Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đại ĐOÀN kết VÀ sự vận DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.68 KB, 22 trang )

1

Tư tưởng Hồ Chí Minh Về đại đoàn kết Và sự vận dụng của đảng vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Đại đoàn kết là một nội dung lớn và vô cùng sâu sắc trong toàn bộ tư
tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá
trình cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã thấm
nhuần trong suy nghĩ, tình cảm và hành động của mỗi người dân Việt Nam
yêu nước, tạo nên sức mạnh to lớn nhấn chìm mọi kẻ thù xâm lược và bè lũ
tay sai bán nước, giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng
giàu mạnh. Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước còn
nhiều khó khăn, phức tạp, cùng những tác động to lớn của quá trình toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế, hơn bao giờ hết chúng ta càng phải thấm
nhuần hơn nữa tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, coi đây là cơ sở, nền
tảng và động lực để phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong giai đoạn cách
mạng mới. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và sự
vận dụng của Đảng ta vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vạch ra, đồng thời cũng là người thực
hành xuất sắc tư tưởng đại đoàn kết. Theo Người, Đảng lãnh đạo nhân dân
làm cách mạng, nhưng cách mạng là sự nghiệp của đông đảo quần chúng
nhân dân, chứ không phải là công việc của một số người, của riêng Đảng
cộng sản. Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và
xây dựng xã hội mới do mình làm chủ, sự nghiệp ấy chỉ có thể thực hiện
được bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy theo
quan niệm của Người, đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố
quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đó là lý do
giải thích vì sao phần lớn các bài viết, bài nói của Người đều đề cập đến
nội dung đoàn kết. Số liệu thống kê cho thấy, có khoảng trên 40% trên tổng



2

số bài đề cập đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc; chỉ tính từ tháng 7năm 1954
đến tháng 8 năm 1969 trong tổng số 1056 bài viết, bài nói của Người đã có
406 bài trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề này. Hơn thế, Người còn
hết lòng tập hợp, dìu dắt; chăm lo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ
cách mạng có đủ phẩm chất, năng lực làm hạt nhân đoàn kết dân chúng.
Trên cương vị lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà nước, Người đã tập hợp,
quy tụ được các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng
phái, tôn giáo, giới, trong nước hay ngoài nước, xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam cả trong thời kỳ đấu
tranh giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này.
Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam ngày
càng rộng rãi và bền vững. Đại đoàn kết dân tộc rõ ràng là một nội dung
xuyên suốt và vô cùng sâu sắc trong tư tưởng cũng như hoạt động thực tiễn
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chiến lược đại đoàn kết dân tộc, tập hợp và phát huy sức mạnh của các
lực lượng cách mạng trong nước, quốc tế của Hồ Chí Minh được hình thành,
hoàn chỉnh trên nền tảng lý luận, thực tiễn phong phú và vững chắc. Về mặt
lý luận, chiến lược đại đoàn kết của Người được xây dựng trên cơ sở kế thừa,
phát triển những giá trị nhân bản quan trọng của truyền thống dân tộc và văn
hoá nhân loại, đặc biệt là những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Về
mặt thực tiễn, nó được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm
chưa thành công và những đòi hỏi khách quan của phong trào cách mạng Việt
Nam cũng như phong trào cách mạng thế giới. Với Hồ Chí Minh, đoàn kết và
đại đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời, mang tính sách lược
mà là vấn đề chiến lược có ý nghĩa sống còn, lâu dài. Nó không phải là chủ
trương xuất phát đơn thuần từ sự cần thiết của lực lượng lãnh đạo cách mạng
mà là sự đúc kết những những nhu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng

do quần chúng tiến hành vì lợi ích của chính họ. Vì vậy, đại đoàn kết chính là


3

chiến lược sử dụng và phát huy tối đa vật lực và trí lực của toàn dân, thực sự
trở thành yếu tố quyết định sức mạnh của lực lượng cách mạng.
Tin vào dân, dựa vào dân là một đặc điểm cơ bản, bao trùm trong tư
tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Người đã kế thừa, nâng cao tư duy chính trị
truyền thống: “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong” 1
Đồng thời Người luôn quán triệt sâu sắc và hành động theo nguyên lý mác
xít: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Người đã khái quát vô cùng sâu
sắc: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”2. Người đã đánh giá cao và đòi
hỏi vai trò tích cực, chủ động sáng tạo của nhân dân: Cách mạng là việc
chung của cả dân tộc chứ không phải của một, hai người; công nông là gốc
của cách mạng; muốn được giải phóng, các dân tộc phải biết “dùng sức ta”
mà tự giải phóng cho ta. Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, đấu tranh vì quyền
lợi của dân là nguyên tắc tối cao, xuyên suốt trong tư duy chiến lược và
hoạt động thực tiễn cách mạng của Hồ Chí minh.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã thường xuyên quan tâm và dày công xây dựng Đảng ta, các lực
lượng cách mạng nước ta thành một khối đoàn kết thống nhất, vững chắc. Nói
về vai trò của đoàn kết, Người đã nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; thành công, thành công, đại thành công”3. Người đã chỉ rõ, đoàn kết là
nguyên nhân của mọi thành công: “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành
công”4; “bất kỳ khó khăn gì, bất kỳ công việc to mấy ta đoàn kết đều làm được hết
cả. Ví dụ: lật đổ chế độ thực dân phong kiến có khó không? khó. Thế nhưng ta đoàn
kết nên ta lật đổ được. Lúc đầu kháng chiến ta ở trong hoàn cảnh rất khó khăn. Pháp

có hải quân, không quân, xe tăng, có những tên tướng có kinh nghiệm mấy chục
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.2000, tr.212.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1996, tr.276.
3 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H. 2000, tr.276.
4 Sđd, T.11, tr.154.
1

22


4

năm, có khí giới của Mỹ giúp. Lúc đó cơ đồ ta chỉ có tay không mà phải đánh một
kẻ địch mạnh hơn. Nhưng chúng ta đã thắng. Vì sao? Vì đoàn kết”5.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là tư tưởng mang tính cách
mạng, nhân văn và vị tha nhằm tập hợp mọi lực lượng cần tập hợp làm động
lực cho cách mạng. Người nói: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và
rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp
nhau lại bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít
hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta
phải lấy tình nhân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết,
có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang” 6.
Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ đánh đuổi giặc ngoại xâm, đánh đổ phong
kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ của toàn
dân. Người viết: “Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là
người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền
góp tiền, người có của góp của, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi,
xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu

phải hy sinh tính mệnh cũng không nề”7. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, để huy động lực lượng cho cách mạng, Người nói: “Chúng ta phải đoàn
kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, động viên lực lượng của nhân dân, để phấn
đấu hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và đấu
tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Phải đoàn kết tốt các đảng phái,
các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác
lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng
nhau xây dựng Tổ quốc. Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng
Hồ Chí Minh, Sđd, T.8, tr.403-404.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, T.4, tr.246 - 247.
7 Sđd, T.3, tr.198.
5
6


5

bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận, ấm no, xây dựng Tổ
quốc”8.
Cũng theo Hồ Chí Minh, Đại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở bảo đảm
những lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động.
Trong tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có khối đoàn kết thực
sự bền vững phải giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích phức tạp, chằng chéo
giữa cá thể - tập thể, quốc gia - quốc tế… Khi đó lợi ích sẽ là “chất keo” gắn kết
mọi thành viên trong xã hội, là cơ sở vật chất vững chắc của đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế. C.Mác từng nhấn mạnh: Tất cả những gì con người đấu tranh để giành
lấy đều dính liền với lợi ích của họ. V.I.Lênin cũng đã từng nhắc nhở: để đoàn kết
không chỉ bằng cách dựa vào nhiệt tình, dù là nhiệt tình do cuộc cách mạng vĩ đại
sinh ra mà phải biết khuyến khích lợi ích cá nhân, có như thế mới dẫn dắt được
hàng chục triệu người đi trên một con đường chung. Quán triệt chủ nghĩa Mác Lênin trong lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, một đất

nước có truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc sâu sắc, được tôi luyện hàng
nghìn năm trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, Hồ Chí Minh đã tìm ra mẫu số
chung của nhu cầu và lợi ích của toàn dân tộc, đó là độc lập dân tộc. Bởi vậy,
những con người riêng lẻ thuộc mọi giai tầng xã hội có lòng yêu nước đều quy tụ
vào một mặt trận chống kẻ thù chung, đó là bọn cướp nước và lũ bán nước.
Người chỉ rõ, Đại đoàn kết được xây dựng trên lập trường giai cấp công
nhân, lấy liên minh công - nông làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây
chính là tư tưởng cốt lõi phân biệt chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh với tư
tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của một số nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX và một số lãnh tụ cách mạng khác trên thế giới. Không chỉ có
đường lối đúng mà còn có phương pháp đúng, Hồ Chí Minh đã vượt lên những nhà
yêu nước đương thời chính là ở chỗ, Người đã tìm ra những hình thức tốt nhất để tổ
chức nhân dân, huy động tối đa sức mạnh của nhân dân. Người không chỉ dừng lại
8

Sđd, T.10, tr.605 - 606.


6

ở lý luận, đường lối, mà còn hoạt động và chỉ đạo thực tiễn với hiệu quả
cao. Để tổ chức nhân dân thực hiện những biến đổi mang mang tính cách
mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người ra khỏi tình trạng nô
lệ, bất công, bất bình đẳng, Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Mặt trận dân tộc
thống nhất, đoàn kết toàn dân chống đế quốc, trong đó liên minh công dân là bộ phận nòng cốt. Người đã khơi dậy và phát huy tinh thần tương
thân, tương ái trong nhân dân, tổ chức nhân dân vào các đoàn thể thích
hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận Việt Minh do Người đề
xuất và chính thức thành lập năm 1941 là một điển hình về đoàn kết dân
tộc. Tất cả các thành viên trong Mặt trận dân tộc thống nhất đều có mục
tiêu chung nhưng mỗi tổ chức, con người cụ thể lại có nhiệm vụ cụ thể để

phấn đấu cho mục tiêu chung đó. Tất cả mọi người đều có khả năng thực
tế tham gia vào lợi ích chung, hơn nữa, qua công việc mà bản thân mỗi
người dần trưởng thành, lớn lên về nhân cách.
Mục tiêu cuối cùng của khối đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là
nhằm thực hiện một đất nước độc lập, hoà bình, thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh. Nhưng ở mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể, bao giờ Người cũng
chỉ ra những mục tiêu rất cụ thể mà khối đại đoàn kết dân tộc cần đạt tới.
Khi đất nước còn trong vòng kiềm tỏa của thực dân, đế quốc, Hồ Chí
Minh đã tích cực giáo dục, tổ chức toàn dân thành một khối thống nhất
làm cách mạng giành độc lập tự do. Khi độc lập dân tộc và tự do của nhân
dân bị các thế lực đế quốc đe doạ, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đoàn
kết, giữ vững nền độc lập tự do đó; khi đất nước bị chia cắt là hai miền
Nam - Bắc, Người lại kêu gọi mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống
nhất nhằm mục tiêu đấu tranh thống nhất nước nhà… đó chính là những
nấc thang để tiến đến mục tiêu cuối cùng.
Theo Hồ Chí Minh, một trong những vấn đề quan trọng là phải đoàn
kết nhất trí trong Đảng về đường lối, chủ trương, chính sách, về tổ chức thực


7

hiện. Người viết: “Đảng ta là một Đảng lãnh đạo. Tất cả cán bộ, đảng viên
dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau cũng đều phải đoàn kết
nhất trí để làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao cho” 9. Xuất phát từ vai trò, vị trí
của Đảng, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng sự đoàn kết nhất trí trong Đảng,
bởi sự đoàn kết này là hạt nhân để giữ gìn, phát huy truyền thống và sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Người chỉ rõ: “đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta” và đòi hỏi: “Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình” 10. Đảng mà không có sự đoàn kết nhất

trí, thì như “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” không thể lãnh đạo được cách
mạng. Người nhấn mạnh: để giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, Đảng
phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình, đó là cách tốt nhất để củng cố sự đoàn kết và thống nhất của
Đảng; phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo , là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Thống nhất lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế, kết hợp chặt chẽ phương châm
tự lực, tự cường với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại là một đặc điểm nổi bật trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh. Người chủ trương không chỉ đoàn kết dân tộc mình, mà còn làm hết sức
mình để đoàn kết quốc tế; trước hết là với các dân tộc cùng chung lý tưởng, với
nhân loại yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Đoàn kết quốc tế
đem lại tầm vóc mới cho từng dân tộc, làm cho sức mạnh của mỗi dân tộc được
nhân lên gấp bội. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước bao giờ cũng kết hợp nhuần

9

Sđd, T.11, tr.154.
Sđd, T.12, tr.510.

10


8

nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế, do vậy, Người không chỉ là lãnh tụ kiệt xuất của dân
tộc Việt Nam, mà còn là một chiến sĩ cộng sản quốc tế xuất sắc.

Đại đoàn kết dân tộc và quốc tế là thành quả nỗ lực chủ quan cao độ,
đặc biệt là sự nỗ lực của Đảng Cộng sản, của hệ thống chính trị cách mạng. Vì
vậy, bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục, vận động, tổ chức quần chúng, phải
xây dựng, hoàn thiện một hệ thống chính trị hoàn chỉnh từ Đảng, Nhà nước
đến các tổ chức chính trị, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội với
đường lối, chủ trương, biện pháp đúng. Đồng thời phải kết hợp đồng bộ, hiệu
quả các giải pháp nhằm mở rộng tối đa khối đại đoàn kết các giai tầng xã hội,
tạo nên sức mạnh tổng hợp mạnh mẽ nhất của lực lượng cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xem đây “là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”11. Từ Đại hội VI đến nay,
trong các văn kiện của Đảng, vấn đề đại đoàn kết toàn dân được luôn được
xác định là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng.
Tại Đại hội VI của Đảng (12/1986) - Đại hội đánh dấu thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nước, tuy khái niệm đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được đưa
vào Văn kiện, nhưng tinh thần đó đã được nêu lên khá rõ nét. Đại hội nêu ra
bốn bài học kinh nghiệm để khắc phục những khuyết điểm, sai lầm nhằm đưa
cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn, bước vào giai đoạn đổi mới, trong
đó có kinh nghiệm đầu tiên là “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân”12 . Đại hội cũng đưa ra khái niệm “chính sách xã hội” và
11
12

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.116.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1986, tr.29.



9

nội dung chủ yếu là chính sách giai cấp và dân tộc, trong đó chú ý đến
đối tượng công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, nhi đồng, dân tộc
thiểu số, đồng bào theo đạo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tất
cả những vấn đề này là nhằm đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn
dân cho sự nghiệp đổi mới.
Đến đại hội VII (6/1991), điểm mới là vấn đề đại đoàn kết toàn dân đã
được nói rõ trong các văn kiện. Đặc biệt là từ thành công và thất bại của cách
mạng Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã rút ra năm bài học kinh nghiệm. Bên cạnh bài học thứ hai: Sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; thì bài học
tiếp theo là: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Cương lĩnh còn nhấn
mạnh: “Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng
nước ta”13. và coi việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc là một chính sách.
Sau 10 năm đổi mới, đại đoàn kết toàn dân vẫn là một bài học lớn trong
Đại hội VIII (28/6 – 01/7/1996). Hơn thế nữa, vấn đề này được trình bày
thành một phần riêng với tư cách là một trong 10 phương hướng lớn của sự
nghiệp tiếp tục đổi mới ở nước ta. Đại hội khẳng định: “Chính những ý kiến,
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng
cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới
đạt được những thành công như ngày hôm nay”14.
Tại Đại hội IX của Đảng (4/2001), vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
tiếp tục được khẳng định; Đại hội chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo”15. Đại hội cũng nhấn mạnh: Đổi mới là sự nghiệp

ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ, Nxb Sự thật, H.1991, tr.5.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.73.
15 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.23.
13
14


10

ca nhõn dõn, do nhõn dõn v vỡ nhõn dõn. T tng xuyờn sut v ch o
trong Bỏo cỏo chớnh tr ca Ban chp hnh Trung ng khoỏ VIII trỡnh by
i hi IX l: Phỏt huy sc mnh ton dõn tc, tip tc i mi, y mnh cụng
nghip hoỏ, hin i hoỏ, xõy dng v bo v T quc Vit Nam xó hi ch
ngha.
Cựng vi quỏ trỡnh lónh o cỏch mng, nhn thc v i on kt ton
dõn tc v vai trũ ca nú ca ng ta cng ngy cng sõu sc. Xut phỏt t
ũi hi ca thc tin xõy dng v bo v T quc, Hi ngh Trung ng By
khúa IX ca ng ó ra Ngh quyt chuyờn v phỏt huy sc mnh i
on kt ton dõn tc vỡ Dõn giu, nc mnh, xó hi cụng bng, dõn ch,
vn minh. Ngh quyt ó xỏc nh rừ: mc tiờu, quan im v nhng ch
trng, gii phỏp ch yu phỏt huy sc mnh i on kt ton dõn tc trong
thi k y mnh cụng nghip húa, hin i húa.
Thnh cụng ca s nghip i mi cng l nh ng ta ó m rng v
tng cng khi i on kt dõn tc, phỏt huy sc mnh ca c dõn tc. Sỏng
kin, nguyn vng ca nhõn dõn ta l ngun gc hỡnh thnh ng li i mi
ca ng. i hi X ca ng tip tc khng nh: i on kt ton
dõn tc trờn nn tng liờn minh giai cp cụng nhõn vi giai cp nụng dõn
v i ng trớ thc, di s lónh o ca ng, l ng li chin lc
ca cỏch mng Vit Nam; l ngun sc mnh, ng lc ch yu v l
nhõn t cú ý ngha quyt nh bo m thng li bn vng ca s nghip

xõy dng v bo v T quc16.
Quan điểm nhất quán về vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp
tục đợc Đảng ta khẳng định tại Đại hội XI. Để phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc Báo cáo chính trị tại Đại hội đã chỉ rõ: Nõng cao nhn
thc, trỏch nhim ca ton ng, ton dõn v phỏt huy sc mnh i on
kt ton dõn tc trong bi cnh mi. Ly mc tiờu xõy dng mt nc Vit
16

CSVN, Vn kin i hi i biu ton quc ln th X, Nxb CTQG, H. 2006, tr 116.


11

Nam ho bỡnh, c lp, thng nht, ton vn lónh th, dõn giu, nc
mnh, dõn ch, cụng bng, vn minh lm im tng ng; xoỏ b mc
cm, nh kin v quỏ kh, thnh phn giai cp, chp nhn nhng im
khỏc nhau khụng trỏi vi li ớch chung ca dõn tc; cao tinh thn dõn
tc, truyn thng nhõn ngha, khoan dung... tp hp, on kt mi ngi
vo mt trn chung, tng cng ng thun xó hi 17.
Nh vy, t sau i hi VI, ng ta ó ban hnh nhiu ngh quyt, ch
th v tng cng mi quan h gia ng v nhõn dõn, v i on kt ton
dõn tc, v dõn tc, tụn giỏo, v Mt trn v cỏc on th nhõn dõn. Thụng
qua vic thc hin cỏc ngh quyt, ch th ú, quyn lm ch ca nhõn dõn
trong tham gia qun lý nh nc, qun lý kinh t, xó hi ó tng bc c
phỏt huy, gúp phn tớch cc ng viờn nhõn dõn phn khi y mnh sn
xut, thc hin cỏc nhim v phỏt trin kinh t - vn hoỏ - xó hi, cng c
quc phũng, an ninh. Vic tp hp nhõn dõn vi cỏc hỡnh thc a dng cú
bc phỏt trin mi. Mt trn T quc v cỏc t chc thnh viờn c m
rng, vai trũ v v trớ trong xó hi c nõng cao, ni dung hot ng
phong phỳ, thit thc hn, ó ng viờn, lụi cun c ụng o cỏc tng

lp nhõn dõn tham gia cỏc cuc vn ng, cỏc phong tro thi ua yờu nc.
Nhỡn chung, khi i on kt ton dõn tc trờn nn tng liờn minh giai
cp cụng nhõn vi giai cp nụng dõn v i ng trớ thc c m rng
hn, l nhõn t quan trng thỳc y s phỏt trin kinh t - xó hi, gi vng
n nh chớnh tr - xó hi ca t nc.
Tuy nhiờn, bờn cnh nhng kt qu t c y, vn cũn nhng
khuyt im, hn ch cn phi khc phc kp thi: khi i on kt ton
dõn tc, mi quan h gia ng, Nh nc v nhõn dõn cha tht bn cht
v ang ng trc nhng thỏch thc mi. Lũng tin vo ng, Nh nc
17

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 239, 240.


12

và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống còn
nhiều khó khăn, phần vì bất bình trước những bất công xã hội và tình trạng
tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến và nghiêm trọng, kỷ
cương phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm, đạo đức xã hội có
mặt xuống cấp, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đông
người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt. Việc tập hợp nhân dân vào
Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu
vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số
vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số...
Từ thực trạng trên, đồng thời trước yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới,
quán triệt và vận dụng tốt tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trong công
cuộc đổi mới, nhất là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay, cần giải quyết tốt một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:
Một là: Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân

về vị trí, vai trò của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về vị trí, vai trò của đại
đoàn kết toàn dân tộc là một đòi hỏi khách quan. Đại đoàn kết toàn dân tộc là
truyền thống quý báu, là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước lâu dài của dân tộc ta. Ngay từ khi ra đời dân tộc ta đã biết phát huy
khối đại đoàn kết dân tộc, chúng ta đã làm nên những kỳ tích lịch sử hào
hùng. Truyền thống đoàn kết toàn dân ngày càng phát triển trong quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước, nó trở thành một chân lý chiến thắng của
dân tộc ta. Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Chủ Tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó là
đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn cho sự nghiệp
cách mạng nước ta. Ngay khi mới thành lập Đảng đã quan tâm đến nhiệm vụ
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất
nước, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ biết phát huy được


13

khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những chiến
thắng lịch sử, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong
công cuộc đổi mới hiện nay, đại đoàn kết dân tộc được coi là động lực chủ
yếu để phát triển đất nước, là cơ sở để phát huy sự năng động sáng tạo của các
tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, phải thường xuyên quán triệt, giáo dục
cho nhân dân hiểu rõ vị trí vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân, làm cơ sở
để không ngừng tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nên sức
mạnh tổng hợp cho thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay.
Nâng cao nhận thức của nhân dân về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
nhằm quán triệt và thực hiện tốt đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, giai cấp,

tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước,
người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã
nghĩ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Phải nêu cao
tinh thần chủ nghĩa yêu nước, ý chí tự lực tự cường và tự hào dân tộc, giữ
vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau trong xây dựng đất nước, phát huy dân chủ trong đời sống xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đồng bộ và đổi mới các chính sách kinh
tế – xã hội, phát huy sức sáng tạo của nhân dân. Đồng thời phải giáo dục cho
dân hiểu rõ, giữ gìn và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm
của cả dân tộc.
Nâng cao nhận thức của nhân dân về xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc, cần phải giáo dục quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối quan điểm của Đảng về đại đoàn kết. Giáo dục vị trí vai trò
to lớn của đại đoàn kết toàn dân. Giáo dục tinh thần tương thân tương ái, ý
thức cộng đồng, nhường cơm sẻ áo, tích cực tham gia khắc phục thiên tai,
giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chăm lo cải


14

thiện đời sống của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới hải đảo. Giáo dục trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trong việc xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
đã chứng tỏ, đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh vô địch. Trong điều kiện
tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay, yêu cầu đại đoàn kết
toàn dân tộc càng trở nên quan trọng trong bảo vệ phát triển bản sắc, truyền
thống văn hoá của dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết, tạo nên sức mạnh, động lực to lớn cho công cuộc đổi mới
hiện nay cần phải giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về vị trí vai trò

của việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ
chức trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, bao gồm Đảng,
chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó vai trò hạt
nhân lãnh đạo là tổ chức đảng. Tổ chức đảng nằm trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết. Hạt nhân ấy có vững
mạnh mới có sức hút, bảo đảm khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, ở những nơi có tình hình bất ổn, mất đoàn kết
chính là vì nơi đó tổ chức đảng yếu kém. Để thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đặc biệt là cần
xây dựng những cơ chế cụ thể để Mặt trận và các đoàn thể động viên nhân
dân tham gia xây dựng đảng; Đảng phải chăm lo lãnh đạo xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc ngày càng bền chặt.
Nhà nước và chính quyền các cấp phát huy vai trò to lớn trong việc
thực hiện đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ bằng việc thể chế hoá đường lối
chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, mà còn phải có trách nhiệm
tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó một cách có hiệu quả, thông


15

qua bộ máy công quyền trong sạch, tận tuỵ, công tâm, hết lòng phục vụ nhân
dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò đại
diện cho lợi ích chung và lợi ích từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng
thời là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Đại đoàn kết dân tộc
phải thông qua Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hình thức đa dạng
khác. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân cần được đề cao. Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong cộng

đồng dân cư nhỏ như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị. Thực tế
thời gian qua Mặt trận Tổ quốc đã thực hiện tốt các cuộc vân động toàn dân
đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Tập trung vào các vấn đề xây dựng phong trào toàn dân thi đua làm
kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp; làm tốt công tác xoá dối giảm nghèo, tiếp tục
thực hiện tốt phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hoá, và các cuộc vân
động ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Xây dựng xã hội học tập, đồng thời
lên án, đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ. Trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, phát huy tốt sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tạo nên
sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy
hơn nữa vai trò của các tổ chức trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân.
Ba là, thực hiện tốt chính sách đối với các giai cấp, các tầng lớp dân
cư trong toàn xã hội.
Thực hiện tốt chính sách đối với các giai cấp, các từng lớp dân cư trong
toàn xã hội, thực chất là nhằm đảm bảo lợi ích, quyền lợi và nghĩa vụ, tạo ra
sự tương đồng trong mọi tầng lớp dân cư, nhằm tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc. Thực hiện tốt điều đó phải có chính sách đúng, phù hợp,
động viên khuyến khích được các giai tầng đó phát triển, đủ sức vươn


16

lên làm chủ xã hội, làm cơ sở đảm bảo cho các giai tầng xích lại gần
nhau, khắc phục được sự phân hóa quá mức mà thực tiễn xã hội đang diễn ra,
tạo nên sự đoàn kết thống nhất cao. Vì vậy, cần phải có chính sách cụ thể
và thực hiện tốt chính sách đối với các giai tầng.
Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển nhanh cả về số lượng
và chất lượng, nâng cao giác ngộ bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, nghề

nghiệp. Giải quyết tốt việc làm, giảm tối đa công nhân thiếu việc làm và
thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, có chính sách ưu đãi
đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công
đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các
thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần,
bảo vệ quyền lợi chính đáng hợp pháp của công nhân và người lao động.
Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú. Đại
hội XI chỉ rõ: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp
công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trỡnh
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ
luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn là giai cấp lónh
đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; sửa
đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xó hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cải thiện điều kiện nhà ở, làm việc... để bảo
vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân” 18.
Đối với giai cấp nông dân, phát huy tốt vai trò quan trọng trong sự
nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghiệp tiên tiến vào
sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt chính sách về ruộng đất, tạo điều kiện
18

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, 240, 241.


17

thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyên
khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để

phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất,
tiêu thụ nông sản hàng hoá, khuyên khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp
dụng thành tựu khoa học công nghệ. Thực hiện tốt chính sách xoá đói giảm
nghèo, nâng cao dân trí và xây dựng nông thôn mới. Đại hội XI nhấn mạnh:
“Xõy dựng, phỏt huy vai trũ của giai cấp nụng dõn, chủ thể của quỏ trỡnh phỏt
triển nụng nghiệp, nụng thụn. Nõng cao trỡnh độ giác ngộ của giai cấp nông
dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong
quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông
dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công
nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực
hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp”19
Đối với đội ngũ trí thức, tạo các điều kiện thuận để trí thức tự do sáng
tạo, phát minh cống hiến, phát huy trí tuệ và năng lực, mỡ rộng thông tin, phát
huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sử dụng đúng
và đãi ngộ chính đáng các tài năng, coi trọng vai trò tư vấn, phản biện cảu các
hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, các dự án phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội. Đảng ta khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh,
có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy
tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên
cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến”20.
Đối với doanh nhân, tạo điều kiện phát huy tiềm năng và vai trò tích
cực trong phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo
dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam. Đại hội XI cũng chỉ rõ: “Tạo điều
kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, cú trỡnh độ quản lý,
19
20

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 241.
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 241.



18

kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trỏch nhiệm xó hội cao. Phỏt
huy tiềm năng và vai trũ tớch cực của đội ngũ doanh nhân trong phát triển
sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài; tạo việc
làm, thu nhập cho người lao động, hàng hoá, dịch vụ cho đất nước và xuất
khẩu; đóng góp cho ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo
dựng và giữ gỡn thương hiệu hàng hoá Việt Nam; đóng góp ngày càng nhiều
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 21.
Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý
tưởng, đạo đức lối sống; tạo môi trường thuận lợi để phát triển toàn diện
thế hệ trẻ. Khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo
việc làm, tạo cơ hội cho thanh niên có tài năng đi học ở nước ngoài về
phục vụ đất nước. Đại hội XI xác định: “Làm tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện
học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ. Khuyến
khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bóo lớn, xung kớch,
sỏng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại”. 22
Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất tinh
thần của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện
tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên
của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào
các họat động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và
bảo vệ sức khoả bà mẹ, trẻ em, hoàn chỉnh và bổ sung chính sách về bảo hộ
lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với phụ nữ.
Đối với cựu chiến binh, phát huy truyền thống “bộ đội Cụ Hồ”, tích cực
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Động viên cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế cải thiện đời sống, xoá đói

21

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 241.

22

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 242.


19

giảm nghèo, góp phần giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thế hệ trẻ.
Động viên cựu chiến binh tham gia thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội, tham gia xây dựng
củng cố cơ sở chính trị vững mạnh.
Đối với người cao tuổi, chăm sóc sức khoẻ, tạo điều kiện để người cao
tuổi hưởng thụ văn hoá tinh thần, sống vui sống khoả. Phát huy trí tuệ, kinh
nghiện sống, lao động chiến đấu của người cao tuổi. Giúp đỡ người cao tuổi
cô đơn không nơi nương tựa.
Đối với đồng bào dân tộc ít người, thực hiện tốt chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Củng cố và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, thực hiện ưu tiên trong giáo dục đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số, chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi,
chia rẽ dân tộc. Đảng ta khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đỡnh
Việt Nam bỡnh đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến
bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc vỡ dõn giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.23
Đối với đồng bào các tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo, động viên đồng bào sống “tốt đời đẹp đạo”.

Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho đồng bào có đạo. Tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo, đấu tranh chống tệ nạn mê tin dị
đoan. Đại hội XI chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị
văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo,
chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 24.
23
24

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 244.
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 245.


20

Đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đảm bảo thống nhất lợi ích của
toàn dân, gắn với lợi ích của dân tộc. Vì vậy để xây dựng củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải có chính sách và thực
hiện tốt chính sách đối với các giai cấp, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Bốn là, kết hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc với doàn kết quốc tế
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế là nhân tố đảm bảo thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, quán triệt tinh thần đó Đại hội XI của Đảng khẳng định:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bỡnh, hợp tỏc
và phỏt triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế; vỡ lợi ớch quốc gia, dõn tộc, vỡ một nước Việt Nam xó hội chủ
nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của cụng tỏc đối ngoại là giữ vững môi trường
hoà bỡnh, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững

chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lónh thổ; nâng cao vị thế của
đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vỡ hoà bỡnh, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xó hội trờn thế giới”25.
Xây dựng và củng cố đoàn kết quốc tế phải trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi. phải kết hợp chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, gắn mục tiêu cách mạng Việt
Nam với mục tiêu chung của nhân loại. Phải kiên định mục tiêu chiến lược, nhạy
bén linh hoạt trong sách lược, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” quan hệ đối
ngoại, đồng thời nêu cao tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường phát huy nội
lực dân tộc. Xây dựng củng cố đoàn kết quốc tế trước hết phải xây dựng đoàn
kết với các nước láng giềng, các bạn hàng truyền thống, mở rộng quan hệ với
các Đảng cộng sản, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chủ động
hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền, đôi bên cùng có lợi. Xây dựng củng cố tốt đoàn kết khu vực, đoàn
25

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 235, 236.


21

kết quốc tế làm tăng thêm lực lượng mở rộng trận địa cách mạng, thu hẹp trận
địa của kẻ thù, do vậy trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để đảm bảo cho công
cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta thu được nhiều thắng lợi nhất thiết phải
chủ động xây dựng và củng cố đoàn kết khu vực, đoàn kết quốc tế.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là một di sản cực kỳ
quý báu của dân tộc ta, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là sự kế thừa có chọn lọc truyền
thống dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Tư tưởng đó đã được Đảng
cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn hoạt
động cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi quan trọng,

có ý nghĩa quyết định đến vận mạnh quốc gia dân tộc. Hiện nay Đảng và dân
tộc ta đang đứng trước những vận hội lớn và những nguy cơ, thách thức lớn.
Vấn đề tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng trong nước và tranh thủ sự giúp
đỡ quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra cấp
bách. Hàng loạt vấn đề về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong điều
kiện mới đang đòi hỏi phải giải pháp giải quyết thích ứng, vì vậy, hơn
bao giờ hết, việc tìm hiểu, nhận thức đúng đắn và vận dụng trung thành,
sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn hết sức sâu sắc trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay
cần nhận diện kịp thời, đồng thời kiên quyết bác bỏ và làm thất bại những
quan điểm, hành động sai trái, phản động; đặc biệt là các âm mưu thủ đoạn
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… ngày càng thâm
độc, tinh vi, xảo quyệt, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở
nước ta hiện nay, hòng gây mất ổn định chính trị tiến tới bạo loạn, lật đổ
của các thế lực thù địch mà đứng đầu là chủ nghĩa đế quốc, bọn phản động
lưu vong ở nước ngoài và một số tên phản động trong nước.


22

Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sác bén của Đảng và
Nhà nước ta. Ngoài chức năng là đội quân chiến đấu, Quân đội ta còn
là đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình, quân đội cần quán triệt sâu sắc và thực
hiện tốt quan điểm, đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng;
xứng đáng là lực lượng xung kích, đi đầu và tham gia tích cực, có hiệu
quả vào công tác vận động quần chúng của Đảng, nhất là vùng dân tộc
ít người và vùng đồng bao có đạo; kiên quyết đấu tranh chống mọi tư
tưởng và hành động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các

thế lực thù địch; góp phần giữ vũng ổn định chính trị và môi trường
hòa bình của đất nước để phát triển kinh tế – xã hội, vì mục tiêu: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.



×