Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về TÍN NGƯỠNG tôn GIÁO VÀ sự vận DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG sự NGHIỆP đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.28 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo là một bộ phận cấu thành
quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh – tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta, soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Cùng
với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng và Nhà nước ta đề ra quan điểm,
chính sách tôn giáo; là cơ sở khoa học cho mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao
nhận thức và năng lực giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo trong thực tiễn.
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng tôn giáo chi phối
sâu sắc đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân theo cả hai chiều hướng tích
cực và tiêu cực. Nhận thức đúng đắn vị trí của vấn đề tôn giáo, Đảng ta ngay từ khi
mới ra đời đã xác định vấn đề tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc
biệt. Qua các giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chiến tranh giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhờ có đường lối đúng đắn trong
công tác tôn giáo, Đảng ta đã phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó
đồng bào theo các tôn giáo, là nhân tố quyết định đối với thắng lợi của cách mạng
nước ta.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, bùng nổ thông tin và thực hiện đường
lối đối ngoại chủ động hội nhập quốc tế, tôn giáo nước ta chịu ảnh hưởng lớn hơn
của tình hình tôn giáo thế giới và đang có chiều hướng phát triển khá phức tạp. Cụ
thể: nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân có xu hướng gia tăng; hoạt động của
các tổ chức tôn giáo tiếp tục diễn ra phức tạp; các thế lực thù địch triệt để lợi dụng
vấn đề tín ngưỡng tôn giáo để kích động, chống phá cách mạng Việt Nam… Tất cả
những tác động đó đã làm cho ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đến mọi mặt đời
sống xã hội tăng lên. Bên cạnh đó, thực trạng nhận thức, việc nghiên cứu, quán triệt,
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo vào thực hiện công tác tôn
giáo của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung vẫn còn một số những thiếu sót hạn


chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Trong điều kiện đó, Đảng ta
vẫn khẳng định vấn đề tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt.


Với ý nghĩa đó, nghiên cứu làm rõ nội dung “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng tôn giáo và sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”
là vấn đề cần thiết và cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo
Một tư tưởng, một học thuyết xuất hiện bao giờ cũng có nguồn gốc hình thành
và phát triển. Việc xác định đúng nguồn gốc nói chung, cơ sở lí luận nói riêng đối với
sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo sẽ cho phép
chúng ta hiểu rõ hơn thực chất nội dung và sự phát triển sáng tạo của Người so với
các nhà tư tưởng tiền bối và đương thời khác.
Trước hết, khi nghiên cứu nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng
tôn giáo cần nhận thấy một đặc điểm lớn của quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung , về tín ngưỡng tôn giáo nói riêng là các tư tưởng đó
đều luôn hướng đến mục đích tối cao là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội và giải phóng con người. Quá trình hình thành tư tưởng của
Người luôn gắn với thực tiễn đấu tranh giai cấp và dân tộc ở nước ta; trong điều
kiện thế giới chia thành hai hệ thống là: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đối
lập nhau quyết liệt; trong điều kiện vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam vốn đa
dạng, phức tạp và có tính cách khá tiêu biểu trong sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo
của một quốc gia đa tộc người, có lịch sử lâu đời… Bởi thế, Người không lệ máy
móc vào tư tưởng của các nhà kinh điển mà luôn vận dụng sáng tạo vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Đó là những đặc điểm có ý nghĩa quy định tính mục đích
cũng như nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo và cũng
chính điều đó đã tạo nên sự độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn
giáo.
Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo suy rộng ra cũng
chính là nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong đó trực tiếp nhất là


những giá trị tư tưởng truyền thống văn hóa của dân tộc, bao hàm cả giá trị văn hóa
của các tín ngưỡng tôn giáo; cách ứng xử, giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo

trong xã hội ( cả ở Việt Nam và trên thế giới) mà sinh thời Hồ Chí Minh tiếp nhận.
Bên cạnh đó, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tín ngưỡng tôn giáo là cơ
sở lý luận trực tiếp tạo nên thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách
mạng cho tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo. Theo đó, có thể tiếp cận
nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo gồm các yếu tố sau.
Tư tưởng Hồ Chí minh về tín ngưỡng tôn giáo có sự kế thừa một cách xuất
sắc những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của nhân loại, trong
đó có những giá trị của các tín ngưỡng tôn giáo.
Đối với văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã tiếp thu rất sớm và sâu sắc truyền
thống kiên cường, bất khuất, cần cù, coi trọng đạo lý, yêu hòa bình, truyền thống
đoàn kết gắn bó cộng đồng làng nước… trong đó, nổi bật hơn cả là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam để hình thành tư tưởng của mình nói chung, về tín ngưỡng tôn giáo
nói riêng. Chính chủ nghĩa yêu nước là động lực để Hồ Chí Minh tìm đường cứu
nước, là cơ sở quan trọng, là đích hướng tới để Người nhận thức, đánh giá, giải
quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo với mục đích tối cao là đoàn kết, tập hợp lực
lượng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và nhân loại. Với Người, giải
quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo như thế nào đó để có thể đoàn kết, tập hợp quần
chúng nhân dân lao động, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo đứng lên làm cách
mạng, xây dựng cuộc sống độc lập – tự do – hạnh phúc thì đều cần thiết và đúng
đắn cả. Với điểm hội tụ đó, Người đã tìm thấy những giá trị văn hóa, đạo đức trong
các tín ngưỡng tôn giáo, điểm đại đồng giữa tín ngưỡng tôn giáo và chủ nghĩa xã
hội. Bên cạnh đó, Người cũng chịu ảnh hưởng nhất định của các giá trị văn hóa,
đạo đức của các tín ngưỡng tôn giáo. Bởi lẽ, sinh ra và lớn lên ở một nước mà hàng
nghìn năm Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo dung hợp trong tư tưởng và thực tiễn,
nhất là xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước. Do vậy, trước khi trở thành
nhà mácxít là thì “ chất nhà Nho” là một bộ phận cấu thành hết sức quan trọng


trong nhân cách của Hồ Chí Minh, là một cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về tín ngưỡng tôn giáo.

Đối với văn hóa phương Đông, Người tiếp thu ngay từ thủa ấu thơ và trong
suốt quá trình hoạt động cách mạng sau này nhất là văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ.
Người đã có mười năm học chữ Nho, chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo của gia
đình, xã hội, nhất là mảnh đất hiếu học – xứ Nghệ quê hương của Người. Sau này,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh vẫn thường sử dụng các khái
niệm của Nho giáo theo cách mới, nội dung mới để tuyên truyền vận động nhân
dân. Người cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo qua môi trường xã hội, gia
đình, nhất là bà ngoại của Người – cụ Nguyễn Thị Kép và cụ thân sinh Nguyễn
Sinh Sắc…các yếu tố đó hiển nhiên ảnh hưởng đến tư tưởng của Người về tín
ngưỡng tôn giáo.
Đối với văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh luôn biết tiếp thu những giá trị
văn hóa tiến bộ. Ngay khi ở trong nước, Người đã tìm hiểu văn hóa Pháp và khi
xuất dương sang phương Tây, Người càng có điều kiện tiếp thu các giá trị văn hóa
văn minh của các nước phương Tây, nhất là yếu tố lí tính và khoa học trong các
khoa học tự nhiên và các giá trị văn hóa đạo đức trong các tôn giáo phương Tây
như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo…để làm phong phú thêm hành trang tư tưởng của
mình trong đó có tư tưởng về tín ngưỡng tôn giáo.
Như vậy, trước khi trở thành người Cộng sản, ở Hồ Chí Minh đã tiếp thu
nguồn tư tưởng như: Tư tưởng văn hóa truyền thống, tâm lý dân tộc, các tín
ngưỡng tôn giáo Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, tư tưởng cách mạng tư sản phương
Tây, học thuyết Tôn Dật Tiên…Đặc tính về nguồn gốc tư tưởng này đã ảnh hưởng
rất lớn và tạo nên những nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn
giáo: coi tín ngưỡng tôn giáo là văn hóa, nhận chân được giá trị văn hóa, đạo đức
của tôn giáo – sự khoan dung, độ lượng, tinh thần đoàn kết không phân biệt tín
ngưỡng tôn giáo; chính sách tôn giáo linh hoạt, mềm dẻo nhằm tập hợp được rộng
rãi quần chúng theo Đảng làm cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo có sự kế thừa những luận điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, trực tiếp nhất là tư tưởng về tín ngưỡng tôn giáo tạo nên



thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho tư tưởng của Hồ Chí
Minh nói chung, về tín ngưỡng tôn giáo nói riêng.
Đây là yếu tố quy định sự phát triển về chất – bản chất giai cấp, tính khoa
học và cách mạng của nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo.
Năm 1920 – sự kiện lịch sử quan trọng – Hồ Chí Minh tiếp xúc với Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Từ đây, Hồ Chí Minh đã đứng trên lập
trường của chủ nghĩa Mác – Lênin để hình thành, phát triển tư tưởng đúng đắn
sáng tạo của mình về con đường cách mạng Việt Nam, trong đó có việc xem xét,
giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam
và yêu cầu của thời đại.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo là kết quả của sự vận
dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin về tín ngưỡng tôn giáo vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời đó còn là
kết quả của quá trình kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tín ngưỡng tôn
giáo, văn hóa tốt đẹp của dân tộc và nhân loại trong lich sử phù hợp với truyền
thống của dân tộc và yêu cầu của thời đại. Các yếu tố đó không tác động riêng rẽ
mà tác động trong mối quan hệ biện chứng thông qua sự thâu hóa, tiếp biến rất
sáng tạo của Hồ Chí Minh trước đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh cách mạng của
Việt Nam nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng con người.
Có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn
giáo, nhưng có thể tiếp cận, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn
giáo trên các nội dung chính sau đây:
Một là, quan niệm, đánh giá của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo.
Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với
những vấn đề cơ bản về nguồn gốc, bản chất, tính chất, chức năng, lập trường,
phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo, Hồ Chí Minh còn tiếp cận tín ngưỡng tôn
giáo dưới góc độ xã hội học văn hóa, chỉ ra khía cạnh giá trị văn hóa, đạo đức của tín
ngưỡng tôn giáo, sự trựng hợp giữa mục tiờu, lý tưởng của tín ngưỡng tôn giáo và chủ
nghĩa xó hội. Từ đó, Người quan niệm tín ngưỡng tôn giáo như là một di sản văn hoá



của loài người. Người nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở
và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hoá”1.
Chính từ quan niệm đó, Hồ Chí Minh đã có những nhận xét khá lý thú về
những tôn giáo ở Việt Nam: “Những tôn giáo chính ở nước ta là đạo Phật và đạo
Thiên Chúa. Phật Thích Ca là người quý tộc, Người đã bỏ hết công danh phú quý
để đi cứu vớt chúng sinh. Tức là cứu vớt những người lao động nghèo khổ. Chúa
Giêsu là người lao động. Người vui lòng hy sinh tính mạng của mình để cứu vớt
những người lao động nghèo khổ chống lại bọn Pharidiêng tức là bọn bóc lột. Mục
đích cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giêsu đều giống nhau: Thích Ca và Giêsu
đều muốn mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại
đồng”2.
Từ đó, Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong tín ngưỡng tôn giáo có những giá trị
văn hóa, đạo đức nhất định phù hợp với xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng.
Theo đánh giá của Người, tôn giáo có những nội dung mang tính nhân nghĩa, nhân
văn phù hợp với chế độ ta, cần kế thừa, phát huy. Người luôn nêu cao tinh thần
hướng thiện, phân biệt chính – tà ( thiện – ác). Người cho rằng, bất kỳ tôn giáo nào
cũng đều hướng thiện. Người còn chỉ ra các ưu điểm cụ thể của các tôn giáo như: Đạo
Khổng có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; đạo Thiên Chúa có lòng nhân ái
cao cả; đạo Phật có lòng từ bi hỷ xả…đó chính là những giá trị nhân văn của nhân loại
cần được bảo vệ, giữ gìn và phát triển. Đó cũng là ước muốn của các tín đồ tôn giáo,
cũng như của tất cả mọi người trên trái đất này và cũng là của chính những người
cộng sản. Làm cách mạng để cứu nước, cũng là để cứu mình, để được tự do thờ
phụng, cúng lễ, cầu nguyện, xây dựng cuộc sống thanh bình, ấm no, hạnh phúc cũng
là làm theo mong muốn của Đức Chúa, Đức Phật… là thiện. Chính từ tư duy đó Hồ
1


. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội,1995, tr.431.
. Viện nghiên cứu tôn giáo, Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb KHXH. H, 1998, tr. 293.

2


Chí Minh đã đưa ra một giả thuyết táo bạo: “nếu các bậc giáo chủ của các tôn giáo
như Giêsu, Thích Ca… sinh ra trong hoàn cảnh hiện nay thì chắc các Ngài cũng sẽ
đấu tranh vì người nghèo như những người cộng sản”3. Hồ Chí Minh luôn giải thích
cho đồng bào tôn giáo hiểu, tôn giáo không đối lập với Tổ quốc, không đối lập với lý
tưởng cộng sản. Trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ ngày 2/3/1947, Người viết: “
Đường lối của Chính phủ gồm 3 mục tiêu sau đây:
1. Giải phóng nhân dân khỏi đói rét ( khổ sở) và khỏi rốt.
2. Đem lại cho nhân dân tự do, tự do sống, tự do tín ngưỡng.
3. Bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
Nếu cộng sản mà thực hiện những việc trên đây thỡ Tụi tin chắc rằng mọi
người sẽ chấp nhận thứ cộng sản đó” 4
Hồ Chí Minh nhiều lần nói với đồng bào tín hữu rằng, mục tiêu của Đức
Chúa, Đức Phật không khác gỡ mục tiờu của những người xó hội chủ nghĩa. Từ
đó Người có cách lý giải khác nhau cho các tín đồ theo các tôn giáo sao cho hợp
với lòng dân. Đến với tín đồ Phật giáo, Người nói: “Đức Phật là đại từ, đại bi,
cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải đấu tranh
diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng
chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn,
để giữ quyền thống nhất và độc lập Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ,
đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô
lệ”5. Đến với đồng bào theo đạo Công giáo, Người nói: “Chúa Cơ đốc hy sinh để
cứu loài người khỏi ách nô lệ và đưa loài người về hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, tự
do. Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách

ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là việc làm của
Chính phủ và nhân dân ta đều hợp với tinh thần Phúc âm”6.

3

4

. Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Nxb trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 1988, tr. 79.

. Viện nghiên cứu tôn giáo, Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb KHXH. H, 1998, tr. 190.
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.197.
6
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.197.
5


Từ đó, Người chủ trương khai thác những điểm tương đồng, phù hợp của tín
ngưỡng tôn giáo với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới. Hồ Chí Minh
đưa ra những so sánh, nhận xét có tính bản chất về những tôn giáo, những nhân vật
trong lịch sử của nhân loại có cùng chung một mục đích là giải phóng con người khỏi
kiếp khổ hạnh. Người viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa
Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng
tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu
hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời
này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ
như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vị ấy”7.
Hồ Chí Minh đó đúng khi Người chưa và không cần thiết chỉ ra sự khác nhau
về thế giới quan, nhân sinh quan, con đường, biện pháp để đạt tới ước mơ, lý tưởng

của tôn giáo và những người Cộng sản. Điều đó tránh được sự hiểu nhầm không
cần thiết, tránh mắc mưu xuyên tạc để chia rẽ khối đoàn kết lương giáo và giữa các
tôn giáo của kẻ thù. Đặt tư tưởng tôn trọng, đoàn kết, hòa hợp, khoan dung, linh
hoạt, không định kiến với các tôn giáo của Người vào bối cảnh lúc đó, nhiều người
Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa có tư tưởng đối lập thế giới quan vô thần hữu thần một cách cực đoan đang khá thịnh hành: chỉ thấy tôn giáo là “duy tâm”, “
lạc hậu”, “phản khoa học”, từ đó có biểu hiện tả khuynh trong giải quyết vấn đề
tôn giáo, gây tổn thất nhất định cho phong trào cách mạng… chúng ta mới thấy
tầm cao trí tuệ, tính độc lập, sáng tạo của Hồ Chí Minh
Trong suốt cả cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm, tôn
trọng đời sống tâm linh của nhân dân; Người coi tín ngưỡng tôn giáo như một bộ
phận hợp thành của đời sống văn hoá, tinh thần của con người, là nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Trong cuộc sống, Người khuyên mỗi người có tín ngưỡng
cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tín đồ và công dân, giữa việc đạo và việc đời.
7

. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, 1949, tr. 91.


“Kính Chúa và yêu nước”; “tốt đời, đẹp đạo” phải đi liền, kết hợp với nhau. Người
còn chỉ rõ: “Kinh thánh có câu: ý dân là ý Chúa”. Con đường yêu nước mà đồng bào
đang đi là hoàn toàn đúng.
Tôi mong các cụ phụ lão, các vị giám mục và linh mục hăng hái khuyến khích
tín đồ trong mọi công việc ích nước, lợi dân.
Lương giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất
định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc
và xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”8.
Người thường nhắc, nước độc lập thì tôn giáo mới được tự do, vì vậy, mọi
người phải làm cho nước nhà độc lập trước. Độc lập rồi phải quan tâm đến đời
sống nhân dân, vì “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập

cũng chẳng có ý nghĩa gì”9.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn
giáo.
Chính sự mở rộng tiếp cận tín ngưỡng tôn giáo dưới góc độ xó hội học văn hóa,
coi tín ngưỡng tôn giáo là di sản văn hóa của loài người, là vấn đề con người chứ
không chỉ là nhận thức luận, ý thức hệ đó tạo nờn nền tảng, điểm xuất phát, kim chỉ
nam cho tư tưởng của Người về chính sánh tôn giáo độc đáo, sáng tạo. Điều đó đó tạo
cho Hồ Chí Minh có một thái độ khoan dung, độ lượng, đặc biệt với đồng bào các tín
đồ tôn giáo, thấy rõ lực lượng to lớn của nhân dân, không phân biệt những người có
đạo và không có đạo, hay tôn giáo này với tôn giáo khác; đồng thời quan tâm sâu sắc
đến đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo, động viên tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh đã biết phát huy các
giá trị văn hoá đó của tín ngưỡng tôn giáo, đây là nét đặc sắc trong tư tưởng của
Người.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng, xây dựng khối đại đoàn kết lương - giáo và giữa
các tôn giáo là tư tưởng cơ bản, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chính sách đối với tín
8

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập11, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.314.
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.152.

9


ngưỡng tôn giáo của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, tự do tín ngưỡng tôn giáo
là một quyền thuộc về quyền tự do dân chủ của công dân, vì thế, mọi công dân đều
có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào; những người có tín ngưỡng tôn
giáo được quyền ứng cử và bầu cử mà không có một sự phân biệt nào; quyền tự do
tín ngưỡng còn biểu hiện ở nội dung: tích cực đấu tranh với những biểu hiện vi
phạm quyền đó của bất kỳ ai. Bởi lẽ, tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin thiêng liêng,

cao cả, giữ vị trí trung tâm trong đời sống tâm linh của giáo dân, chi phối tâm tư
tình cảm, hành vi ứng xử của họ và lòng trung thành với lợi ích dân tộc, lợi ích giai
cấp. Nếu xúc phạm đến niềm tin tôn giáo là xúc phạm tín đồ, làm tổn thất, chia rẽ
khối đoàn kết toàn dân, là mắc mưu thâm độc của kẻ thù. Trong suốt cuộc đời hoạt
động của mỡnh, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào.
Bản thân người là một tấm gương mẫu mực trong lời nói và hành động của mình;
mọi lời nói và việc làm đều thể hiện sự thông hiểu, thái độ tôn trọng, tình cảm chân
thành, sự cảm thông sâu sắc đối với đồng bào các tôn giáo. Người cũng nhắc nhở
cán bộ cách mạng không được xúc phạm đến tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào.
Người khẳng định: “ Mọi người có quyền tự do tin đạo hay không tin, không ai
được cưỡng bách và khinh rẻ họ… Ngày nay chính sách của Đảng Cộng sản là bảo
hộ tôn giáo, và ngày sau cũng vậy. Đảng Cộng sản chẳng những không tiêu diệt tôn
giáo, mà còn bảo hộ tôn giáo. Đảng Cộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc lột
người”10. Ngay cả những chức sắc tôn giáo và những người ở phía đối lập cách
mạng cũng phải thừa nhận là lòng bao dung độ lượng, lòng thương người của Bác,
tư tưởng đoàn kết rất là mẫu mực. Đúng như lời nhận xét của một linh mục khi phân
tích các sự kiện liên quan đến Giám mục Lê Hữu Từ: “Các lời lẽ của Cụ phê phán
Giáo hội không bao giờ chạm đến khía cạnh đức tin, mà chỉ nằm ở phạm vi các vấn
đề cơ chế và chính trị”11. Ngay một một quan chức cao cấp chính phủ Pháp ở Đông
Dương Xanh-tơ- ni, nhân vật đối thoại chủ yếu với Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn
1945-1946 cũng thừa nhận: “Về phần tôi, phải nói rằng, chưa bao giờ tôi có cơ sở để
nhận thấy trong các chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ
của sự công kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với một tôn giáo bấy kỳ nào” 12. Trong
10

. Viện nghiên cứu tôn giáo, Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb KHXH. H, 1998, tr. 294.
. Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Nxb trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 1988, tr. 76.
12
. Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Nxb trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 1988, tr 80.
11



bức thư gửi đồng bào công giáo nhân dịp lễ Nôen 1947, Hồ Chí Minh có viết:
“Chúng ta toàn dân, giáo cũng như lương, đoàn kết kháng chiến để Tổ quốc độc lập,
tôn giáo được tự do, Đức Chúa phù hộ chúng ta, chúng ta chắc sẽ thắng lợi” 13. Chính
trên cơ sở tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo đó, cách mạng mới xây dựng được khối đại
đoàn kết lương giáo, một phần của đoàn kết dân tộc.
Để thực hiện chính sách đoàn kết lương - giáo, đoàn kết toàn dân, Hồ Chí
Minh đã đưa ra hàng loạt hình thức, kế hoạch cụ thể nhằm vừa giải quyết nguồn
gốc nhận thức, giải tỏa những thắc mắc của đồng bào các tôn giáo, vừa quan tâm
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào và vô hiệu hóa sự lợi dụng của
kẻ thù lúc bấy giờ.
Trước hết, Người chỉ rõ cơ sở vững chắc của khối đoàn kết dân tộc là lợi ích
chung của mọi con người Việt Nam giáo cũng như lương đó là “Nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”14. Đây là một nghệ thuật khéo léo của Hồ Chí Minh
biết kết hợp lợi ích của đồng bào các tôn giáo với lợi ích của cả dân tộc; chỉ ra lợi
ích của mỗi con người, mỗi tập đoàn được giải quyết khi lợi ích của cộng đồng, Tổ
quốc được thực hiện. Lợi ích của dân tộc là mẫu số chung, điểm đại đồng để đoàn
kết mọi người dân Việt Nam. Nếu không chỉ rõ, không quan tâm đến lợi ích chung
đó thì không thể xây dựng được khối đoàn kết lương - giáo, đoàn kết dân tộc.
Theo tinh thần đó trong các bài nói, bài viết Hồ Chí Minh luôn tìm ra và khẳng
định sự trùng hợp cơ bản có thể có giữa mục tiêu, nguyện vọng, mong muốn tốt đẹp
của tôn giáo với mục tiêu cao cả của cách mạng là đều mưu cầu hạnh phúc cho con
người. Vượt lên sự phân biệt đối xử, mặc cảm, định kiến đối với tôn giáo như một số
người cách mạng thường mắc phải, Hồ Chí Minh đó khẳng định: “ Khổng Tử, Giê su,
Mác, Tôn Dật Tiên đều có những ưu điểm chung là họ đều mưu cầu hạnh phúc cho
loại người, mưu phúc lợi cho xó hội”15
Hồ Chí Minh luôn giáo dục cho mọi người và bản thân Người luôn luôn
gương mẫu tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào có đạo.

13

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.333.
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.161.
15
. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, 1949, tr. 91.
14


Ngày 3-9-1945, chỉ một ngày sau khi tuyên bố nước Việt Nam độc lập, tại
phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Người đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Về nhiệm vụ thứ sáu, Người nói: “Thực dân và
phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ bề
thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo
đoàn kết”16.
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Người cũng khẳng định tư tưởng đó. Ngày 3-3-1951,
trong lời phát biểu kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Người nêu
rõ: “vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng của mọi người…”17.
Ngày 14-6-1955, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
Người đã ký sắc lệnh số 234/SL của Chính phủ về vấn đề tôn giáo. Chương I của
Sắc lệnh ghi rõ: “Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng” và Điều 1 khẳng định: “Chính
phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai
được xâm phạm quyền tự do ấy. Mỗi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một
tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”18.
Từ các bài viết, các chỉ thị và sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ta thấy tư
tưởng của Người không phân biệt, tôn giáo, đảng phái, già trẻ, gái, trai “ Đoàn kết
của ta không những rộng rãi mà còn là đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính
sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị… Ai có tài, có đức, có sức, có

lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì đoàn kết với họ” 19. Chính vì lẽ
đó, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng, tôn trọng đồng bào các tôn giáo, hướng họ vào
công cuộc khách chiến, kiến quốc, đó là một nội dung trong tổng kết của Người, đã
trở thành chân lý “Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết. Thành công, Thành công,
Đại thành công”.

16

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.9.
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.184.
18
. Chính sách của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam về vấn đề tôn giáo ( Văn kiện nói về chính sách
tôn trọng tự do tín ngưỡng), in tại Nhà in Việt Hoa, tháng 1-1977, tr.3.
19
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.437.
17


Do am hiểu sâu sắc bản chất, niềm tin tôn giáo của các tín đồ; biết kết hợp
khéo léo niềm tin tôn giáo với niềm tin lý tưởng cách mạng, vào tương lai của một
dân tộc có truyền thống yêu nước, đồng cam chịu khổ, Hồ Chí Minh đã tập hợp,
hướng đồng bào các tôn giáo vào thực hiện nhiệm vụ chung giải phóng dân tộc,
xây dựng cuộc sống mới “tốt đời, đẹp đạo”. Người biết hướng niềm tin tôn giáo
vào niềm tin cách mạng, tập hợp đoàn kết quần chúng trong khối đại đoàn kết dân
tộc để thực hiện ước nguyện chung của cộng đồng con người Việt Nam là “Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc”. Các giáo lý của tôn giáo làm cho tín đồ, chức sắc tôn
giáo tin vào cuộc sống tốt đẹp ở thiên đường, thế giới bên kia sau khi chết, thì
người cách mạng tôn trọng niềm tin đó của tín đồ. Nhưng phải làm cho họ hiểu
“có thực mới vực được đạo”, con người sống phải: có ăn, mặc, ở đi lại, có đời sống
vật chất, tinh thần đã, rồi mới có thể tham gia sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Cho

nên, chỉ có cách mạng - người đem lại cơm no, áo ấm cho đồng bào-mới là người
thực sự đảm bảo cho đồng bào tự do tín ngưỡng. Như vậy, chủ nghĩa xã hội không
những không mâu thuẫn với lý tưởng của tôn giáo, mà còn hiện thực hóa lý tưởng
đó. Đây là cơ sở khách quan khích lệ giáo dân theo Đảng, theo cách mạng để thực
hiện “tốt đời, đẹp đạo” như khát vọng thiêng liêng của đồng bào các tôn giáo.
Người yêu cầu tín đồ “Kính Chúa và yêu nước” phải kết hợp với nhau; “tốt
đời, đẹp đạo” phải đi liền với nhau, không thể phân chia tách rời. Tốt đời tạo cơ sở
vật chất cho xã hội để đẹp đạo. Muốn đẹp đạo thì phải đi theo cách mạng xây dựng
cuộc sống mới. Vì lẽ đó, không có lý do gì mà đồng bào các tôn giáo không đoàn
kết cùng toàn thể dân tộc kháng chiến, kiến quốc. Ai không thực hiện bổn phận đó
thì không phải là người Việt Nam yêu nước chân chính và cũng không phải là tín
đồ chân chính. Đây là yêu cầu phải có đối với mọi tín đồ Việt Nam chân chính,
yêu nước.
Người quan tâm sâu sắc đến lợi ích thiết thực của giáo dân cả phần đời và
phần đạo. Theo Hồ Chí Minh: nước độc lập mà dân không được ấm no, hạnh
phúc thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Đồng bào các tôn giáo theo cách
mạng mà Đảng, Nhà nước không quan tâm đến lợi ích thiết thực của đồng bào


để “phần xác ấm no, phần hồn thong dong” thì không thể đoàn kết được: “Nếu
giáo dục tốt thì giáo dân có thể đấu tranh… sống theo Đảng, chết theo Chúa…
Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân
thì không sợi gì cả” 20. Từ đó, Người đặc biệt quan tâm tỉ mỉ đến mọi mặt đời
sống sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của giáo dân… Theo tinh
thần đó, trong quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm và từng
bước đem lại lợi ích thiết thực cho đồng bào tôn giáo. Đó là thực tế để các tín
đồ tôn giáo giác ngộ, đoàn kết đi theo Đảng trong khách chiến cũng như trong
xây dựng đất nước trên con đường đổi mới.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến mọi người trên mọi mặt đời sống xã hội. Khi
có điều kiện, Người luôn gửi thư thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các chức sắc

tôn giáo, từ các cụ già đến các bé nhỏ trong đồng bào tôn giáo. Với những người
lầm đường, lạc lối, Người kiên trì thuyết phục, cảm hóa họ với thái độ khoan dung,
độ lượng, bằng những lời lẽ chân tình, trên tình thương của nhân loại. Hồ Chí Minh
quan niệm những người đó đều là “ruột thịt”, đều là “con Lạc cháu Hồng” đều có
lòng yêu nước nhưng vì những kẻ xấu lôi kéo, họ chưa nhận ra lẽ phải mà thôi. Vì thế,
Người luôn “Mong những đồng bào đó mau mau giác ngộ và quay về với kháng
chiến để phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ quốc”21. Chính phủ luôn “hoan nghênh
rộng rãi như những người con đi lạc mới về”22. Các việc làm và lời nói sinh động đầy
sức thuyết phục đối với đồng bào tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho các
tín đồ có niềm tin, tôn trọng vào đường lối, chính sách cách mạng của Đảng và Nhà
nước ta, họ đã theo Đảng làm cách mạng và cũng không ít các tín đồ tôn giáo đã anh
dũng hy sinh trong hai cuộc kháng chiến để giành độc lập tự do cho dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn giáo dục cho cán bộ, quần chúng phân biệt tín ngưỡng tôn
giáo và việc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo của các thế lực thù địch. Người ý thức
sâu sắc âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù chia rẽ nhân dân ta bằng cách kích
động mâu thuẫn lương - giáo. Chúng nêu hai chủ đề lớn Quốc gia - Cộng sản,
Cộng sản - tôn giáo để hù dọa, kích động, chia rẽ các giáo dân, chia rẽ những
20

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập12, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.118.
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.568.
22
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.215.
21


người có đạo và những người không đi theo đạo nào. Chúng tuyên truyền: “Cộng
sản là vô thần sẽ tiêu diệt tôn giáo”, “Thà mất nước còn hơn mất Chúa”.. và thực
tế, một bộ phận giáo dân đã mắc mưu, ngộ nhận tin theo luận điệu thâm độc đó.
Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự xuyên tạc thâm độc của kẻ xấu cho

các chức sắc tôn giáo, tín đồ tôn giáo khỏi ngộ nhận. Ngay từ “Bản án chế độ thực
dân Pháp”, Người đã lên án mạnh mẽ thực dân Pháp cấu kết với các giáo sĩ, chức
sắc Công giáo để xâm lược Việt Nam. Người tố các giáo sĩ Pháp làm gián điệp,
trực tiếp bắn giết đồng bào ta cả giáo và lương. Hồ Chí Minh đó chỉ rừ: “Chính
những tên giáo sĩ đã vẽ bản đồ An Nam cho quân xâm lược. Chính bọn họ đã đưa
tin cho gián điệp dẫn đường cho đội viễn chinh và tố giác những người yêu
nước”23. Đồng thời Hồ Chí Minh đã đi đến kết luật có tính lịch sử: “Nếu có dân tộc
nào phải ơn Chúa và các giáo sĩ thì chính đó là dân tộc An Nam! Vì Chúa và các
giáo sĩ mà dân tộc này phải sa vào cảnh nô lệ như ngày nay”24.
Điều cần lưu ý ở tư tưởng của Hồ Chí Minh là phân biệt rạch ròi tín ngưỡng tôn
giáo với việc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá cách mạng của các thế lực thù
địch. Bọn đội lốt tôn giáo để chống phá cách mạng là bọn “Việt gian đồng thời cũng là
giáo dân”, chúng là bọn bất chính, giả danh tín đồ để làm điều xấu độc mà thôi. Theo
lôgíc ấy, Người khẳng định: “Nước độc lập dân mới tự do tín ngưỡng”. Khẳng định đó
có nghĩa vạch trần mọi luận điệu xuyên tạc của bọn đế quốc, giải tỏa băn khoăn, thắc
mắc, mặc cảm của một số tín đồ, chức sắc tôn giáo, làm cho đồng bào hiểu rõ chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, yên tâm theo Đảng làm cách mạng vì lợi ích
chung của cộng đồng.
Một mặt, Hồ Chí Minh giáo dục cho mọi người cần tôn trọng tư do tín
ngưỡng; mặt khác, Người cũng nghiêm khắc phê phán những phần tử lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo, những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, phê phán những việc làm sai
chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ, ở cả giáo chức, tín đồ và
cán bộ, đảng viên.
Ba là, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp thực hiện chính sách tín
ngưỡng tôn giáo.
2323. 24
24

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 417.



Để thực hiện chính sách tÝn ngìng t«n gi¸o, Người đã thực hiện hàng loạt các
phương pháp, biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, Người yêu cầu đồng bào các tôn giáo tích cực thực hiện bình đẳng các
quyền lợi và nghĩa vụ công dân thực hiện phương châm, “tốt đời, đẹp đạo”.
Mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Đồng bào
tôn giáo cũng là công dân Việt Nam nên tất yếu cần đối xử bình đẳng như mọi
công dân khác. Nhưng trong thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà có lúc, có nơi đồng
bào các tôn giáo không được đối xử bình đẳng. Bởi lẽ, để xây dựng khối đại đoàn kết
thì cần phải tích cực thực hiện tốt sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân
“tốt đời, đẹp đạo”, hai yếu tố này luôn đi liền với nhau, trong đó, tốt đời là nền tảng,
cơ sở cho sự bền vững của “đẹp đạo”, “đẹp đạo làm phong phú thêm cho “tốt đời”.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với không ngừng tạo điều kiện để đồng bào
các tôn giáo tiến bộ về mọi mặt cả về đời sống vật chất và tinh thần. Hồ Chí Minh
luôn nhắc nhở mọi người: “Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất
và tiết kiệm, cải cách ruộng đất và làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do” 25.
Đây là phương pháp có ý nghĩa làm nền tảng, tiên quyết trong thực hiện chính sách
tôn giáo của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Người coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục giải thích cho cán
bộ, đảng viên và cho đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo hiểu rõ và làm đúng chính
sách của Đảng và Nhà nước về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, xây dựng khối đại
đoàn kết lương giáo.
Người luôn đề cao phương pháp giáo dục, thuyết phục, giải thích nâng cao
hiểu biết, nhận thức cho đồng bào về chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Đây là
một trong những phương pháp cơ bản, nhằm đạt tới mục tiêu của cách mạng. Đối
với các đồng bào tôn giáo việc tuyên truyền, giải thích cho họ là việc làm rất cần
thiết, vì nhận thức của họ thường bị hạn chế, hay bị kẻ thù xuyên tạc về chính sách
của cách mạng để chia rẽ sự đoàn kết của lương - giáo. Muốn làm được tốt chính
sách tôn giáo thì các chủ thể làm công tác tôn giáo phải phát huy vai trò của mình
25


. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.197.


trong giáo dục, vận động các tôn giáo, nhằm ngăn chặn sự xuyên tạc của kẻ thù.
Người căn dặn khi làm công tác tôn giáo không được đơn giản, mà phải thận trọng,
phải có kiến thức chuyên môn, nếu năng lực kém thì bị kẻ thù lợi dụng làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của đồng bào tôn giáo: “Vì cán bộ ta kém, có nơi đã có những
hành động lố lăng, phạm đến tín ngưỡng và quyền lợi của đồng bào tôn giáo” 26.
Bởi thế, Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ
làm công tác tôn giáo và lực lượng cách mạng cốt cán trong các tôn giáo nói riêng
để họ lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Bản thân Hồ Chí Minh là một mẫu mực tuyệt vời về việc tuyên truyền, giáo
dục cán bộ đồng bào các tôn giáo. Phương pháp tuyên truyền giác ngộ Hồ Chí
Minh rất thiết thực, sát với đời sống tâm lý của nhân dân, lời lẽ giản dị, lấy việc
thực, người thực để làm gương sáng, mượn chuyện xa lý giải việc gần, nên mọi
người dễ tiếp thu, thực hiện. Không bao giờ Người đem lý luận chủ nghĩa cộng
sản, chủ nghĩa Mác - Lênin một cách nguyên xi để nói với những người tín hữu.
Người cũng phê bình uốn nắn cán bộ cố nhồi nhét chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ
nghĩa vô thần cho người theo đạo, dù họ đó đi theo cách mạng. Bởi vì, nhận thức
của các tín đồ tôn giáo ở bản địa không phải như ở các nước Tây Âu, mà phải
tuyên truyền, giáo dục họ theo cách của người phương Đông, sát với phong tục tập
quán của người Việt Nam.. Người luôn sử dụng các lời lẽ của chính các tôn giáo
trong các kinh thánh để nói chuyện với giáo dân tăng thêm sức thuyết phục và dễ
đi vào lòng người. Khi ở Thái Lan về Pắc Bó chính người trực tiếp giảng giải các
tín ngưỡng tôn giáo để đồng bào hiểu và chính tay Người đó từng vẽ ảnh của Đức
Phật, dựng ngôi chùa cho đồng bào khỏi phải đi lễ xa. Người đã sử dụng nhiều
hình thức linh hoạt để tuyên truyền vận động nhân dân với tư tưởng “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, làm gì mà để xây dựng được khối đoàn kết lương giáo có lợi cho
cách mạng đều được phép và cần thiết cả, đó là nét sáng tạo của Hồ Chí Minh.

Người luôn quan tâm xây dựng lực lượng cách mạng cốt cán trong tín đồ,
chức sắc tôn giáo. Người tin tưởng khả năng cách mạng to lớn của giáo dân, chức
26

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.461.


sắc tôn giáo. Theo Người, giáo dân có sự vâng phục thần quyền giáo lý rất lớn nên
cán bộ cốt cán là chức sắc, tín đồ tôn giáo thì việc vận động cách mạng đối với
giáo dân sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn. Chính vì vậy, Người đã luôn cố gắng thuyết
phục, cảm hóa, bồi dưỡng các chức sắc, tín đồ tôn giáo theo cách mạng. Trên thực
tế đã có nhiều chức sắc tôn giáo đã được Hồ Chí Minh cảm hóa và họ đã đóng góp
nhiều cho sự nghiệp cách mạng như: Ngô Tử Hạ, Nguyễn Mạnh Hà, Hồ Ngọc Cẩn,
Cao Triều Phát, Phạm Bá Trực… Bên cạnh đó Hồ Chí Minh rất quan tâm đến phát
triển đảng viên trong các tín đồ tôn giáo. Người nói: “ Có anh em hỏi một người công
giáo có thể vào Đảng lao động không? Có. Người tôn giáo nào vào cũng được, miễn là
trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật Đảng”27. Theo tư tưởng đó hiện
nay Đảng ta có hàng chục nghìn đảng viên là người theo tôn giáo, chứng tỏ Đảng và
nhà nước ta quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn
giáo. Nhờ nghệ thuật ứng xử chân thành, lịch lãm Hồ Chí Minh đã tranh thủ được lực
lượng cần tranh thủ, phân hóa được lực lượng cần phân hóa sao có lợi cho cách
mạng.
Ba là, Người yêu cầu phải kiên quyết trừng trị những kẻ thoái hóa biến chất
lợi dụng tôn giáo để phản đạo, phản nước.
Lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống lại cách mạng là bản chất của các thế
lực thù địch. Chính vì vậy, để bảo vệ tự do tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào, nhất
thiết phải vô hiệu hóa sự lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo của bọn “việt gian” đồng
thời cũng là “giáo dân” đó. Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào tôn giáo “đồng bào
cảnh giác và chớ mắc mưu những kẻ tuyên truyền lừa bịp”; “bảo vệ tự do tín
ngưỡng, nhưng cương quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản Chúa, phản

nước” và Người còn chỉ rõ âm mưu của kẻ địch “Chúng còn lợi dụng bọn phản
động đội lốt tôn giáo gây chia rẽ trong nhân dân” 28. Cho nên, Người luôn vạch trần
tội ác của bọn thực dân, tay sai và các thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc của chúng
và chứng minh “Nước độc lập dân mới tự do tín ngưỡng” để từ đó đồng bào hiểu
và thực hiện đúng chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
27

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.115.
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.345.

28


Bốn là, thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời kiên quyết bài
trừ mê tín dị đoan và các hiện tượng phản văn hóa khác.
Mê tín là vấn đề khá phức tạp, ranh giới giữa mê tín và tín ngưỡng tôn giáo
rất mong manh, nên khắc phục mê tín là vấn đề không đơn giản và đòi hỏi kiên trì
trong thời gian lâu dài, đồng hành quá trình xây dựng xã hội mới. Bởi vậy, Hồ Chí
Minh khuyên cán bộ một mặt phải tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, mặt
khác phải kiên trì giáo dục quần chúng xóa bỏ “mê tín, dị đoan” và các hủ tục lạc
hậu. Nhưng Người cũng nhắc nhở cán bộ không thành kiến, hẹp hòi, không xúc
phạm tín ngưỡng, không mắc bệnh duy ý chí, hay đao to búa lớn. “nào là khách
quan, chủ quan”, “nào là tích cực, tiêu cực”…“tốt nhất là miệng nói, tay làm làm
gương cho người khác bắt chước”29.
Hồ Chí Minh quan niệm giáo dục dể nhân dân “bớt mê tín nhảm” chứ chưa
thể nóng vội xóa bỏ hết mọi cách cực đoan ((bởi nó còn tồn tại trong đời sống tâm
lý của các tín đồ tôn giáo và các hình thức tín gưỡng dân gian khác mà khó có thể
khắc phục ngay được). Điều đó rất phù hợp với thực trạng tín ngưỡng tôn giáo Việt
Nam lúc bấy giờ và ngay cả hiện nay, mặc dầu đời sống nâng lên và nhận thức đã
phát triển. Từ đó, Người chỉ ra phương pháp giáo dục phải thận trọng, kiên trì, gần

gũi với đồng bào: với phương châm lấy cái tốt mà bỏ cái xấu, “dần dần nói cho
người ta hiểu, để người ta vui lòng làm, chứ không có quyền ép người ta”30.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo có những nội dung
phát triển sáng tạo so với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu Mác, Ăngghen phải trực
tiếp đấu tranh vạch rõ thế giới quan sai lầm của tôn giáo và lợi dụng tôn giáo của
giai cấp thống trị nhằm xác lập ý thức hệ, thế giới quan mới dẫn đường cho giai
cấp vô sản đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, thì ở Hồ Chí Minh không
đấu tranh trực diện với thần học, giáo lý các tôn giáo, mà chủ yếu là cố gắng chỉ ra
sự thống nhất giữa mục tiêu của cách mạng với lý tưởng nguyện vọng, mong muốn
tốt đẹp của các tín ngưỡng tôn giáo, bỏ quan “tiểu dị” tìm ra điểm “đại đồng” giữa
tín ngưỡng tôn giáo với sự nghiệp cách mạng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với điều
29

. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.109.
. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.109.

30


kiện lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ và kể cả sau này. Không phải Hồ Chí Minh
không nhận thức được sự khác nhau giữa hai thế giới quan, những mặt tiêu cực của
tín ngưỡng tôn giáo, nhưng do ở Việt Nam, trước nguy cơ mất còn của dân tộc,
quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, cuộc đấu tranh về mặt thần học, giáo lý chưa
phải là vấn đề bức bách mà vấn đề nổi lên là mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc,
giữa các cộng đồng tôn giáo với toàn thể cộng đồng dân tộc để tạo lực lượng cách
mạng, lấy sức ta giải phóng cho ta. Hồ Chí Minh đã làm những gì có thể làm được
để tập trung hội tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc nhằm giải phóng đất nước đưa
nhân dân ta ra khỏi xiềng xích của chủ nghĩa thực dân, phong kiến đó là mục tiêu
trên hết. Đây là một nét sáng tạo của Hồ Chí Minh về tập hợp lực lượng, sử dụng
sức mạnh toàn dân, không phân biệt tôn giáo. Rõ ràng do hoàn cảnh lịch sử khác

nhau, mà Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh có sự ứng xử khác nhau đối với
vấn đề tín ngưỡng tôn giáo và trong hai trường hợp trên đều đúng. Người đã vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách trung thành đầy sức sáng tạo. Chính sự
sáng tạo ở Hồ Chí Minh đã có công lao to lớn trong vấn đề quan niệm và có chính
sách tôn giáo như trên, hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng và phát huy tư
tưởng của Người trong điều kiện mới. Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá IX chỉ rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo thể hiện đầy đủ và nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về tôn giáo, đồng thời cũng là những mẫu mực về việc vận dụng những quan
điểm đó vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta”31. Những tư tưởng về tín ngưỡng, tôn
giáo của Người hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị, nó đã và đang là cơ sở lý luận,
phương pháp luận của quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo hiện nay.
2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo của Đảng
ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

31

. Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Tài liệu nghiên cứu, Nxb.
CTQG, Hà Nội, 2003, tr.118


Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng ta là sự vận dụng trung thành và
phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
tín ngưỡng tôn giáo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong những
giai đoạn lịch sử nhất định.
Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đó xỏc định vấn đề tôn giáo là vấn đề chiến
lược có tầm quan trọng đặc biệt. Qua các giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, chiến tranh giải phóng dân tộc và cách mạng xó hội chủ nghĩa, nhờ cú
đường lối đúng đắn trong công tác tôn giáo, Đảng ta đó phỏt huy được khối đại
đoàn kết toàn dân, trong đó đồng bào theo các tôn giáo, là nhân tố quyết định đối

với thắng lợi của cách mạng nước ta.
Văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên thể hiện quan điểm của Đảng ta về
tín ngưỡng tôn giáo đó là Chỉ thị của Thường vụ Trung ương, chỉ đạo cao trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh năm 1930. Trong chỉ thị có đoạn viết: “Vì những chỗ đó đã có cao
trào hay phong trào cách mạng, thì phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt hay tập
đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hoá
quần chúng và lại bảo đảm tự do tín ngưỡng của quần chúng, đập tan luận điệu
phản tuyên truyền cộng sản là vô chính phủ, vô gia đình, vô tôn giáo…”32.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định đường
lối tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo để giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chính sách “tín ngưỡng tự
do, lương giáo đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào
thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, đường lối đại
đoàn kết toàn dân, tự do tín ngưỡng đã động viên hàng chục vạn tín đồ các tôn giáo
tham gia cuộc đấu tranh giành và bảo vệ đất nước. Nhờ đường lối đúng đắn đó mà
Đảng cộng sản Việt Nam đã đoàn kết được các tôn giáo, động viên các tín đồ tôn
giáo tham gia sự nghiệp chung của dân tộc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc; làm
32

. Đỗ Quang Hưng “ Hồ Chí Minh và nền tảng pháp luật tôn giáo ở nước ta”, Tạp chí. Nghiên cứu tôn giáo, Số
3/2002, tr. 4.


thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù hòng chia rẽ, đối lập, lợi dụng các tôn giáo để
chống phá cách mạng nước ta.
Ngày nay, đất nước ta đang thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lónh đạo. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
quốc tế đặt ra những đòi hỏi to lớn đối với toàn dân tộc, trong đó đồng bào các tôn
giáo là một bộ phận không thể tách rời. Trong khi đó, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo

ở nước ta đang có những diễn biến hết sức phức tạp. Sự tác động của mặt trái nền
kinh tế thị trường làm nẩy sinh tâm lý tín ngưỡng, tôn giáo và cả mê tín dị đoan
phát sinh, phát triển; chủ nghĩa đế quốc ra sức lợi dụng kích động các vấn đề dân
tộc, tôn giáo để gây rối, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta… Đứng trước tình hình đó đũi hỏi Đảng ta phải
đổi mới tư duy về vấn đề tôn giáo là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Việc đổi mới tư duy về vấn đề tôn giáo được thực hiện trong khuôn khổ đổi mới
tư duy của Đảng từ Đại hội VI. Trong văn kiện Đại hội VI ghi rõ: “Đảng và Nhà nước
ta, trước sau như một, thực hành chính sách tôn trọng, tự do tín ngưỡng. Lãnh đạo và
giúp đỡ đồng bào theo tôn giáo đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia
bảo vệ Tổ quốc. Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn
đế quốc và phản động chia rẽ đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo, giữa đồng
bào theo đạo này với đồng bào theo đạo khác”33.
Để thực hiện quan điểm của Đảng ta về chính sách tôn giáo, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8 khóa VI (tháng 3-1990) về đổi mới công tác quần chúng của
Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đã nhìn nhận: “Động lực thúc
đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài
hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân”. Đây là một trong những
cơ sở cho việc đổi mới nhận thức của Đảng về tôn giáo.
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI được
xem như dấu mốc thể hiện quan điểm mới của Đảng về tôn giáo với ba luận điểm
quan trọng có tính đột phá là: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng
33

. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1987,tr.117.


tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Với ba luận điểm đó đã
nhanh chóng tạo nên sự đột phá nhận thức: Phải nhìn nhận tôn giáo như một “thực

tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận quần chúng, và nó hoàn toàn có thể đồng
hành với chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó Nghị quyết 24 đã nêu ra ba quan điểm chỉ đạo
đối với công tác tôn giáo, đó là: Cụng tỏc tụn giỏo vừa phải quan tõm giải quyết
hợp lý nhu cầu tớn ngưỡng của nhân dân, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi
dụng tôn giáo phá hoại cách mạng; Nội dung cốt lừi của cụng tỏc tụn giỏo là cụng
tỏc vận động quần chúng, công tác với con người; Làm tốt công tác tôn giáo là
trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lónh đạo. Bên cạnh đó, Nghị
quyết 24 đã nêu ra ba nhiệm vụ, năm nguyên tắc và năm chính sách cụ thể đối với
tín đồ, chức sắc, nhà tu hành, với tổ chức giáo hội, với hoạt động từ thiện của tôn
giáo và hoạt động đối ngoại và quan hệ quốc tế của tôn giáo.
Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VI tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII có nêu: “ Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng
và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và
các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng
bào có đạo, nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc
lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản các tín đồ làm
nghĩa vụ công dân”34 .
Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Điều
70 đó ghi rừ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự
của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước”35.

34

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H. 1991, tr.78.
.Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà nội, 1992, tr. 36.


35


Kể từ sau nghị quyết 24 nói trên, Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác khẳng
định và phát triển tư duy mới về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là chỉ thị 37-CT/TW
ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác tôn giáo trong tình hình mới,
một văn kiện quan trọng lần đầu tiên được đăng tải công khai trên báo nhân dân và
hàng loạt báo khác.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (Khóa IX) còn gọi là Nghị quyết
25 (12/3/2004) về công tác tôn giáo là sự tiếp tục đổi mới nhận thức của Đảng ta
trên lĩnh vực tôn giáo. Đây là lần đầu tiên trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Trung ương bàn chuyên đề về công tác tôn giáo. Trên cơ sở đánh giá tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay,Trung ương xác định những quan
điểm, chính sách đối với tôn giáo; đề ra nhiệm vụ, những giải pháp chủ yếu và tổ
chức thực hiện công tác tôn giáo hiện nay. Chỳng ta cần thấy rừ: từ 1990 đến 2004,
đã có 13 văn kiện về các vấn đề tôn giáo gồm 2 nghị quyết, 2 chỉ thị, 9 thông báo.
Trong đó Ban bí thư ban hành 1 chỉ thị, 7 thông báo; Bộ Chính trị ban hành 1 nghị
quyết, 1 chỉ thị và 2 thông báo; Ban Chấp hành Trung ương ban hành 1 Nghị
quyết.
Điều quan trọng hơn cả là, đến nay nhận thức về vấn đề tôn giáo của cán bộ,
đảng viên và nhân dân đã có bước tiến khá dài. Một bầu không khí xã hội mới mẻ đã
lan tỏa, ranh giới vô hình mà khắc nghiệt về sự phân biệt “lương - giáo” mà các thế lực
đế quốc thực dân, phong kiến trước đây cố tình khoét sâu mâu thuẫn này đã được gỡ bỏ
căn bản, tạo nên những điểm sáng trong quan hệ đạo - đời, “tốt đời, đẹp đạo”. Trong
Nghị quyết Trung ương bảy khóa IX đã xác định phương hướng và mục tiêu cơ bản
của hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo là nhằm: “tăng cường đoàn kết đồng bào
các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”36

36

.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. CTQG, H,
2003, tr 65.


Nhận thức về tôn giáo trong Nghị quyết Trung ương bảy khóa IX đó thể hiện
quá trình tiếp tục đổi mới về tư duy của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Nếu nghị
quyết 24 nêu ba quan điểm chỉ đạo thì trong Nghị quyết này Đảng ta nêu tới năm
quan điểm, trong đó có sự khẳng định lại những quan điểm trước đó và có một số
điểm mới bổ sung:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trỡnh xõy dựng chủ nghĩa xó
hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bỡnh
thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật,
bỡnh đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo
tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gỡn và phỏt huy những giỏ trị tớch
cực của truyền thống thờ cỳng tổ tiờn, tụn vinh những người có công với Tổ quốc
và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vỡ lý do tớn ngưỡng,
tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín
dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lừi của cụng tỏc tụn giỏo là cụng tỏc vận động quần
chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công

dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua
việc thực hiện tốt cỏc chớnh sỏch kinh tế - xó hội, an ninh, quốc phũng, bảo đảm


×