NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ CỦA CẤP
HUYỆN VÀ XÃ TRONG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã nhận định: "Thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN được xây dựng bước đầu" và "cần phải tiếp tục hoàn
thiện". Trong hoạch định các chính sách kinh tế đạt tới khung thể chế, chính sách,
một mặt, phù hợp với yêu cầu của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); mặt khác,
tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể sản xuất kinh doanh tham gia thị trường một cách
hiệu quả nhất. Bài viết dưới đây phân tích nhiều khía cạnh về những tồn tại, yếu
kém trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta hiện nay, đồng thời gợi ý một số định hướng cần hoàn thiện trong thời gian
tới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác này.
Khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn có những đặc thù riêng, sản xuất nông - lâm thủy sản là chính, kinh tế công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển. Chủ thể kinh tế số đông
là các hộ sản xuất nhỏ, trang trại, hợp tác xã (HTX) và các hình thức hợp tác nhỏ của
nông dân, khu vực doanh nghiệp chưa phát triển. Các chủ thể này có nhiều hạn chế về
khả năng kinh doanh và tham gia thị trường, nhưng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, họ cũng phải vận động theo các yêu cầu mà Việt Nam đã cam kết đối với các tổ chức
quốc tế, trước hết là với WTO. Chính vì vậy, Nhà nước phải có những chính sách đặc thù
đối với các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn thì họ mới có thể phát triển
trong điều kiện nền kinh tế chuyển mạnh sang thể chế thị trường và hội nhập với kinh tế
thế giới. Như vậy, việc xây dựng chiến lược và chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn cho thời gian tới vừa phải tuân thủ những điều mà Việt Nam đã cam kết trong các
hiệp định song phương và đa phương, vừa phải có những chính sách đặc thù, có tính nâng
đỡ khu vực này phát triển cùng các khu vực khác của nền kinh tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế của cấp huyện và xã trong nông nghiệp, nông thôn gồm 2
bộ phận: Quản lý các nguồn lực cơ bản (đất đai, vốn và lao động) cho phát triển kinh tế;
Quản lý nhà nước đối với các chủ thể kinh tế (bao gồm hộ kinh doanh, doanh nghiệp, hợp
tác xã các loại hình hợp tác giản đơn của người dân, các tổ chức kinh tế khác...) đang
hoạt động trên địa bàn nông thôn. Tình hình đang diễn ra như sau:
1 - Về quản lý các nguồn lực
a - Về quản lý nhà nước đối với đất đai: Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật
về đất đai đã có rất nhiều quy định về quyền và trách nhiệm quản lý kinh tế của UBND
huyện và xã về quản lý nhà nước đối với đất đai trong nông nghiệp, nông thôn. Những
quy định này có ý nghĩa điều chỉnh sự tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) của UBND
huyện và xã vào phân phối, sử dụng và kiểm soát việc sử dụng đất đai.
Lô-gíc của cơ chế phân cấp là: đối với các tổ chức kinh tế, các pháp nhân và các dự án
đầu tư có quy mô lớn về vốn, người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thì thẩm quyền giao, cho thuê, cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất và thu hồi đất
thuộc về Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh. UBND cấp huyện chỉ có thẩm quyền giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất đối với hộ gia
đình, cá nhân và cộng đồng. UBND xã chỉ có thẩm quyền trong cho thuê đất thuộc
quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã. Đây là một bước tiến
quan trọng trong hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với đất đai trong nông nghiệp,
nông thôn.
Tuy nhiên, với đội ngũ cán bộ năng lực còn hạn chế và điều kiện vật chất còn thiếu
thốn như nhiều địa phương hiện nay, thì việc thực hiện tốt những quy định trên đây là quá
sức và đang là thách thức lớn đối với UBND các cấp huyện và xã hiện nay. Những thách
thức này đã làm cho UBND các cấp huyện và xã phải đối mặt với một số bất cập sau:
- Bất cập giữa quyền hạn theo luật đất đai của hộ nông dân được Nhà nước giao đất
với trách nhiệm quản lý nhà nước của UBND huyện và xã về định hướng sử dụng đất
theo yêu cầu sản xuất nông nghiệp hàng hóa, CNH, HĐH và đô thị hóa. Chẳng hạn, hộ
sản xuất nông lâm thủy sản và làm muối đã được Nhà nước giao đất thì họ có nhiều
quyền khác nhau đối với diện tích đất giao trong thời gian sử dụng (20 năm đối với cây
ngắn ngày và 50 năm đối với cây dài ngày). Đó là các quyền chung như: được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; hưởng
các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; được Nhà
nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình;
quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình và những hành vi vi phạm pháp luật về đất đai... Trong điều kiện đó, có thể
thấy rằng UBND huyện và xã không thể, hoặc rất khó khăn trong việc tác động vào hộ
nông dân để điều chỉnh sản xuất của họ theo hướng chủ quan của huyện và xã. Vì vậy,
quy định các cấp UBND huyện và xã phải lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết,
đặc biệt UBND xã phải lập kế hoạch sử dụng đất tới từng thửa đất là không khả thi.
Rõ ràng là trách nhiệm của UBND huyện và xã đang "xung đột" với quyền của từng
hộ nông dân trong sử dụng đất nông nghiệp, thể hiện ngay trong quy định của pháp luật
đất đai hiện nay. Chính vì vậy, thực tế đã và đang diễn ra theo chiều hướng, công tác lập
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở từng huyện, xã mang tính hình thức trên giấy,
không phản ánh đúng và đầy đủ sự vận động của đất nông nghiệp trong thực tiễn, không
phản ánh được ý nguyện của hộ nông dân.
- Bất cập trong quy định về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất đối với các tổ chức kinh
tế của UBND tỉnh với trách nhiệm quản lý nhà nước đối với đất đai của UBND huyện và
xã. Luật quy định đất đai trong nông nghiệp, nông thôn do UBND huyện và xã trực tiếp
quản lý về mặt nhà nước. Việc giao đất, cho thuê đất đối với các nhà đầu tư, các tổ chức
kinh tế phải thông qua việc thu hồi đất của người đang sử dụng để có đất giao hoặc cho
chủ thể khác thuê. Công việc này liên quan đến trách nhiệm của UBND huyện và xã, nơi
diễn ra việc thu hồi đất. Vì vậy, trên thực tế đã xảy ra nhiều vướng mắc, rắc rối.
- Trong triển khai lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết ở địa phương theo
quy định của Luật Đất đai và Nghị định 181 của Chính phủ, UBND huyện và xã gặp rất
nhiều khó khăn về điều kiện nguồn lực tài chính và con người. Vì vậy, tình trạng tự phát
trong sử dụng đất nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn diễn ra phổ biến, thiếu tác
động quản lý kịp thời và sát của UBND huyện và xã, chỉ đến khi xảy ra biến động lớn,
khi đó mới "vận hành" hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai theo quy định của
pháp luật. Điều tất yếu xảy ra là hiệu quả kinh tế - xã hội của sử dụng đất trong nông
nghiệp, nông thôn rất thấp.
- Công tác quản lý nhà nước của UBND huyện và xã đối với quá trình sử dụng đất của
các chủ thể kinh tế trên địa bàn thường không được triển khai, do trong pháp luật về đất
đai chưa quy định về trách nhiệm thuộc ai và chế tài gì để thúc đẩy thực hiện công việc
này?. Công tác quản lý nhà nước về các tài nguyên trong và trên đất cũng chưa được quy
định và chưa có chế tài thúc đẩy thực hiện. Trong nông thôn đang phổ biến xảy ra tình
trạng sử dụng đất mang tính tàn phá, sai quy hoạch, mà không bị ngăn chặn, xử lý kịp
thời.
Vì vậy, trong thời gian tới cần bổ sung vào pháp luật đất đai những vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định cụ thể hơn đối với UBND huyện, xã về phạm vi quyền, trách
nhiệm, phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và theo dõi, điều chỉnh những
bất cập trong quá trình sử dụng đất. Theo đó, cần xác định rõ những công việc mà UBND
mỗi huyện phải làm để lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Một số điểm
quan trọng, cấp bách cũng cần được luật hóa như xác định các tiêu chí cơ bản làm cơ sở
pháp lý cho UBND huyện quyết định lựa chọn phương án sử dụng đất lâu dài vào các
mục đích khác nhau tại địa phương (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và văn hóa xã
hội), đáp ứng yêu cầu vừa bảo đảm giữ quỹ đất tốt nhất cho sản xuất nông nghiệp,
chuyển các diện tích đất xấu, không thuận lợi đối với sản xuất nông nghiệp sang làm
công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng đời sống xã hội ở nông thôn;...
Thứ hai, quy định việc đánh giá và xử lý những UBND huyện, xã không thực hiện
được nhiệm vụ xây dựng và triển khai quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở địa phương
mình.
Thứ ba, tiếp tục thể chế hóa các quyền của người được Nhà nước giao đất đã được
quy định trong luật, làm rõ phạm vi về quyền của hộ nông dân được giao đất trong việc
quyết định lựa chọn hướng sử dụng đất nông nghiệp, các nguyên tắc bồi thường thỏa
đáng cho hộ nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để đưa vào mục đích xây dựng cơ sở hạ
tầng hoặc mục đích kinh doanh khác.
Thứ tư, bổ sung quy định về các chế tài đối với những trường hợp sử dụng đất sai quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
Thứ năm, sớm có quy định bằng luật pháp về kéo dài thời hạn sử dụng đất nông
nghiệp, bởi những quy định pháp luật về thời hạn sử dụng đất hiện nay trên thực tế chưa
đáp ứng được những thay đổi của quá trình sử dụng đất, không phù hợp với quy luật của
thị trường đất đai khi luật đã chính thức thừa nhận nó, nhất là khi các quy hoạch sử dụng
đất cho đến nay vẫn chưa xong, hoặc chưa rõ ràng, mà thời hạn thì sắp hết. Hơn nữa để
hình thành vùng sản xuất chuyên môn hóa lớn thì chính sách về thời hạn sử dụng đất như
hiện nay là không phù hợp. Cùng với việc xác định lại thời hạn sử dụng đất, cần bổ sung
cho UBND cấp huyện quyền chủ động ra quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp, đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp theo quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội đã được tỉnh phê duyệt. Đồng thời tạo cơ chế ràng buộc các huyện
cùng nằm trên một vùng địa lý - sinh thái phối hợp với nhau trong xây dựng kế hoạch sử
dụng đất theo hướng hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung quy mô lớn liên
huyện và liên tỉnh.
b - Về quản lý nhà nước đối với ngân sách cấp huyện và xã. Cũng đang bộc lộ
những bất cập, đó là:
- Việc phân cấp ngân sách chưa đi đôi với phân cấp về quản lý nhà nước về kinh tế
của cấp huyện và xã trên địa bàn. Hạn chế này đã thể hiện rất rõ qua sự bất lực của
UBND huyện, xã trước nhiều vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường phải xử lý, giải quyết,
nhất là các vấn đề liên quan đến phát triển kết cấu hạ tầng cơ bản phục vụ cho sản xuất
kinh doanh trong phạm vi mỗi huyện, xã khi họ không được chủ động về nguồn lực tài
chính cơ bản nhất, đó là các nguồn thu trên địa bàn để phục vụ cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
- Theo quy định, HĐND tỉnh quyết định phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi cho
từng cấp ngân sách. Điều đó đã dẫn đến sự tùy tiện trong phân bổ ngân sách của các tỉnh
cho các địa phương huyện, xã trong tỉnh, tạo ra sự không đồng đều về ngân sách huyện,
xã ở từng tỉnh và giữa các tỉnh với điều kiện kinh tế như nhau. Từ đó dẫn đến tình trạng
phân hóa các huyện, xã về phát triển kinh tế. Huyện, xã nằm ở vùng khó khăn, điều kiện
nguồn lực cho phát triển kinh tế hạn chế thì ngày càng tụt hậu hơn so với các xã gần
trung tâm thành phố, tỉnh lỵ.
- Việc quy định UBND thị trấn, xã được huy động sự đóng góp của tổ chức cá nhân để
đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn theo nguyên tắc tự nguyện
đã dẫn đến các xã thực hiện quyền này, nhưng không tính đến khả năng đóng góp của
người dân nghèo, làm cho đời sống của người dân nông thôn ở những xã này ngày càng
khó khăn và trở thành vấn đề xã hội bức xúc.
- Thể chế phân cấp ngân sách hiện hành là một trong những tác nhân tạo ra tệ "xin
cho" ở các cấp cơ sở dưới tỉnh, dư địa để các địa phương (tỉnh và liên tỉnh, huyện và liên
huyện) cùng nhau "chủ động", "phá rào" phát triển các vùng kinh tế động lực, thu hút các
doanh nghiệp, nhà đầu tư bỏ vốn vào phát triển nông thôn.
Để hoàn thiện quản lý nhà nước đối với ngân sách cấp huyện và xã cần phải:
Thứ nhất, thiết lập quyền và trách nhiệm ngân sách cho UBND huyện, bảo đảm thực
hiện được yêu cầu triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được tỉnh
phê duyệt.
Thứ hai, xác định cấp huyện là chủ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng bằng vốn
ngân sách và các nguồn vốn khác trên địa bàn
Thứ ba, xây dựng các tiêu chí đánh giá vai trò và năng lực của UBND huyện trong
việc sử dụng có hiệu quả các công trình phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được phê
duyệt.
Thứ tư, quy định rõ mối quan hệ giữa UBND tỉnh, huyện và xã trong việc lập và chi
tiêu ngân sách vào triển khai thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của toàn
huyện đã được tỉnh phê duyệt.
Thứ năm, xây dựng cơ chế sử dụng phối hợp vốn đầu tư ngân sách vào phát triển các
vùng sản xuất hàng hóa liên huyện, liên tỉnh.
c - Về quản lý nhà nước của cấp huyện và xã đối với thực hiện chính sách thuế ở
nông thôn hiện đang tồn tại những bất cập sau:
Chưa gắn được trách nhiệm và lợi ích của UBND các cấp huyện và xã với các hoạt
động này; Thiếu sự hướng dẫn thấu đáo của các cơ quan thuế đối với các đối tượng phải
nộp thuế, thiếu cơ chế kiểm soát hành vi trốn thuế; Một số đối tượng nằm trong diện
được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách hỗ trợ phát triển như đối với khu
vực kinh tế tập thể và hợp tác xã, lĩnh vực sản xuất nông nghiêp được ưu đãi về thuế... đã
không được các cơ quan thuế thực hiện; Thiếu sự hợp tác cần thiết giữa cơ quan thuế với
các cơ quan quản lý chuyên ngành của nhà nước ở nông thôn như các sở nông nghiệp và
phát triển nông thôn, công nghiệp, thương mại - du lịch... để thực hiện pháp luật về thuế
phù hợp với điều kiện khác nhau của từng địa phương nông thôn, là một trong những
nguyên nhân làm thui chột động lực phát triển của tổ chức và cá nhân đang hoạt động
kinh doanh với nhiều khó khăn hơn khu vực thành thị và các khu công nghiệp có môi
trường kinh doanh thuận lợi hơn.
Để hoàn thiện cần phải:
- Sửa đổi cơ chế hoạt động của các cơ quan thuế cấp tỉnh và huyện theo hướng công
tác thu thuế phải được trao đổi với UBND các cấp huyện và xã về kết quả thu thuế và
những vấn đề phát sinh, bất cập trong quá trình thu thuế;
- Quy định cơ quan thuế phải thông báo với UBND các cấp về những thay đổi hằng
năm trong chính sách thuế của Nhà nước, những điểm phù hợp và bất cập trong thực hiện
chính sách thuế tại địa phương và lấy ý kiến của UBND các cấp về hướng xử lý những
bất cập nảy sinh, trình với Tổng cục thuế - Bộ Tài chính để có hướng sửa đổi kịp thời cho
phù hợp với tình hình thực tế của nông thôn;
- Quy định UBND các cấp huyện và xã phải định kỳ thông báo rộng rãi các chính sách
thuế các loại của Nhà nước với nông dân và các tổ chức kinh tế hoạt động ở nông thôn.
2 - Về quản lý nhà nước đối với các chủ thể kinh tế
Trong thể chế quản lý nhà nước của UBND huyện và xã đối với các tổ chức kinh tế
hoạt động trong nông nghiệp, nông thôn theo luật pháp hiện hành đang có những hạn chế,
vướng mắc sau:
a - Đối với các nông, lâm trường và công ty nhà nước:
- Hầu hết các nông, lâm trường hiện nay thuộc quản lý của UBND tỉnh (nông, lâm
trường thuộc tỉnh), hoặc thuộc quyền quản lý của các tổng công ty (nông, lâm trường
thuộc trung ương), nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của chúng lại gắn liền với việc
sử dụng đất đai và các nguồn lực khác trên địa bàn xã và huyện và không thể tách rời
hoạt động sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân cùng trên địa bàn. Vì vậy, các nông,
lâm trường thường gặp nhiều mâu thuẫn với người dân địa phương về tổ chức sản xuất
trên đất thuộc quyền quản lý của mình.
- Ủy ban nhân dân huyện và xã có trách nhiệm triển khai chính sách của nhà nước đối
với các hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác nhỏ của các hộ
nông dân trên địa bàn, nhưng lại không có quyền lực gì với các DNNN hoạt động trên địa
bàn. Kết quả là việc sử dụng nguồn lực đất đai, nguồn nước tại chỗ để cùng sản xuất
nông, lâm nghiệp đã không đạt hiệu quả cao nhất. Do vậy việc xác định lại vai trò của
cấp huyện và xã trong quản lý nhà nước đối với các nông, lâm trường trên địa bàn, không
phụ thuộc vào nông lâm trường đó thuộc tỉnh hay các tổng công ty là cần thiết.
Để hoàn thiện cần phải:
- Các chương trình hỗ trợ phát triển có mục tiêu của nhà nước cần được tập trung về
UBND huyện để lồng ghép và phân bổ theo đúng nhu cầu các địa bàn xã, cụm xã và theo
số lượng dân cư nằm trong diện hưởng lợi.
- Giao UBND huyện chịu trách nhiệm trước tỉnh về tính hiệu quả và bền vững của
việc tổ chức lại sản xuất nông, lâm, thủy sản và phân bổ hợp lý các nguồn lực tại chỗ, kết
hợp sử dụng các nguồn tài chính do trung ương chuyển về và nguồn do các tổ chức trong
và ngoài nước tài trợ.
b - Đối với khu vực kinh tế tập thể và HTX:
Sự hạn chế trong hiểu biết về pháp luật HTX của UBND huyện, thị xã, đặc biệt là
UBND cấp xã đã dẫn đến coi nhẹ hoặc không quan tâm đến vai trò của khu vực HTX và
các hình thức hợp tác mới trong nông thôn của người dân. Kinh phí hạn hẹp cũng dẫn đến
nhiều khó khăn trong công tác hỗ trợ hợp tác xã và hộ nông dân. Thêm nữa, còn tình
trạng can thiệp hành chính của một số UBND huyện và xã vào việc lựa chọn các chức
danh quản lý HTX. Ngoài ra, việc không triển khai các biện pháp theo dõi hoạt động của
từng HTX sau đăng ký thành lập để phát hiện kịp thời những sai trái trong thực hiện Điều
lệ, các quy định của pháp luật về HTX của xã viên và các chức danh trong HTX, dẫn đến
không tuân thủ các nguyên tắc HTX và làm méo mó mô hình này.
Để hoàn thiện cần phải:
- Quy định cụ thể UBND huyện phối hợp với UBND xã triển khai sâu, rộng hơn các
đợt học và tập huấn Luật HTX ngay trong cán bộ trực thuộc; quy định các huyện chủ
động xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ phát triển HTX và các tổ chức hợp
tác giản đơn của người dân nông thôn (bao gồm cả nông dân và những người sản xuất thủ
công, dịch vụ nhỏ) để giúp họ có đủ năng lực hợp tác, liên kết trong từng HTX, từng tổ,
nhóm hợp tác;
- Quy định UBND huyện và xã không được can thiệp hành chính vào công việc nội bộ
của HTX khi HTX đang hoạt động bình thường và thực hiện đầy đủ các quy định của
pháp luật;
- Giao nhiệm vụ cho Liên minh HTX Việt Nam thường xuyên phối hợp với UBND
huyện trong việc theo dõi sự phát triển của phong trào HTX ở từng huyện và có các hình
thức biểu dương, khen thưởng vật chất, tinh thần đối với cá nhân và tập thể những HTX
có nhiều thành tích trong thực hiện Luật HTX và phát triển bền vững.
c - Đối với khu vực doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, công tác
quản lý nhà nước của cấp huyện và xã có những hạn chế như:
- Ủy ban nhân dân các huyện, xã thường không nắm bắt đầy đủ các quy định của Luật
Doanh nghiệp, chưa nhận thức được trách nhiệm trong tuyên truyền luật này ở nông thôn;
- Ủy ban nhân dân các huyện, xã chưa thấy được ý nghĩa quan trọng của phát triển
doanh nghiệp ở nông thôn, tự cho rằng ở nông thôn chỉ có HTX và hộ nông dân, không
cần doanh nghiệp. Từ đó không chú ý đến đánh giá sự hình thành các doanh nghiệp ở
nông thôn, kể cả các doanh nghiệp trong nông nghiệp và các lĩnh vực phi nông nghiệp;
- Chưa thể hiện được vai trò trong việc tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn, thu hút
các nhà đầu tư, các doanh nghiệp ở thành thị và nước ngoài hướng đầu tư vào kinh doanh
ở nông thôn.
Để hoàn thiện cần phải:
Thứ nhất, yêu cầu UBND huyện tuyên truyền, chuyển tải những nội dung mới của
Luật năm 2005 một cách toàn diện và trực tiếp về trên địa bàn, coi đó là nhiệm vụ quan
trọng của công tác quản lý nhà nước huyện trong thời gian tới.
Thứ hai, cần nghiên cứu để xác định rõ những nội dung cơ bản mà UBND huyện và
xã phải thực hiện trong nhiệm vụ triển khai Luật Doanh nghiệp ở nông thôn. Xác định rõ
trách nhiệm của cán bộ quản lý nhà nước cấp huyện và xã trong việc nghiên cứu các nội
dung của luật và đủ khả năng giải thích cho người dân hiểu một cách chính xác những
quy định của luật.
Thứ ba, UBND từng tỉnh cần giúp đỡ UBND các huyện phối hợp tiến hành định kỳ
hằng năm tổ chức hội nghị gặp mặt doanh nhân thuộc mọi loại hình doanh nghiệp, kể cả
các Chủ nhiệm HTX và những người muốn thành lập doanh nghiệp ở nông thôn. Tại
những hội nghị này tiến hành những hoạt động đa dạng như phổ biến luật và các văn bản
dưới luật, trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh nhân và đối thoại giữa cơ quan quản lý
nhà nước với doanh nhân.
Thứ tư, bổ sung quy định cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện (phòng đăng ký
kinh doanh cấp huyện) cũng có chức năng cấp đăng ký thành lập doanh nghiệp, theo đó
quy định mọi người dân có quyền thành lập doanh nghiệp ở cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh hoặc cấp huyện giống như đăng ký thành lập HTX.
Thứ năm, chính phủ cần có hướng chuyển mạnh bộ máy chính quyền huyện và xã từ
quản lý hành chính, sang dịch vụ phát triển kinh tế trên địa bàn, từ đó đẩy mạnh các hoạt
động phục vụ người dân và doanh nghiệp trong kinh doanh ở nông thôn.
Thứ sáu, UBND huyện, xã cần tăng cường phối hợp với các tổ chức quần chúng xã
hội như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên... trong việc triển khai Luật Doanh
nghiệp ở nông thôn bằng các hoạt động cụ thể như tập huấn cho cán bộ của các hội về
kiến thức luật và ý nghĩa của việc triển khai luật ở nông thôn.
Tạp chí cộng sản, số 143 /2007.
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Nguyễn Thế Nghĩa
PGS, TS Trường Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Năng lực cạnh tranh là sức mạnh của doanh nghiệp được thể hiện trên thương
trường. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp thể hiện trước hết ở năng lực
cạnh tranh. Để từng bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình hội nhập,
nâng cao năng lực cạnh tranh chính là tiêu chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt
Nam.
1 - Khái quát tình hình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam
Trước thời kỳ đổi mới, các khái niệm doanh nghiệp, doanh nhân hầu như không được
sử dụng ở nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, nhất là khi đất nước thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, các khái niệm doanh
nghiệp, doanh nhân ngày càng được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực khoa học, kinh tế...
và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong chương trình đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
đến việc hình thành, phát triển các doanh nghiệp, doanh nhân và coi đó là lực lượng chủ
lực của phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ bảy, khóa IX, lần đầu tiên đã đặt ra yêu cầu xây dựng đội ngũ doanh nhân
Việt Nam cùng với nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.
Đại hội X của Đảng đã đưa ra chủ trương cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân
và đặt ra yêu cầu xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp, trong đó đưa
ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 cả nước có 500.000 doanh nghiệp .
Cùng với đường lối đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế, Luật Đầu tư nước
ngoài. Luật Doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ... đi vào cuộc sống thực
sự thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ra đời và ngày càng phát triển
nhanh về số lượng, rộng về quy mô, phong phú về các loại hình và hoạt động ngày càng
có hiệu quả. Đến nay, cả nước đã có khoảng hơn 240.000 doanh nghiệp, gần 3 triệu hộ
kinh doanh, trên 200 ngành kinh doanh với hàng triệu doanh nhân và hàng chục triệu
người lao động[1].
Các doanh nghiệp, doanh nhân đã nhanh chóng tiếp cận thị trường trong và ngoài
nước, từng bước thích nghi với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tích cực áp
dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, cải tiến công
tác quản lý... Vì vậy, các doanh nghiệp đã đóng góp phần quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế của đất nước, đã tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp, 26% lực lượng lao
động cả nước; nếu năm 2001 trung bình gần 1.000 người dân mới có một doanh nghiệp,
thì năm 2005 cứ trên 500 người dân đã có 1 doanh nghiệp. Từ năm 2000 đến nay, mỗi
năm khu vực doanh nghiệp tư nhân đóng góp hơn 6.000 tỉ đồng tiền thuế, chiếm 14,8%
tổng thu ngân sách Nhà nước. Trong 6 năm thực hiện luật Đầu tư mới, các doanh nghiệp
đã đăng ký số vốn khoảng 321.200 tỉ đồng (khoảng 21 tỉ USD) và số vốn đăng ký bổ
sung trên 103.000 tỉ đồng (khoảng 6,3 tỉ USD). Như vậy, tỷ trọng đầu tư của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng đầu tư phát triển toàn xã hội tăng từ 22,6% (năm
2000) lên 32% (năm 2005), đầu tư khu vực doanh nghiệp nhà nước là 50%. Tốc độ tăng
trưởng bình quân của doanh nghiệp tư nhân đạt 18 - 24%, khu vực nhà nước đạt dưới
10%; song tỷ trọng trong GDP của cả hai khu vực này là tương đương nhau (doanh
nghiệp tư nhân 40,1% và khu vực Nhà nước 40,6% trong năm 2005).[2]
Như vậy, mặc dù mới ra đời và phát triển nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã thực
hiện tính năng động, linh hoạt thích ứng với điều kiện hội nhập, sự tự tin và ý chí kinh
doanh cao... và kết quả hoạt động là tích cực rất đáng khích lệ. Trong đó, một số doanh
nghiệp đã khẳng định được uy tín, chất lượng, hiệu quả và thương hiệu của mình trên thị
trường trong nước và quốc tế. Hoàn toàn có cơ sở khẳng định rằng, các doanh nghiệp
Việt Nam đang và sẽ trở thành đội quân chủ lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh của toàn cầu hóa, nhất là khi Việt Nam là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối thủ mới
(các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm
và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới (thị trường
toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc
tế). Nói cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức
thật sự to lớn.
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện còn rất hạn
chế. Bởi lẽ, đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn. Theo điều tra mới nhất
hiện có 51,3% doanh nghiệp có dưới 10 người lao động, 44% doanh nghiệp có từ 10 đến
200 lao động, chỉ có 1,43% doanh nghiệp có từ 200 đến 300 lao động, 42% doanh nghiệp
có vốn dưới 1 tỉ đồng, 37% doanh nghiệp có vốn từ 1 tỉ đến 5 tỉ đồng và chỉ có 8,18%
doanh nghiệp có vốn từ 5 tỉ đến 10 tỉ đồng[3].
Trong điều kiện quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn ít các doanh nghiệp Việt Nam lại gặp
một thách thức rất lớn đó là chất lượng nhân lực của doanh nghiệp thấp. Đội ngũ chủ
doanh nghiệp, cán bộ quản lý doanh nghiệp còn rất thiếu kiến thức quản trị và kỹ năng
kinh nghiệm quản lý. Kết quả điều tra hơn 63.000 doanh nghiệp trên cả nước cho thấy:
43,3% lãnh đạo doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông, số chủ
doanh nghiệp có trình độ thạc sỹ trở lên chỉ có 2,99%.[4] Có thể nói, đa số các chủ doanh
nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến
thức kinh doanh, quản lý, kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp... và kỹ năng quản trị kinh
doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Điều đó được thể
hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về thuế, quản lý
nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu công nghiệp...
Thứ hai, sự lạc hậu về khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức
trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, 76% máy móc, dây chuyền công nghệ được sản
xuất từ những năm 1950 - 1960, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% số thiết bị là đồ tân
trang... Tóm lại, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các doanh nghiệp Việt Nam chỉ
có 10% hiện đại, 38% trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công
nghệ cao mới chỉ có 2% (tỷ lệ này ở Thái Lan là 31%, Ma-lai-xi-a là 51% và Xin-ga-po
là 73%). Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ta đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp,
chi phí khoảng 0,2% - 0,3% tổng doanh thu[5].
Thứ ba, hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các
doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho
sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm có sự
tăng trưởng cao (hàng da giày, dệt may, chế biến thực phẩm, đồ uống, sản phẩm thép và
kim loại màu, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, ô tô, xe máy...) đều phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, giá cả các loại
nguyên vật liệu này trên thế giới có xu hướng gia tăng, làm cho nhiều nhóm sản phẩm có
tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu khá cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm.
Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu mạnh,
chưa khẳng định được uy tín chất lượng và năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực
và quốc tế. Trên thực tế, trong nhiều sản phẩm của Việt Nam yếu tố cấu thành của tri
thức, công nghệ thấp, trong khi yếu tố sức lao động và nguyên vật liệu cao... Điều đó làm
cho sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm không có ưu thế rõ rệt trên thị trường.
Thứ tư, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại
của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam
có quy mô vừa và nhỏ nên hạn chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối sản phẩm.
Trong khi đó, hoạt động xúc tiến thương mại còn giản đơn, sơ lược và không có hiệu quả
thiết thực. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến, giới thiệu một
cách bài bản về sản phẩm cho khách hàng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa nhận thức
đúng được giá trị và ý nghĩa của xúc tiến thương mại, quảng cáo...Vì vậy, chi phí cho
quảng cáo rất thấp, chỉ dưới 1% doanh thu (tỷ lệ này của các doanh nghiệp nước ngoài
chiếm khoảng 10% đến 20% doanh thu).
2 - Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là khi Việt Nam là thành viên của WTO thì việc
nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành vấn đề sống còn của các doanh nghiệp.
Một là, nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp...
cho các chủ doanh nghiệp, các bộ quản lý và người lao động trong doanh nghiệp. Như đã
nhận xét ở phần trên, hiện còn tới 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới
trung học phổ thông, số có trình độ thạc sỹ trở lên chỉ chiếm 2,99%. Vì vậy, giáo dục -
đào tạo cần trang bị học vấn ở trình độ cử nhân và những tri thức cơ bản về kinh tế - xã
hội, văn hóa, pháp luật... cho các chủ doanh nghiệp, giám đốc, cán bộ quản lý doanh
nghiệp và những người lao động.
Hai là, tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý trong
các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược. Trong mọi điều kiện, doanh
nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ năng cần thiết (kỹ năng quản trị
trong cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp, kỹ năng quản lý sự biến đổi, kỹ năng
thuyết trình, kỹ năng đàm phán và giao tiếp v.v...) để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường
và tiếp cận nền kinh tế tri thức.
Để có đủ sức cạnh tranh lâu dài và có thể tự tin bước vào kinh tế tri thức, các doanh
nghiệp cần phải xây dựng chiến lược phát triển bền vững. Trong đó, đặc biệt chú trọng
đến chiến lược cạnh tranh và những kỹ năng mang tính chiến lược như: Quản trị chiến
lược, quản trị rủi ro, và tính nhạy cảm trong quản lý, phân tích kinh doanh, dự báo và
định hướng chiến lược phát triển...
Ba là, hiện nay đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn ít, trình độ
học vấn, kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp (nhất là luật pháp quốc tế) không cao,
trình độ tay nghề của người lao động thấp... Trong điều kiện này, để thực hiện chiến lược
cạnh tranh cần phải và nhất thiết phải thực hiện phương châm liên kết và hợp tác để nâng
cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết và hợp tác
không phải là phép tính cộng tổng số các doanh nghiệp, mà chính là tạo ra sức mạnh bội
phần của các nhóm, các tập đoàn kinh tế cùng sản xuất kinh doanh một (hoặc một số) sản
phẩm nhất định và cùng thực hiện chiến lược thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng
bá sản phẩm trên thị trường.
Bốn là, tăng cường sự hỗ trợ của chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước về vốn,
cơ chế, chính sách, luật pháp, xúc tiến thương mại, giáo dục - đào tạo, tư vấn về thiết bị,
công nghệ hiện đại... cho các doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường hơn nữa vai trò của
các hiệp hội, các hội, các câu lạc bộ giám đốc và các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ đối
với sự phát triển của các doanh nghiệp.
Năm là, xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa có vai trò quan trọng trong sự phát
triển, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Từ xưa, cha ông ta đã
đúc kết: "Phi trí bất hưng, phi thương bất phú, phi công bất hoạt". Ngày nay, trong xã hội
hiện đại, quan niệm về giá trị, về lao động sáng tạo, ý thức cạnh tranh, ý chí làm giàu, sự
tín nhiệm xã hội... có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và xây
dựng văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp, nói một cách khái quát là "đạo làm giàu", tức là làm giàu một
cách có văn hóa: Làm giàu cho bản thân, làm giàu cho doanh nghiệp, làm giàu cho xã hội
và cho đất nước. Sự giàu có về trí tuệ, về của cải và tính năng động sáng tạo là những giá
trị xã hội mà mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp phải có. Vì vậy, xây dựng văn hóa
doanh nghiệp tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực luôn là động lực thúc đẩy
sức sáng tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
[1] Xem: TTXVN: Thông tin tư liệu - 146 (842), ngày 07-12- 2006, tr 5
[2] Xem: TTXVN. Tài liệu đã dẫn, tr 5
[3] Xem: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam: WTO - Việt Nam và trách nhiệm của tri
thức khoa học và công nghệ thời kỳ hội nhập quốc tế, Hà Nội, 1-2007, tr 36 – 37
[4], [5] Xem: Trương Thị Hiền. “Việt Nam gia nhập WTO - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí
Phát triển nhân lực, số 1(1) - 2007
Tạp chí cộng sản, số 143 /2007.
CẦN ĐẶT CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁN BỘ ĐÚNG TẦM
Nguyễn Phi Long
Ban tổ chức Trung ương
Công tác cán bộ của Đảng bao giờ cũng có tầm quan trọng bậc nhất sau khi Đảng xác
định được đường lối chính trị đúng đắn. Ở tầm vĩ mô, công tác cán bộ của Đảng có hai
mảng lớn là xác định đường lối công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Việc định ra đường
lối, chính sách, quan điểm, tiêu chuẩn chung về cán bộ và công tác cán bộ thuộc thẩm
quyền của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương. Các khâu còn
lại của công tác cán bộ thuộc phạm trù quản lý cán bộ và được phân cấp cho cấp ủy đảng
các cấp từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến cấp ủy cơ sở.
Trước yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng và thực trạng đội ngũ cán bộ, trong nhiều
năm qua, Đảng ta đã đặc biệt coi trọng công tác cán bộ, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị và
những biện pháp thiết thực về xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ, trong
đó có nội dung quản lý cán bộ. Nội dung quản lý cán bộ được Trung ương xác định, gần
đây, theo Quy định số 23 – QĐ/TW ngày 31-10-2006 và Quyết định số 67 – QĐ/TW
ngày 04-7-2007 của Bộ Chính trị ban hành Quy định về phân cấp quản lý cán bộ (thay
thế Quyết định số 49 - QĐ/TW ngày 03-5-1999 của Bộ Chính trị khóa VIII) đã xác định
công tác quản lý cán bộ gồm 7 nội dung chính (đó là những nội dung lớn của công tác
cán bộ).
Theo chúng tôi, quản lý cán bộ chính là khâu tiền đề và có vị trí trọng yếu trong công
tác cán bộ. Bởi, có quản lý tốt từng người cán bộ và cả đội ngũ cán bộ thì chủ thể quản lý
mới có cơ sở để tiến hành các khâu tiếp theo của công tác cán bộ một cách chính xác; có
luận chứng, luận cứ trực tiếp để đánh giá đúng, bố trí, sử dụng phù hợp và phát huy tốt
khả năng của cán bộ trong thực tiễn. Vì vậy, có thể hiểu quản lý cán bộ là hoạt động
thường xuyên, chủ động, có mục đích, có định hướng của chủ thể quản lý (tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền được phân công, phân cấp quản lý cán bộ) nhằm tìm hiểu, đánh giá
đúng thực trạng đội ngũ cán bộ và từng cán bộ một cách khoa học, đồng bộ và hệ thống,
làm cơ sở cho việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng
cán bộ đúng chỗ, phù hợp, phát huy khả năng của cả đội ngũ và từng người cán bộ, góp
phần xây dựng tổ chức ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với quan niệm nêu trên, cần có chung nhận thức: thứ nhất, quản lý cán bộ là một quá
trình, bao gổm tổng thể các chủ trương, biện pháp, cách thức của cấp ủy đảng các cấp,
người đứng đầu tổ chức, của các cơ quan chức năng cùng hướng tới mục đích: Xây dựng
đội ngũ cán bộ vững mạnh bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng;
quản lý cán bộ để nắm chắc toàn bộ đội ngũ cán bộ, từng loại cán bộ và từng nguồn cán
bộ một cách khoa học, đồng bộ, hệ thống; thứ hai, quản lý cán bộ đòi hỏi phải kết hợp
chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức, trên cơ sở quán triệt sâu sắc lý luận
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, nguyên tắc công
tác cán bộ của Đảng, nắm vững đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan,
đơn vị, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc về nhận thức, đề cao được trách nhiệm
của các cấp, các ngành, phát huy được tính chủ động sáng tạo của từng địa phương, cơ
sở; bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các tổ chức, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa cấp ủy đảng, người đứng đầu tổ chức và cơ quan chức năng trong quản lý
cán bộ; thứ ba, phải thường xuyên làm tốt các khâu, các bước trong quy trình công tác
cán bộ, từ việc phân tích tình hình nhiệm vụ chính trị ở từng cơ quan, đơn vị, đánh giá
thực trạng công tác quản lý cán bộ, xác định chủ trương, phương hướng đến xác định
mục tiêu, quy trình, biện pháp quản lý cán bộ. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch cán bộ cần
làm tốt việc tuyển chọn, tạo nguồn, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng và tạo điều kiện cho đội
ngũ cán bộ phấn đấu vươn lên, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; thứ tư,
quản lý cán bộ phải hướng vào việc không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực của mỗi
cán bộ; nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ, góp phần bảo đảm cho tổ chức đảng,
chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh về
mọi mặt, đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài. Đây là giá trị
đích thực, là mục tiêu cần đạt tới của mọi hoạt động trong quản lý cán bộ.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu
dài, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo
cách mạng, Đảng phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, bảo
đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Gắn chặt với việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị là phương châm chỉ đạo toàn bộ các khâu công việc, các hoạt động cụ
thể của công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Chất lượng công tác cán bộ nói chung, quản lý
cán bộ nói riêng cao hay thấp được đánh giá chủ yếu ở tác động của nó đối với việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Cấp ủy các cấp, người đứng đầu tổ chức và cơ quan
quản lý cán bộ phải lấy yêu cầu đó làm căn cứ xem xét, đánh giá và định ra mục tiêu,
phương hướng quản lý cán bộ thuộc quyền.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ được bắt đầu từ việc tuyển chọn và đào tạo, bồi dưỡng
từng người cán bộ. Do vậy, việc hiểu rõ từng cán bộ có quan hệ chặt chẽ với việc quản lý
cả đội ngũ cán bộ. Hiểu đúng phẩm chất và năng lực của từng cán bộ sẽ sử dụng cán bộ
đúng chỗ, có chính sách thỏa đáng, tạo điều kiện cho họ tiến bộ không ngừng. Thấy rõ
mặt mạnh, mặt yếu của cả đội ngũ để có hướng xây dựng, bồi dưỡng và đào tạo đồng bộ,
đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của nhiệm vụ cách mạng.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, cấp ủy đảng các cấp và người đứng đầu tổ chức không
những phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng về công tác cán bộ; nâng cao chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ; đồng thời, phải chú trọng chất
lượng và hiệu quả công tác quản lý cán bộ. Bởi, có quản lý cán bộ được tốt mới hiểu
được mặt mạnh, mặt yếu, dự tính được triển vọng của từng cán bộ và cả đội ngũ cán bộ;
quản lý cán bộ tốt sẽ tác động mạnh mẽ và tạo điều kiện làm tốt các việc đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ; có quy hoạch, kế hoạch công tác cán bộ đúng đắn, toàn
diện.
Trong những năm qua, công tác cán bộ nói chung, quản lý cán bộ nói riêng đã có
những đổi mới về nội dung và cách thực hiện. Trên cơ sở giữ vững quan điểm Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách
nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị; bước đầu
tổ chức để nhân dân tham gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất là ở cơ sở đã đem lại hiệu
quả thiết thực góp phần tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng tình hình, nhiệm vụ
chính trị trong giai đoạn mới và khắc phục một bước tình trạng hẫng hụt về cán bộ.
Thành tựu của công cuộc đổi mới là minh chứng sống động, khẳng định rằng, Đảng ta
đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị; năng động, sáng tạo, có ý
thức tự chủ, tự lực tự cường; có kiến thức, trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn, thích
nghi nhanh với cơ chế mới và trưởng thành trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Cùng với việc nêu lên những kết quả đạt được của công tác cán bộ và quản lý cán bộ,
Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế về công tác quản lý cán bộ
đã tồn tại trong nhiều năm qua: “Công tác quản lý cán bộ không chặt chẽ; các cấp ủy
đảng ít hiểu cán bộ và chưa chăm lo đào tạo và bồi dưỡng cán bộ”[1], “Công tác quản lý
cán bộ chưa tốt, chưa đảm bảo nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý cán bộ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách bị vi phạm ”[2];
“Công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ ở nhiều nơi bị buông lỏng.
phần lớn khi có đơn thư tố giác mới thanh tra, kiểm tra. Không kiên quyết xử lý những
cán bộ sai phạm. Còn thiếu các quy chế về quản lý cán bộ...”[3]; “Đánh giá và quản lý
cán bộ là khâu yếu nhất nhưng chậm được khắc phục... Công tác quản lý cán bộ chưa tốt,
chế độ trách nhiệm và quyền hạn người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị trong công tác cán
bộ chưa được quy định rõ hoặc chưa hợp lý”[4]; “Chưa xây dựng được quy chế về quyền
và trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu các cấp trong công tác cán bộ. Cấp có thẩm
quyền và chi bộ chưa làm tốt việc quản lý và giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo; chưa khắc phục được biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ”[5]; “Nhiều
khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục, nhất là việc quản lý,
giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hành dân chủ và
chế độ trách nhiệm trong công tác”[6].