Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Tăng cường thu hút FDI vào ngành thông tin truyền thông của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.88 KB, 85 trang )

Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế
của đơn vị thực tập.

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Minh Chí

SV: Nguyễn Minh Chí

1

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI PHẢN BIỆN

SV: Nguyễn Minh Chí


2

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BCC
CNTT
CNH - HĐH
DNLD
IMF
KHCN&HTQT
NĐTNN
OCED

ODA
XTĐT
SHTT

Tiếng Anh
Business Cooperation Contract

International Monetary Fund

Tiếng Việt

Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Công nghệ thông tin
Công nghiệp hóa - Hiện đại
hóa
Doanh nghiệp liên doanh
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Khoa học công nghê và hệ
thống quản trị
Nhà đầu tư nước ngoài

Organization for Economic CoTổ chức Hợp tác và phát triển
operation and Development
kinh tế
Official Development Assistance

SV: Nguyễn Minh Chí

3

Hỗ trợ phát triển chính thức
Xúc tiến đầu tư
Sở hữu trí tuệ

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính


DANH MỤC CÁC HÌNH

SV: Nguyễn Minh Chí

4

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

DANH MỤC CÁC BẢNG

SV: Nguyễn Minh Chí

5

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế thế giới đang vận động phát triển không ngừng. Quá trình
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra một cách mạnh mẽ. Do đó, hoạt động

đầu tư giữa các nước cũng được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Trong đó, đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) trở thành một hoạt động chiếm vị trí ngày càng
quan trọng đối với các nước.
Việc thu hút FDI của Việt Nam đã diễn ra trong một thời gian dài và đã
đạt được những thành tích nhất định trong phát triển kinh tế. Bên cạnh các
lĩnh vực, ngành thế mạnh thu hút được một lượng lớn vốn FDI như nông
nghiệp, công nghiệp... thì trong những năm gần đây chúng ta cũng có những
hướng đi mới, khuyến khích thu hút vào những ngành, lĩnh vực công nghê
cao.Với nhiều chính sách kinh tế mới theo hướng thông thoáng, cởi mở hơn
chính thức có hiệu lực thì lĩnh vực thông tin và truyền thông được dự đoán là
một trong những ngành có nhiều cơ hội thu hút vốn FDI nhất.
Nhận thấy những tiềm năng cũng như thuận lợi lớn đó , em xin chọn đề
tài: “Tăng cường thu hút FDI vào ngành thông tin truyền thông của Việt
Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp để phân tích thực trạng thu hút vốn FDI
vào ngành thông tin truyền thông hiện nay, qua đó đề xuất các giải pháp để
thúc đẩy hoạt động thu hút vốn FDI vào ngành này.
2.Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vốn FDI vào ngành thông tin truyền thông tại Việt Nam
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu các lý luận chung về FDI và ngành thông
tin truyền thông
Phân tích vai trò, sự cần thiết, đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng vốn
FDI vào ngành thông tin truyền thông tại Việt Nam giai đoạn từ tháng 4/2016
trở về trước.
SV: Nguyễn Minh Chí

6

Lớp: CQ50/08.03



Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

Trên cơ sở tìm hiểu lý luận và thực tiễn về hoạt động thu hút, sử dụng FDI
tại Việt Nam, khóa luận đưa ra những phướng hướng và giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thu hút vốn FDI vào ngành thông tin truyền thông để tận dụng
lợi ích mà ngành đem lại góp phần thúc đẩy Việt Nam trên con đường trở
thành nước Công nghiệp hiện đại vào năm 2020
3.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu:
-Về không gian: Việt Nam
-Về thời gian: giai đoạn 2006-2015
-Về nội dung: thu hút FDI vào ngành thông tin truyền thông tại Việt Nam
4.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết
hợp các phương pháp như phương pháp thống kê, tổng hợp, đối chiếu, phân
tích, so sánh, logic từ các bảng biểu, báo cáo thường niên của các Bộ, cơ quan
ban ngành và các tổ chức quốc tế... gắn lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ
vấn đề.
5.Bố cục của luận văn
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, phần nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành thông tin truyền thông
Chương 2: Thực trạng thu hút FDI vào ngành thông tin truyền thông ở Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào ngành thông tin truyền
thông ở Việt Nam

SV: Nguyễn Minh Chí


7

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH THÔNG TIN TRUYỀN THÔNG
1.1 Những lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Foreign Direct Investment” và
được dịch sang tiếng Việt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều khái niệm
về FDI như sau :
Theo khái niệm của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF(1997) :
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động đầu tư thực hiện nhằm
đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh
thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ
đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.”
-Lợi ích lâu dài : Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu
tư thường đặt ra các mục tiêu lợi ích dài hạn. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi
phải có một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận
đầu tư trực tiếp đồng thời có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc
quản lý doanh nghiệp này.
-Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp : nói đến ở đây chính là quyền
kiểm soát doanh nghiệp .Quyền kiểm soát doanh nghiệp là quyền tham gia

vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty, thông qua, phê
chuẩn kế hoạch hành động do người quản lý hàng ngày của doanh nghiệp lập
ra, quyết định việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết định phần vốn
góp giữa các bên, tức là những quyền ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, sống
còn của doanh nghiệp.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OCED) : Đầu tư trực tiếp
là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập mối quan hệ kinh tế lâu

SV: Nguyễn Minh Chí

8

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng
tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:
Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc
toàn quyền quản lý của chủ đầu tư.
Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
Cấp tín dụng dài hạn (>5 năm)
Quyền kiểm soát: nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết
trở lên.
Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm

soát công ty. Tuy nhiên không phải hầu hết các quốc gia đều sử dụng mốc
10% là mốc xác định FDI. Theo OCED, trong thực tế có những trường hợp tỉ
lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ
vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi ở nhiều quốc gia
có tỉ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp lớn hơn 10% vẫn chỉ là người đầu
tư gián tiếp. Tại Việt Nam, khi liên doanh số vốn góp của bên nước ngoài phải
lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định mới là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Luật đầu tư năm 2005 mà quốc hội khóa XI Việt Nam đã thông qua
có cá khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư
ra nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy
nhiên, có thể “gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu FDI là hình thức đầu
tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động ở
nước ngoài theo quy định của luật này và cá quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức
chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn vào các dự án
nhằm giành quyền điều hành và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ bỏ
vốn”.Mà bản chất của nó là sự di chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh
doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn.
SV: Nguyễn Minh Chí

9

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính


1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Một là, FDI mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhưng nó ít bị
lệ thuộc hơn vào quan hệ chính trị giữa các bên nếu so sánh với các hình thức
vốn nước ngoài khác như ODA, tín dụng quan hệ thương mại.
Hai là, FDI thiết lập quyền sở hữu về tư bản của công ty một nước ở một
nước khác.
Ba là, FDI kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lí các nguồn vốn đã
được đầu tư. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không
có những rang buộc về kinh tế, chính trị, không để lại gánh nợ nần cho nền
kinh tế.
Bốn là, Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước tiếp nhận đầu tư có
thể tiếp nhận công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý… là
những mục tiêu mà những hình thức đầu tư khác không có được.
Năm là, FDI liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa
quốc gia và sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế, thương mại quốc tế.
Tóm lại, mục đích cuối cùng của FDI là lợi nhuận, là khả năng sinh lời
cao hơn khi sử dụng đồng vốn ở nước bản địa. Bản chất của FDI là mục đích
kinh tế được đặt lên hàng đầu. Thông qua FDI, các chủ đầu tư tránh được thuế
và những bất lợi các nước áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu. Với ưu thế về kỹ
năng quản lí đặc biệt, khả năng tài chính cũng như lợi thế về quy mô, các nhà
đầu tư hoàn toàn có khả năng thu lợi nhuận, duy trì kiểm soát, cũng như dành
các lợi ích phục vụ cho mục đích của họ. Việc thâm nhập vào các thị trường
đa dạng cũng giúp họ phát triển lợi nhuận hoặc san sẻ rủi ro giữa các thị
trường.
1.1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài

SV: Nguyễn Minh Chí

10


Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 2005 bổ sung theo nghị
quyết số 51/2010/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2011 của Quốc Hội khóa X,
kỳ họp thứ 10, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam gồm có 4 hình
thức sau:
1.1.3.1 Doanh nghiệp liên doanh
Khái niệm:
Doanh nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh doanh quốc tế do hai bên
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp
định ký giữa Chính phủ nước chủ nhà và Chính phủ nước ngoài, hoặc doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp nước chủ nhà, do
doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp
đồng liên doanh.
Đặc điểm:
Về pháp lý: DNLD là một pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động
theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức của DNLD là do các bên tự
thỏa thuận phù hợp với các quy định của luật pháp nước nhận đầu tư, như
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp
vốn... Quyền lợi, nghĩa vụ của các bên và quyền quản lý DNLD phụ thuộc
vào tỷ lệ góp vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và Điều lệ của
DNLD.
Về tổ chức: Hội đồng quản trị của doanh ngghiệp là mô hình chung cho
mọi DNLD không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực nghành nghề. Đây là cơ

quan lãnh đạo cao nhất của DNLD.
Về kinh tế: Luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các bên trong
liên doanh và cả các bên đứng ở phía sau các liên doanh. Đây là vấn đề hết
sức phức tạp.
Về điều hành sản xuất kinh doanh: Quyết định sản xuất kinh doanh dựa
vào các quy định pháp lý của nước nhận đầu tư về việc vận dụng nguyên tắc
nhất trí hay quá bán.
SV: Nguyễn Minh Chí

11

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

- Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên
doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
- Đây là hình thức đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Đối với nhà đầu tư trong nước: có điều kiện tiếp cận công nghệ
hiện đại, trình độ quản lý tốt. Đối với nhà đầu tư nước ngoài: không bỡ ngỡ
với môi trường pháp lý, đầu tư.
1.1.3.2 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Khái niệm:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình doanh nghiệp thuộc sở
hữu của NĐTNN, có thể là tư nhân hoặc tổ chức nước ngoài, do NĐTNN
thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự chụ trách nhiệm về kết quả hoạt động
kinh doanh của mình. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường được

thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Tài sản của
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuộc về cá nhân, tổ chức nước ngoài nên
họ có quyền quyết định bộ máy quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Đặc điểm:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là pháp nhân của nước nhận đầu tư
nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. Hoạt
động sản xuất kinh doanh theo hệ thống pháp luật của nước nhận đầu tư và
Điều lệ doanh nghiệp. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật. Quyền
quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Mô hình tổ chức của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là do nhà đầu
tư nước ngoài tự lựa chọn. Nhà đầu tư nước ngoài tự chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài.

SV: Nguyễn Minh Chí

12

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

Nhà đầu tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp và
các vấn đề liên quan để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ
luật pháp cho phép.

1.1.3.3 Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
Khái niệm:
Đây là hình thức mà một bên là chủ đầu tư nước ngoài và một bên là chủ
đầu tư trong nước kí kết văn bản để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản
xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân
phối kết quả hoạt động kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp
hay không hình thành pháp nhân mới nào.
Đặc điểm:
Cùng góp vốn: các bên hợp doanh có thể góp vốn bằng tiền mặt, nhà
xưởng, quyền sử dụng đất, tư liệu sản xuất, quyền sở hữu công nghiệp, công
nghệ độc quyền, chi phí lao động, nguồn tài nguyên. Tỷ lệ góp vốn do các bên
thỏa thuận
Việc quản lý thực hiện hợp đồng kinh doanh được giao cho một bên đối
tác. Trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể hình thành ban điều
phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban
điều phối không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh.
Về phân chia kết quả kinh doanh, khác với doanh nghiệp liên doanh,
hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân
chia kết quả kinh doanh chung. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với nước sở tại một cách riêng rẽ.
Về mặt pháp lý, hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản pháp lý duy
nhất quy định đặc trưng về pháp lý của dự án hợp doanh. Tuy nhiên nó chưa
đủ để đảm bảo cho hình thức này tính chỉnh thể về mặt pháp lý.

SV: Nguyễn Minh Chí

13

Lớp: CQ50/08.03



Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

1.1.3.4 Các hình thức BTO, BOT, BT
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là hình thức
đầu tư nước ngoài dựa trên cơ sở văn bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không
bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước sở tại.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là hình thức
đầu tư nước ngoài dựa trên cơ sở văn bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước sở tại;
Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một
thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là hình thức đầu tư nước
ngoài dựa trên cơ sở văn bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước sở tại; Chính phủ
tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
Kết luận: Hiện nay ở Việt Nam áp dụng chủ yếu ba hình thức là hợp
đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
1.1.4 Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.4.1 Đối với nước đầu tư
a. Tác động tích cực
Một là, tận dụng lợi thế so sánh để thu lợi nhuận cao

Sự không đồng đều về trình độ phát triển giữa các nước trên thế giới đã
tạo nên sự chênh lệch về điều kiện và giá cả yếu tố đầu vào của sản xuất.Do

SV: Nguyễn Minh Chí

14

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

đó đầu tư nước ngoài cho phép sử dụng lợi thế nơi tiếp nhận vốn để giảm chi
phí sản xuất, nước đi đầu tư có thể hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận
chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư,
nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư, tăng tỷ suất lợi nhuận.
Hai là, mở rộng thị trường.
Đa số các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ hoạt động với tư
cách là chi nhánh của các công ty mẹ. Vì vậy, việc xây dựng các nhà máy sản
xuất, chế tạo hay lắp ráp ở nước nhận đầu tư thực chất chỉ nhằm mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước nhận đầu tư. Đây là
một biện pháp hữu hiệu giúp nhà đầu tư thâm nhập thị trường một nước, tránh
được hàng rào bảo hộ mậu dịch mà đặc biệt là thị trường các nước đang phát
triển. Có thể nói, FDI giúp nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,
tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới.
Ba là, tìm kiếm được nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu ổn định
Bên cạnh các dự án đầu tư hướng thị trường hoặc hướng chi phí thì cũng
có những dự án nhằm mục tiêu nguyên liệu. Hiện nay, các nước đang phát

triển đều nỗ lực bảo vệ tài nguyên của mình, ngăn chặn xuất khẩu nguyên liệu
thô. Vậy thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là biện pháp hữu hiệu nhất của các
công ty để có được nguyên liệu thô với giá rẻ nhất lại tiết kiệm được chi phí
vận chuyển và nhiều thứ thuế khác, thu lợi nhuận cao.
Bốn là, chuyển giao công nghệ hợp lý, thay đổi cơ cấu sản phẩm, nâng
cao năng lực cạnh tranh
Nhịp độ phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi phương thức sản xuất,
cơ cấu sản phẩm phải không ngừng đổi mới, đời sống của máy móc ở các
nước phát triển ngày càng ngắn lại, nhiều khi không kịp thu hồi vốn.Giải pháp
hữu hiệu nhất là chuyển những máy móc, công nghệ này sang các nước kém

SV: Nguyễn Minh Chí

15

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

phát triển hơn bởi vì đối với họ công nghệ này vẫn còn rất mới.Điều này giúp
nhà đầu tư vừa thu hồi vốn, vừa kéo dài đời sống sản phẩm tại thị trường khác
và còn thu được nhiều đặc lợi do chuyển giao công nghệ.
Năm là, khuyến khích xuất khẩu của nước đi đầu tư. Cùng với việc đem
vốn đi đầu tư sản xuất ở các nước khác và nhập khẩu sản phẩm đó về nước
với một số lượng lớn sẽ làm cho đồng nội tệ tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến
tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ có xu hướng giảm dần. Sự
giảm tỷ giá hối đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất trong

nước tăng cường xuất khẩu, nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
Ngoài những lợi ích kinh tế, FDI còn đem lại những ưu thế nhất định về
mặt chính trị. FDI tạo mối quan hệ rang buộc giữa nước đi đầu tư và nước
nhận đầu tư. Các dự án FDI càng có hiệu quả thì khả năng can thiệp vào nội
bộ của nước nhận đầu tư càng rõ nét. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới hiện
nay thường dung FDI như một công cụ để nâng cao vị thế của mình trên
trường quốc tế.
b.Tác động tiêu cực
Thứ nhất, nếu chính phủ các nước đi đầu tư đưa ra các chính sách không
phù hợp sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong
nước. Khi đó các doanh nghiệp sẽ lao mạnh ra nước ngoài đầu tư để thu lợi,
do đó nền kinh tế các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu.
Thứ hai, đầu tư ra nước ngoài có nguy cơ gặp nhiều rủi ro hơn trong
nước, do đó các doanh nghiệp này thường phải áp dụng nhiều biện pháp khác
nhau để hạn chế rủi ro …
Thứ ba, làm giảm việc làm và thu nhập của lao động trong nước, giảm
nguồn vốn tiết kiệm, có thể xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám nếu chủ sở
hữu đầu tư mất bản quyền sở hữu công nghệ trong quá trình chuyển giao.

SV: Nguyễn Minh Chí

16

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính


Thứ tư, ảnh hưởng tới cán cân thanh toán quốc tế.
1.1.4.2 Đối với nước nhận đầu tư
a. Tác động tích cực
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn bổ sung
vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo ra động lực
cho sự tăng trưởng và phát triển.
Thực tế cho thấy FDI có những ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy
động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với mức lãi suất
nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng kinh tế hoặc như các khoản viện trợ
đi kèm với điều kiện về chính trị, can thiệp vào nội bộ nền kinh tế. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài tạo ra tác động tích cực đối với việc huy động nguồn vốn
khác của nước chủ nhà.Ngoài ra, thông thường các nước nhận đầu tư ngoài
việc nhận được vốn FDI còn có cơ hội thuận lợi trong việc huy động các
nguồn vốn khác như ODA, nguồn vốn trong nhân dân nhờ chiếm được lòng
tin của họ.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
-Song song với việc bổ sung nguồn vốn, sự ra đời của các công ty có vốn
đầu tư nước ngoài được coi như là đối trọng với các doanh nghiệp trong nước,
làm gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường.Sự cạnh tranh này là điều kiện cơ
bản để thúc đẩy phát triển kinh tế.
-Thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư có
thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.Với sự tham gia của các
doanh nghiệp nước ngoài vào nền kinh tế, các mối quan hệ quốc tế được mở
ra, vốn, công nghệ,… được đưa vào, khả năng xuất khẩu tăng lên, quan hệ
ngoại thương được mở rộng, sự giao lưu giữa doanh nghiệp trong và ngoài
nước được tăng cường.Vị thế của nước nhận đầu tư trên trường quốc tế vì thế
SV: Nguyễn Minh Chí

17


Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

cũng được nâng lên.
Thứ ba, tạo việc làm và phát triển nhân lực
Không những thu hút một lượng lao động lớn, doanh nghiệp FDI còn gián
tiếp ảnh hưởng đến cơ hội việc làm ở những nganh có liên quan. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng quản
lý kinh doanh cho nước nhận đầu tư.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm tăng cường khả năng khoa học
công nghệ của quốc gia nhờ tiến hành chuyển giao công nghệ, tạo ra năng lực
sản xuất mới, ngành mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức hiệu quả nhất để phát triển
công nghệ của các nước đang phát triển, cả về công nghệ “phần cứng” (máy
móc, thiết bị…) lẫn công nghệ “phần mềm” (bí quyết công nghệ và kĩ năng
quản lý) . Đầu tư sẽ góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa
các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo
đói. Các ngành mới, lĩnh vực mới phát triển cũng góp phần vào chuyển dịch
cơ cấu ngành của nền kinh tế nước nhận đầu tư.
Thứ năm, đóng góp vào ngoại thương và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Các quốc gia đang phát triển thường xuất khẩu các sản phẩm thô, sản
phẩm nông nghiệp có giá trị thấp và phải nhập khẩu các sản phẩm công nghệ
cao với giá trị cao. Điều này dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thường mại
trầm trọng. Nhưng nhờ có FDI, tình hình đã được cải thiện.Các nước nhận
đầu tư đã có khả năng sản xuất, chế biến các sản phẩm, nguyên liệu mà trước

đây không tự sản xuất được phải nhập khẩu, giúp tăng tỷ lệ sản phẩm trong
danh mục hàng hóa xuất khẩu. Ngoài ra, vốn FDI còn có thể bổ sung đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ của nước nhận đầu tư khi xảy ra thiếu hụt.
Thứ sáu, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngoài ý nghĩa tăng cường vốn đầu tư

SV: Nguyễn Minh Chí

18

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

nội địa còn làm tăng nguồn thu ngân sách của Nhà nước.Thông qua các loại
thuế, phí, lệ phí do các doanh nghiệp nộp. Đối với Chính phủ các nước đang
phát triển thì nguồn thu này có thể chiếm 10-15% tổng thu từ thuế. Từ đây có
thể thấy FDI có vai trò như thế nào trong nền kinh tế các nước đang phát triển.
b. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, môi trường chính trị và kinh tế của nước sở tại tác động trực
tiếp đến dòng vốn FDI.
Thứ hai, Ô nhiễm môi trường và tài nguyên bị khai thác cạn kiệt.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đưa những dự án hoặc một công đoạn sản
xuất có gây ô nhiễm cao vào các nước đang phát triển, nơi mà luật pháp và
khả năng kiểm soát bảo vệ môi trường còn thiếu chặt chẽ. Do đó, tình trạng
phát triển nóng khi có dòng FDI ồ ạt vào sẽ đánh đổi với khả năng gây ô
nhiễm môi trường cao. Hiện tượng FDI làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên
là một thực tế đang xảy ra, nhất là đối với các loại FDI nhắm vào tài nguyên

thiên nhiên và lao động rẻ tiền
Thứ ba, Sự phụ thuộc của nền kinh tế vào đầu tư nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài làm tăng sự lệ thuộc của nền kinh tế vào vốn, kỹ thuật
và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của công ty đa quốc gia, nước nào càng dựa
vào đầu tư nước ngoài thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào nước ngoài càng
lớn. Tuy nhiên mức độ phụ thuộc còn tùy vào chính sách và khả năng hấp thụ
đầu tư nước ngoài của từng quốc gia. Một khi tranh thủ được những hiệu ứng
tích cực của FDI đồng thời với thúc đẩy phát triển công nghiệp, tạo nguồn
tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới
thì sẽ giảm được sự phụ thuộc. Mặt khác cần nhận thức rằng xu thế hội nhập
ngày càng phổ biến, các liên minh kinh tế càng ngày càng rộng mở thì sự phụ
thuộc lẫn nhau, phụ thuộc vào bên ngoài là một vấn đề mang tính tất yếu.
Thứ tư, sử dụng công nghệ lạc hậu.
SV: Nguyễn Minh Chí

19

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

Môi trường cạnh tranh tại các nước phát triển ngày càng gay gắt, đòi hỏi
phải luôn nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Từ đó các máy móc
thiết bị công nghệ hạng 2 sẽ được di chuyển vào các nước đang phát triển có
nhiều lao động, có nhiều ưu đãi, ít cạnh tranh và còn nới lỏng về môi trường
thông qua con đường đầu tư.Do đó, nếu không thẩm định kĩ về công nghệ sẽ
có thể nhận chuyển giao từ các nước đi đầu tư các công nghệ lạc hậu hoặc

không phù hợp với nền kinh tế trong nước, dễ bị thua thiệt do giá chuyển
nhượng nội bộ từ các công ty quốc tế gây ra.
Thứ năm, các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của
các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều khi không theo ý muốn của nước tiếp nhận.
Điều đó gây khó khăn cho nước tiếp nhận khó chủ động trong bố trí cơ cấu
đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
1.1.5 Thu hút FDI
1.1.5.1 Khái niệm và đặc điểm
a. Khái niệm thu hút FDI
Thu hút FDI là hoạt động nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài
vào một quốc gia. Như vậy, bản chất của hoạt động thu hút FDI là hoạt động
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn và trực tiếp quản lý điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh tại quốc gia nước tiếp nhận đầu tư.
b.Đặc điểm của việc thu hút FDI


Đây là một hoạt động có định hướng dựa trên chiến lược phát triển và mục



tiêu thu hút FDI.
Hoạt động này được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú và



được thực hiện bởi nhiều cấp, ngành của nước sở tại.
“Cùng có lợi” được coi là nguyên tắc cơ bản để giải quyết các quan hệ giữa
các bên trong quá trình thu hút FDI.

SV: Nguyễn Minh Chí


20

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp



Học Viện Tài Chính

Có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá trình thực
hiện hoạt động.
1.1.5.2 Quy trình thu hút
Để đưa ra quyết định đầu tư ở nước ngoài, bất kì nhà đầu tư nào cũng
quan tâm đến những ưu đãi, lợi ích mà họ được hưởng trong quá trình đầu tư,
các vấn đề liên quan đến việc thành lập, triển khai và vận hành dự án. Trong
việc triển khai dự án, nhà đầu tư sẽ quan tâm đến các vấn đề như: các thủ tục
trong quá trình tiến hành xây dựng nhà xưởng, nhập khẩu thiết bị máy móc,
chính sách lao động trong việc tuyển dụng công nhân cũng như chuyển gia
nước ngoài… Các vấn đề liên quan đến khuyến khích đầu tư. Dựa trên những
khía cạnh và nội dung mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi ra quyết
định đầu tư, quy trình thu hút FDI bao gồm các nội dung:



Xác định mục tiêu thu hút FDI: dựa trên quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc
gia, mục tiêu, chiến lược Chính phủ đề ra cho từng giai đoạn, từng năm để đề
ra mục tiêu thu hút FDI


• Xác định các nhà đầu tư mục tiêu cho các lĩnh vực/sản phẩm: Dựa vào tình
hình của các nhà đầu tư, tìm hiểu các nhà đầu tư tiềm năng. Nó có thể liên
quan đến những vấn đề sau: (1) quốc tịch của nhà đầu tư, (2) nguồn tài chính
của hoạt động đầu tư, (3) phân loại nhà đầu tư: họ là người nước ngoài, địa
phương, các công ty xuyên quốc gia hay các DN vừa và nhỏ…(4) nếu có thể,
xác định lý do tại sao những nhà đầu tư tiềm năng đang tìm kiếm địa điểm
đầu tư, (5) những thông tin sơ lược điển hình về những nhà đầu tư mục tiêu,
sắp xếp từ những thông tin cơ bản về các công ty này đến những vấn đề riêng
biệt có thể hỗ trự cho chiến dịch thu hút
Sau khi xem xét các vấn đề trên, cũng cần xác định sản phẩm, dịch vụ sẽ
được bán cho các nhà đầu tư tiềm năng. Điều này sẽ dựa trên sự phân tích kỹ
lưỡng (thường dưới dạng phân tích theo mô hình SWOT) về môi trường kinh
SV: Nguyễn Minh Chí

21

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

doanh của quốc gia và sự hấp dẫn của nó với nhà đầu tư đã được nhắm đến


Xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư
- Xây dựng hệ thống biện pháp ưu đãi về kinh tế: ưu đãi về thuế, ưu đãi tín
dụng,…

- Xây dựng chính sách pháp luật: tự do hóa đầu tư, khuyến khích đầu tư nước
ngoài đầu tư theo hướng thay thế nhập khẩu, hay hướng vào xuất khẩu…

• Xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư: chuẩn bị và tổ
chức hội nghị xúc tiến đầu tư, các hội thảo, hội nghị tăng cường giao lưu hợp
tác các nước trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư… lựa chọn cách thức
tiếp cận thu hút đầu tư và những phương pháp mời gọi chính yếu như: quảng
cáo/PR, quan hệ truyền thống/các chuyến đi quảng bá, những tài liệu thu hút
đầu tư, chương trình gửi thư mời trực tiếp, tiếp thị truyền thông… Các hoạt
động đa dạng nhằm tạo nên một phần của chiến dịch XTĐT sắp xếp theo thứ
tự từ việc tiếp thị truyền thông đến chuyến viếng thăm nhà máy. Kinh nghiệm
của các cơ quan XTĐT toàn cầu là việc tiếp cận càng có mục tiêu, chiến dịch
càng có hiệu qủa.


Xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư: thẩm định các
dự án xin cấp phép đầu tư, tiến hành nghiên cứu, thẩm định các dự án cam kết
đầu tư từ đó tiến hành cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư.Khâu
thẩm định, xét duyệt là là khâu vô cùng quan trọng, quyết định dự án có được
thực hiện hay không. Nếu công tác thẩm định, xét duyệt bị lơ là sẽ có thể gây
ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội, môi trường,…
1.2 Tổng quan về ngành Thông tin truyền thông
1.2.1 Khái niệm về ngành Thông tin truyền thông
*Thông tin là phổ biến những tin tức, thông đến các cá nhân, nhóm, tổ
chức. Phương tiện phổ biến có thể là sách báo, loa, radio, TV… Trong thông

SV: Nguyễn Minh Chí

22


Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

tin người ta ít hoặc không quan tâm đến mức độ tiếp thu và phản ứng của
người nhận.
*Truyền thông là một quá trình giao tiếp để chia sẻ những hiểu biết, kinh
nghiệm, tình cảm. Một quá trình truyền thông đầy đủ gồm các yếu tố: người
gửi, người nhận, thông điệp, kênh truyền thông và sự phản hồi. Trong truyền
thông có sự trao đổi thông tin hai chiều, có sự chuyển đổi vai trò: người gửi
đồng thời cũng là người nhận. Sự phản hồi trong truyền thông giúp thông tin
trao đổi được chính xác hơn. Về mặt hình thức có hai kiểu truyền thông:
• Truyền thông trực tiếp: được thực hiện giữa người với người, mặt đối mặt
• Truyền thông gián tiếp: được thực hiện thông qua các phương tiện
truyền thông như sách báo, loa, radio, TV…
Về mặt kỹ thuật người ta chia ra:
• Truyền thông cho cá nhân
• Truyền thông cho nhóm
• Truyền thông đại chúng
*Thông tin và truyền thông là ngành chính trị, kinh tế và kỹ thuật tổng
hợp, làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), góp phần
đảm bảo quốc phòng-an ninh (QP-AN), thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2.2 Đặc điểm của ngành Thông tin truyền thông
Một là, sản phẩm của ngành thông tin truyền thông có tính vô hình
Sản phẩm thông tin truyền thông không phải là sản phẩm vật chất chế tạo
mới, không phải là hàng hoá cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền

đưa tin tức từ người gửi đến người nhận. Các cơ sở thông tin, bưu chính, viễn
thông làm nhiệm vụ dịch chuyển tin tức từ vị trí người gửi đến vị trí người
nhận. Sự dịch chuyển tin tức này chính là kết quả của ngành Thông tin truyền
thông. Như vậy, sản phẩm thông tin truyền thông thể hiện dưới dạng dịch vụ.
SV: Nguyễn Minh Chí

23

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

Từ đó, có thể nhận thấy sản phẩm thông tin truyền thông không tồn tại ngoài
quá trình sản xuất nên không thể đưa vào kho, không thể thay thế được.
Để tạo ra sản phẩm, các doanh nghiệp Thông tin truyền thông không cần
đến những nguyên vật liệu chính phải bỏ tiền ra mua như các ngành khác mà
chỉ cần sử dụng các vật liệu phụ. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu chi phí sản
xuất kinh doanh dịch vụ thông tin truyền thông: chi phí nguyên vật liệu chiếm
tỷ trọng nhỏ, chi phí lao động sống (tiền lương) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ thông tin truyền thông.
Hai là, quá trình sản xuất của ngành thông tin truyền thông mang tính
dây chuyền
Đặc điểm này thể hiện ở chỗ, để truyền đưa tin tức hoàn chỉnh từ người
gửi đến người nhận thường có từ hai hay nhiều cơ sở tham gia, mỗi cơ sở chỉ
thực hiện một giai đoạn nhất định, hoặc “giai đoạn đi”, hoặc “giai đoạn đến”,
hoặc “giai đoạn quá giang” của quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh đó.
Ba là, quá trình sản xuất của ngành gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm

Trong hoạt động thông tin thông tin truyền thông, quá trình sản xuất gắn
liền với quá trình tiêu thụ; trong nhiều trường hợp hai quá trình này có thể
trùng với nhau. Hay nói cách khác, hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa
tin tức được tiêu dùng ngay trong quá trình sản xuất.
Do đặc điểm này mà vấn đề chất lượng sản phẩm thông tin truyền thông
một lần nữa lại được đặt ra, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu
dùng. Khác với sản phẩm của các ngành sản xuất khác, trong thông tin truyền
thông, dù muốn hay không người tiêu dùng cũng phải tiêu dùng những sản
phẩm mà ngành tạo ra. Ngoài ra, các sản phẩm không đảm bảo chất lượng
cũng không thể thay thế bằng sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Trong nhiều
trường hợp, sản phẩm thông tin truyền thông kém chất lượng có thể gây ra
những hậu quả không thể bù đắp được cả về vật chất và tinh thần.
SV: Nguyễn Minh Chí

24

Lớp: CQ50/08.03


Luận Văn Tốt Nghiệp

Học Viện Tài Chính

Bốn là, tải trọng thông tin truyền thông không đồng đều theo không gian
và thời gian
Tải trọng Thông tin truyền thông là lượng tin tức đến yêu cầu một cơ sở
sản xuất nào đó của ngành thông tin truyền thông phục vụ trong một khoảng
thời gian nhất định. Sự tồn tại và phát triển của thông tin truyền thông phụ
thuộc vào nhu cầu truyền đưa tin tức. Ngành có nhiệm vụ thoả mãn tốt nhất
nhu cầu về truyền đưa tin tức, thu hút và mở rộng các nhu cầu này.

Nhu cầu về truyền đưa tin tức có thể xuất hiện ở bất cứ nơi nào trên trái
đất, ở đâu có con người thì ở đó có nhu cầu về thông tin. Do vậy, cần phải bố
trí các phương tiện thông tin trên tất cả các miền của đất nước, bố trí mạng
lưới hợp lý thống nhất về kỹ thuật, nghiệp vụ để mạng lưới quốc gia có thể
hoà nhập vào mạng lưới quốc tế.
Nhu cầu về truyền đưa tin tức xuất hiện không đồng đều theo thời gian.
Thường thì phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt xã hội. Vào những giờ ban ngày,
giờ làm việc của các cơ quan, doanh nghiệp, vào những kỳ báo cáo, các ngày
lễ tết,… thì nhu cầu lớn. Chính đặc điểm này có ảnh hưởng đến công tác tổ
chức sản xuất kinh doanh trong ngành Thông tin truyền thông.
Năm là, thông tin truyền thông là ngành vừa kinh doanh vừa phục vụ.
Phục vụ nghĩa là làm cho người khác, người này làm vỡ lợi ích của người
khác. Kinh doanh là hoạt động kiếm lời, mục tiêu của kinh doanh là lợi
nhuận. Như vậy, ngành phải lấy phục vụ là mục tiêu, lấy kinh doanh là
phương tiện để phục vụ tốt. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn
nhau, không thể tách rời và xem nhẹ nhiệm vụ nào.
Sáu là, sản xuất thông tin truyền thông diễn ra hàng này, và tiến hành ở
hầu khắp các vùng dân cư, các vùng lãnh thổ của đất nước.

SV: Nguyễn Minh Chí

25

Lớp: CQ50/08.03


×