Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả
nêu trên trong luận văn tốt nghiệp là thực, xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị
thực tập.
Tác giả luận văn
Nguyễn Công Văn
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
FDI
ODA
GDP
IMF
WTO
UNDP
OECD
ASEAN
AEC
EU
NĐTNN
Cty.TNHH
BCC
BOT
BTO
BT
PPP
ĐTNN
NSNN
GATS
AFTA
Bộ KH&ĐT
Đầu tư trục tiếp nước ngoài
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
Tổng sản phẩm quốc nội
Qũy tiền tệ quốc tế
Tổ chức thương mại thế giới
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Cộng đồng kinh tế ASEAN
Liên minh Châu Âu
Nhà đâu tư nước ngoài
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng xây dựng– kinh doanh – chuyển giao
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao
Dự án đối tác – công tư
Đầu tư nước ngoài
Ngân sách nhà nước
Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Bộ kế hoạch và đầu tư
2
Bộ GD&ĐT
Bộ LĐTBXH
TP.HCM
TP.Hà Nội
ĐH – CĐ
EI
HDMI
Bộ giáo dục và đào tạo
Bộ lao động thương binh xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hà Nội
Đại học – cao đẳng
Chỉ số giáo dục
Chỉ số phát triển con người
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
3
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hiện nay, vốn đầu tư là yếu tố quyết định đến tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế. Sau năm 2008, Việt Nam thoát khỏi nước có thu nhập thấp.
Điều này đồng nghĩa với việc những khoản viện trợ không hoàn lại càng ngày càng
giảm. Khi đó, nguồn vốn đầu tư chủ yếu vào nước ta chính là nguồn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Nhu cầu đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở nên bức thiết
trong điều kiện của xu thế quốc tế hoá đời sống, kinh tế, cách mạng khoa học công
nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát
triển nhất là Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố quan
trọng cho sự tăng trưởng kinh tế và là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá
khả năng phát triển. Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá để đưa đất nước từ một nền kinh tế kém phát triển, nghèo nàn, lạc hậu sớm trở
thành một nước công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, cần phải có một
khối lượng vốn rất lớn. Nhận thức được điều này, cùng với việc hội nhập về kinh tế,
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ
tăng trưởng kinh tế, từng bước bắt nhịp với nền kinh tế trong khu vực và trên thế
giới. Trong chặng đường đầu khi tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế còn thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn có thể từ trong nước
nhưng thực tế cho thấy tỉ lệ tiết kiệm này rất thấp chưa đủ tài trợ cho đầu tư đảm
bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Do đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là vô cùng cần thiết. Việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài càng có vai trò quan trọng hơn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có ưu điểm hơn nhiều so với các nguồn vốn nước ngoài khác và nó có tác
động sâu rộng đến nền kinh tế đất nước. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
tạo động lực phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
WTO,Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện
SV:Nguyễn Công Văn
4
Lớp: CQ50/08.02
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đối với tất cả 12 nghành dịch vụ,
trong đó có giáo dục. Với cam kết này, lĩnh vực càng có nhiều cơ hội hơn để được
tiếp cận với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với một thị trường giáo dục tại
Việt Nam đầy tiềm năng, ngày càng có nhiều đối tác nước ngoài quan tâm tới việc
đầu tư vào lĩnh vực này. Khái niệm đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục còn
khá mới mẻ với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, có thể dự báo trong thời gian
tới thị trường đầy tiềm năng này sẽ rất sôi động.
Với lý do trên, em chọn đề tài ‘‘Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI) vào
lĩnh vực giáo dục: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI vào lĩnh vực giáo dục tại Việt
Nam trong điều kiện Việt Nam cam kết mở của thị trường dịch vụ trong những năm
tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình thu hút vốn FDI vào lĩnh vực giáo dục
tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực giáo dục tại
Việt Nam từ năm 1993 đến nay.
Giác độ nghiên cứu: vĩ mô
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được xem xét, giải quyết từ những quan điểm lý luận tới thực tiễn về
vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
kết hợp với các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh để từ đó đưa ra các giải
pháp giải quyết vấn đề
5. Kết cấu đề tài:
SV:Nguyễn Công Văn
5
Lớp: CQ50/08.02
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI) vào lĩnh vực giáo
dục ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thút vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài( FDI) vào lĩnh vực giáo
dục ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thu hút vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài( FDI) vào lĩnh vực
giáo dục ở Việt Nam
SV:Nguyễn Công Văn
6
Lớp: CQ50/08.02
Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG 1.
Khóa Luận Tốt Nghiệp
VẤN ĐỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở
VIỆT NAM
1.1. Các vấn đề cơ bản về FDI
CHƯƠNG 2.
Khái niệm, đặc điểm về FDI
2.1.1.1. Khái niệm FDI
Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau, hiện nay trên thế
giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI:
−Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977): “Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư
được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một hãng hoạt động ở một nền kinh
tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng
nói có hiệu quả trong công việc quản lý hãng đó”.
−Theo Luật Đầu tư 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
−Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa về FDI như sau:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước
chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với
quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công
cụ tài chính khác.Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó
quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu
tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” chi
nhánh công ty.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về
FDI , song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là:
SV:Nguyễn Công Văn
7
Lớp: CQ50/08.02
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế, đó là hình thức
chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm
dành quyền điều hành và trực tiếp điều hành đối tượng bỏ vốn".
2.1.1.2. Đặc điểm FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
SV:Nguyễn Công Văn
8
Lớp: CQ50/08.02
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
−Trong thời gian sử dụng vốn đầu tư, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn
luôn thuộc về chủ đầu tư. Nhà đầu tư chụi trách nhiệm hoàn toàn về kết quả đầu tư.
Hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của chủ đầu tư.
−Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu theo quy định của
Luật đầu tư. Mức độ góp vốn và hình thức đầu tư quyết định vị trí của nhà đầu tư
trong doanh nghiệp, quyết định địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
−Lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động
kinh doanh: Sau khi trừ đi thuế và các khoản đóng góp cho nước nhận đầu tư nhà
đầu tư nước ngoài nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp
định. Chủ đầu tư nước ngoài có thể tăng lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường thế giới do lợi dụng được các yếu tố lợi thế và tránh được
hàng rào thương mại của nước chủ nhà. Nhưng có thể gặp rủi ro vì quá trình đầu tư
chịu tác động của những yếu tố biến động về kinh tế trên thị trường và yếu tố biến
động về chính trị - xã hội của nước chủ nhà.Chủ đầu tư sẽ lựa chọn hình thức đầu tư
phù hợp với điều kiện, trên cơ sở kỳ vọng vào lợi ích tối đa khi đầu tư vốn.
−Trên góc độ của nước nhận đầu tư: Đây là dòng vốn kinh doanh, có tính ổn
định cao, thời hạn đầu tư dài, quá trình trao đổi vốn thường gắn liền với chuyển
giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý - kinh doanh. Khai thác nguồn vốn này giúp
khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều
kiện khai thác tốt hơn lợi thế trong nước, mở rộng cạnh tranh,… thúc đẩy sản xuất
trong nước phát triển, tăng thu cho ngân sách nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế,…
−Việc tiếp nhận FDI không ảnh hưởng tới nợ Chính phủ, nên các Chính phủ
có xu hướng điều chỉnh luật pháp, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, khuyến khích
hình thức đầu tư này để tăng nguồn lực cho phát triển sản xuất trong nước.
2.1.1.3. Các hình thức FDI
SV:Nguyễn Công Văn
9
Lớp: CQ50/08.02
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
− Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình doanh nghiệp thuộc sở
hữu của NĐTNN, có thể là tư nhân hoặc tổ chức nước ngoài, do NĐTNN thành lập
tại nước tiếp nhận đầu tư, tự chụ trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của
mình. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường được thành lập dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Tài sản của doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài thuộc về cá nhân, tổ chức nước ngoài nên họ có quyền quyết định bộ máy
quản lý, điều hành doanh nghiệp.
− Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư
nước ngoài góp vốn chung các các tổ chức, cá nhân trong nước trên cơ sở hợp đồng
liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, phân chia lợi nhuận
cũng như chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn tương ứng giữa các bên. Theo quy định của
Luật Đầu tư tại Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh thường được thành lập theo
hình thức công ty TNHH, có tư các pháp nhân. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài
hoặc các bên nước ngoài do các bên liên doanh thỏa thuận nhưng không được thấp
hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh và trong quá trình hoạt động
không được giảm vốn pháp định.
− Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
Đây là hình thức mà một bên là chủ đầu tư nước ngoài và một bên là chủ
đầu tư trong nước kí kết văn bản để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất
kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả
hoạt động kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không hình
thành pháp nhân mới nào.
− Bên cạnh đó, còn tồn tại các hình thức khác như:
+
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT): là hình thức
đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng,
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
10
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn,
nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước sở tại.
+
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO): là hình thức
đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công
trình đó cho Nhà nước sở tại; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh
công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
+
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT): là hình thức đầu tư được ký
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu
hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà
nước sở tại; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp
đồng BT.
CHƯƠNG 3.
Vai trò của FDI
FDI mang lại những lợi ích không nhỏ cho cả hai phía quốc gia, cả bên đầu tư
cũng như bên tiếp nhận đầu tư.
− Đối với nước thực hiện đầu tư
+
Đem lại sự giàu có. Với mục đích ban đầu của đầu tư quốc tế là tìm
kiếm nguồn nguyên liệu thô, không ít các quốc gia đã giàu lên không ngừng nhờ
việc tận thu nguồn lực, của cải từ bên ngoài. Ngày nay, không ít các quốc gia, phần
lợi nhuận, thu nhập từ các cơ sở kinh tế của họ ở nước ngoài chuyển về đóng vai trò
lớn cho sự phát triển đất nước.
+
Tạo ra sự cân bằng, ổn định cho nền kinh tế. Một mặt, FDI giúp giải
quyết vấn đề thừa vốn đầu tư ở nhiều nước phát triển. Mặt khác, nhờ có FDI mà nền
kinh tế của các nước này, trên thực tế là gồm 2 phần: Phần kinh tế nội địa và phần
kinh tế ở nước ngoài, có sự hỗ trợ, bổ sung, bù trừ,…, làm cho nền kinh tế luôn đạt
trạng thái cân bằng, ổn định.
+
Tái cấu trúc nền kinh tế, hiện đại hóa công nghệ. Nhờ có FDI mà hàng
loạt các thiết bị, công nghệ hiện có của nền kinh tế được tháo dỡ, chuyển đến cho
nước tiếp nhận đầu tư. Từ đó, nền kinh tế có cơ hội để tái cấu trúc lại, bỏ đi cũng
ngành nghề không còn hiệu quả, tiêu tốn nhiều nguyên liệu, gây ô nhiễm,…
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
11
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
− Đối với nước tiếp nhận đầu tư
+
Với nước phát triển tiếp nhận FDI, cái được lớn nhất đó là tạo ra sức
cạnh tranh mới bởi các cơ sở kinh tế FDI. Đây là động lực cho sự phát triển của nền
kinh tế lâu nay chỉ gồm những cơ sở kinh tế quốc nội với sự độc quyền cao và kéo
theo là tình trạng trì trệ trong sản xuất kinh doanh.
+
Với nước tiếp nhận FDI, lợi ích thể hiện rõ trên hai giác độ:
. Bổ sung một lượng vốn đầu tư lớn, giúp nền kinh tế phát triển theo
chiều rộng. Các dự án FDI sẽ tận dụng, thúc đẩy các tiềm năng, lợi thế sẵn có của
quốc gia về tài nguyên khoáng sản, đất đai, rừng, biển, nguồn nhân lực,… tạo ra
nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng GDP. Từ đó mà nền kinh tế có điều kiện phát triển
theo chiều rộng.
. Nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp nền kinh tế phát triển theo chiều
sâu. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ mang đến cho nước tiếp nhận
đầu tư tiền vốn mà kèm theo đó là công nghệ và quản lý. Điều này góp phần làm
cho sản phẩm được sản xuất ra có chất lượng tốt hơn, phù hợp hơn mà giá thành lại
thấp hơn. Không chỉ vậy, nước tiếp nhận đầu tư còn có cơ hội nhận cải thiện công
nghệ và nâng cao trình độ quản lý. Tất cả những điều đó cho phép tăng năng lực của
sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu, tiến tới làm chủ khoa
học công nghê, quản lý,… làm cho nền kinh tế phát triển theo chiều sâu và ngày
càng có điều kiện hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
3.2. Sự cần thiết thu hút FDI vào lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
CHƯƠNG 4.
Khái niệm , đặc điểm về giáo dục
4.1.1.1. Khái niệm
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là một
từ gốc Latin được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”. Có nghĩa là
dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để vươn tới những gì
hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
12
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày “ Giáo
dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của giáo dục là sự truyền đạt và lĩnh
hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các
thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá nhân loại và dân tộc được kế thừa,
bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên”
4.1.1.2. Đặc điểm
Giáo dục là một quá trình hoạt động có mục đích, kế hoạch, nội dung và
phương pháp đước diễn ra trong một quá trình dài: Đó là quá trình chuyển hóa
nhưng nhu cầu khách quan của xã hội thành nhu cầu phát triển chủ quan của mỗi cá
nhân.Trong đó các phẩm chất,tính chất, hành vi, thói quen về đạo đức, nếp sống văn
hóa,... của học sinh dần hình thành và phát triển. Qúa trình đó không chỉ diễn ra
trong chốc lát mà đòi hỏi phải có thời gian dài.
Giáo dục là quá trình diễn ra với những tác động phức hợp: Để hình thành một
nét tính cách, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực của xã hội cần có sự
phối kết hợp từ nhiều phía như gia đình, nhà trường và xã hội.
Giáo dục là một quá trình phát triển biện chứng: Hoạt động giáo dục là quá
trình liên tục phát triển và giải quyết những tình huống phát sinh trong các lĩnh vực
giáo dục đạo đức, lối sống của học sinh,sinh viên trong trường học, gia đình và xã
hội. Việc phát hiện kịp thời các tình huống và có biện pháp giải quyết phù hợp với
tâm – sinh lý của học sinh, sinh viên sẽ có tác dụng mạnh mẽ, động viên và khuyến
khích họ tích cực phấn đấu để hoàn thiện mình.
Giáo dục là quá trình có tính cá biệt: Trong cuộc sống mỗi người đều có
những đặc điểm riêng về tâm – sinh lý, về nhận thức, tình cảm,... Vì vậy, với những
tác động sư phạm giống nhau mỗi cá nhân sẽ tiếp thu theo cách riêng của mình. Do
đó cùng với những biện pháp giáo dục chung với tập thể cần có những tác động
riêng phù hợp với đặc điểm của riêng từng cá nhân.
Qúa trình giáo dục gắn liền và thống nhất với quá trình dạy học.
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
13
Lớp:
Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG 5.
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Vài nét về hệ thống giáo dục Việt Nam
Hệ thống giáo dục Việt Nam phát triển và hoàn thiện dần về quy mô và chất
lượng qua các năm. Tính chất nền giáo dục Việt Nam là một nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa, mang tính dân tộc, tính nhân dân, tính khoa học và tính hiện đại. Nguyên
lý của nền giáo dục Việt Nam đó là học đi đôi với hành, học kết hợp với lao động
sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, và giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội.
Trên cơ sở truyền thống phát triển lâu dài của nền giáo dục Việt Nam trải qua
các thời kỳ; sau những lần đổi mới, cải cách giáo dục diễn ra trong suốt thời kỳ từ
năm 1945 đến năm 2000, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay được quy
định tại điều 4 của Luật giáo dục 2005, được sữa đổi bổ sung năm 2009. Hệ thống
giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay bao gồm:
Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục không
chính quy(GDTX).
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thông giáo dục quốc dân bao gồm:
Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;
Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
Giáo dục đại học đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.
− Giáo dục mầm non
+
Giáo dục mầm non thực hiện việc chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3
tháng đến dưới 6 tuổi, bao gồm nhà trẻ và mẫu giáo. Đây là cấp học đầu tiên trong
hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình
cảm, thẩm mỹ của trẻ em.
+
Trong năm học 2012 – 2013 , Việt Nam có 34 nhà trẻ, trong đó số nhà
trẻ công lập là 24 và ngoài công lập là 10. Tổng số trẻ em học ở nhà trẻ là 597.274
em, và tỷ lệ giáo viên có trình độ sư phạm 93,22%.
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
14
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
+
Tổng số trường mầm non trong niên học 2012-2013 là 10.707 trường.
Số trẻ em theo học là 3.551.082, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn là 97,57% trong số
245.000 giáo viên.
− Giáo dục phổ thông
+
Trong giáo dục phổ thông có 3 cấp học là tiểu học, trung học cơ sở và
trung học phổ thông.
+
Ở cấp tiểu học, học sinh sẽ học trong 5 năm. Trong năm học 2012 –
2013 số trẻ đi học tiểu học trong độ tuổi là 7.202.767 em.
+
Cấp trung học cơ sở đào tạo học sinh trong vòng 4 năm. Tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp ở cấp học này năm học 2014 – 2015 là trên 90%.
+
Sau khi tốt nghiệp bậc trung học cơ sở, học sinh sẽ vào học tiếp ở bậc
trung học phổ thông. Đây là cấp học cuối cùng trong hệ thống giáo dục phổ thông,
cấp học này đào tạo học sinh trong 3 năm học. Học sinh sau khi tốt nghiệp phổ
thông trung học có thể tham gia thi vào các trường đại học, cao đẳng hoặc vào các
trường dạy nghề…Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp phổ thông của cả nước năm 2015 là 91,58%.
− Giáo dục nghề nghiệp
+
Giáo dục nghề nghiệp bao gồm giáo dục dạy nghề và trung học
chuyên nghiệp.
+
Năm học 2008-2009, Việt Nam có 294 trường dạy nghề và trung học
chuyên nghiệp, với tổng số học sinh theo học là 555.684 em. Những học sinh không
đủ điều kiện vào các trường đại học, cao đẳng thì có thể vào các trường dạy nghề
hoặc trung cấp chuyên nghiệp để học nghề trong khoảng 1-2 năm sau đó ra trường
tìm việc làm.
− Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học
+
Nhiệm vụ chủ yếu của cấp học này chính là đào tạo ra những người
lao động trình độ tay nghề cao, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh để phục vụ cho đất
nước.
+
Hiện nay Việt Nam có 472 trường cao đẳng, đại học. Theo thống kê
của Bộ GD&ĐT, cả nước mới có 286 giảng viên có chức danh Giáo sư, 2.009 Phó
Giáo sư, 8.519 Tiến sĩ và 28.037 Thạc sĩ. Tổng số sinh viên cả nước hiện nay có
khoảng 2.204.000 (tăng 143% so với năm 2008), đạt tỷ lệ khoảng 250 sinh viên/1
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
15
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
vạn dân. Trong đó: sinh viên đại học chiếm 66%, sinh viên cao đẳng chiếm 34%; nữ
sinh chiếm 49,6%; số sinh viên học tập tại các trường công lập chiếm 85%, các
trường ngoài công lập chiếm khoảng 15% tổng số sinh viên; sinh viên hệ chính quy
là 1.962.000. Ngoài ra, có khoảng 110.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại
gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.
Biểu đồ 1. 1. HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN CỦA VIỆT NAM
(Nguồn: />
CHƯƠNG 6.
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội
− Giáo dục đóng vai trò ngày càng quan trọng:
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là một trong những
nguyên nhân dẫn tới các cuộc cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các quốc gia và
các tổ chức kinh tế toàn cầu. Thực chất của cuộc chiến trên thương trường đó là
cuộc cạnh tranh về trình độ khoa học, công nghệ và nhân tài. Một quốc gia muốn
tiến kịp với xu thế phát triển thì quốc gia đó phải có một đội ngũ nhân lực đủ trình
độ. Để xây dựng được lực lượng lao động có năng lực và trình độ thì phải có một hệ
thống giáo dục có khả năng đào tạo thế hệ trẻ tiếp cận, học tập và sử dụng các kiến
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
16
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
thức mới. Như vậy, giáo dục đào tạo vừa là thách thức, vừa là cơ hội, vừa là nhiệm
vụ của bất kỳ quốc gia nào. Công việc này lại càng nặng nề hơn đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam.
− Giáo dục là động lực đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới:
Ngày nay, toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan mà không một
quốc gia nào, một nền kinh tế nào có thể tránh được. Do vậy, việc xác định lợi thế
cạnh tranh của mình, định hướng phát triển và kết nối với các nền kinh tế trên thế
giới để cùng phát triển là những việc tất yếu đối với mỗi quốc gia. Vì vậy, xây dựng
một chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ trí tuệ và tay nghề cao nhằm
tạo ra lợi thế cạnh tranh là một trong những cách chủ động hội nhập vào xu thế này.
−Xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi ngày càng cao đối với sự phát triển của lĩnh vực
giáo dục:
Toàn cầu hóa là cơ hội lớn cho các nước đang phát triển trong việc chuyển
giao và thừa hưởng những thành quả công nghệ hiện đại, những đột phá sáng tạo về
khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất kinh doanh mang lại những
nguồn lực quan trọng, từ nguồn vật chất tới các nguồn tri thức, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý. Tuy nhiên, các nước đang phát triển để có được nền khoa học và
công nghệ thực sự phát triển thì cần phải có một nền giáo dục tương xứng. Vì vậy,
giáo dục đào tạo ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của các nước đang phát triển.
− Giáo dục là yếu tố chủ đạo cho quá trình đi lên của nền kinh tế tri thức:
Trong khoảng từ những năm 1980 của thế kỷ 20 tới nay, cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại đã có bước phát triển đặc biệt, tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Thành tựu của các ngành
công nghệ cao trụ cột chính như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng đã đưa sự phát triển kinh tế sang một giai
đoạn mới về chất – giai đoạn kinh tế tri thức. Như vậy, bên cạnh nền kinh tế nông
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
17
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
nghiệp, kinh tế công nghiệp đã có thêm nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Trong
nền kinh tế này, khoa học công nghệ và giáo dục giữ vị trí trung tâm.
− Giáo dục đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế:
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự thay đổi của trình độ
công nghệ. Nhưng sự thay đổi này lại được quyết định bởi lực lượng lao động có
tay nghề và trình độ cao. Lực lượng lao động này chỉ có thể phát triển trên cơ sở
một nền giáo dục đào tạo có chất lượng của quốc gia. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế
còn phụ thuộc vào năng suất lao động. Điều này lại phụ thuộc vào trình độ của
người lao động.
−Giáo dục góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hóa nhân loại, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu:
Cuộc cách mạng thông tin hiện nay đang tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu
các tinh hoa văn hóa của các nước, nhưng đồng thời cũng làm cho các nền văn hóa
dễ bị pha tạp và mất bản sắc. Vì vậy, giáo dục đào tạo là cách hiệu quả nhất để phát
huy những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh
hoa của văn hóa nhân loại.
Tóm lại, giáo dục đào tạo không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để phát
triển kinh tế. Phát triển kinh tế để có một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc và công
bằng xã hội. Nguồn gốc của sự phát triển và thịnh vượng không chỉ là tài nguyên
thiên nhiên, vốn mà quan trọng nhất là khả năng sáng tạo của con người. Nhờ có
giáo dục mà mỗi con người có năng lực trí tuệ, có hiểu biết và có khả năng nghề
nghiệp. Hầu hết các nước trên thế giới đều đặt giáo dục ở vị trí hàng đầu trong các
ưu tiên phát triển kinh tế xã hội đất nước. Ở nước ta, điều 35 Hiến pháp cũng xác
định, “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nướcvà của
toàn dân”. Đồng thời, hàng năm Nhà nước cũng trao các phần thưởng cho những
nhân tài của đất nước, cấp học bổng tạo điều kiện chocác nhân tài đó có điều kiện
tiếp tục học tập và nghiên cứu.
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
18
Lớp:
Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG 7.
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Đặc điểm đầu tư vào giáo dục
− Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người
Ở mức độ khái quát nhất, mục đích phát triển của bất kì quốc gia nào cũng
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Con người chính là trung tâm
của sự phát triển, là nhân tố chi phối quyết định chính sách của mỗi quốc gia.
Theo UNDP, chất lượng cuộc sống được phản ảnh thông qua Chỉ số phát
triển con người (HDMI). Chỉ số này được tính bằng cách lấy trung bình cộng của
thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ trung bình và tỷ lệ biết chữ. Vậy giáo dục
trở thành một trong 3 khía cạnh cơ bản khẳng định chất lượng cuộc sống. Từ đó, có
thể nói, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư vào con người, vì con người và cho sự
phát triển của con người.
− Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển
Giáo dục được xem là một bộ phận của cơ sở hạ tầng xã hội, nền tảng quan
trọng và không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế nhanh và ổn định. Vai trò của
giáo dục ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh thế giới đang chuyển
sang thời đại kinh tế tri thức, tri thức và thông tin là những yếu tố hàng đầu và là tài
nguyên vô giá cho sự phát triển.
Kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới đã cho thấy: những nước nghèo muốn
tăng trưởng kinh tế nhanh, rút ngắn thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì chỉ có
con đường nâng cao chất lượng học vấn của người dân. Theo UNDP, quốc gia nào
coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng để làm giáo dục một cách có
hiệu quả thì tụt hậu so với sự phát triển của thế giới là hậu quả khó tránh khỏi. Do
đó, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển.
− Giáo dục đòi hỏi phải có các loại nguồn vốn đầu tư thích ứng
Giáo dục là một ngành sản xuất quan trọng của xã hội, từ đó đòi hỏi phải có
các nguồn vốn đầu tư phù hợp.
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
19
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Sản phẩm của giáo dục là con người, con người là nền tảng và là yếu tố sản
xuất ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển toàn diện của quốc gia. Bên cạnh đó, giáo
dục cung cấp dịch vụ giáo dục với phông rộng lớn trải từ hàng hóa công cộng đến
hàng hóa cá nhân.Ngoài ra lợi ích xã hội thu được từ đầu tư vào giáo dục lớn hơn
nhiều so với lợi ích cá nhân. Từ những đặc điểm này, có thể thấy để phát triển giáo
dục cần đa dạng hóa các nguồn cung ứng vốn và xác định các nguồn đầu tư thích
hợp với từng khía cạnh của giáo dục sao cho hiệu quả kinh tế xã hội đạt được cao
nhất.
CHƯƠNG 8.
Các nguồn vốn đầu tư cho phát triển giáo dục của Việt
Nam
− Nguồn vốn trong nước
+ Nguồn vốn Ngân sách nhà nước (NSNN)
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, NSNN không phải là nguồn vốn duy
nhất đầu tư cho giáo dục nhưng lại là nguồn vốn có vai trò chủ đạo và quyết định
chính đến việc phát triển nền giáo dục của nước ta.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo
dục và đào tạo là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư trong cơ cấu chi NSNN. Luật Giáo
dục 2005 đã chỉ rõ: "Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo
dục, bảo đảm tỷ lệ tăng chi ngân sách giáo dục hàng năm cao hơn tỷ lệ tăng chi
NSNN" .
Nhà nước coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, và luôn dành một tỷ trọng
lớn trong ngân sách của mình để phát triển giáo dục.
Bảng 1. 1. TỶ LỆ CHI PHÍ CHO GIÁO DỤC VIỆT NAM (2010 – 2015)
Năm
Tỷ
lệ
NSNN(%)
chi
Năm
Tỷ
NSNN(%)
2000
15
2008
20
2001
15,3
2009
20
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
20
lệ
Lớp:
chi
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
2002
15,6
2010
20
2003
16,4
2011
20
2004
17,1
2012
20
2005
18,1
2013
20
2006
19
2014
20
2007
20
2015
20
(Nguồn : Bộ GD & ĐT)
Nhìn vào bảng trên ta thấy tỷ trọng chi NSNN cho giáo dục tăng qua các
năm. Đặc biệt trong giai đoạn 2000-2005, trong khi NSNN chỉ tăng bình quân
22,9%/năm thì tỷ trọng chi NSNN cho giáo dục lại tăng đến 27,7%/năm.Những
năm gần đây tình hình kinh tế khó khăn, ngân sách nhà nước eo hẹp song Nhà nước
vẫn luôn dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể (chiếm 20% NSNN) đầu tư cho giáo dục
– đào tạo. Số liệu từ Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính) cho biết,
cùng với chi đầu tư từ nguồn thu xổ số kiến thiết 7 nghìn tỷ đồng cho giáo dục đào
tạo trong quốc phòng an ninh, thì tổng nguồn NSNN dành cho lĩnh vực giáo dục
đào tạo năm 2015 là 224.826 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng chi NSNN. Thậm
chí tỷ trọng chi cho giáo dục trên của Việt Nam còn vượt xa các nước phát triển
cao như Mỹ hay Nhật Bản ( 20% là khoản nhà nước ta chi cho giáo dục hàng năm
– cao hơn nhiều lần mức 4% đến 5% của các nước tiên tiến như Mỹ,Nhật Bản).
+ Nguồn vốn ngoài NSNN
Mặc dù NSNN luôn ưu tiên đầu tư cho giáo dục nhưng trên thực tế
NSNN chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển giáo dục của quốc
gia, như vậy cần có sự tham gia của các nguồn vốn ngoài ngân sách.
Hiện nay với nhu cầu hưởng thụ giáo dục của người dân ngày càng cao,
nhà nước không còn là nhà cung cấp giáo dục độc quyền nữa, mà bên cạnh đó các
tổ chức, cá nhân cũng đã được phép thành lập các cơ sở giáo dục ngoài công lập
theo quy định của nhà nước. Với vai trò kiểm soát và điều tiết của mình, nhà nước
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
21
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
hoàn toàn có thể hướng các hoạt động của các trường ngoài công lập theo chiến
lược phát triển chung của hệ thống giáo dục quốc dân.
Một nguồn đóng góp ngoài NSNN chính là học phí của người học. Học
phí là một khoản đóng góp quan trọng thể hiện sự công bằng trong việc hưởng thụ
giáo dục, bên cạnh đó học phí còn làm giảm gánh nặng cho NSNN. Tuy nhiên để
thực hiện công bằng xã hội và khuyến khích người dân tham gia học tập, nhà nước
có thể miễn học phí ở những cấp học nhất định và những đối tượng thuộc diện ưu
tiên theo quy đinh của pháp luật.
Ngoài ra các cơ sở giáo dục có thể tạo ra nguồn thu từ chính những hoạt
động của mình như cung ứng các loại dịch vụ, nghiên cứu khoa học, liên kết đào
tạo. Bên cạnh đó, cơ sở giáo dục có thể nhận quà biếu, các khoản đóng góp từ các
cá nhân, tổ chức, hoặc nhận các học bổng từ các quỹ giáo dục, doanh nghiệp.
− Nguồn vốn nước ngoài
Vốn nước ngoài ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về hình thức,
nhưng vốn nước ngoài chủ yếu thể hiện qua hai hình thức đầu tư: gián tiếp và trực
tiếp.
+ Đầu tư quốc tế gián tiếp
Hình thức này bao gồm tài trợ phát triển chính thức, vay thương mại từ
các ngân hàng, đầu tư thông qua các công cụ của thị trường tài chính, các khoản
viện trợ không hoàn lại của các tổ chức phi chính phủ, và một số nguồn tài trợ khác.
Tài trợ phát triển chính thức là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc
tế, các tổ chức chính phủ và liên chính phủ cung cấp. Đặc điểm của nguồn vốn này
là có mức lãi suất thấp và thời hạn vay dài hơn các khoản vay theo điều kiện thị
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
22
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
trường. Tài trợ phát triển chính thức được chia thành hỗ trợ phát triển chính thức
(Official Development Assistance- ODA) và các hình thức tài trợ khác.
Đối với Việt Nam, nguồn vốn ODA đã góp một phần quan trọng cho
ngân sách nhà nước. Nhiều công trình quan trọng đã được tài trợ bởi vốn ODA đã
giúp cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, đặc biệt là cải
thiện hệ thống giao thông vận tải và năng lượng điện. Ngoài ra nhờ vào vốn ODA,
số lượng người dân nghèo đói ở nông thông Việt Nam đã giảm. Người nông dân
nghèo có điều kiện tạo ra các nghề phụ, phát triển công tác khuyến nông, khuyến
ngư, phát triển giao thông nông thôn… từ đó người dân có thể cải thiện được chất
lượng cuộc sống của mình.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo :
Tổng số vốn ODA trong giai đoạn 2003 – 2014 cho lĩnh vực giáo dục
đào tạo và dạy nghề đã lên tới hơn 2 tỷ USD, chiếm khoảng 3,5% tổng số vốn ODA
ký kết của cả nước. Số liệu tổng hợp của Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên,
Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cho thấy, trong giai đoạn 2004 – 2014 lĩnh
vực giáo dục đào tạo và dạy nghề đã thu hút khoảng 80 chương trình dự án ODA
với tổng số vốn ký kết đạt hơn 2.157 triệu USD, trong đó vốn vay chiếm khoảng
71,9%, vốn không hoàn lại chiếm khoảng 14,5% và 13,6% vốn đối ứng.
Trong giai đoạn này, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện 26 dự
án thuộc lĩnh vực giáo dục – đào tạo, gồm 10 dự án viện trợ không hoàn lại và 16
dự án vốn vay ưu đãi, với tổng kinh phí được phê duyệt là 1.925,39 triệu USD,
trong đó có 1.390,18 triệu USD vốn vay (chiếm 72%); 300,66 triệu USD vốn viện
trợ (chiếm 16%) và 234,55 triệu USD vốn đối ứng (chiếm 12%). Trong số 26 dự án
đã được phê duyệt triển khai, có 14 dự án đã kết thúc và 12 dự án đang triển khai,
trong đó dự án có thời gian triển khai dài nhất là đến năm 2019.
Nguồn vốn ODA đã thể hiện được giá trị của nó đối với giáo dục và
đào tạo. Cụ thể:
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
23
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Thứ nhất là tăng cường tiếp cận giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, và cho
các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Hầu hết các chương trình, dự án vốn vay
ODA được thiết kế nhằm hỗ trợ phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng có
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên và Nam Trung Bộ thông qua các hoạt động xây mới, nâng cấp cơ sở vật
chất trường học, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó, đào tạo giáo viên và cán
bộ quản lý, tăng tỷ lệ hoàn thành cấp học.
Thứ hai là góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới nội dung, phương
pháp giáo dục và đào tạo. Các chương trình, dự án ODA hỗ trợ, tư vấn đã truyền tải,
tiếp cận các giá trị và xu hướng phát triển tiên tiến, các mô hình, các kinh nghiệm
quản lý của thế giới góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới nội dung, phương pháp
giáo dục và đào tạo.
Thứ ba là góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Một số
nhà tài trợ còn cung cấp các học bổng chính phủ hàng năm để đào tạo một đội ngũ
đáng kể sinh viên Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ tư là hỗ trợ đầu tư trang thiết bị đào tạo dạy nghề và nâng cao
năng lực quản lý dạy nghề. Các dự án ODA đã hỗ trợ đầu tư trang thiết bị dạy nghề
đồng bộ, hiện đại cho một số nghề trọng điểm đã được lựa chọn để tổ chức đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng theo cấp độ khu vực ASEAN, quốc tế, đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động; hỗ trợ xây dựng chương trình, giáo trình, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề.
+ Đầu tư quốc tế trực tiêp:
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 15/12/2014,đã
có 204 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam đầu tư vào ngành Giáo dục và đào tạo,
với tổng số vốn đăng ký đạt 825,5 triệu USD.
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
24
Lớp:
Học Viện Tài Chính
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Các dự án chủ yếu tập trung vào ba thành phố lớn của cả ba miền là Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.Cụ thể, Hà Nội có 70 dự án với 328,25
triệu USD vốn đăng ký (chiếm 39,8 về tổng số vốn đầu tư của ngành). Tại TP.Hồ
Chí Minh có 97 dự án với tổng số vốn xấp xỉ 263 triệu USD ( chiếm 31,9% về tổng
số vốn của ngành). Thành phố Đà Nẵng thu hút được 157,9 triệu USD trên 8 dự
án.Tính riêng FDI trong lĩnh vực giáo dục tại ba thành phố này đã chiếm tới 90,8%
tổng số vốn đăng ký toàn ngành.Còn lại là một số tỉnh khác.
Các dự án đầu tư chủ yếu lựa chọn hình thức 100% vốn nước ngoài với
146 dự án và 522,6 triệu USD vơn đăng ký (chiếm 63,6% tổng số vốn đầu tử của
ngành). Tiếp theo là hình thức liên doanh có 48 dự án với 277,68 triệu USD vốn
đăng ký (chiếm 33,6% tổng số vốn đầu tư của ngành). Còn lại 3% vốn đầu tư vào
ngành giáo dục – đào tạo theo hình thức công ty cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
8.2. Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với
sự phát triển của giáo dục Việt Nam
Vốn FDI có vai trò rất lớn đối với phát triển giáo dục ở nước ta. Với xu thế hội
nhập quốc tế như hiện nay, chúng ta không chỉ hội nhập về kinh tế mà còn hội nhập
cả về văn hóa - xã hội, hội nhập giáo dục quốc tế, ngôn ngữ. Để có đươc một nền
giáo dục phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế trong nước cũng như thế giới
chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thu hút vốn FDI vào giáo dục bởi vì
nguồn vốn này có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình quốc tế hóa giáo dục.
−Thứ nhất, vốn FDI là một trong những nguồn vốn bổ sung để đầu tư cho
giáo dục.
Đối với một nước đang phát triển, nền giáo dục còn lạc hậu, nhu cầu học
tập của người dân lại tăng cao, trong khi đó NSNN cũng như vốn ngoài ngân sách
không đủ cung ứng cho giáo dục vì nguồn lực còn hạn hẹp thì vốn nước ngoài là
một nguồn cung ứng cần thiết.
SV:Nguyễn Công Văn
CQ50/08.02
25
Lớp: