BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN THỊ OANH
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA ĐẠO HIẾU
TRONG GIA ĐÌNH Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Hoàng Thúc Lân
HÀ NỘI - 2015
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Thúc Lân.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Các
thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Nam Định, tháng 06 năm 2015
Học viên
Trần Thị Oanh
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các thầy cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, các đồng
nghiệp và gia đình.
Với lòng kính trọng, khâm phục và tri ân sâu sắc, tôi xin được bày tỏ
lòng biết ơn tới TS. Hoàng Thúc Lân đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Quý thầy giáo, cô giáo khoa Triết học,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đã giảng dạy và chỉ bảo tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn phòng Quản lý khoa học, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thiện và bảo vệ
luận văn trước hội đồng.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo UBND tỉnh Nam Định, Cục
Thống kê tỉnh Nam Định, Sở văn hóa thể thao và du lịch, Uỷ ban dân số và
kế hoạch hóa gia đình tỉnh Nam Định đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, các bạn trong khoa Triết học,
trường Đại học Sư Phạm Hà Nội đã luôn khuyến khích, động viên và giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nam Định, tháng 06 năm 2015
Học viên
Trần Thị Oanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng rất đề cao
các mối quan hệ trong gia đình. Vì đó là nguồn gốc, là nền tảng cho các mối
quan hệ khác. Trong gia đình, Hiếu hạnh đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Hiếu là gốc của mọi đức tính, là tiêu chuẩn để đánh giá nhân cách của một con
người. “Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết/ Thời suy ra trăm nết đều nên”.
Đạo Hiếu dù xem xét theo lịch đại hay đồng đại, xưa cũng như nay đều
phát xuất từ tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ dành cho con cái. Tình
thương đó hình thành từ khi thai nghén đến lúc mang nặng đẻ đau và tiếp tục
từng ngày khó nhọc, tần tảo, hi sinh để nuôi dưỡng con cái trưởng thành.
Tình thương đó chỉ kết thúc khi cha mẹ không còn trên thế gian này nữa. Vì
vậy, báo đáp ơn sâu nghĩa nặng của cha mẹ chính là Hiếu. Biểu hiện của Hiếu
chính là lòng thành kính, tri ân công lao dưỡng dục của cha mẹ, chăm sóc,
phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu, bệnh tật và tế tự chu đáo khi qua đời. Hiếu
thảo với cha mẹ là biểu hiện của một con người thực sự có đạo đức, có nhân
cách. Hiếu suy rộng ra chính là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ
trồng cây. Hiếu là phạm trù thuộc ý thức đạo đức và bị quy định bởi tồn tại xã
hội nhưng trong mọi không gian và thời gian, Hiếu vẫn chiếm một vị trí quan
trọng, là cơ sở gìn giữ nề nếp gia đình, xây dựng đạo đức trong xã hội. Vì thế,
phong tục người Việt nói chung và người Nam Định nói riêng, từ đời trước
đến đời sau luôn răn dạy con cháu thực hiện Hiếu đạo.
Thực tế ở tỉnh Nam Định hiện nay cho thấy, nền kinh tế thị trường
cùng với xu hướng hội nhập sâu rộng diễn ra trong những năm qua đã tạo ra
một gương mặt mới về mọi mặt. Đặc biệt là sự du nhập của những luồng
văn hóa mới tạo ra những xu hướng biến đổi khác nhau về giá trị đạo đức
trong xã hội, đạo đức trong gia đình. Bên trong xã hội ngày càng văn minh
hơn thì cũng ngày càng xuất hiện nhiều kiểu sống, lối sống kỳ quái, những
hành động man rợ, mất nhân tính. Chữ Hiếu trong gia đình đang có phần bị
xem nhẹ, xao lãng. Quan hệ giữa con cái và cha mẹ trong gia đình cũng xuất
1
hiện những thay đổi thậm chí những bất hòa hoặc do vô tình hoặc do hữu ý.
Trên các trang báo điện tử, báo an ninh của tỉnh hay trang thông tin của toà
án nhân dân tỉnh v.v… những hiện tượng con cái bất hiếu với cha mẹ, ông
bà không còn là điều quá đỗi ngạc nhiên. Cháu ruột giết bà, giết anh họ chỉ
để lấy 250 nghìn đi chơi điện tử. Nhiều người con, cháu bỏ quên việc thăm
nom, chăm sóc với bậc sinh thành, có thái độ bất kính, thậm chí bạc đãi cha
mẹ. Nhiều cụ già phải vất vả mưu sinh hay sống dặt dẹo nhờ vào lòng hảo
tâm của những người qua đường. Không ít cụ ông, cụ bà bị bỏ rơi trong bệnh
viện, trong các nhà tình nghĩa cùng với những căn bệnh của sinh lý tuổi già
và những buồn tủi, mặc cảm trong lòng. Trong vòng một năm, trên địa bàn
thành phố có tới hàng nghìn vụ thanh thiếu niên vi phạm pháp luật. Con
người hiện nay, bên cạnh sự hưởng thụ ngày càng cao về vật chất thì lại luôn
thấy bất an về tinh thần. Ám ảnh về những con người có lối sống man rợ, mất
nhân tính luôn thường trực trong toàn xã hội. Nhiều gia đình bất hạnh vì có
con cái bất hiếu. Đó cũng chính là gánh nặng của toàn xã hội. Có thể nói,
thực trạng xã hội ở Nam Định hiện nay nảy sinh tính cấp thiết hơn bao giờ
hết về việc giáo dục Hiếu đức trong gia đình.
Nghiên cứu về những giá trị đạo đức truyền thống ở Nam Định nói
chung không phải là vấn đề mới. Xong nghiên cứu một cách hệ thống về
đạo Hiếu trong gia đình ở Nam Định hiện nay chưa từng có công trình
nghiên cứu khoa học nào đề cập đến. Trên thực tế, ở Nam Định, các cơ quan
chức năng, ban ngành đã có sự vào cuộc từ rất sớm, quan tâm đến các vấn
đề xây dựng gia đình văn hóa. Tuy nhiên, những tác động của các cơ quan
chức năng, ban ngành chưa đủ để tạo ra những biến chuyển rõ nét, rộng rãi,
triệt để đối với việc giáo dục đạo Hiếu trong gia đình.
Xuất phát từ tầm quan trọng của đạo Hiếu trong gia đình và nhu cầu,
đòi hỏi của thực tiễn ở Nam Định hiện nay, tôi quyết định chọn nghiên cứu
vấn đề: Xu hướng vận động của đạo Hiếu trong gia đình ở Nam Định
hiện nay làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2
Nghiên cứu về giá trị truyền thống dân tộc nói chung và đạo Hiếu nói
riêng đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu bàn tới như luận án,
luận văn, báo cáo khoa học các cấp, tạp chí khoa học,… Đặc biệt là các
công trình nghiên cứu bàn về vấn đề đạo Hiếu trong gia đình nói chung
ngày càng nhiều. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng cũng như tính bức thiết
của vấn đề này. Khảo sát các công trình nghiên cứu về đạo Hiếu từ trước
đến nay, chúng tôi chia thành ba nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về đạo Hiếu ở Việt Nam
Nghiên cứu về đạo Hiếu, nội dung của đạo Hiếu trong gia đình Việt
Nam, trong phong tục, tập quán ở Việt Nam nói chung có thể kể đến:
Tác giả Trần Văn Giàu với công trình Giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc Việt Nam; Nxb khoa học xã hội; năm 1998 đã nêu lên cơ sở
hình thành, nội dung và biểu hiện những giá trị tinh thần truyền thống Việt
Nam trong đó chủ yếu là giá trị đạo đức, đặc biệt là quan hệ đạo đức trong
gia đình. Tác giả rất đề cao đạo Hiếu của con cái đối với cha mẹ.
Công trình “Chữ hiếu và nếp sống dân tộc” của thiền sư Thích Giác
Hành (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006) cũng có rất nhiều những
luận bàn về chữ Hiếu thông qua quan niệm về nhân đạo và thiên đạo. Hiếu
hạnh khuyên bảo con người nhớ đến Tứ trọng ân. Song trong công trình này
của thiền sư mang nhiều màu sắc tôn giáo.
Tác giả Phạm Côn Sơn cũng có rất nhiều những công trình bàn về vấn
đề đạo đức trong gia đình nói chung. Tác giả cũng đã đi sâu vào khai thác
nội dung đạo Hiếu trong đời sống gia đình đặc biệt là gia đình truyền thống.
Trong đó, đạo Hiếu được coi là chuẩn mực của nề nếp gia phong. Nó ăn sâu
vào đời sống tinh thần trong gia đình người Việt truyền thống trở thành
phong tục với những nghi lễ, cách thức riêng. Điều đó được thể hiện trong
các tác phẩm Đạo nghĩa trong gia đình (Nxb Đồng Nai, năm 1999); tác
phẩm Nề nếp gia phong (Nxb Thanh niên, năm 2008). Đặc biệt trong tác
phẩm Gia lễ xưa và nay (Nxb Thanh niên, năm 2008), tác giả đã bàn rất sâu
sắc, tỉ mỉ về những lễ giáo trong đình như quan niệm, cách thức tiến hành
các nghi thức hôn nhân, tang lễ, thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó tác giả cũng
3
có những đề cập mang tính gợi mở đến chiều hướng phát triển của gia lễ
hiện nay. Nhìn chung, các công trình này thiên về nghiên cứu lễ giáo trong
gia đình truyền thống trong đó có rất nhiều phong tục, tập tục và cách thức
tiến hành những tập tục đó mà hiện nay người ta không còn lưu giữ hoặc
không phổ biến. Bởi những nghi lễ của các tập tục đó quá rườm rà trong khi
xu hướng ngày nay thường đơn giản hóa đi rất nhiều.
Các công trình của tác giả Trần Đăng Sinh như bài “Bàn về chữ Hiếu
trong gia đình truyền thống” đăng trên tạp chí giáo dục, số 197 năm 2008,
đã nêu rất cụ thể quan niệm đạo làm con được gắn liền với bổn phận làm
con là giữ trọn đạo Hiếu. Đồng thời bài báo cũng trình bày những nội dung
của đạo Hiếu như Hiếu mang ý nghĩa tôn kính tổ tông, Hiếu là thận chung
chi viễn, là kế chí thuật sự, là sinh con nối dõi tông đường. Trong bài “Sự
hình thành và tồn tại của đạo Hiếu trong gia đình truyền thống Việt Nam”
đăng trên tạp chí Giáo dục số 214 năm 2009, tác giả cũng đưa ra nhận định
sự tồn tại của cộng đồng gia đình, họ tộc, làng xã, nước là những cộng đồng
có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới quá trình tồn tại và phát triển đạo
Hiếu ở Việt Nam trong xã hội truyền thống thông qua các hình thức gia
huấn, hương ước, luật pháp. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là hình thức thể
hiện tập trung, có vai trò củng cố, duy trì sự tồn tại và phát triển của đạo
Hiếu trong gia đình truyền thống Việt Nam.
Tác giả Hà Thúc Minh với các công trình nghiên cứu như “Chữ Hiếu
trong tín ngưỡng phồn thực cổ xưa đến đạo đức văn minh hiện đại” là bài
trích trong Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4 năm 2005; “Đầu xuân bàn về
gia đình và chữ Hiếu” đăng trên tạp chí xưa và nay, số 301 - 302 năm 2008;
Bài trích đầu tiên trong tạp chí Xưa và nay số 330, tháng 4/2009 có nhan đề
“Gia đình và chữ hiếu”. Các công trình này đã luận giải nhiều vấn đề về
mối quan hệ giữa gia đình và hiếu đức của con cái trong gia đình và cả
những luận giải rất “trần tục” (từ dùng của tác giả) về chữ Hiếu. Hiếu đức
cũng là điểm gặp nhau của nhiều vĩ nhân phương Đông và phương Tây.
Đồng thời tác giả cũng khẳng định đạo Hiếu có vai trò quan trọng trong gia
4
đình của người phương Đông. Chữ Hiếu là tế bào của gia đình phương
Đông, gắn với sự “còn”, “mất” của gia đình phương Đông.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng có bài “Thờ cúng tổ tiên, biểu hiện của
lòng hiếu nghĩa” đăng trên tạp chí Xưa & nay, số 323 - 324, tháng 1/2009.
Tác giả cho rằng, chính bởi người đã khuất luôn sống trong kỷ niệm của
người sống nên việc thờ cúng tổ tiên của người Việt đã trở thành một tập tục
lâu đời hay là một loại hình luật tục mang tính quy ước truyền thống tồn tại
trong cộng đồng dân cư. Tuy chưa được quy định thành văn song việc thờ
cúng tổ tiên đã trở thành loại giáo lý có giá trị đạo đức xã hội làm nên nền
tảng của mọi loại hình giáo dục khác.
Một công trình mang tính học thuật cao của tác giả Trần Nguyên Việt
đăng trên tạp chí triết học số 254, tháng 7 năm 2012 là “Đạo Hiếu Việt Nam
qua cách nhìn lịch đại”. Đây là một công trình khảo cứu rất công phu của
tác giả về chữ Hiếu, đạo Hiếu của người Việt với những nét đặc thù riêng
theo suốt tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng dân tộc. Từ đó, tác giả cũng
rút ra những đặc điểm của đạo Hiếu ở Việt Nam. Đồng thời khẳng định,
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đạo Hiếu không chỉ là một trong những
thành tố quan trọng góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam mà còn đóng vai trò chủ đạo trong phạm vi quan hệ gia đình và là cơ
sở hình thành ý thức cộng đồng trong việc củng cố và phát triển các giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm nay.
Bàn về giá trị của đạo Hiếu truyền thống còn có“Đạo Hiếu trong Gia
huấn ca” của Nguyễn Thị Thọ, Thân Thị Hạnh đăng trên tạp chí triết học, số
251, tháng 4/2012. Gia huấn ca là cuốn sách viết về giáo dục gia đình. Đây là
một di sản văn hóa dân tộc kết tinh những kinh nghiệm ứng xử, tư tưởng giáo
dục của con người Việt Nam truyền thống, trong đó, hiếu là một nội dung cốt
lõi của gia huấn ca. Thông qua phân tích những nội dung căn bản của giáo
dục đạo Hiếu trong gia huấn ca đối với từng đối tượng nam, nữ, các tác giả đã
chỉ ra những giá trị tích cực của nó mà ngày nay, chúng ta có thể kế thừa.
Ngoài ra còn có bài trích của tác giả Nguyễn Thị Thọ đăng trên tạp
chí triết học số 10 năm 2014 với tiêu đề “Đạo Hiếu, một giá trị căn bản
5
trong đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt”. Trong bài viết này, tác
giả đã tập trung bàn đến phạm vi đầu tiên, căn bản của đạo lý uống nước
nhớ nguồn, đó là uống nước nhớ nguồn trong gia đình, là lòng kính trọng,
sự biết ơn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ được cô đúc trong phạm trù
Hiếu hay còn gọi là đạo Hiếu.
Thứ hai, nhóm những công trình bàn về giáo dục đạo Hiếu
Những công trình đề cập đến vấn đề đạo Hiếu và giáo dục đạo Hiếu,
tiêu biểu nhất có thể kể đến các công trình sau:
Tác giả Hạnh Hương với cuốn “Chữ Hiếu”, Nxb Tp Hồ Chí Minh,
2006 bàn về bổn phận và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, vấn đề
chữ Hiếu và lễ giáo giữa cha mẹ và con cái. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa
ra những phương pháp rèn luyện để trở thành người con hiếu thảo.
Cuốn “Hiếu hạnh xưa và nay” là tác phẩm của các tác giả Cao Văn
Cang, Phạm Côn Sơn (đề tựa, chỉnh lý), Nxb Văn hóa dân tộc, 2006. Trong
cuốn sách này, tác giả đã đưa ra khái niệm chung về Hiếu hạnh, đặc biệt rút
ra những bài học quả báo về sự xử tệ bạc đãi của con cái với cha mẹ, ông bà.
Những gương về những người con hiếu thảo; quan niệm đạo Hiếu xưa của
dân tộc Việt Nam và những việc cần thiết để giáo dục thế hệ trẻ ngày nay.
Trình bày một cách hệ thống và đầy đủ về đạo Hiếu trong gia đình Việt
Nam phải kể đến công trình báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học và
công nghệ cấp bộ “Đạo Hiếu và vấn đề giáo dục đạo Hiếu trong gia đình Việt
Nam hiện nay” do tác giả Trần Đăng Sinh chủ trì (năm 2009). Trong công
trình này, nhóm tác giả đã tập trung phân tích những giá trị của đạo Hiếu trong
gia đình truyền thống Việt Nam, đồng thời phân tích những tác động của thời
đại ngày nay làm suy giảm giá trị của đạo Hiếu cũng như đưa ra những giải
pháp nhằm giáo dục đạo Hiếu trong gia đình Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra còn có các công trình khác bàn đến vấn đề đạo Hiếu và giáo
dục đạo Hiếu trong gia đình Việt Nam hiện nay hoặc là gợi lên tính cấp thiết
của việc giáo dục đạo Hiếu như:
Tác giả Lê Văn Hùng với “Sự biến đổi của đạo Hiếu trong gia đình
Việt Nam hiện nay” đăng trên tạp chí Giáo dục lý luận, số 1 năm 2013. Trong
bài trích này, tác giả đã khẳng định đạo Hiếu được coi là một trong những
6
nguyên tắc làm người của xã hội Việt Nam truyền thống và là cốt cách của
con người. Tuy có một số nội dung cần điều chỉnh lại cho phù hợp với yêu
cầu của thời đại mới song về cơ bản đạo Hiếu vẫn được coi là chuẩn mực đạo
đức tốt đẹp cần tiếp tục được kế thừa và phát huy trong xây dựng đạo đức gia
đình ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, đạo Hiếu ở Việt Nam hiện nay đang bị
biến dạng bởi ảnh hưởng của tồn tại xã hội. Đó là sự phát triển kinh tế thị
trường và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với sự du nhập của
văn hóa phương Tây. Với tầm quan trọng của đạo Hiếu thì đây là tiếng
chuông cảnh báo của sự phát triển bền vững ở nước ta trong tương lai.
Tác giả Nguyễn Tài Thư với “Chữ Hiếu và việc xây dựng đạo Hiếu
trong xã hội ta ngày nay” trên tạp chí Triết học số 8-2013. Trong công trình
này, tác giả khẳng định đạo Hiếu là một phạm trù đạo đức nên khi nền kinh
tế biến đổi thì nội dung của đạo Hiếu cũng biến đổi theo; tác giả cũng đưa ra
những đặc trưng của đạo Hiếu ngày nay với một số tình huống cụ thể của
thực tiễn. đặc trưng của người con hiếu thảo ngày nay là biết khắc phục khó
khăn của bản thân cố gắng làm tốt nghĩa vụ chăm sóc bố mẹ, ông bà. Theo
tác giả, khó khăn đối với người con hiện đại ngày nay là không hề ít. Vì
vậy, để giữ trọn đạo Hiếu đối với con người hiện đại ngày nay vẫn còn là
thách thức, đòi hỏi phải nỗ lực vượt qua.
Tác giả Hoàng Thúc Lân với các công trình: “Đạo Hiếu trong gia đình
Việt Nam hiện nay” đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (83)
năm 2014. Trong công trình này, tác giả đã đưa ra khái niệm về đạo Hiếu đó
là những chuẩn mực đạo đức văn hóa ứng xử của con cháu đối với cha mẹ.
Tác giả cũng cho rằng đạo Hiếu là gốc rễ của đạo làm người. Tuy nhiên trong
nền kinh tế thị trường hiện nay, đạo Hiếu đang có nguy cơ bị xói mòn. Vì
vậy, cần thiết phải tăng cường giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo
Hiếu nói riêng cho mọi người, trước hết là cho thanh thiếu niên. Trong bài
viết “Từ đạo Hiếu trong Phật giáo suy nghĩ về đạo Hiếu trong gia đình Việt
Nam hiện nay” đăng trên tạp chí triết học số 3 năm 2015, tác giả đã phân tích
và nhận định đạo Hiếu là gốc rễ của đạo làm người, của cái thiện nên nó được
7
người Việt Nam coi trọng. Bài viết cũng góp thêm cái nhìn mới về vai trò của
đạo Hiếu đối với xã hội Việt Nam hiện nay. Thông qua việc phân tích bản
chất của đạo Hiếu trong quan niệm Phật giáo, tác giả đã bước đầu chỉ ra
những biểu hiện vi phạm đạo Hiếu và đề xuất một số giải pháp cơ bản khắc
phục những biểu hiện bất hiếu trong gia đình Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, nhóm những công trình bàn về vấn đề giáo dục đạo đức
trong gia đình ở Nam Định
Bàn về vấn đề giáo dục đạo đức nói chung ở Nam Định cũng đã có
một số cuốn sách, công trình nghiên cứu bàn đến. Tuy nhiên vấn đề này chỉ
được đề cập trong một mục nhỏ của công trình đó chứ chưa có nghiên cứu
trọng tâm. Chẳng hạn như trong “Xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn
hóa mới ở thành phố Nam Định” của ủy ban nhân dân thành phố Nam định,
năm 1980. Ở đây đã có đề cập đến phương hướng, mục tiêu xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa mới. Đồng thời cũng đưa ra những quan
điểm cụ thể về nếp sống mới của cá nhân, gia đình, xã hội, nơi công cộng.
Tuy nhiên vấn đề đạo Hiếu chỉ được nhắc đến một cách chung chung qua
những quan điểm của nếp sống mới, chủ trương về xây dựng gia đình văn
hóa nói chung. Mặt khác, tài liệu này được viết từ năm 1980, với điều kiện
kinh tế, xã hội khác quá nhiều so với hiện nay. Vì vậy có đôi chỗ không còn
phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Các công trình: “Văn hóa dòng họ một mảng văn hóa dân gian quan
trọng” của thư viện tỉnh Nam Định (1996). Cuốn Phủ Dầy và tín ngưỡng
thờ mẫu Liễu Hạnh (Nxb Văn hóa dân tộc, 2004) của tác giả Bùi Văn Tam.
Cuốn “Nam Định đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc” ( Nxb: Sở văn hóa
thông tin Nam Định, 2007) là những công trình bàn rất nhiều đến văn hóa
truyền thống của người thành Nam xưa (ngày nay là Nam Định) như về lối
sống, tư tưởng, phong tục, tập quán, tín ngưỡng v.v.... Song trong các công
trình này, đạo Hiếu chỉ được điểm qua trong các bài viết khi nhắc đến phong
tục, truyền thống, gia phong trong gia đình chứ chưa có một bài viết riêng
nào về đạo Hiếu.
8
Trong cuốn “Tục ngữ, ca dao Nam Định” của tác giả Trần Đặng Ngọc
Nxb Đại học quốc gia, năm 2011, cũng có bàn về đạo Hiếu thông qua các câu
ca dao về quan hệ gia đình ở Nam Định. Song công trình này chỉ mang tính liệt
kê các câu ca dao, tục ngữ ở Nam Định nói chung, trong đó có các câu ca dao,
tục ngữ viết về quan hệ gia đình hay nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ.
Năm 2013, Nam Định kỷ niệm 750 năm Thiên Trường - Nam Định
với rất nhiều những hoạt động sôi nổi. Trong đó, các công trình nghiên cứu
viết về Thiên Trường xưa, Nam Định nay cũng được chú ý sưu tập, tuyển
chọn trưng bày. Tiêu biểu như: “Thành Nam địa danh và giai thoại” của
thành ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định viết năm
2012. “Văn hiến Nam Định, khảo cứu, biên luận” của nhóm tác giả Bùi Văn
Tam, Đào Đình Tửu, Trần Xuân Mậu, Đỗ Đình Thọ, biên soạn năm 2013.
Đây là một công trình biên soạn công phu với gần năm mươi chuyên khảo
viết về Nam Định dưới các góc độ: địa chí, nhân vật chí, di tích, lễ hội,
phong tục tập quán, di cảo Hán Nôm, các tác giả hiện đại qua thơ văn, giai
thoại. Tuy nhiên, đạo Hiếu chỉ được nhắc đến trong các bài viết về phong
tục thờ cúng tổ tiên, hay các bài viết về văn hóa dòng họ.
“Đạo làm người trong hoành phi câu đối ở Nam Định” là khóa luận
tốt nghiệp đại học của tác giả Trần Thị Thơm, năm 2013. Ở đây, tác giả đã
có những khảo sát thực tiễn những bức hoành phi câu đối tại các từ đường
dòng họ, các chùa, đền miếu thuộc ba dòng họ lớn ở Nam Định để chắt lọc
những tinh túy trong quan niệm về đạo làm người mà các vị tiên tổ trên đất
này đã dạy con cháu của họ. Đạo Hiếu cũng là một trong những nội dung
của đạo làm người trong hoành phi câu đối ở Nam Định được tác giả bàn
đến trong mục “2.2.2. Quan niệm về Hiếu trong hoành phi câu đối ở tỉnh
Nam Định”. Mặc dù mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê một số hoành phi câu
đối của ba dòng họ lớn ở Nam Định, song những tư liệu của công trình này
cũng là một cơ sở để chúng tôi khảo sát nội dung đạo Hiếu trong gia đình
truyền thống ở Nam Định thông qua hệ thống hoành phi câu đối. Đây vốn là
lối chơi chữ rất tinh tế của người xưa.
9
Có thể nói, cho đến nay bàn về đạo Hiếu và giáo dục đạo Hiếu ở Việt
Nam nói chung đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các sách chuyên
khảo. Song, bàn về vấn đề đạo Hiếu ở tỉnh Nam Định thì chưa có một công
trình nghiên cứu hệ thống nào. Đặc biệt, đánh giá và nhìn nhận xu hướng
biến đổi của đạo Hiếu hiện nay theo quan điểm của triết học duy vật biện
chứng. Những công trình nghiên cứu trước đây sẽ là những tài liệu tham
khảo rất hữu ích giúp tôi hoàn thiện đề tài luận văn: “Xu hướng vận động
của đạo Hiếu trong gia đình ở Nam Định hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Một là, làm rõ khái niệm, nội hàm của Hiếu đạo trong gia đình Việt
Nam nói chung và trong gia đình ở Nam Định nói riêng.
Hai là, khảo sát xu hướng vận động của đạo Hiếu trong các gia đình ở
Nam Định hiện nay dưới tác động của thời đại (nền kinh tế thị trường và hội
nhập sâu rộng).
Hai là, trên cơ sở khảo sát những biến đổi của đạo Hiếu trong gia đình
Việt Nam hiện nay qua thực tiễn ở Nam Định, luận văn đưa ra những giải pháp
định hướng cho việc giáo dục đạo Hiếu trong gia đình ở Nam Định hiện nay.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung đạo Hiếu và xu hướng vận
động của đạo Hiếu trong gia đình ở tỉnh Nam Định hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn thực hiện nghiên cứu vấn đề đạo Hiếu trong gia đình nông
thôn, đô thị ở tỉnh Nam Định hiện nay.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
4.1. Những luận điểm cơ bản
Từ mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn tập trung chủ
yếu vào một số luận điểm cơ bản sau:
Một là, đạo Hiếu là một giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp cần gìn
giữ và phát huy.
Hai là, xu hướng vận động của đạo Hiếu trong gia đình ở Nam Định
là một tất yếu khách quan.
10
Ba là, thực hiện tốt hệ thống các giải pháp nhằm định hướng giáo dục
đạo hiếu trong gia đình ở Nam Định, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn
truyền thống văn hóa tốt đẹp.
4.2. Đóng góp mới của luận văn
Đóng góp mới của luận văn là đánh giá thực trạng và xu hướng vận
động của đạo Hiếu trong gia đình ở Nam Định hiện nay. Đồng thời đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo Hiếu trong gia
đình ở Nam Định hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
việc giảng dạy, học tập các môn học đạo đức; nghiên cứu vấn đề đạo Hiếu
trong gia đình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng
hợp, logic, lịch sử, khái quát hóa, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học,…
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 2 chương, 5 tiết.
11
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO HIẾU
TRONG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Gia đình và cơ sở hình thành đạo Hiếu trong gia đình ở Việt Nam
1.1.1. Gia đình và các hình thức gia đình
1.1.1.1. Gia đình
- Khái niệm gia đình
Trong mỗi người chúng ta, từ trẻ thơ đến những cụ già thì gia đình là
một danh từ quen thuộc và rất gần gũi, thân thương. Gia đình được sử dụng
với tất cả tấm lòng trân trọng nhất và ẩn sâu trong đó một tình cảm thiêng
liêng. Gia đình là tổ ấm mang lại hạnh phúc, là bến bờ bình yên của mỗi
người khi đi xa. Ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều tác giả, nhiều công trình
nghiên cứu bàn đến các vấn đề liên quan đến gia đình, nhiều tác giả định
nghĩa về gia đình. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong
việc tìm ra một định nghĩa chung về gia đình. Theo PGS. TS Lê Ngọc Văn
trong công trình “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” trang 33, cho
rằng việc tìm một định nghĩa chuẩn xác về gia đình chỉ là một tham vọng.
Ông lý giải khó khăn trong việc xác định một khái niệm thống nhất về gia
đình do ba nguyên nhân. Thứ nhất, gia đình là nơi sinh ra và lớn lên của mỗi
người, cho nên nó rất gần gũi và thân thuộc. Người ta có thể hình dung về
gia đình khi nhắc đến nó nhưng lại rất mơ hồ khi đưa ra những tiêu chí để
nhận diện gia đình. Thứ hai, gia đình là một nhóm xã hội đặc thù trong đó
hội tụ tất cả các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa và cả kinh tế. Thứ ba, gia
đình luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của xã hội, của nền văn hóa mà gia
đình tồn tại trong đó. Những kiểu gia đình ở thời kỳ lịch sử xã hội sau so
với thời kỳ trước có sự khác biệt về bản chất của nó. Mặt khác, “ở hầu hết
các nền văn hóa, gia đình được coi là giá trị nền tảng” [75; 8] và “sức mạnh
trường tồn của một quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và
phát triển của gia đình” [75; 7]. Như vậy, gia đình là một môi trường quen
thuộc với hầu hết mọi người. Đó là lĩnh vực mà ai cũng có thể tham gia với
12
tư cách là người trong cuộc. Mặt khác, đây cũng là lĩnh vực tinh tế, phong
phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn và cả những biến động.
Khi bàn về định nghĩa gia đình, cho đến nay có nhiều quan niệm khác
nhau. Chẳng hạn như trong Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa “Gia đình là
đơn vị tế bào của xã hội, gồm những người có quan hệ hôn nhân và huyết
thống sống chung trong cùng một nhà” [86; 611]. Theo cách định nghĩa
này, các chức năng sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế của gia đình chưa
được nhắc đến. Mặt khác, gia đình không chỉ có ảnh hưởng đến sự phát
triển của xã hội mà còn có vai trò quan trọng đối với quá trình hình thành
nhân cách của mỗi cá nhân.
Theo tác giả Phạm Việt Long trong cuốn Tục ngữ, ca dao về quan hệ
gia đình thì “Gia đình là một thực thể vừa mang tính tự nhiên, vừa mang
tính xã hội, gắn bó với nhau thông qua quan hệ hôn nhân, thân tình và dòng
máu để đáp ứng nhu cầu về tình cảm, bảo tồn nòi giống, giữ gìn và phát
huy những giá trị văn hóa của cộng đồng và tộc người, góp phần nuôi
dưỡng nhân cách con người, phát triển kinh tế - xã hội, phản ánh sự vận
động của cộng đồng và quốc gia trong tiến trình lịch sử” [40; 31]. Cách
định nghĩa này của tác giả thể hiện được các chức năng của gia đình trong
đó. Tuy nhiên, định nghĩa này của tác giả là một câu ghép tương đối dài.
Các tác giả Nguyễn Thị Phương Thủy và Nguyễn Thị Thọ trong công
trình “Gia đình và giáo dục gia đình” định nghĩa “Gia đình là một thiết chế
xã hội cơ bản, là tế bào cấu thành xã hội, là hình thức tổ chức quan trọng
nhất của đời sống cá nhân, dựa trên quan hệ hôn nhân và các quan hệ huyết
thống, tức là quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị
em và những người thân thuộc khác” [75; tr 14]. Định nghĩa này đã nhìn
nhận trên bình diện triết học nên tương đối bao quát các đặc trưng cơ bản của
gia đình. Thực tiễn hiện nay xuất hiện thêm nhiều loại hình gia đình. Chẳng
hạn như gia đình không có hôn thú, gia đình khuyết, kết hôn lại v.v… hiện
nay cũng xuất hiện một số cá nhân sống độc thân và có xin con về nuôi nấng,
dưỡng dục. Loại hình gia đình này vẫn có đảm bảo các đặc trưng của một gia
đình song không hình thành dựa trên quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân.
13
Theo giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng trong các trường
đại học, cao đẳng) của Bộ giáo dục và đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội năm 2006, trang 246 thì “Gia đình là một trong những hình thức tổ
chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn
hóa-xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục,…
giữa các thành viên”.
Từ những luận chứng trên, theo chúng tôi, định nghĩa về gia đình
trong giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học nêu trên vừa đảm bảo những đặc
trưng cơ bản của gia đình vừa bao quát được các loại hình gia đình hiện nay.
Vì vậy, chúng tôi chọn định nghĩa này làm cơ sở để luận chứng, khảo sát
những vấn đề liên quan của luận văn.
- Những chức năng của gia đình
Một trong những vấn đề quan trọng khi nghiên cứu về gia đình là vấn
đề chức năng của gia đình, tức là “cách thức cơ bản để thỏa mãn những nhu
cầu sống, sinh hoạt và phát triển của gia đình trong quan hệ với xã hội” [75;
37]. Là một thiết chế xã hội, cho nên chức năng của gia đình cũng bị quy
định bởi những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng trong những thời
kỳ lịch sử nhất định. Thậm chí những đặc trưng của chức năng gia đình qua
những thời kỳ khác nhau cũng có những sự khác nhau. Song về cơ bản, ở
mọi thời đại và mọi loại hình gia đình, chức năng của gia đình vẫn mang
những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, chức năng tái sản xuất ra con người. Gia đình bắt đầu được
hình thành khi có sự kết hợp giữa người nam và người nữ thông qua quan hệ
hôn nhân. Từ đó, gia đình thực hiện chức năng sinh đẻ, tái sản xuất ra con
người. Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và
riêng có của gia đình. Hoạt động sinh con đẻ cái của con người một mặt để
đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của xã hội. Đây là một kiến tạo sự sống
đảm bảo sự trường tồn của nòi giống theo quy luật. Một mặt để đáp ứng
chính nhu cầu về tâm sinh lý, tình cảm của những thành viên trong gia đình.
Hoạt động sinh con, đẻ cái của con người như một nhiệm vụ thiêng liêng và
cao cả của tạo hóa song cũng đầy gian nan, thử thách bởi trong đó bao hàm cả
14
việc giáo dục và nuôi dưỡng con cái của cha mẹ. Việc sinh nhiều con mà
không có khả năng chu toàn việc giáo dục và nuôi dưỡng con cái của cha mẹ
sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến trình độ dân trí, trình độ phát triển kinh tế của
xã hội nói chung. Vì vậy, hoạt động sinh con không chỉ là việc riêng của mỗi
gia đình mà còn là nội dung quan trọng của mỗi quốc gia và toàn nhân loại.
Hai là, chức năng kinh tế. Chức năng này đảm bảo các nhu cầu sinh
hoạt của mỗi thành viên trong gia đình hay là mỗi cá nhân trong xã hội. Sản
xuất ra của cải vật chất là một trong hai loại sản xuất quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Việc tạo ra của cải là cơ sở vật chất để
duy trì hạnh phúc trong gia đình. Ở mọi thời đại, gia đình đều được coi là đơn
vị kinh tế sản xuất và tiêu dùng trong xã hội theo những mức độ khác nhau.
Gia đình là điểm xuất phát và đồng thời cũng là trở về của mọi chính sách xã
hội. Tuy nhiên, việc lạm dụng chức năng này cũng gây những hậu quả đáng
tiếc đến hạnh phúc gia đình. Thực tiễn cho thấy nhiều gia đình, bố mẹ mải mê
việc kiếm tiền, làm giàu mà thiếu đi thời gian chăm sóc, nuôi dạy con cái,
khiến chúng sa ngã vào các tệ nạn xã hội. Hạnh phúc gia đình là động lực của
phát triển kinh tế và đồng thời cũng phải là mục tiêu của phát triển kinh tế.
Ba là, chức năng tổ chức đời sống gia đình. Tổ chức đời sống gia
đình bao gồm cả hai lĩnh vực đó là đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình. Gia đình được tổ chức tốt là
điều kiện quan trọng để mỗi thành viên trong gia đình yên tâm làm tốt công
việc của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Chính vì vậy, gia đình được ví
như một tế bào xã hội. Bởi đây là một nhóm xã hội cơ sở, góp phần kiến tạo
nên một xã hội rộng lớn. Sự trường tồn của một quốc gia, dân tộc cũng phụ
thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình.
Bốn là, chức năng giáo dục. Gia đình có nhiều chức năng, trong đó
chức năng giáo dục là một chức năng vô cùng quan trọng. Bởi vì gia đình là
cầu nối giữa cá nhân với xã hội, là trường học đầu tiên giáo dục, bồi dưỡng
nhân cách cho đứa trẻ ngay khi chúng có khả năng nhận thức. Những giá trị
tinh thần truyền thống trong gia đình một cách tự nhiên có ảnh hưởng, chi
15
phối sâu sắc đến cả cuộc đời mỗi con người. Mặc dù nhân cách của mỗi
người được hình thành trong suốt cả cuộc đời con người. Tức là không chỉ
gia đình mà nhà trường hay các thiết chế xã hội khác cũng có chức năng
giáo dục con người. Giáo dục ở nhà trường và giáo dục xã hội ngày càng
đóng vai trò quan trọng đối với mỗi cá nhân trong thời đại ngày nay, song
dù giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào thì
giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố quan trọng của nền giáo dục
xã hội nói chung. Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả
giáo dục tri thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục
nhân cách, thẩm mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình
cũng rất đa dạng như nêu gương, thuyết phục. Nhân cách của đứa trẻ chịu
ảnh hưởng lớn và sâu sắc bởi tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của từng
gia đình. Mặt khác, chủ thể giáo dục trong gia đình chính là ông bà, cha mẹ.
Đây là những người gần gũi thường xuyên và có tình cảm cũng như trách
nhiệm cao nhất đối với sự phát triển nhân cách của con cái. Nói chung, giáo
dục của gia đình không chỉ có ảnh hưởng đầu tiên đến nhân cách con người
mà còn bổ xung, hoàn thiện thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Giáo
dục gia đình được coi là môi trường giáo dục đầu tiên, lâu dài, thường
xuyên, liên tục và cho đến nay chưa có thiết chế nào thay đổi được.
Năm là, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý tình cảm giữa các
thành viên trong gia đình. Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc
chia sẻ tình yêu thương gắn bó của mọi người trong gia đình. Chức năng này
vừa là điểm xuất phát và đồng thời là điểm tựa của mỗi thành viên trong gia
đình trước những rủi ro hoặc may mắn, những buồn vui của cuộc đời. Song
đây cũng là vấn đề nhạy cảm. Gia đình là nơi che chở, chia sẻ buồn vui, là
chốn bình yên, là nơi trở về của mỗi người nhưng đồng thời cũng thường là
nơi phát xuất những buồn, vui phức tạp. Người Việt thường nói “tư tưởng
không thông vác bình tông không nổi” chính để nói về những lúc có chuyện
buồn phiền trong gia đình. Nói chung, gia đình chi phối rất nhiều trong đời
sống mỗi cá nhân. Chính vì vậy mà đòi hỏi mỗi thành viên trong gia đình đều
16
cố gắng và sống có trách nhiệm với chính gia đình của mình. Điều đó thực sự
cần thiết đặc biệt là trong xã hội đầy biến động và phức tạp hiện nay.
Có thể thấy, gia đình là một thiết chế đa chức năng. Cơ sở của sự tồn
tại, phát triển của gia đình nói riêng và tiến bộ xã hội nói chung về cơ bản
cũng chính thông qua việc thực hiện những chức năng này.
1.1.1.2. Các hình thức gia đình ở Việt Nam
Hiện nay có nhiều cách phân chia các loại hình gia đình khác nhau
tùy thuộc vào các tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào quy mô của gia đình có thể chia thành gia đình hạt nhân và
gia đình mở rộng. Gia đình hạt nhân là đơn vị gia đình nhỏ nhất chỉ bao gồm
một cặp vợ chồng và con cái chưa kết hôn. Gia đình này có hai thế hệ là thế
hệ cha mẹ và thế hệ con cái, vì vậy trong hình thái gia đình này có những mối
quan hệ cơ bản như quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ và con cái. Đối với
những gia đình có hai con trở lên thì có thêm mối quan hệ anh, chị em với
nhau. Gia đình hạt nhân cũng có biến thể. Chẳng hạn như gia đình cha (hoặc
mẹ) đơn thân và con cái. Gia đình mở rộng là những đơn vị gia đình lớn hơn
gia đình hạt nhân về số lượng các thế hệ sống chung với nhau. Gia đình mở
rộng có thể có ba, bốn, năm thế hệ (Tam, tứ, ngũ đại đồng đường). Loại hình
gia đình này có nhiều ưu thế hơn so với gia đình hạt nhân về vấn đề nhân lực
song cũng thường xuyên có những mẫu thuẫn do các thế hệ trong gia đình
mở rộng có sự chênh lệch lớn về tuổi tác, đặc điểm tâm sinh lý.
Ở Việt Nam hiện nay, gia đình mở rộng tồn tại ít hơn so với gia đình
hạt nhân. Đặc biệt là ở các thành phố, các khu công nghiệp mới thường rất ít
những gia đình tứ, ngũ đại đồng đường mà phổ biến là các gia đình hạt nhân.
Điều này một phần do khu vực này tập trung nhiều những cặp vợ chồng trẻ từ
khắp nơi đến sinh sống, lập nghiệp; một phần do các cặp vợ chồng trẻ có xu
hướng thích một không gian sống riêng, tự do và thoải mái hơn.
Dựa trên việc xác định dòng dõi theo cha hay theo mẹ, có gia đình
đơn hệ và gia đình lưỡng hệ. Gia đình đơn hệ là gia đình mà chỉ có một
trong hai bố mẹ đẻ thuộc cùng một nhóm dòng dõi với con cái. Trong loại
hình gia đình này cũng có hai biến thể là gia đình phụ hệ (con cái sinh ra
17
được tính là dòng dõi của người bố) và gia đình mẫu hệ (con cái sinh ra
được tính là dòng dõi của người mẹ). Gia đình lưỡng hệ là gia đình mà con
cái được tính theo dòng dõi của cả bố và mẹ. Loại hình gia đình này đang
phổ biến ở Việt Nam hiện nay.
Căn cứ vào người nắm quyền lực trong gia đình có gia đình phụ quyền và
gia đình mẫu quyền. Gia đình phụ quyền là hình thức gia đình mà quyền lực,
tiếng nói cao nhất trong nhà thuộc về người cha hay người đàn ông nhiều tuổi
nhất. Ngược lại, gia đình mẫu quyền là hình thức gia đình mà quyền lực, tiếng
nói cao nhất trong nhà thuộc về người cha hay người phụ nữ nhiều tuổi nhất.
1.1.2. Cơ sở hình thành đạo Hiếu trong gia đình ở Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm Hiếu, đạo Hiếu
- Khái niệm Hiếu
Trong gia đình Việt Nam, dù là một gia đình có văn hóa truyền thống
hay theo văn hóa mới ngày nay đều coi hiếu hạnh vừa là đức tính vừa là
nhân cách con người. Hiếu hạnh là căn bản của giáo dục truyền thống, là cội
nguồn của đạo lý, là cơ sở vững chắc của gia đình. Hiếu không chỉ được tôn
trọng, đề cao mà còn mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Theo chữ Hán, chữ Hiếu (孝 ) được cấu tạo từ chữ Khảo - cha (老 ) ở
trên (lược bớt phần dưới) và chữ Tử - con ( 子 ). Theo đó, Hiếu tức là mối
quan hệ cha trên, con dưới. Suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu với cha
mẹ, ông bà, tổ tiên.
Trong bài trích Gia đình và chữ Hiếu đăng trên tạp chí Xưa & nay,
tác giả Hà Thúc Minh đã có đoạn viết rằng: “Bản thân chữ “Hiếu” cũng có
cả một pho lịch sử của nó. Chu Dự Đồng gần nửa thế kỷ nghiên cứu kết cấu
chữ “Hiếu” cổ đại, phát hiện chữ “Hiếu” là tượng trưng cho quan hệ phồn
thực cổ xưa. Đó là hình tượng quan hệ nam nữ ở bên trên và kết quả của nó
là “quý tử” bên dưới” [44; 7]. Quan niệm “trần tục” (từ dùng của tác giả) đó
không phải không có lý. Bởi theo tác giả ý thức huyết thống là cơ sở hình
thành của chữ Hiếu và nó cũng quy định mức độ “đậm nhạt” của tình
thương. Theo đó thì rõ ràng, quan hệ cha mẹ và con cái là quan hệ huyết
thống gần gũi nhất. Như thế, đương nhiên tình thương của cha mẹ dành cho
con cái là tình thương “gốc” của mọi tình thương. Bởi thế nên lễ giáo xưa
18
quy định Hiếu là quan niệm ứng xử một chiều, đó là chiều từ dưới lên chứ
không phải từ trên xuống. Vì vậy, Hiếu là tình thương và nghĩa vụ của con
cái đối với cha mẹ [44; 8].
Theo đại từ điển Tiếng Việt, Hiếu khi là một danh từ thì nó có hai
nghĩa. Nghĩa thứ nhất, Hiếu là lòng biết ơn cha mẹ [86; 701]. Nghĩa thứ hai
là lễ tang cha mẹ, cũng chỉ lễ tang nói chung [86; 701]. Còn khi là tính từ,
Hiếu tức là có lòng kính yêu, hết lòng chăm sóc cha mẹ [86; 701]. Như vậy,
Hiếu ở đây không chỉ thể hiện tấm lòng tri ân đối với cha mẹ, và những
người hàng trên (bậc trên) trong gia đình khi còn sống và cả sau khi đã qua
đời. Tức là lo việc an táng khi mất và hương hỏa sau này (việc tôn kính, thờ
cúng tổ tiên). Như vậy, chữ Hiếu không chỉ được thể hiện ở thái độ (yêu
kính) mà còn cả ở hành vi của con cái. Người Việt thường dùng chữ Hiếu đi
kèm với một số từ khác thành những cụm từ có nghĩa tương đồng như: Hiếu
dưỡng là chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ chu đáo, trọn lòng hiếu thảo [86;
701]. Hiếu đễ là có lòng kính trọng cha mẹ và hòa thuận với anh chị em
trong gia đình [86; 701]. Hiếu hạnh giống như hiếu thảo là có lòng kính yêu
chăm lo cho cha mẹ [86; 702]. Hiếu kính là có lòng kính trọng cha mẹ [86;
701]. Hiếu Nghĩa là có hiếu và có tình nghĩa [86; 702]. Hiếu thuận là có
hiếu với cha mẹ và hòa thuận với anh chị em trong nhà [86; 702]. Có thể
thấy rằng, Hiếu trong tiếng Việt được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau
song tựu trung lại đều là lòng kính yêu, biết ơn, vâng lời cha mẹ. Điều này
khẳng định chắc chắn rằng, trong tâm thức người Việt, chữ Hiếu vô cùng
quan trọng. Nó đã đi vào đời sống, vào trong tiềm thức mỗi người, trở thành
nết đứng đầu trăm nết.
Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục đã cho rằng “Hiếu là kính
trọng thương mến cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ, biết phụng dưỡng cha mẹ”
[4; 23]. Ông cũng khẳng định, người xưa lấy hiếu với cha mẹ là mối luân
thường rất lớn, làm đầu trăm nết hay của con người. Chính vì vậy mà người
ta cũng hay lấy những câu chuyện trong Nhị thập tứ hiếu làm những tấm
gương để kể, truyền tụng cho con cháu, lấy đó làm phương châm cho đạo làm
19
con. Còn về cách phụng dưỡng với cha mẹ người con nào có điều kiện thì của
ngon vật lạ, cơm dâng, nước tiến. Người con nào nhà nghèo cũng biết lưng
cơm lành, bát canh ngon để phụng dưỡng cha mẹ. Hoặc ở xa xôi cách biệt đôi
khi gởi đồng quà, tấm bánh về dâng cha mẹ. Và ông kết luận rằng, nếu hiếu
vẫn là nết đứng đầu trong luân lý của người ta, nếu cha mẹ là người rất thân
mà cư xử đã chẳng ra gì thì ra xã hội còn tử tế với ai được nữa [4; 23].
Hiếu kính với cha mẹ - người đã có công sinh thành, dưỡng dục giúp ta
nên người là bổn phận của người làm con. Công lao ấy ví tựa núi Thái Sơn;
tinh khiết, sâu thẳm như suối nguồn vô tận. Công cha như núi Thái Sơn/
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho
tròn chữ Hiếu mới là đạo con. Hiếu quý ở lòng thành và sự kính trọng nên
hiếu trước hết phải là sự hiếu kính. Nó thể hiện ra ở sự biết ơn, hết lòng chăm
sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu và khi mất thì lo tang ma, thờ cúng chu
đáo. Như thế không có nghĩa là báo hiếu cha mẹ khi họ qua đời bằng mâm
cao, cỗ đầy, bằng phung phí xa hoa. Điều quan trọng thể hiện đạo Hiếu ở đây
chính là sự thương xót, đau buồn khi mất đi người cha, người mẹ.
Tóm lại, Hiếu được bắt nguồn từ tấm lòng tri ân của con cái đối với
công lao sinh thành, dưỡng dục trời bể của mẹ cha. Nó được thể hiện ra ở sự
kính trọng, vâng lời, phụng dưỡng, chăm sóc ông bà cha mẹ khi còn sống,
thờ cúng chu đáo khi chết và biết nỗ lực vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm
vẻ vang gia đình, dòng họ.
- Khái niệm đạo Hiếu
Từ xưa đến nay, chữ Hiếu được dạy rất nhiều trong các nền văn hóa
phương Đông cũng như phương Tây. Đối với người Việt, Hiếu có vai trò rất
quan trọng và được coi là nền tảng của đạo đức con người, là gốc rễ của đạo
làm người. Do đó mà Hiếu được nâng lên thành Đạo Hiếu. “Đạo” ở đây có
nghĩa là phép tắc đối xử trong xã hội, ai cũng phải biết và phải tuân thủ [86;
479]. Đạo Hiếu chính là đạo làm con của người Việt Nam, là nguyên tắc mà
con người có bổn phận giữ gìn và tuân theo trong cuộc sống. Tất nhiên nó phải
là tình cảm xuất phát trong tư tưởng, suy nghĩ, biểu hiện qua hành động đối với
các bậc sinh thành. Người Việt vô cùng trọng chữ Hiếu nên cũng thường gọi là
20
đức Hiếu (đức tính của con người). Đức Hiếu đó có tính phổ quát như một
chân lý sống, một lẽ sống cao đẹp ở đời nên mặc nhiên gọi là đạo Hiếu.
Như vậy, trong công trình này, chúng tôi quan niệm Đạo Hiếu là
những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc trong văn hóa ứng xử của
con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Hiếu là một phạm trù đạo đức, thuộc ý thức xã hội nên nó bị quy định
bởi tồn tại xã hội. Bởi vậy, những chuẩn mực, nguyên tắc ứng xử của con
cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên mỗi thời cũng có những khác nhau nhất
định. Chẳng hạn, thời Phong Kiến ở Việt Nam, sinh con trai nối dõi tông
đường là một trong những nội dung của đạo Hiếu đối với người con trai
trong gia đình. Không có con trai nối dõi tông đường cũng được coi như bất
hiếu với cha mẹ, với dòng tộc. Ngày nay thì quan niệm đó không phải là
một chuẩn mực của đạo Hiếu.
Quan niệm về Hiếu ở phương Đông và phương Tây cũng có những
điểm khác nhau do sự khác nhau về đặc điểm văn hóa. Nếu ở phương Tây
con người cá nhân, ý thức cá nhân được đề cao thì ở phương Đông con
người cá nhân phải trở nên bé nhỏ, mờ nhạt đi trong cái chung. Kết cấu của
xã hội phương Tây là cá nhân-xã hội. Còn phương Đông do ý thức về huyết
thống rất bền chặt nên kết cấu xã hội là cá nhân-gia đình-họ hàng-làngnước. Gia đình theo cách nhìn của phương Tây là một đơn vị sản xuất, là gia
đình “kinh tế”. Người Việt Nam có câu “một trăm cái lý không bằng một tý
cái tình”. Thể chế chính trị ở phương Đông luật pháp còn gắn theo cả đạo
đức. Còn ở phương tây thì “pháp luật là đạo đức không có tình cảm”
(Platon, người Hy Lạp-La Mã cổ đại). Thậm chí có tư tưởng chính trị chủ
trương lấy Đức trị dân. Vậy nên, chữ Hiếu ở phương Đông nghiêng nhiều
theo tình cảm hơn là kinh tế, của cải vật chất.
1.1.2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành đạo Hiếu trong
gia đình ở Việt Nam
Có thể nói, Hiếu hạnh được coi là nội dung căn bản của giáo dục
truyền thống trong gia đình Việt Nam. Không một gia đình Việt Nam nào
thờ ơ trong việc giáo huấn, khuyến khích con cháu ăn ở phải lẽ với những
21
người trên. Xem xét cơ sở hình thành của đạo Hiếu trong gia đình Việt Nam
có thể chia thành cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.
- Cơ sở lý luận của sự hình thành đạo Hiếu trong gia đình ở Việt Nam
Thứ nhất, những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Thiên
Chúa giáo. Nho giáo (Trung Quốc) và Phật Giáo (Ấn Độ) du nhập vào Việt
Nam từ rất sớm và có sức ảnh hưởng rất lớn trong tâm thức người Việt cho
đến tận ngày nay. Đã có những thời kỳ khác nhau Nho giáo và Phật giáo còn
được coi là quốc giáo của đất nước. Sở dĩ như vậy bởi xét trên một khía cạnh
tích cực thì tư tưởng Nho giáo và Phật giáo cũng có nhiều nét tương đồng với
văn hóa dân gian của người Việt, trong đó có tư tưởng về đạo Hiếu. Trong
Nho giáo, mối quan hệ giữa cha và con được coi là mối quan hệ cơ bản nhất,
là rường cột trong ngũ luân. Theo Khổng Tử thì “Phụ từ, tử hiếu” (Cha nhân
từ, con hiếu nghĩa). Cũng bởi coi mối quan hệ cha, con là mối quan hệ cơ bản
chi phối những mối quan hệ khác nên Nho giáo ở giai đoạn sau đã đẩy mối
quan hệ này lên mức tuyệt đối, trở thành “Phụ sử, tử sự” (cha quyết, con phục
tùng). Điều đó cho thấy, Nho giáo rất đề cao chữ Hiếu, coi Hiếu là nguồn gốc
của mọi đức hạnh, là gốc rễ của Nhân, là cốt lõi của quan niệm giá trị trong
cuộc sống, tạo ra cương thường đạo lý của xã hội. Bởi ai không yêu bố mẹ
mình thì khó có thể yêu kính bố mẹ, anh chị người khác, khó “trung, thứ, từ,
ái” với người ngoài được. Đạo rộng lớn của Nghiêu, Thuấn xưa cũng là Hiếu
đễ mà thôi. Khi Tăng Tử muốn biết nguyên do về Hiếu, Khổng Tử dạy rằng
Hiếu không phải là từ trên trời rơi xuống, không phải từ dưới đất chui lên, mà
hiếu từ thân ta. Thân thể chúng ta được hình thành từ trong thai mẹ, do khí
của cha, huyết của mẹ phôi thành. Vì vậy, chúng ta phải luôn giữ gìn thân
thể, không được hủy hoại thân thể. Theo Khổng Tử thì Hiếu đạo được gây
dựng dựa trên gốc là “thành” và thể hiện ra bằng “kính”. Có nghĩa là hiếu quý
ở lòng thành và sự kính trọng. Bởi nếu nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì
khác gì nuôi loài chó ngựa. Cũng thế, khi cha mẹ xế bóng thì việc tang cốt ở
sự thương xót chứ không phải thể hiện bằng mâm cao cỗ đầy, bằng phung phí
xa hoa. Nho giáo cũng phân định ba tầng thứ của Hiếu gồm có tiểu Hiếu,
trung Hiếu và đại Hiếu. Đạt tiểu Hiếu là biết kính dưỡng, biết kính trọng,
22