MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội do con người làm ra, con người tạo ra các
quan hệ xã hội của mình và đó là xã hội. Nhưng sự vận động,
phát triển của xã hội lại tuân theo quy luật khách quan, không
phụ thuộc vào ý muốn của con người mà phụ thuộc vào nguồn
gốc sâu xa của sự thay thế lẫn nhau giữa các phương thức sản
xuất với hai mặt là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển của xã hội.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay với
sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra cho
chúng ta nền sản xuất ngày càng hiện đại và đạt hiệu quả
cao.Việc nghiên cứu quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” là một trong những
nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội.
Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở nước ta phụ thuộc
vào việc vận dụng tốt quy luật này. Chính vì vậy, việc đưa nhận
thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng
to lớn, em xin chọn đề tài : “Quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự
vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận – Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể
hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất
ra của cải vật chất, bao gồm người lao động với kỹ năng lao
động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo
thành lực lượng sản xuất.
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải
có các nhân tố thuộc về người lao động (như năng lực, kỹ năng,
tri thức,… của người lao động) cùng các tư liệu sản xuất nhất
định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ
trợ của quá trình sản xuất,…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành
lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất. Trong các nhân
tố tạo thành lực lượng sản xuất, “người lao động” là nhân tố giữ
vai trò quyết định. Chính người lao động là chủ thể của quá
trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của
mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động,
tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật
chất. Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là yếu tố
cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư
liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là yếu
tố động nhất của lực lượng sản xuất, là nhân tố phản ánh rõ
nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiểu
biểu trình độ con người chinh phục giới tự nhiên.
2
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày
càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học cộng nghệ đã tạo ra những thiết bị máy móc mới, công nghệ mới,
nguyên liệu mới. Nó đã cho thấy sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học cộng
nghệ trong sản xuất, trở thành yếu tố không thể thiếu của sản xuất làm cho lực
lượng sản xuất có những bước tiến nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Có thể nói khoa học công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực
lượng sản xuất hiện đại.
2. Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ
sản xuất bao gồm: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ
trong phân phối kết quá trong quá trình sản xuất đó. Những
quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và
chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sở hữu, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là
quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng
xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định về quan hệ tổ chức quản lý
sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Quan
hệ tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và
trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao
động, quan hệ giữa quản lý với công nhân. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy
tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng cũng có thể kìm hãm sản xuất kìm hãm
sự phát triển của xã hội.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất
3
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động
trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai
mặt (yếu tố, bộ phận) hợp thành phương thức sản xuất xã hội. Trong đó lực
lượng sản xuất là nội dung của nền sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức
của sản xuất. Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Lực lượng sản xuất
là yếu tố cách mạng, năng động nhất, thường xuyên biến đổi và phát triển.
Chính từ những nguyên nhân này mà lực lượng sản xuất ngày càng phát triển,
đến một giới hạn nhất định nào đó sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ,
hiện có để thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Như vậy, lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với
nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mội quá trình sản xuất hiện
thực của xã hội, Tương ứng với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản
xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ đó trên
cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức – quản lý quá trình sản xuất
và phân phối kết quả của quá trình sản xuất. Mối quan hệ thống nhất giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo tính tất yếu khách quan: Quan hệ
sản xuất phải phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi
giai đoạn lịch sử xác định.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa
thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn. Trong phạm vi tương
đối ổn định của một hình thức kinh tế - xã hội, lực lượng sản xuất của xã hội
được bảo tồn, không ngừng khai thác – sử dụng và phát triển trong quá trình sản
xuất, tái sản xuất xã hội. Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực
lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển,
nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng
phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trò
4
là hình thức kinh tế - xã hội cho sự phát triển của nó. Như vậy, mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng
giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế.
Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là
cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động trong
mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới vạch ra động lực của sự
phát triển, mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của quy luật kinh tế.
II. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay
1. Sự vận dụng sai lầm quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trước
năm 1986.
Năm 1954, sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc , Đảng ta
đã thực hiện chủ trương đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên sau một thời gian dài nước
ta phải chịu ách thống trị của thực dân Pháp với những chính
sách thống trị “ngu dân” của chúng đã làm cho con người của
đất nước chúng ta kém phát triển và bị tụt hậu, điều đó ảnh
hưởng trực tiếp đến lực lượng sản xuất, nó làm cho nền kinh tế
nước ta bị tụt hậu rất nhiều năm so với thế giới. Trong hoàn
cảnh phương thức sản xuất diễn ra như vậy nên Đảng ta đã chủ
trương cải tạo: ở thành phố là công tư hợp doanh còn ở nông
thôn là cải cách ruộng đất và đặc biệt là quyết tâm đưa miền
Bắc quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
Mùa xuân năm 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
nước ta đã hoàn toàn giải phóng. Đảng ta chủ trương đưa cả
nước theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
5
tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay
lại càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta
còn thấp kém và chưa có điều kiện phát triển. Trình độ người lao
động rất thấp, hầu hết không có chuyên môn tay nghề, phần
lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt Nam phần lớn tập
trung vào khu vực kinh tế nông nghiệp, họ lao động sản xuất
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sản xuất mà cha ông để lại. Tư
liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kì này
còn thô sơ, lạc hậu. Là một nước nông nghiệp thế nhưng công
cụ lao động chủ yếu là cái cày, cái cuốc, theo hình thức “Con
trâu đi trước cái cày theo sau”, sử dụng sức người là chủ yếu;
trong công nghiệp máy móc thiết bị còn ít và rất lạc hậu. Phát
triển của công cụ lao động cũng có sự phân hóa giữa các vùng,
miền khác nhau. Nhìn chung, trước đổi mới lực lượng sản xuất ở
Việt Nam rất thấp kém, lạc hậu, tụt hậu và phát triển không
đồng đều. Do quá vội vã trong công cuộc đổi mới đất nước nên
Đảng ta đã mắc phải một số sai lầm. Những sai lầm lúc này là:
Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , chỉ tồn tại
hai hình thức sở hữu là tập thể và quốc doanh với cơ chế “xin
cho, cấp phát”. Từ những sai lầm trên đã dẫn đến những hậu
quả về kinh tế xã hội: Các thành phần kinh tế kém phát triển và
lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế những năm đầu thập kỷ
80. Điều đó cũng chứng tỏ rằng mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là không phù hợp. Một mối quan hệ
sản xuất tiến bộ không thể áp đặt cho một lực lượng sản xuất
thấp kém. Đây là hậu quả của việc vận dụng sai lầm quy luật
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong chủ trương chính
sách của Đảng ta và là bài học cho Đảng ta trong công cuộc đổi
mới đất nước .
6
2. Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam từ 1986 đến nay.
a. Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Về nguồn nhân lực: Nước ta là một nước có dân số đông và
trẻ do vậy mà nước ta có một nguồn lực về lao động rất dồi dào.
Đó là những người lao động có sức khỏe mang bản chất cần cù,
chịu khó, thông minh và sáng tạo. Điều này được coi là một lợi
thế so sánh quan trọng của nước ta so với các nước đang phát
triển khác. Tuy nhiên, một hạn chế thấy rõ trong lực lượng sản
xuất là mặc dù trình độ sản xuất đã được nâng cao lên rất nhiều
so với trước đây nhưng nhìn chung, so với các nước khác, tay
nghề và trình độ của đội ngũ người lao độngnước ta còn kém,
khả khả năng vận dụng khoa học công nghiệp vào sản xuất còn
gặp nhiều hạn chế và khó khăn. Hơn nữa thị trường lao động
phát triển chậm, tỉ lệ thất nghiệp còn cao nên chưa khai thác
hết nguồn năng lực về lao động.
Về cở sở vật chất kỹ thuật: Xuất phát từ một nước có điểm
xuất phát thấp do chịu nhiều tác động của khác quan cũng như
chủ quan, đặc biệt là do sự xâm lược và thống trị trong một thời
gian dài của các nước tư bản lên nước ta và nền kinh tế trước
đây chủ yếu là nông nghiệp nên nền kinh tế còn kém phát triển
do cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, công nghệ còn lạc
hậu không theo kịp với trình độ phát triển chung của khu vực và
thế giới.
Về những tài nguyên thiên nhiên: nước ta có nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú bao gồm tài nguyên về đất đai,
về rừng, về biển… đây là nguồn tài nguyên mà không phải quốc
gia nào cũng có. Chính vì vậy chúng ta phải phát huy một cách
7
có hiệu quả nguồn tài nguyên này trong giới hạn cho phép,
tránh việc khai thác nguồn tài nguyên một cách bất hợp lý dẫn
tới các nguy cơ bị đe dọa và tuyệt chủng, tận dụng tối đa ưu thế
này để phát triển kinh tế đặc trưng của một nước đông nam á
trong nhiều ngành như du lịch, khai khoáng, thủy sản,…
Tóm lại thì việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta nói
chung có nhiều phát triển hơn trước với nhiều ưu thế nhưng còn
nhiều vấn đề bất cập chưa phù hợp với công cuộc công nghiệp
hóa hiện đại hóa hiện nay. Do đó đây là vấn đề cần được quan
tâm không những của ngành kinh tế mà là của tất cả các ngành
trong xã hội mang tầm quốc gia.
b. Thực trạng các quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, với tư duy mới, chúng ta
nhận ra rằng, quan hệ sản xuất là vật cản của lực lượng sản
xuất không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất đi sau mà
còn cả trong trường hợp vượt lên trước, tách rời lực lượng sản
xuất. Nguyên lý quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất bao giờ cũng đúng trên mỗi
bước phát triển. Chính vì vậy, từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng
đến nay, chúng ta luôn luôn cố gắng thiết lập sự đồng bộ giữa
các yếu tố trong quan hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất và
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (9-2001) ban hành nghị
quyết Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX
(2-2002) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể và Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Những
8
quan điểm cơ bản đó được thể chế hóa trong sự bổ sung, phát
triển Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã. Thực tiễn đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo con đường XHCN đòi hỏi
không chỉ chú trọng phát triển lực lượng sản xuất mà phải chú
trọng hơn nữa xây dựng quan hệ sản xuất mới. Trong Cương lĩnh
1991, phần các phương hướng cơ bản, quan hệ sản xuất được
nhấn mạnh ở phương hướng thứ ba: Phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về sở hữu.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định
đặc trưng thứ ba trong mô hình xã hội XHCN ở Việt Nam là: “có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp”. Cương lĩnh nhấn mạnh
việc nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó
có quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
3. Đánh giá vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước ta hiện nay
a. Tích cực
Khi nền kinh tế nước ta theo định hướng XHCN thì nhận thức
về quan hệ sản xuất và thể hiện nó trong xây dựng, phát triển
các hình thức tổ chức kinh tế, các thành phần kinh tế mới từng
bước được làm rõ. Trong cơ chế kinh tế mới, sự cạnh tranh luôn
diễn ra mạnh mẽ. Do đó tính năng động sáng tạo đươc phát
huy, người lao động đã không còn tính ỷ lại vào nhà nước như
trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà không biết chủ
9
động tìm việc và tăng thu nhập. Đối với các doanh nghiệp bước
đầu đổi mới phân phối lợi nhuận, thực hiện cơ chế giá tiêu thụ
sản phẩm theo quan hệ cung cầu trên thị trường và hoạt động
kinh doanh có hiệu quả. Và ta đã thấy được Đảng ta đã vận
dụng sự phù hợp của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay
và tương lai.
b. Hạn chế
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng chiến
lược phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là cần
thiết và đúng đắn. Nhưng sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII lại
thấy rõ một khuyết điểm là: “Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ
sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng”. Kinh tế
nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chưa phát huy được vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chưa đổi mới kinh tế hợp
tác, hợp tác xã tan rã hoặc chỉ tồn tại hình thức chưa có hình
thức hợp tác xã mới. Chưa thật sự thúc đẩy và quản lý tốt kinh
tế tư nhân. Quản lý kinh tế liên doanh với nước ngoài có nhiều
sơ hở. Có sự buông lỏng và lúng túng trong lãnh đạo xây dựng
quan hệ sản xuất mới vì quan hệ sản xuất được xây dựng trước
đổi mới đã không còn thích hợp và nhận thức về quan hệ sản
xuất mới còn chưa rõ ràng.
4. Một số giải pháp để vận dụng có hiệu quả quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa nước ta hiện nay.
10
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, có nghĩa là giải quyết đúng đắn mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, từ đó khắc
phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập
quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn thúc đẩy
sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện đầy đủ
đối với nhà nước, đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và
kinh tế cá thể, thực hiện chính sách khuyến khích phát triển.
Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải có những biện pháp
để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như thế
mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
Phát triển mạnh mẽ hơn nữa lực lượng sản xuất với trình
độ khoa học công nghệ cao là vấn đề bức thiết để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững và phát triển kinh tế tri thức. Khi
công nghiệp vẫn chủ yếu là khai thác tài nguyên, gia công, lắp
ráp, công nghiệp chế tạo, chế biến còn phát triển chậm thì định
hướng đúng đắn trong phát triển khoa học, công nghệ thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển có tầm quan trọng đặc biệt. Đại
hội XI của Đảng nêu rõ: “Ưu tiên phát triển và hoàn thành
những công trình then chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy
móc, thiết bị thay thế nhập khẩu cho công nghiệp, nông nghiệp,
xây dựng; công nghiệp công nghệ cao sản xuất linh kiện điện
tử, máy tính, công nghiệp dầu khí, điện, than, khai khoáng, hóa
chất, luyện thép, xi măng, phân đạm… công nghiệp hỗ trợ,
công nghiệp quốc phòng, an ninh với trình độ công nghệ ngày
càng cao, sạch, tiêu tốn ít nguyên liệu, năng lượng, tăng sức
cạnh tranh và giá trị gia tăng”.
11
KẾT LUẬN
“Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất” là quy luật phổ biến tác động trong
toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự phát triển của nhân
loại đã khẳng định quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát
triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất không hề đơn giản.Nó phải thông qua
nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người.Trong xã
hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua
cách mạng xã hội.
Đối với nước ta, việc nắm bắt sự phù hợp và không phù
hợp qua từng tiến trình phát triển có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, việc duy trì tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất
yếu khách quan trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta cần nắm bắt chính xác để có được những hoạch định
đúng đắn, tránh những sai lầm. Cần có chủ trương đúng đắn
trong việc xác lập hoàn thiện, cũng như thay đổi quan hệ sản
xuất để phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có. Đây là cơ sở lý
luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
và cải cách các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
PHỤ LỤC
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
12
Việt Nam sẽ là một trong các thành viên của Cộng đồng
kinh tế ASEAN. Vì thế có nhiều cơ hội về thương mại, đầu tư,
dịch vụ và việc làm. Đặc biệt các ngành như xây dựng, vận tải,
dệt may và chế biến lương thực thực phẩm… sẽ có sự tăng
trưởng đột biến. Có thể thấy nhu cầu tuyển dụng lao động có
chất lượng ở các doanh nghiệp tăng cao và tập tủng nhiều vào
ngành cơ khí, xây dựng, công nghệ thông tin, điện tử, điện
công nghiệp, điện lạnh… Riêng các khu công nghiệp, khu chế
xuất có nhu cầu trên ba nghìn người.
Tuy nhiên, tính đến hết năm 2014, cả nước có khoảng 80
nghìn lao động nước ngoài đang làm việc. Trong số đó, lực lương
lao động không thuộc diện cấp phép khoảng 6 nghìn người (Báo
cáo tại Hội thảo đánh giá kết quả thực hiện Nghị định
102/2013/NĐ-CP do Bộ Lao động thương binh và xã hội phối hợp
với Hiệp hội các DN châu Âu tổ chức tại Hà Nội). Bên cạnh đó
còn tồn tại một thực trạng đáng buồn là trong các cuộc thi tay
nghề ASEAN, lao động Việt Nam luôn đạt thứ hạng cao nhưng
13
các doanh nghiệp luôn than vãn về tình trạng thiếu trầm trọng
lao động có chuyên môn, kỹ năng, tay nghề.
Hiện nay ở Việt Nam cung về sức lao động đang vượt quá
cầu và sẽ còn tiếp tục vượt trong thời gian tới, điều này sẽ tạo
ra một áp lực rất lớn về việc làm cho dân cư. Do tác động của
bùng nổ dân số trong những năm gần đây. Điều đáng nói là cơ
bản của lực lượng lao động mới lại không có chuyên môn đầy
đủ, vì vậy vấn đề đào tạo và đào tạo lại trở lên rất cấp thiết,
mang tính chiến lược để tăng chất lượng và khả năng cạnh
tranh
của
sức
lao
động
trên
thị
trường
lao
động.
Lao động ở nước ta thiếu sức cạnh tranh bởi năng suất thấp.
Theo kết quả khảo sát điều tra cho thấy, năng xuất trung bình
của người lao động Việt Nam bằng khoảng ½ người Philippines,
¼ người Thái Lan, dưới 1/10 Malaysia…Chỉ khá hơn Lào và
Camphuchia trong khu vực. Lao động rẻ mạt, năng suất thấp
kéo theo hệ quả rằng Việt Nam sẽ không thể trở thành điểm
đến hấp dẫn cho những dự án có sức ảnh hưởng lớn, tiên phong
về công nghệ cũng như tính chất, quy mô. Lao động chất lượng
thấp đồng nghĩa với sự kém đa dạng của các loại kỹ năng, khả
năng sáng tạo cũng như hiệu quả tổ chức. Chính vì vậy cần cải
thiện năng suất lao động, quyết liệt nâng cấp công nghiệp, cải
thiện hệ thống quản lý và dây chuyền sản xuất. Đồng thời chú
trọng nâng cao tay nghề cho người lao động, dịch chuyển sang
những ngành nghề mang lại giá trị gia tăng cao hơn, phù hợp
với xu thế tất yếu của thời đại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin,
NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
14
• Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội,
2015.
• Nguyên tổng bí thư Đỗ Mười, Về công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, NXB chính trị quốc gia.
• PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc – Học viện chính trị quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất nhìn từ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước,
/>
dex.php/nguyen-
cuu–ly–luan/item/798–luc–luong–san–xuat–va–quan–he–
san–xuất–nhin - tu-qua -trinh-cong-nghiep-hoa-hien-daihoa-datnuoc .html, 15/9/2014.
• Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản
xuất, https: //www. wattpad.com /541172-quy-lu% E1%BA
%ADt-quan- h%E1 %BB%87-s%E1%BA%A3n-xu%E1%BA
%A5t-ph%E1%BA%A3i-ph%
C3%B9-h%E1%BB%A3p-v
%E1%BB%9Bi-tr%C3%ACnh
• />%E1%BB%A9c_s%E1%BA%A3n_xu%E1%BA%A5t
• huc-san-xuat-doi-voi-su-ton-tai-va-phat-trienxa-hoi-y-nghia-phuong-ph ap -luan.html
• />
15