46 triệu cổ phiếu, giá trị giao dịch đạt 750,44
tỷ đồng. Thị trường UpCom đóng cửa tại mức 44,92 điểm, giảm 1,06 điểm so
phiên trước và giảm 8,90 điểm so cuối năm 2009, tổng khối lượng giao dịch đạt
472.952 cổ phiếu với giá trị giao dịch 6,9 tỷ đồng.
Diễn biến TTCK quí 1/2010 phản ánh tình hình tương tự như những năm
trước, đó là thời kỳ nghỉ ngơi kéo dài, các doanh nghiệp đang quyết toán năm
2009 và xây dựng kế hoạch cho năm 2010. Ngoài ra, TTCK quí 1 năm nay còn
chịu tác động của những yếu tố khác. Cụ thể là, ngoại trừ GDP quí 1 tăng 5,83%
so cùng kỳ năm 2009, hầu hết các chỉ số kinh tế vĩ mô khác đạt thấp, tổng thu
ngân sách nhà nước chỉ đạt 20% dự toán năm. Giá đầu vào tăng, kim ngạch xuất
khẩu giảm sút, làm tăng mức nhập siêu, ảnh hưởng đến cân đối ngoại tệ và dự
trữ ngoại hối, trong khi tỉ giá hối đoái tương đối ổn định. Lạm phát trong 3 tháng
đầu năm đã lên tới 4,12% và áp lực lạm phát còn cao, trong khi chỉ tiêu Quốc
hội đề ra cho năm 2010 là 7 %. Lạm phát cao ảnh hưởng đến nhu cầu sức mua
và hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp. Hậu quả là, nhu
cầu vay vốn đạt thấp với tổng tín dụng cho nền kinh tế trong quí 1 chỉ tăng
3,34%. Vì thế, TTCK Việt Nam nhìn chung là đứng yên nếu không nói là giảm
so với cuối năm 2009, điều này trái ngược với xu thế vận động trên TTCK toàn
cầu.
Tại Mỹ, tâm lý lạc quan của các nhà đầu tư vẫn khá phổ biến khi chứng

khoán Mỹ kết thúc quý I thành công nhất kể từ năm 1999 đến nay. So với ngày
31/12/2009, chỉ số công nghiệp Dow Jones đã tăng được 4,1% và đã có lúc
chạm tới mốc 11.000 điểm (lần đầu tiên kể trong vòng 18 tháng). So với đáy
6.547,05 điểm thiết lập vào ngày 9/3 năm ngoái, chỉ số này đã tăng tới 65,8%.
Trong khi đó S&P 500 và Nasdaq Composite cũng lần lượt tăng được 4,9% và

25

×