Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO VAI TRÒ CỦA hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở TRONG xây DỰNG NÔNG THÔN mới ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.2 KB, 82 trang )

Với đặc thù từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH, trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề
nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X khẳng
định: “Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [18, tr.123]. Một
trong những nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi nhất trong giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay là xây dựng nông thôn mới. Đây là
nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng và phát triển
giai cấp nông dân, góp phần củng cố vững chắc khối liên minh cơng – nơng –
trí trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Q trình xây dựng NTM ở nước ta hiện nay, bên cạnh mặt thuận lợi,
chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn địi hỏi
phải phát huy sức mạnh của tồn dân tộc; trong đó HTCT, nhất là HTCTCS
có vai trị rất quan trọng. Hệ thống chính trị cơ sở là nơi trực tiếp tuyên truyền
giáo dục, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong
đó có chủ trương, chính sách về xây dựng NTM đến với người dân; HTCTCS
cũng là nơi trực tiếp lãnh đạo, quản lý, tổ chức và vận động nhân dân, phát
huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân trong xây dựng nơng thơn mới. Thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới nói chung, của q trình xây dựng NTM nói riêng ở
nước ta hiện nay ln gắn liền với vai trị to lớn của hệ thống chính trị cơ sở.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là Chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM của Chính phủ, vai trị của HTCTCS tỉnh
Bình Dương nhìn chung đã được phát huy tích cực. Cấp uỷ đảng, chính quyền
cơ sở đã quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc
biệt là chủ trương, chính sách xây dựng NTM; bám sát đặc điểm tình hình
địa phương, xây dựng nghị quyết, xác định các chủ trương, biện pháp lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM chặt chẽ, kịp thời; phát


2


huy được vai trò của các tổ chức quần chúng, khơi dậy và phát huy tinh
thần làm chủ của nhân dân tích cực tham gia xây dựng nơng thơn mới. Nhờ
vậy, cơng tác xây dựng NTM ở Bình Dương đã đạt được những thành tựu
quan trọng; hệ thống hạ tầng cơ sở như: điện, đường, trường, trạm và các
thiết chế văn hóa, xã hội ở nhiều địa phương đã được củng cố theo hướng
văn minh, hiện đại; cơ cấu lao động, ngành nghề chuyển đổi nhanh theo
hướng tích cực; năng suất lao động và giá trị sản phẩm nông nghiệp ngày
càng được nâng cao; tăng thu nhập bình quân đầu người và mức sống của
người dân khu vực nông thôn
Tuy nhiên, quá trình xây dựng NTM ở Bình Dương, vai trị của HTCTCS
có lúc, có nơi vẫn chưa thực sự được phát huy đầy đủ; nhận thức, trách nhiệm
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức cơ sở về xây dựng NTM cịn có
những hạn chế; hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo công tác quy hoạch một số nơi cịn
chậm và thiếu đồng bộ; sản xuất nơng nghiệp nhìn chung vẫn cịn manh mún,
nhỏ lẻ; hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn một số địa phương chưa theo kịp với
yêu cầu phát triển; giải quyết một số vấn đề bức xúc trong nhân dân chưa kịp
thời và kém hiệu quả. Vì vậy, nghiên cứu “Vai trị của hệ thống chính trị cơ
sở trong xây dựng nơng thơn mới ở Bình Dương hiện nay” là vấ n đề có
tí nh cấ p thiế t
Chương 1
MỘ T SỐ VẤ N ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI
Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trị của hệ thống chính trị cơ sở
trong xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay
1.1.1. Xây dựng nơng thơn mới ở Bình Dương hiện nay
* Nông thôn và vấn đề xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay


3

Ở một nước với nền tảng kinh tế là một nền nông nghiệp lạc hậu đi
lên CNXH như nước ta, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn
chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong tồn bộ đường lối cách mạng
của Đảng. Nông nghiệp, nông dân và nơng thơn từ lâu đã có mối quan hệ
ràng buộc hữu cơ với nhau; là tiền đề, điều kiện cho nhau cùng vận động,
phát triển. Trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay,
nhận thức và đánh giá đúng vai trị của nơng thơn và ý nghĩa của việc xây
dựng NTM đang là vấn đề thời sự và cấp thiết.
Nông thôn là địa bàn cư trú, sinh sống của nông dân với thiết chế theo cấu
trúc làng - xã; về mặt địa lý, đây là phần không gian không thuộc nội thành, nội
thị các thành phố, thị xã được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã.
Theo quan niệm truyền thống, nói đến nơng thơn là nói đến làng - xã được bao
quanh bởi luỹ tre làng với quan hệ chính trị, kinh tế - xã hội đặc trưng bởi tính cố
thủ, khép kín, tự cung, tự cấp... Từ bao đời nay, làng - xã Việt Nam đã đóng vai
trị to lớn trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, làng - xã với tinh thần đoàn kết và cố kết
cộng đồng chặt chẽ, ý thức độc lập, tự chủ và lòng yêu nước sâu sắc đã là những
pháo đài kiên cố, chiến luỹ điệp trùng ngăn chặn bước tiến và đánh thắng kẻ thù
xâm lược. Trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, nhất là trị thuỷ, làng - xã cũng là
nơi huy động sức dân to lớn để hình thành nên hệ thống đê điều, kênh rạch chằng
chịt như ngày nay. Về phương diện sản xuất, nông thôn (làng - xã) cũng là nơi sản
sinh, lưu giữ và phát triển các ngành, nghề truyền thống có giá trị mà ngày nay
cịn được bảo tồn, phát triển đóng góp tích cực cho cơng cuộc phát triển đất nước.
Cùng với q trình tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam, làng - xã
Việt Nam cũng là nơi sản sinh và lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống
của dân tộc như: tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, ý chí tự lực, tự cường...
Nhiều thiết chế văn hố tâm linh có giá trị như đình, chùa, miếu, đền... cũng
được xây dựng, lưu giữ, bảo tồn ở các làng quê Việt Nam. Bên cạnh đó, nơng



4
thơn Việt Nam cũng giàu có về khía cạnh văn hố phi vật thể. "Trong tất cả các
thơn, làng Việt Nam đều ẩn chứa một kho tàng quý báu các câu chuyện cổ tích,
chuyện ngụ ngơn, ca dao, tục ngữ, trường ca, dân ca..." [47, tr.165].
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay,
với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, nông thôn (chiếm hơn
70% dân số) là nơi sản xuất, thị trường tiêu thụ hàng hoá rộng lớn, giàu tiềm năng.
Mặt khác, nông thôn nước ta cũng là địa bàn chiến lược của thế trận phòng thủ
khu vực, của nền quốc phịng tồn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Nông thôn Việt Nam trải qua hàng nghìn năm tồn tại, phát triển đã để
lại những giá trị lịch sử truyền thống quý báu, là cái nôi hình thành nên bản
sắc, diện mạo văn hố dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến
và ách đô hộ của thực dân, đế quốc, bức tranh nông thôn Việt Nam cũng chứa
đựng những gam màu tối thể hiện bản chất của chế độ cũ mà hình ảnh người
nơng dân "một cổ ba trịng" đã lột tả tất cả. Ngày nay, qua mấy chục năm xây
dựng xã hội mới, đời sống cư dân nông thôn đã được cải thiện đáng kể, những
tàn dư của nông thôn trong xã hội cũ đã phần nào được loại bỏ. Nhưng nông
thôn Việt Nam nhìn chung vẫn cịn lạc hậu: sản xuất nhỏ, manh mún, kinh tế
tự cung, tự cấp là chủ yếu, hạ tầng cơ sở còn nhiều yếu kém, dân trí thấp, tình
trạng thiếu dân chủ, lối ứng xử gia trưởng còn tồn tại ở nhiều địa phương gây
bức xúc, khiếu kiện phức tạp, những hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội, mê tín dị
đoan vẫn cịn tồn tại, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn. Để thực sự thốt
khỏi nghèo nàn, lạc hậu và có một đời sống mới thì cần phải xây dựng một
nơng thơn mới về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những ý tưởng về một NTM đã có từ lâu trong nhân dân ta. Đó là mơ
ước về một nơng thơn bình dị, khơng có cường hào, ác bá, giảm sưu thuế, xố
bỏ các hủ tục; một nơng thơn trong đó người nơng dân được làm chủ, tự do
sản xuất, sống trong tình làng, nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách, tối lửa tắt đèn
có nhau. Một nơng thơn như vậy chỉ có thể có được trong chế độ xã hội mới.



5
Sau ngày nước nhà giành độc lập, trăn trở lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là làm sao cho dân được tự do, hạnh phúc, mọi người có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành, chữa bệnh... Ở một nước với hơn 90% dân số là nơng
dân thì dân thực chất chính là những người nơng dân, những người mà cuộc
sống của mình gắn bó suốt đời với làng q ở những vùng nơng thơn. Vì vậy,
Người đã rất quan tâm đến đến xây dựng nông thôn mới. Theo Hồ Chí Minh,
xây dựng NTM trước hết phải xây dựng người nông dân mới - người nông dân
xã hội chủ nghĩa. Người dạy, muốn no cơm, ấm áo thì mọi người phải thi đua
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Nông dân phải cần kiệm xây dựng hợp tác
xã nông nghiệp cho tốt, cho vững. Muốn vậy phải chú ý: "Cán bộ ban quản trị
phải công bằng, dân chủ. mọi việc phải bàn bạc với xã viên, sổ sách, tiền của
phải rõ ràng, minh bạch. Xã viên phải đồn kết chặt chẽ, vui vẻ sản xuất, coi
cơng việc hợp tác xã như cơng việc nhà mình" [34, tr.283].
Cùng với xây dựng người nông dân mới là xây dựng đời sống mới ở nông
thôn. Một trong những quan tâm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng đời
sống mới ở làng - xã khắp các vùng nông thôn. Theo Người, đời sống mới ở một
làng là: "Về văn hoá, phải cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm
của công dân. Về phong tục phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút sách, bợm bãi,
trộm cắp. Phải tìm cách làm cho khơng có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau. Làm
cho làng mình thành một làng "phong thuần tục mỹ". Về vệ sinh, đường xá phải
sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống phải phân biệt và săn sóc cẩn thận. những
ao hồ khơng cần thì lấp đi cho đỡ muỗi; phải có cầu xia chung hoặc cầu xia riêng
từng nhà, đã khỏi hôi thối, ruồi nhặng lại có phân tốt" [33, tr.101].
Trong xây dựng NTM, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến cơng tác
xây dựng Đảng. Bởi vì, việc gì cũng phải có lãnh đạo thì mới thành cơng. Người
cho rằng: "Lãnh đạo dân chủ, đi sâu đi sát, mọi việc đều bàn bạc với xã viên, vì
vậy xã viên càng có tinh thần tập thể, tinh thần làm chủ nông thôn và càng hăng
hái lao động sản xuất" [34, tr.227]. Đề cập đến vấn đề lãnh đạo của Đảng ở nông



6
thơn, Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ: "Cái gốc trong việc lãnh đạo hợp tác xã vẫn là chi
bộ Đảng ở cơ sở. Chi bộ phải tăng cường hơn nữa việc đồn kết nơng thơn và
làm cho tồn thể xã viên, tồn thể nơng dân phấn khởi, hăng hái tăn gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm, phát triển và củng cố hợp tác xã" [34, tr.415].
Để xây dựng NTM phải tổ chức thi đua; đây vừa là nội dung, vừa là biện
pháp xây dựng nông thôn mới. Người này thi đua với người khác; nhà này thi
đua với nhà khác; làng này thi đua với làng khác; đặc biệt cán bộ của làng phải
là người cơng bình, thạo việc, có thể làm gương cho dân làng, hy sinh lợi ích
riêng cho lợi ích chung. Phải tăng cường vai trị lãnh đạo của chi bộ nơng thơn;
phát huy vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội, của các cá nhân đảng viên,
đoàn viên. Làm được như vậy chúng ta sẽ ngày càng có nhiều vùng nơng thơn
giàu có về vật chất, mạnh về tinh thần, những xóm làng văn minh, tiến bộ.
Những quan điểm về xây dựng NTM của Hồ Chí Minh là hết sức sâu sắc,
tồn diện và cụ thể; không chỉ vẽ nên một bức tranh giản dị, hiền hồ, tươi đẹp,
giàu tính nhân văn và bản sắc truyền thống nhưng cũng mang tính hiện đại về một
nơng thơn Việt Nam thời kỳ mới, Hồ Chí Minh còn chỉ ra những biện pháp cụ thể
để xây dựng nông thôn mới. Những quan điểm ấy là cơ sở vững chắc để Đảng và
Nhà nước ta đề ra những chủ trương, chính sách xây dựng NTM hiện nay.
Thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thấm
nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng NTM, Đảng và Nhà nước ta đã nhận
thức rõ vai trị, tầm quan trọng chiến lược của nơng thơn. Chúng ta không thể trở
thành một nước công nghiệp nếu nông thơn nước ta cịn lạc hậu, kém phát triển.
Vì vậy, xây dựng NTM là một đòi hỏi khách quan của q trình phát triển đất
nước. Trong đó, CNH, HĐH nơng nghiệp, nông thôn vừa là nội dung, vừa là yêu
cầu của xây dựng nông thôn mới. Ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã xác định: "Xây dựng nơng thơn mới có kinh tế phát triển, có đời sống
văn hố phong phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được



7
những nhu cầu cơ bản của nơng dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy
dân chủ, đảm bảo cơng bằng xã hội. Tăng cường đồn kết và ổn định chính trị
trong nơng thơn, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh"
[16, tr.60]. Để tiếp tục giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở
nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, ngày 05/8/2008, Ban Chấp hành
Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Nghị quyết đã xác định: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,
gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng
cao, mơi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nơng thôn dưới sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường” [18, tr.126].
Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết trên của Đảng, Chính phủ
đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương khóa X "Về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn". Sau
đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM kèm theo
Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 bao gồm 19 tiêu chí với 5 nhóm
nội dung; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 Phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 với các mục
tiêu cụ thể đến năm 2015 có 20% số xã và đến năm 2020 có 50% số xã đạt
tiêu chuẩn nơng thơn mới. Theo đó, Chính phủ đã triển khai thực hiện xây
dựng 11 xã điểm ở các vùng miền khác nhau, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm,
nhân rộng mơ hình trong cả nước, đồng thời phát động phong trào thi đua “Cả
nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Như vậy, thông qua những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, quan niệm về NTM ở nước ta đã được hình thành trên những nét cơ



8
bản. Đó là một nơng thơn với làng - xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời
sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; bản sắc văn
hóa và truyền thống dân tộc, làng quê được giữ gìn và phát triển; hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, xã hội nơng thơn ổn định, dân trí cao, quyền
làm chủ của người dân không ngừng được phát huy.
* Xây dựng nơng thơn mới ở Bình Dương hiện nay
Đặc điểm tỉnh Bình Dương
Về tự nhiên, Bình Dương là tỉnh thuộc khu vực miền Đơng Nam Bộ, diện
tích tự nhiên 2.695,22 km2, phía bắc giáp Bình Phước, phía Nam và Tây Nam
giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Tây giáp Tây Ninh, phía Đơng giáp
Đồng Nai. Địa hình Bình Dương tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Bắc xuống
Nam. Đất đai Bình Dương đa dạng, phong phú về chủng loại, bao gồm các loại
như: đất xám, đất nâu vàng, đất dốc tụ trên phù sa cổ phù hợp với nhiều loại cây
trồng, nhất là cây công nghiệp và cây ăn trái. Khí hậu ở Bình Dương là khí hậu
nhiệt đới gió mùa ổn định, trong năm phân chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khơ
và mùa mưa. Tài ngun, khống sản ở Bình Dương khá phong phú với nhiều
loại gỗ quý của rừng nhiệt đới như: căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng
hương,... và các loại khoáng sản như: đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn
trắng, đá xanh,… thuận lợi cho việc cung cấp nguyên liệu cho các nghề truyền
thống như: mộc, gốm sứ, điêu khắc, sơn mài…
Về kinh tế - xã hội, Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, cùng với Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu tạo
thành tứ giác kinh tế. Hiện nay, Bình Dương có 1 thành phố, 2 thị xã, 4 huyện,
91 xã, phường, thị trấn, trong đó có 60 xã thuộc khu vực nông thôn. Dân số
1.497.117 người, mật độ dân số 555 người/km 2, có 15 dân tộc sinh sống, trong
đó đơng nhất là người Kinh, sau đó đến người Hoa và Khơ Me. Với vị trí địa lý
thuận lợi, Bình Dương được xem là cửa ngõ vào Thành phố Hồ Chí Minh, thơng



9
thương giữa trung tâm công nghiệp đô thị lớn với các tỉnh miền Đông Nam bộ
và Nam Tây Nguyên. Từ khi tái thành lập Tỉnh đến nay, kinh tế Bình Dương đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng hàng năm gấp đơi bình
qn cả nước. Bình Dương hôm nay đang là một điểm sáng trên bản đồ kinh tế
đất nước với những thành tựu nổi bật về đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về văn hố, truyền thống, Bình Dương là vùng đất của nhiều làng
nghề truyền thống với các nghệ nhân bàn tay vàng điêu khắc gỗ, làm đồ
gốm và tranh sơn mài. Từ lâu, các sản phẩm gốm mỹ nghệ, sơn mài và điêu
khắc của Bình Dương đã tham gia hội chợ quốc tế, đồng thời cũng đã xuất
khẩu sang Pháp và nhiều nước trong khu vực. Trong kháng chiến, Bình
Dương cũng là địa phương có truyền thống cách mạng, vùng đất chiến
trường năm xưa gắn liền với những chiến thắng vang dội của dân tộc ta.
Quan niệm về xây dựng nông thơn mới ở Bình Dương hiện nay
Cùng với q trình đẩy mạnh CNH, HĐH của Tỉnh, nơng nghiệp, nơng thơn
Bình Dương cũng phát triển nhanh theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, nơng thơn Bình
Dương nhìn chung vẫn cịn là một nông thôn lạc hậu, nhất là những xã vùng xa
trung tâm. Thực tế đó địi hỏi phải đặt vấn đề xây dựng NTM thành nhiệm vụ chính
trị quan trọng hàng đầu, có như vậy mới có thể sớm đưa Bình Dương thành đô thị
hiện đại, văn minh, giàu đẹp, thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020.
Quyết tâm xây dựng NTM của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Bình
Dương được thể hiện rõ thơng qua những chủ trương, chính sách và việc làm cụ
thể. Ngay sau khi Trung ương ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, Tỉnh ủy Bình Dương
đã ban hành Chương trình hành động số 77-CTHĐ/TU, ngày 15/10/2008. Sau đó,
chính quyền các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội đã xây dựng các chương
trình, kế hoạch cụ thể theo yêu cầu nhiệm vụ để thực hiện. Trên cơ sở những nội
dung tiêu chí xây dựng NTM của cả nước trong Bộ tiêu chí quốc gia nơng thơn
mới do Chính phủ ban hành, x́t phát từ đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội,

văn hoá của Tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành Bộ tiêu chí xã nơng thơn mới tỉnh


10
Bình Dương. Đồng thời thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nơng thơn mới tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010 – 2020; phê
duyệt 12 xã thực hiện thí điểm xây dựng NTM (sau một số lần điều chỉnh, đến
nay Bình Dương chọn 30/60 xã xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015, trong đó có
5 xã điểm hoàn thành vào năm 2013); lập Báo cáo hiện trạng nơng thơn theo Bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Báo cáo đã xác định nội dung, nhiệm vụ xây
dựng NTM tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010 – 2020, định hướng đến năm 2030
trên các nội dung, nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, vấn đề quy hoạch, song song với việc triển khai thực hiện,
quản lý tốt các quy hoạch đã được phê duyệt, tập trung tiến hành quy hoạch
phát triển nông thôn cấp xã, từng xã trong quy hoạch sử dụng đất, phát triển
sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng, làng nghề, cụm công nghiệp. Các khu dân
cư phải được quy hoạch trước theo vùng để cơ sở hạ tầng phát huy tác dụng,
đồng thời đảm bảo được nét văn hóa truyền thống.
Thứ hai, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tiếp tục bổ sung
các nội dung của đề án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nơng thơn cho phù
hợp với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, trong đó tập trung
vào các lĩnh vực chủ yếu: đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các cơng trình
thủy lợi, kiên cố hóa kênh mương đảm bảo phục vụ tưới cho sản xuất nơng nghiệp
và tiêu thốt nước cơng nghiệp, đơ thị; đầu tư phát triển hệ thống đường giao
thông nội đồng, tạo thuận lợi trong vận chuyển vật tư nông nghiệp và lưu thơng
hàng hóa nơng sản, chuyển đổi cơ cấu sản xuất.
Thứ ba, phát triển sản xuất hàng hóa và các hình thức tổ chức sản xuất,
chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao năng suất, chất
lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập. Gắn sản xuất
với công nghiệp chế biến. Tập trung phát triển, nâng cao tỷ trọng chăn nuôi theo

hướng công nghiệp, từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính
trong cơ cấu ngành nơng nghiệp của Tỉnh. Ổn định cơ bản quy hoạch vùng
chuyên canh và đất sản xuất nơng nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ cho nông dân


11
mở rộng sản xuất, hình thành các trang trại, doanh nghiệp trong nông nghiệp; tạo
điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết đầu ra cho nơng sản; định hình được vị
thế, xây dựng thương hiệu và quảng bá cho sản phẩm nông sản chủ lực. Xây
dựng và phát triển các mơ hình hợp tác xã, tổ kinh tế hợp tác, liên kết trang trại.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội theo phương châm xã hội hóa, tạo ra bước phát triển đột phá về hạ
tầng kinh tế - xã hội theo hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội toàn diện trên địa bàn. Tiếp tục thu hút đầu tư trong và
ngồi nước để phát triển cơng nghiệp trên địa bàn nông thôn làm nền tảng cho
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhất là những ngành công nghiệp
chế biến nông sản, công nghiệp dùng nguyên liệu tại chỗ.
Thứ năm, về cơ chế, chính sách huy động nội lực, tiếp tục thực hiện
tốt các chính sách thu hút đầu tư, xã hội hóa, tín dụng, thương mại, thuế,…
để tạo điều kiện hỗ trợ đầu vào cho các thành phần kinh tế trong khu vực
nông nghiệp, nông thôn. Phát triển mạng lưới tín dụng, cải tiến thủ tục cho
vay, tăng cường vốn vay trung và dài hạn cho khu vực nơng nghiệp, nơng
thơn. Các chính sách thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm để từng bước đưa
chăn nuôi trở thành ngành chính trong cơ cấu nơng nghiệp; khuyến khích
kinh tế trang trại và kinh tế tập thể phát triển; hỗ trợ phát triển các hình thức
liên kết bốn nhà trong sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Như vậy, xây dựng NTM ở Bình Dương hiện nay là tổng thể các
hoạt động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể nhằm phát triển toàn
diện các lĩnh vực của đời sống xã hội nông thôn trên địa bàn tỉnh theo
hướng hiện đại: sản xuất phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả kinh tế - xã

hội cao, giữ gìn và phát huy được những giá trị văn hoá truyền thống tốt
đẹp, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống


12
vật chất, tinh thần của cư dân, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,
quốc phòng – an ninh được bảo đảm vững chắc.
1.1.2. Hệ thống chính trị cơ sở và vai trị của hệ thống chính trị cơ sở
trong xây dựng nơng thơn mới ở Bình Dương hiện nay
* Hệ thống chính trị cơ sở và đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở
tỉnh Bình Dương trong xây dựng nơng thơn mới
Quan niệm về hệ thống chính trị cơ sở
Ở nước ta, khái niệm HTCT lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Đến nay, khái niệm này đã
được sử dụng phổ biến trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật của
Nhà nước. Theo quan đỉểm của Đảng ta, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ
nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nơng dân, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh,... và cơ chế hoạt động của các tổ chức đó nhằm từng bước xây dựng và
hồn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong HTCT bốn cấp ở nước ta, HTCTCS, còn được gọi là HTCT xã,
phường, thị trấn là cấp thấp nhất. Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ cơ sở
được hiểu theo nghĩa là cái làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó để tồn tại,
phát triển. Vận dụng vào nghiên cứu HTCT ở nước ta, HTCTCS được hiểu là
đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức
thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hố, xã hội, quốc phịng - an ninh...
Xét về mặt cấu trúc, HTCTCS là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các

thiết chế chính trị như: tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cơ sở, MTTQ và các
đồn thể nhân dân. Các tổ chức này có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Mỗi


13
thành tố hợp thành trong HTCTCS có vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, song
đều vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, quản lý, phát
huy vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân .
Tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở), là nền tảng của Đảng, hạt
nhân chính trị ở cơ sở, là lực lượng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện các lĩnh
vực của đời sống xã hội ở địa phương. Theo điều lệ Đảng quy định, tổ chức
cơ sở đảng có chức năng lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở, đề ra chủ trương, nghị quyết lãnh
đạo nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và chi bộ, lãnh đạo xây dựng chính
quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phịng - an ninh và
các đồn thể chính trị - xã hội trong sạch vững mạnh; chấp hành nghiêm
pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, liên hệ mật thiết với
nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng, thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra việc thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiểm tra tổ chức đảng,
đảng viên chấp hành điều lệ Đảng.
Chính quyền cơ sở, bao gồm: HĐND và UBND xã, phường, thị trấn.
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương.
Đồng thời, phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương. Hơi đồng nhân
dân có hai chức năng cơ bản là quyết định những vấn đề quan trọng và giám

sát trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở.


14
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật và
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Ủy Ban nhân dân có chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước toàn diện trên địa
bàn, tổ chức thực hiện những nghị quyết và quyết định của HĐND cùng cấp.
Các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở, bao gồm: MTTQ, ĐTNCS Hồ Chí
Minh, HPN, HND, HCCB,... có chức năng chủ yếu là tập hợp, củng cố, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự nhất trí về chính trị - tinh thần trong
nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ thực sự của
mình trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn; bảo vệ, đại diện cho quyền lợi và ý chí
của quần chúng, đại diện cho họ trong việc tham gia xây dựng và giám sát
đảng, chính quyền, tập hợp những kiến nghị của nhân dân để phản ánh với
đảng và cơ quan nhà nước cấp trên; chăm lo, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ
chính đáng của nhân dân. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay trước yêu cầu của
quá trình dân chủ hố đời sống xã hội, của cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, MTTQ cịn có một chức năng quan trọng đó là chức
năng phản biện xã hội, thông qua việc thực hiện chức năng này MTTQ thực
hiện quyền giám sát việc đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức thực
hiện các mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và trong thực hiện dân
chủ XHCN ở cơ sở của tổ chức đảng, chính quyền địa phương đúng hay sai,
hiệu quả hay khơng hiệu quả. Từ đó, kiến nghị với tổ chức đảng, chính quyền
cơ sở điều chỉnh cho phù hợp.
Như vậy, hệ thống chính trị cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
trị ở nước ta, bao gồm: tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở), chính
quyền cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh,... được tổ chức chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau, hoạt động theo


15
nguyên tắc nhất định, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
chính quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương trong xây
dựng nơng thôn mới hiện nay
Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng NTM, hoạt động của
HTCTCS tỉnh Bình Dương có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong
điều kiện Tỉnh có tốc độ cơng nghiệp hố và đơ thị hố nhanh.
Sau khi tái lập tỉnh (01/01/1997), Bình Dương được đánh giá là một
trong những địa phương dẫn đầu cả nước về tốc độ phát triển công nghiệp,
một điểm sáng về chính sách phát triển kinh tế - xã hội; giá trị sản xuất
cơng nghiệp tăng bình qn 20% hàng năm. Tính đến thời điểm cuối năm
2010, tồn Tỉnh có 28 khu cơng nghiệp và 8 cụm cơng nghiệp tập trung,
với diện tích gần 9.351 ha (gấp 2,7 lần năm 2005), hơn 1200 doanh nghiệp
hoạt động (gấp 1,8 lần năm 2005), tỷ lệ cho thuê đất bình quân đạt 60%
[12, tr.37-39]. Cùng với sự phát triển của công nghiệp, đơ thị hố ở Bình
Dương cũng diễn ra nhanh chóng. Tồn Tỉnh hiện có 112 dự án đầu tư khu
dân cư, nhà ở thương mại, với tổng diện tích 6.253 ha; trong đó, có 28 dự
án cơ bản đã hồn chỉnh, 38 dự án đang xây dựng hạ tầng kỹ thuật, 46 dự
án đang đền bù giải toả. Đến nay, tỷ lệ đơ thị hố tồn Tỉnh ước đạt 45%
[12, tr.45]. Cơng nghiệp hố và cùng với nó là đơ thị hố diễn ra nhanh
chóng đã tác động to lớn (cả tích cực và tiêu cực) đến tình hình kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội tồn Tỉnh, nhất là các vùng nông thôn, nơi mất
đất sản xuất cho các khu công nghiệp và đô thị mọc lên.
Thứ hai, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong điều

kiện Tỉnh là địa phương đa tộc người, dân số tăng nhanh do tỉ lệ nhập cư cao.
Nằm ở khu vực Đông Nam Bộ với điều kiện tự nhiên thuận lợi cả về
thời tiết khí hậu và đất đai thổ nhưỡng, Bình Dương là điểm đến và dừng chân
của những dòng người di cư từ nhiều vùng, nhiều dân tộc khác nhau trên khắp


16
cả nước. Q trình đó diễn ra một cách tự nhiên trong suốt hơn 300 năm qua,
từ khi vùng đất này được khai phá. Hiện nay, Bình Dương là địa bàn sinh
sống của 15 tộc người. Bên cạnh những tộc người được coi là bản địa như
Stiêng, Mạ, Châu Ro, cịn có các tộc người khác di cư đến như: Kinh, Hoa,
Khơ Me, Tày, Chăm, Nùng, Mường...
Do kinh tế phát triển nhanh, nhất là cơng nghiệp, trong thời gian qua,
Bình Dương thu hút nhiều dân nhập cư từ các địa phương khác đến. Kết quả
điều tra dân số năm 2010 cho thấy: Trong 5 năm (2005 – 2010), dân số tỉnh
Bình Dương đã tăng gấp đơi, là tỉnh có tốc độ tăng dân số cao nhất nước với
tỷ lệ tăng trung bình 7,3%/năm. Sự đa dạng về thành phần tộc người và tăng
dân số nhanh là những yếu tố tác động không nhỏ đến công tác quản lý và
thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, nhất là ở cấp cơ sở.
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động
trong điều kiện Tỉnh có nhiều xã mới thành lập.
Theo xu thế chung của cả nước, để thuận lợi cho tập trung đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; mặt
khác, do yêu cầu quản lý xã hội ở cơ sở trong điều kiện dân số tăng nhanh,
Bình Dương cũng diễn ra quá trình chia tách, sát nhập và thành lập nhiều đơn
vị hành chính mới ở cả cấp trên cơ sở (huyện, thị) và cấp cơ sở (xã, thị trấn,
phường). Từ năm 2004 đến nay, đã có 7/91 đơn vị hành chính cấp cơ sở được
thành lập mới, trong đó có 5 xã thuộc các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu
Tiếng. Việc thành lập các đơn vị hành chính cấp cơ sở mới, một mặt tạo điều
kiện thuận lợi cho quản lý xã hội và thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế - xã hội

trên địa bàn; mặt khác lại gây khó khăn cho việc ổn định, sắp xếp và kiện tồn
HTCTCS, nhất là cơng tác xây dựng nguồn cán bộ chủ chốt ở cơ sở.
Thứ tư, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong điều kiện
Đảng bộ, Chính quền và nhân dân địa phương có bề dày truyền thống cách mạng.


17
Bình Dương là miền đất giàu truyền thống cách mạng. Đây là vùng đất
chiến trường năm xưa với những địa danh đã đi vào lịch sử như Phú Lợi, Bàu
Bàng, Bến Súc, Lai Khê, Nhà Đỏ và đặc biệt là chiến khu Đ với trung tâm là
huyện Tân Uyên. Trong kháng chiến Bình Dương là địa bàn quan trọng chiến
lược về mặt quân sự, là căn cứ địa quan trọng của cách mạng. Chiến khu Đ đi vào
lịch sử Bình Dương và cả nước như một huyền thoại về bảo vệ lực lượng kháng
chiến trong chiến tranh. Tên gọi Chiến khu Đ gắn liền với những chiến thắng vang
dội trong lịch sử chống ngoại xâm của quân và dân miền Đông Nam bộ. Tiếp tục
phát huy truyền thống cách mạng trong kháng chiến, ngày nay, trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng bộ,
quân và dân Bình Dương đã và đang giành được những thành tựu to lớn cả
về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng được cả nước ngưỡng mộ.
Thứ năm, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong
điều kiện chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở khơng đồng đều, trình độ lý
luận và chun mơn nghiệp vụ cịn hạn chế.
Hiện nay, trình độ văn hố, lý luận chính trị và chun mơn nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách trong HTCTCS tỉnh Bình Dương cịn
nhiều bất cập. Theo báo cáo thống kê của Sở Nội vụ (tháng 6 năm 2010),
tồn Tỉnh có 951 cán bộ chuyên trách cấp xã. Trong đó, về trình độ văn hố
có: 18/951 (1,89%) có trình độ tiểu học, 165/951 (17,35%) có trình độ
trung học cơ sở, 768/951 (80,76%) có trình độ trung học phổ thơng; về
chun mơn nghiệp vụ có: 477/951 (50,16%) chưa qua đào tạo, 55/951
(5,78%) sơ cấp, 255/951 (26,82%) trung cấp, 7/951 (0,75%) cao đẳng,

157/951 (16,52%) đại học; về lý luận chính trị có: 214/951 (22,50%) chưa
qua đào tạo, 78/951 (8,20%) sơ cấp, 527/951(55,41%) trung cấp,
132/951(13,89%) cao cấp [44, tr2]. Nếu xét theo tiêu chuẩn quy định thì có
tới 24,85% lượt cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn.


18
Những đặc điểm trên trực tiếp tác động đến hoạt động của HTCTCS
trong xây dựng nơng thơn mới. Vì vậy, nghiên cứu vai trị của HTCTCS trong
xây dựng NTM Bình Dương hiện nay cần nắm chắc những đặc điểm này.
* Vai trị của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nơng thơn mới
ở Bình Dương hiện nay
Theo từ điển Tiếng Việt, vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì
hoặc của ai, trong sự vận động của nhóm, của tập thể nói chung [59,
tr.653]. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có một vai
trò nhất định trong mối quan hệ đối với khách thể. Theo đó, HTCTCS cũng
như mỗi tổ chức, lực lượng của nó đều có vai trị nhất định trong thực hiện
các nhiệm vụ ở địa phương.
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương giữ vai trị rất quan trọng
trong thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội nói chung, xây dựng NTM nói
riêng trên địa bàn Tỉnh. Nó là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, chính quyền các
cấp với nhân dân, hằng ngày tiếp xúc và làm việc với nhân dân, nắm bắt và
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các chỉ thị, nghị
quyết, quyết định của cấp trên và cấp mình; tăng cường đại đồn kết tồn dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi tiềm năng phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội ở cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp
xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì
mọi công việc đều xong xuôi” [33, tr.371]. Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX
Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn

cũng chỉ rõ: “Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc


19
sống của cộng đồng dân cư” [16, tr.166]. Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình
Dương vừa trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và xây dựng mọi mặt đời sống
xã hội ở cơ sở, vừa làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng; bảo đảm
cho mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính quyền cấp trên và cấp mình, trong
đó có các nghị quyết, chương trình, kế hoạch xây dựng NTM được thực hiện
một cách đầy đủ, đúng đắn, sáng tạo; phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
chăm lo đời sống vật chất - tinh thần cho nhân dân trên địa bàn.
Như vậy, vai trị của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nơng thơn mới
ở Bình Dương hiện nay là chức năng, tác dụng của quá trình sử dụng các thiết
chế, cơ chế của nó một cách chủ động, có tổ chức, có mục đích nhằm tun
truyền giáo dục, quản lý, điều hành, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nơng thơn mới trên địa bàn Tỉnh.
Vai trị của HTCTCS trong xây dựng NTM ở Bình Dương hiện nay
được biểu hiện cụ thể trên những vấn đề cơ bản sau:
Một là, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương là lực lượng trực
tiếp tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ
trương, chính sách xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước trên địa
bàn Tỉnh.
Cơng tác tun truyền giáo dục có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức, giác ngộ chính trị và tinh thần cách mạng cho nhân dân; làm
cho nhân dân có nhận thức và hành động đúng với chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước ta đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân; nhằm không
ngừng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước


20
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng NTM là một nội dung quan
trọng trong đường lối, chính sách chung của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Ở một nước với hơn 70% dân số đang sinh sống trên địa bàn nơng thơn, thì
xây dựng NTM là phù hợp với nguyện vọng của đông đảo nhân dân. Đây
cũng là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trong điều
kiện nền tảng kinh tế - xã hội nơng thơn nước ta cịn thấp kém, xây dựng
NTM là sự nghiệp vơ cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy sức
mạnh to lớn của cả HTCT và lực lượng toàn dân. Sức mạnh ấy chỉ có được
khi mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức sâu sắc được
sự cần thiết phải xây dựng NTM, thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình
khi tham gia xây dựng nơng thơn mới. Đó cũng là mục tiêu, nhiệm vụ mà
cơng tác tuyên truyền giáo dục cần phải đạt được.
Tuyên truyền giáo dục và vận động nhân dân là nhiệm vụ của cả HTCT
từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó HTCTCS là nơi trực tiếp đưa đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước tới người dân. Thông qua hoạt động tuyên
truyền giáo dục nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước sẽ được quán triệt và thực hiện. Xây dựng NTM là chủ
trương, chính sách lớn, một chương trình mục tiêu mang tầm cỡ quốc gia. Ở
cấp Trung ương, Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới. Đối với các địa phương, xây dựng NTM đang là
nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu được các cấp uỷ đảng, chính quyền,
MTTQ và các đoàn thể nhân dân đặc biệt quan tâm. Theo phân cấp và chức

năng, nhiệm vụ, mỗi tổ chức trong HTCT ở địa phương đều cụ thể hoá thành
các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể. Ở cấp cơ sở, tổ chức cơ sở đảng
là nơi quán triệt các chương trình, kế hoạch của trên tới mọi cán bộ, đảng viên,
đưa nhiệm vụ xây dựng NTM vào nghị quyết thường kỳ; chính quyền cơ sở lập


21
quy hoạch, xây dựng đề án, kế hoạch xây dựng NTM của xã; MTTQ và các
đoàn thể nhân dân là nơi quán triệt, phổ biến các chương trình, kế hoạch, đề án
xây dựng NTM của cấp trên và cấp mình tới các thành viên trong tổ chức và
toàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng là nơi tiếp
nhận, lấy ý kiến của nhân dân về những vấn đề cụ thể của đề án xây dựng
NTM của xã phản ánh với cấp ủy và chính quyền cơ sở; thơng qua đó mà tun
truyền giáo dục nhân dân nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm, cống hiến
sức người, sức của cho công cuộc xây dựng NTM ở địa phương.
Hai là, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương là lực lượng trực tiếp
quản lý, điều hành q trình xây dựng nơng thơn mới trên địa bàn Tỉnh.
Quản lý xã hội là một trong những chức năng, nhiệm vụ cơ bản của
HTCT nói chung, HTCTCS nói riêng. Trong HTCTCS, vai trị quản lý nhà
nước thuộc về chính quyền cơ sở. Chính quyền cơ sở là cơ quan đại diện nhà
nước ở cơ sở chịu trách nhiệm quản lý điều hành mọi mặt: kinh tế, chính trị,
văn hố, xã hội, an ninh - quốc phịng ở địa phương. Xây dựng NTM là một
chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh - quốc
phòng. Do vậy, quản lý điều hành q trình xây dựng NTM ln gắn liền với
chức năng quản lý nhà nước của chính quyền ở cơ sở.
Quản lý, điều hành quá trình xây dựng NTM là một địi hỏi khách
quan. Nó xuất phát từ u cầu chung của mọi quá trình kinh tế - xã hội; từ đặc
điểm, nội dung, yêu cầu của quá trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng
NTM là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài; nội dung xây dựng NTM
rất rộng, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nông thôn; yêu

cầu xây dựng NTM phải đạt hiệu quả cao, phát huy được nội lực theo phương
châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", nêu cao nguyên tắc tập trung dân
chủ, phát huy cao độ tinh thần làm chủ của nhân dân.


22
Vai trò trực tiếp quản lý, điều hành mọi mặt quá trình xây dựng NTM ở
cơ sở của HTCTCS tỉnh Bình Dương được thể hiện ở những vấn đề cơ bản như:
thành lập các cơ quan quản lý xây dựng NTM, quản lý vốn đầu tư xây dựng, ban
hành quy chế quản lý và thực hiện quản lý quy hoạch xây dựng nơng thơn mới...
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương, trực tiếp là chính quyền cơ
sở quyết định thành lập và công nhận các thiết chế xây dựng NTM như: Ban
quản lý xây dựng NTM xã, Ban phát triển thôn… Theo Thông tư liên tịch số
26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13/4/2011, hướng dẫn một số
nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 về phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 quy
định: ở cấp xã thành lập Ban quản lý xây dựng NTM xã (Ban quản lý xã) do
Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban, Phó Chủ tịch UBND xã làm Phó Trưởng
ban. Thành viên là một số cơng chức xã, đại diện một số ban, ngành, đồn thể
chính trị xã và trưởng thôn. Ở cấp thôn, bản, ấp (gọi chung là thôn) thành lập
Ban phát triển thôn. Ban phát triển thơn có các thành viên là những người có
uy tín, trách nhiệm và năng lực tổ chức triển khai do cộng đồng thôn trực tiếp
bầu và Chủ tịch UBND xã có quyết định cơng nhận (gồm người đại diện lãnh
đạo thơn, đại diện các đồn thể chính trị và hội ở thơn và một số người có
năng lực chun môn khác liên quan đến xây dựng nông thôn mới).
Ban quản lý xã đại diện cho chính quyền xã là chủ đầu tư, quản lý ngân
sách xây dựng NTM của xã; cùng với các tổ chức chính trị - xã hội và tồn
dân kiểm tra, giám sát q trình xây dựng nông thôn mới. Thông tư liên tịch
số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC đã chỉ rõ: "Ban quản lý xã là
chủ đầu tư các dự án, nội dung xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã; tổ

chức và tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia thực hiện, giám sát các hoạt
động thực thi các dự án đầu tư trên địa bàn xã" [5, tr.5].
Ban quản lý xã cũng là cơ quan quản lý quy hoạch theo quy chế do
UBND xã ban hành. Thông tư trên cũng quy định rõ: "Uỷ ban nhân dân xã


23
xây dựng quy chế quản lý quy hoạch để đảm bảo xây dựng đúng quy hoạch,
tránh lấn chiếm hoặc làm sai quy hoạch" [5, tr.9].
Ba là, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương là lực lượng trực tiếp
tổ chức nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân thực hiện cơng
cuộc xây dựng nơng thơn mới trên địa bàn Tỉnh.
Tổ chức thực hiện xây dựng NTM là q trình hiện thực hố các tiêu chí
của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, đưa các chương trình, kế
hoạch, các đề án xây dựng NTM từng bước trở thành hiện thực. Đây là khâu
quyết định đến chất lượng, hiệu quả xây dựng nông thôn mới. Vai trò trực tiếp
tổ chức nhân dân, phát huy khối đại đồn kết tồn dân thực hiện cơng cuộc xây
dựng NTM của HTCTCS tỉnh Bình Dương được thể hiện ở chỗ HTCTCS có
nhiệm vụ lập quy hoạch, xây dựng đề án, kế hoạch xây dựng NTM, lập và tổ
chức thực hiện các dự án phát triển NTM trên địa bàn xã.
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương, trực tiếp là chính quyền cơ sở
thơng qua Ban quản lý xã tiến hành khảo sát thực trạng, lập quy hoạch và tổ
chức thực hiện quy hoạch xây dựng NTM của xã. Lập quy hoạch được xác
định là bước quan trọng trong q trình triển khai xây dựng nơng thơn mới.
Có một quy hoạch tổng thể bảo đảm tính tồn diện, khách quan, khoa học,
phù hợp với thực tiễn tình hình địa phương là một yếu tố mang tính quyết
định đến thắng lợi của quá trình xây dựng NTM ở một địa phương. Để có
một quy hoạch tốt phải lựa chọn được lực lượng chun mơn có năng lực,
trách nhiệm vào tổ quy hoạch; phát huy được trí tuệ tập thể và tinh thần làm
chủ của nhân dân trong tham gia xây dựng quy hoạch. Chính phủ đã quy

định: "Ủy ban nhân dân xã tổ chức lập quy hoạch, lấy ý kiến tham gia của
cộng đồng dân cư, trình Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt và tổ chức thực
hiện các quy hoạch đã được duyệt" [55, tr.2]. Thông tư liên tịch số
26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC cũng xác định nhiệm vụ của Ban
quản lý xã là "Tổ chức xây dựng quy hoạch, đề án, kế hoạch tổng thể và kế


24
hoạch đầu tư hàng năm xây dựng NTM của xã, lấy ý kiến các cộng đồng dân
cư trong toàn xã và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt" [5, tr.5].
Chính quyền cơ sở cũng là cơ quan xây dựng các đề án và tổ chức nhân
dân thực hiện các đề án xây dựng nông thôn mới. Xây dựng NTM là một
chương trình tổng thể mang tính tồn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Mỗi vấn đề trong tổng thể chương trình ấy phải được xây dựng thành đề
án, dự án cụ thể để thực hiện. Trên cơ sở sự chỉ đạo và hướng dẫn của Ban chỉ
đạo xây dựng NTM các cấp, nghị quyết của đảng uỷ xã, UBND xã thông qua
Ban quản lý xã xây dựng đề án tổng thể xây dựng NTM ở xã, sau đó trình
UBND huyện, thị xã phê duyệt. Đề án tổng thể phải bao qt hết các nhóm tiêu
chí trong Bộ tiêu chí xã NTM do UBND Tỉnh ban hành.
Đề án xây dựng NTM của xã bắt buộc phải được người dân, cộng
đồng và các đối tượng có liên quan khác tham gia, đóng góp ý kiến. Quy
trình lấy ý kiến của cộng đồng nhân dân như sau: "Sau khi Ban quản lý xã
dự thảo xong đề án (bao gồm cả danh mục các cơng trình, dự án và kế hoạch
tổng thể thực hiện), bản dự thảo đề án được công bố công khai tại trụ sở
UBND xã và được chuyển cho các trưởng thơn để chủ trì tổ chức họp với tất
cả các hộ dân trong thơn, có sự tham gia của các đoàn thể xã hội để thảo
luận lấy ý kiến đóng góp. Các ý kiến đóng góp của nhân dân được ghi thành
biên bản và được chuyển tới Ban quản lý xã và Hội đồng Nhân dân xã.
Trong vòng 15 ngày sau khi bản dự thảo đề án được công bố công khai và
sau khi đã họp lấy ý kiến nhân dân, Hội đồng Nhân dân xã tổ chức cuộc họp

nghe ý kiến đại diện các thơn, ý kiến giải trình, tiếp thu của Ban quản lý xã,
trên cơ sở đó ban hành Nghị quyết thơng qua đề án hoặc yêu cầu Ban quản
lý xã chỉnh sửa một số nội dung cho phù hợp" [5, tr.11].
Chính quyền cơ sở thông qua Ban quản lý xã và Ban Phát triển thôn lập
kế hoạch, xây dựng và triển khai thực hiện các dự án xây dựng nông thôn


25
mới. Sau khi đề án xây dựng NTM được duyệt, UBND xã chỉ đạo Ban quản
lý xã lập kế hoạch thực hiện trình UBND huyện, thị xã duyệt. Trên cơ sở kế
hoạch đã được duyệt, theo trình tự đầu tư xây dựng, Ban quản lý xã lập các dự
án phát triển NTM và tổ chức thực hiện theo kế hoạch. Mỗi dự án thường gắn
với các nhóm tiêu chí NTM như: dự án phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, dự
án hỗ trợ phát triển sản xuất và ngành nghề nông thôn, dự án đổi mới và phát
triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn, dự án đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ xây dựng nông thôn mới… Thông tư liên
tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC quy định nhiệm vụ của Ban
quản lý xã là: "…triển khai thực hiện các dự án, nội dung bao gồm việc thực
hiện các bước từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, nghiệm thu bàn giao và
đưa dự án vào khai thác, sử dụng" [5, tr.5]. Thông tư cũng quy định nhiệm vụ
của Ban phát triển thơn là: "Tổ chức xây dựng các cơng trình hạ tầng do Ban
quản lý xã giao nằm trên địa bàn thơn (đường giao thơng, đường điện liên
xóm, liên gia; xây dựng trường mầm non, nhà văn hóa thơn); tổ chức vận
động nhân dân tham gia phong trào thi đua giữa các xóm, các hộ tập trung cải
tạo ao, vườn, chỉnh trang cổng ngõ, tường rào để có cảnh quan đẹp. Tổ chức
hướng dẫn và quản lý vệ sinh môi trường trong thơn; cải tạo hệ thống tiêu,
thốt nước; cải tạo, khôi phục các ao hồ sinh thái; trồng cây xanh nơi công
cộng, xử lý rác thải" [5, tr.6].
Như vậy, HTCTCS có vai trị hết sức quan trọng trong thực hiện thắng
lợi công cuộc xây dựng nông thôn mới. Hệ thống chính trị cơ sở là nơi trực

tiếp tuyên truyền giáo dục, quản lý, điều hành, tổ chức và phát huy khối đại
đồn kết tồn dân thực hiện cơng cuộc xây dựng nơng thơn mới. Phát huy vai
trị của HTCTCS nói chung, HTCTCS tỉnh Bình Dương nói riêng trong xây
dựng NTM là một đòi hỏi cấp thiết hiện nay.
1.2. Vai trị của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nơng
thơn mới ở Bình Dương hiện nay – thực trạng và nguyên nhân


×