Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Tác Động Của Việc Gia Nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO Đối Với Lĩnh Vực Nông Nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 78 trang )

MỘT SỐ BÁO CÁO TẠI HỘI THẢO
“TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
ĐỐI VỚI LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM”

1. TS.Juergen Wiemann, Viện phát triển Đức: Nghị trình WTO – Những thách thức và cơ hội
đối với nông nghiệp Việt Nam
Dr. Juergen Wiemann, Institute for German Development: The WTO Agenda – Challenges and
Opportinities for Vietnam’s Agriculture
2. PGS.TS Lê Thanh Bình, Bản tin ĐHQG: Tăng cường truyền thông khuyến nông, thúc đẩy
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam phát triển sau khi gia nhập WTO
Assoc.Prof. Dr. Le Thanh Binh: Strengthening Media for Agricultural Promotion and Stepping
up Vietnam’s Agricultural Development after Entering the WTO
3. ThS. Tống Văn Chung, Khoa Xã hội học: Tác động của WTO đối với nông nghiệp VN
Tong Van Chung, M.A., Faculty of Socialogy, USSH: The Impacts of WTO on Vietnam’s
Agricultural Sector
4. PGS.TS Hoàng Phước Hiệp, Bộ Tư pháp: Lộ trình WTO và tác động đối với nông nghiệp
Việt Nam
Dr. Hoang Phuoc Hiep, Ministry of Justice:The WTO Agenda and Its Impacts on Vietnam’s
Agriculture
5. TS. Phạm Thái Quốc, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới: Nông nghiệp Trung quốc sau khi
gia nhập WTO – Một số đánh giá bước đầu
Dr. Pham Thai Quoc, Institute for World Economy and Politics: China’s Agriculture after
Becoming a WTO Member - Some Initial Assessments
6. PGS. Nguyễn Huy Quý, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á: Nông nghiệp Trung Quốc sau khi
gia nhập WTO
Assoc.Prof Nguyen Huy Quy, Institute for Northeast Asian Studies: China’s Agriculture after
Entering WTO
7. ThS. Nguyễn Văn Tịnh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch
Hội Chăn nuôi, Hải Dương: Thực trạng nông nghiệp Hải Dương
MA. Nguyen Van Tinh, Vice Director of Agriculture and Rural Development Department,
President of Breeding Association, Haiduong Province: Haiduong’s Agriculture


8. PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Học viện Quan hệ quốc tế, Bộ Ngoại giao: Tác động của việc
gia nhập WTO đối với nông nghiệp Việt Nam
1


Assoc Prof. Dr. Nguyen Anh Tuan, Institute for International Relations: The Impacts of
Vietnam’s WTO Accesstion on Its Agricultural Sector
9. PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên, Viện trưởng, HV Chính trị Hành chính Quốc gia: Giải
quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO
Assoc.Prof. Dr. Habil. Tran Nguyen Tuyen, Director of Institute of Classical Economic: The
Reality of Vietnam’s Agriculture, Rural and Farmer in the context of Its WTO Accession

2


CHƯƠNG TRÌNH NÔNG NGHIỆP WTO
NHỮNG THỬ THÁCH VÀ CƠ HỘI CHO NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
* TS. Jürgen Wiemann
Phó giám đốc Viện phát triển Đức (DIE), Bonn

Tính thời sự của chủ đề: thiếu lương thực toàn cầu
Nạn đói trên thế giới đã lại là một đề tài thời sự. „Nạn đói quay lại“ hoặc „Các cuộc nổi
loạn vì đói ở thế giới thứ ba“ là những tít lớn trên báo. Giá lúa mì tăng gấp ba lần so với năm
2006. Giá thị trường thế giới của các mặt hàng khác như gạo, hoa màu, dầu thực vật, mỡ, sản
phẩm sữa và lương thực nói chung đều tăng mạnh, khiến người nghèo khắp thế giới ngày càng
mua được ít hàng hơn. Ngay cả các tổ chức hỗ trợ quốc tế lớn cũng bị lao đao vì giá cả leo thang,
bắt buộc phải hạn chế chương trình cung cấp cho người nghèo. Mặc dù các nhà sản xuất nông
sản – cả ở các nước đang phát triển – có lợi nhờ làm được giá cao hơn cho sản phẩm của mình,
tuy vậy, ai không có ruộng và không kiếm sống trong nghề nông thì đều phải dành một phần
ngày càng lớn trong thu nhập của mình để mua lương thực.

Điều đó liên quan gì đến WTO và các cuộc đàm phán đa phương trong phạm vi WTO? Liên
quan rất nhiều! Nhưng đó là một câu chuyện dài. Một số nguyên nhân thời sự của việc tăng giá
trên thị trường nông sản quốc tế phụ thuộc vào các đàm phán trong WTO:
 Mức tăng trưởng kinh tế mãnh liệt, sự phồn vinh gia tăng ở Trung Quốc, Ấn Độ và một số
các nước ngưỡng cửa đang tiến lên sinh ra thêm nhu cầu về lương thực chất lượng cao hơn;
lượng tiêu thụ thịt tăng lên kéo theo lượng hoa màu tiêu thụ lớn hơn là lượng tiêu thụ hoa
màu ở dạng bánh mì,
 Trong mấy năm qua, thời tiết xấu gây ra mùa màng thất thu ở nhiều khu vực trên thế giới,
kho dự trữ lương thực trống trơn, xảy ra hiện tượng đầu cơ làm tăng giá quá mức,
 Ngày càng nhiều lúa gạo, đường, dầu thực vật được sử dụng để chế tạo dầu diesel sinh học,
do đó lấy mất diện tích canh tác sản xuất lương thực. Giá cả tăng theo theo giá chung của
nhiên liệu làm từ dầu thô,
 Năng suất lao động của các nhà sản xuất nông nghiệp tại các nước đang phát triển trong
những năng qua đã ngừng tăng. Người ta đầu tư quá ít ỏi vào nghiên cứu nông nghiệp, tư vấn
cho nông dân, phát triển hạ tầng cơ sở và mở mang cung cấp tín dụng ở nông thôn; giá lương
thực được nhiều chính phủ giữ ở mức thấp khiên cưỡng ngõ hầu xoa dịu làn sóng phản đối
của người tiêu dùng đã không còn là khuyến khích đối với nông dân để họ đầu tư vào máy
móc và kỹ nghệ làm tăng năng suất lao động.
Nguyên nhân mang tính cơ cấu: các nước công nghiệp bảo trợ nông nghiệp
Các cuộc đàm phán về nông nghiệp trong WTO có thể đóng góp vào việc giải quyết thiếu
lương thực toàn cầu, khi đề cập đến một trong những nguyên nhân mang tính cơ cấu. Mục đích
các cuộc đàm phán đó là thuyên giảm sự hỗ trợ nông nghiệp ở các nước công nghiệp (và bên
cạnh đó cả ở các nước đang phát triển ở trình độ cao) vì động thái đó cản trở sự phát triển các
tiềm năng nông nghiệp của các nước đang phát triển. Sự hạn chế tiếp cận thị trường thông qua
thuế quan cao và hạn chế số lượng đã cản trở các nước đang phát triển tận dụng được lợi thế tự
nhiên và tương đối của mình. Thậm chí trên thị trường nội địa việc tiếp thị nông sản trong nước
bị đảo lộn bởi hàng nhập khẩu giá rẻ và công tác hỗ trợ lương thực đến từ các nước công nghiệp.
Cho đến cách đây mấy năm, sản lượng dư thừa ở các nước công nghiệp được nhà nước trợ giá
và khuyến khích đã gây ra áp lực lớn đối với giá thị trường nông sản (thông qua trợ giá xuất
3



khẩu, người ta đã giữ giá của sản lượng dư thừa ở mức rẻ khiên cưỡng và làm phá giá trên thị
trường thế giới). Nhiều chính phủ các nước đang phát triển thích hưởng giá rẻ của lương thực
nhập khẩu để cung cấp cho người tiêu dùng thành thị và xoa dịu dư luận. Ngược lại thì nông
nghiệp bị lờ đi một cách đáng trách. Đánh giá theo cách đó thì việc các nước công nghiệp bảo trợ
nông nghiệp là một nguyên nhân mang tính cơ cấu, góp phần giảm thiểu tính năng động của
nông nghiệp – nhất là ở các nước kém phát triển – và gây ra tình trạng thiếu hụt hiện tại. 1 Ở đây
có thể định vị một trong những xung đột trung tâm giữa Bắc và Nam, giữa các nước giàu và
nghèo. Thậm chí các nước hỗ trợ phát triển cũng không làm gì chống lại sự thờ ơ này. Chỉ từ vài
năm trở lại đây, các chuyên gia mới chỉ ra các rủi ro liên quan tới tình trạng ấy đối với việc cung
cấp lương thực. Báo cáo phát triển thế giới vừa qua của Ngân hàng thế giới lần đầu tiên từ hai
mươi năm nay dành cho sản xuất nông nghiệp vị trí chính.
Nhưng tại sao các nước công nghiệp tiến hành chính sách bảo trợ nông nghiệp như vậy,
nếu nó đem lại thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển? Ở đa số các quốc gia OECD, người
nông dân và các ngành công nghiệp hữu quan (người sản xuất giống, phân bón, thuốc trừ sâu) là
một phe cánh hành lang mạnh, khả dĩ đòi được bảo vệ quyền lợi riêng, chống lại quyền lợi của
người tiêu dùng muốn có thực phẩm giá rẻ. 2 Phe cánh hành lang này đòi chính phủ thông qua
các biện pháp can thiệp vào thị trường để tác động ngược lại với xu thế „tự nhiên“ hướng tới
giảm giá tương đối của nông sản đối với giá sản phẩm công nghiệp và giảm tương đối thu nhập
trong nông nghiệp đối với khu vực công nghiệp và dịch vụ. 3 Ở châu Âu còn có thêm một động
cơ nữa: từng trải nghiệm nạn đói tràn lan sau Thế chiến II, người ta cố gắng giảm phụ thuộc vào
nhập khẩu bằng cách tăng cường nền sản xuất trong nước.
Chính sách chung về nông nghiệp (GAP) của khối EU (cho đến trước loạt cải cách của thập
kỷ 90) là một hệ thống rất phức hợp nhằm chống lại xu hướng giảm giá nông sản vốn liên quan
đến sự biến chuyển cơ cấu „tự nhiên“. Người ta đã đề ra giá cố định được bảo đảm cho 21 sản
phẩm, và giá này được nhà nước bảo vệ bằng cách bao tiêu, chống lại giá thị trường đi xuống.
Lượng hàng được nhà nước thu mua một là đưa vào kho, hai là đem tiêu hủy, hoặc đem xuất
khẩu với giá thị trường thế giới ở mức thấp hơn, sau khi đã được hỗ trợ giá xuất khẩu. Nhờ giá
cố định được bảo đảm đó, người nông dân hầu như không phải chịu rủi ro nào, họ có thể đầu tư

để tăng năng suất sản xuất, kết quả là lượng sản phẩm luôn cao hơn nhu cầu trong nước, lượng
thực phẩm đóng kho ngày càng nhiều (núi bơ, sông sữa), và phí tổn của can thiệp thị trường, lưu
kho và trợ giá xuất khẩu tăng kinh khủng. Mức giá trong khối EU quá cao so với mức giá trên thị
trường thế giới, nay phải được bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu rẻ thông qua việc đóng cửa nhập
khẩu quyết liệt. Để làm việc đó, người ta đề ra thuế quan linh động luôn ở mức cao bằng sự
1

Sự méo mó của thị trường nông nghiệp thế giới có tác động rất mạnh đến tình trạng nghèo đói ở các nước
đang phát triển, vì đa số người nghèo ở các nước đang phát triển sống tại nông thôn và không ít thì nhiều đều phụ
thuộc vào nông nghiệp. Khi sản xuất nông nghiệp bị đình đốn vì hàng nhập khẩu giá rẻ và vì không có cơ hội xuất
khẩu (bởi các nước công nghiệp tài trợ xuất khẩu nông sản và chào hàng giá rẻ hơn) và đầu tư vào các biện pháp
hiện đại hóa nhằm nâng cao sức sản xuất không đem lại lới tức, thì thu nhập trong nông nghiệp bị giữ ở mức thấp.
Dân thành phố sẽ có lợi bởi lương thực nhập khẩu giá rẻ, nhưng điều đó không có ý nghĩa gì khi so sánh với số
lượng lớn gấp bội nông dân nghèo sống ở vùng nông thôn.
2

Lực lượng hành lang này cũng được hỗ trợ bởi các đối thủ của phong trào toàn cầu hóa cũng như những
người ủng hộ sản xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường và đề cao quan hệ thu nhỏ giữa nông dân và người
tiêu dùng, không đếm xỉa đến các lợi thế từ phân chia công việc quốc tế.
3
Ở các quốc gia giàu, thu nhập tăng lên thì nhu cầu của người dân về lương thực tăng chậm hơn nhiều so với
nhu cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Nếu năng suất sản xuất của nông nghiệp cao bằng của công nghiệp và
không bị mất mùa làm giảm cung cấp thì thực ra về lâu dài mức giá nông sản và qua đó thu nhập của nông dân phải
giảm đi. Điều đó càng đúng hơn, khi hàng lương thực rẻ từ các nước đang phát triển được nhập về. Lúc đó các cơ sở
nông nghiệp có năng suất kém sẽ phải bỏ cuộc, quá trình biến đổi cơ cấu „tự nhiên“ sẽ khiến tỉ trọng của nông
nghiệp trong tổng sản lượng kinh tế giảm đi so với khu vực công nghiệp và dịch vụ.

4



chênh lệch giữa giá thị trường quốc tế và giá thị trường nội địa EU. Một phần, EU vẫn thông qua
tài trợ xuất khẩu hàng thừa tiếp tục góp phần làm sự chênh lệch ấy lớn lên, vì qua đó giá thị
trường thế giới giảm đi. Kết quả là mọi khuyến khích cho sản xuất nông nghiệp ở các nước đang
phát triển để đạt tới thị trường thế giới đều tiêu tan.
Mặc dù các nhà kinh tế luôn chứng minh rằng chi phí của GAP gia tăng và đưa ra phê
phán (người tiêu dùng bị đánh thuế hai lần: 1. vì tiền ngân sách bị đem ra hỗ trợ giá thu mua, phí
tổn lưu kho và trợ giá xuất khẩu, và 2. giá lương thực bị nâng lên) và tác động của giá cố định vô
cùng bất công (các cơ sở sản xuất nông nghiệp lớn nhất kiếm được nhiều nhất, trong khi các hộ
nông dân nhỏ không thể ganh đua trong đầu tư nâng cao sức sản xuất, do đó bị đào thải khỏi thị
trường mặc dù đã có GAP), hầu như không có hy vọng gì vào một cuộc cải cách toàn diện, nếu
như trong khuôn khổ đàm phán GATT không có áp lực gia tăng từ bên ngoài – cụ thể là từ Mỹ
và một số các nước đang phát triển có sức xuất khẩu mạnh.
Hiệp định nông nghiệp trong vòng đàm phán Uruguay
Tại vòng đàm phán Uruguay từ 1986 đến 1994 – vòng đàm phán đa phuơng cuối cùng trong
GATT trước khi thành lập WTO – lần đầu tiên người ta đàm phán về nông nghiệp. Cho đến thời
điểm đó các nước công nghiệp quan trọng nhất vẫn bảo vệ chính sách can thiệp vào nông nghiệp
của mình, chống lại các nguyên tắc của GATT. Mục tiêu cao nhất của đàm phán nông nghiệp ở
vòng đàm phán Uruguay là thực thi các nguyên tắc kinh tế thị trường trong chính sách nông
nghiệp, qua đó giảm thiểu sự méo mó về cạnh tranh trong thương mại mại nông sản thế giới.
Mặc dù vậy hiệp định nông nghiệp WTO vẫn cho phép nhà nước hỗ trợ nông nghiệp, tuy ưu tiên
các chính sách ít làm lệch lạc thương mại quốc tế. Trong hiệp định này có ấn định quy định mới
cho „ba cột chống“:
 Tiếp cận thị trường: Chỉ áp dụng duy nhất thuế quan (tariffs only), tất cả các rào cản thương
mại không định lượng cho đến lúc đó được quy đổi thành thuế quan (tariffication), qua đó
mức thuế quan của các nước công nghiệp đối với sản phẩm nhạy cảm gia tăng rõ rệt, người ta
đề ra các biện pháp dự phòng khi gia tăng nhập khẩu mạnh (special safeguards), các nước
đang phát triển được phép nêu tên sản phẩm nhạy cảm mà họ muốn giữ chế độ hạn chế nhập
khẩu nghiêm ngặt vì lý do an ninh lương thực (special products).
 Hỗ trợ nội bộ: Phân tách trợ giá theo tác động sản xuất và sự lệch lạc thị trường tiềm năng
xuất phát từ đó. Phải giảm trợ giá tác động trực tiếp đến sản xuất (“amber box” = đèn

vàng (tín hiệu giao thông) = phanh lại): các nước công nghiệp giảm 20 % trong 6 năm đầu kể
từ 1995, các nước đang phát triển giảm 13 % trong 10 năm (LDC – các nước đang phát triển
ở mứuc kém nhất – không phải giảm); được phép hỗ trợ không tác động đến lượng sản
phẩm (“green box” = đèn xanh): đó là nghiên cứu, hạ tầng cơ sở, chính sách thú ý, kể cả trả
tiền trực tiếp cho nông dân để thay đổi cơ cấu xí nghiệp hay tiến hành biện pháp môi trường,
nếu các biện pháp đó không tác động đến sản xuất (tuy có làm giảm chi phí và nhờ vậy vẫn
có tác dụng làm lệch lạc cạnh tranh), cũng được phép trả tiền cho nông dân để thu hẹp sản
xuất (“blue box”), các khoản này tuy có liên quan đến sản xuất, nhưng việc thu hẹp sản xuất
góp phần giảm thiểu hàng thừa gây lệch lạc cạnh tranh.
 Trợ giá xuất khẩu sẽ được bãi bỏ hoàn toàn vào năm 2013, cho đến thời điểm đó việc trợ
giá xuất khẩu phải trình báo tại WTO, và lượng hàng được trợ giá phải được giảm từng bước.
Vòng đàm phán Uruguay tuy nhiên chỉ là một bước khởi đầu nhằm giảm thiểu bảo trợ nông
nghiệp và can thiệp thị trường nhờ trợ giá nội bộ và trợ giá xuất khẩu. Với Hiệp định nông
nghiệp của vòng Uruguay, bộ quy chế GATT cho khu vực nông nghiệp được cụ thể hóa, cũng
như phân cấp được các loại trợ giá tùy theo mức độ tác động làm lệch lạc thương mại. Tuy có
nghĩa vụ từng bước mở cửa thị trường và giảm thiểu trợ giá làm lệch lạc thương mại, mức bảo
trợ vẫn còn khá cao, vì các nước công nghiệp thoạt tiên phải quy đổi rất nhiều rào cản thương
5


mại không định lượng đang có giá trị thành thuế quan với hiệu quả tương đương. Qua đó, mức
thuế dành cho nông sản ở thời điểm chấm dứt vòng Uruguay cao hơn nhiều so với thời điểm bắt
đầu. Các loại trợ giá nội bộ có hậu quả làm méo mó thị trường được bãi bỏ chậm hơn nhiều so
với lời hứa – vì phải dịch chuyển các trợ giá có tác động đến sản xuất từ vị trí amber box sang
green box hay blue box (gọi là quá trình box shifting) – qua đó các nước công nghiệp đã trốn
được trách nhiệm giảm thiểu trợ giá làm méo mó thị trường như hiệp định nông nghiệp đòi hỏi.
Cả việc giảm thiểu trợ giá xuất khẩu cũng bị trì hoãn, phải đến vòng đàm phán WTO mới (2013)
mới được hứa thực thi. Chính sách nông nghiệp hiện tại vẫn đè nặng lên người đóng thuế và
người tiêu dùng tại các nước OECD: tổng cộng mỗi năm khoảng 280 tỉ USD (vì trợ giá và giá
nội địa cao, gây ra bởi rào cản nhập khẩu). Và cho đến nay vẫn còn mặt trái của cạnh tranh lệch

lạc đối với các nước đang phát triển chú trọng xuất khẩu.
Vòng WTO mới: vòng phát triển
Theo quan điểm của các nước đang phát triển, kết quả vòng Uruguay là một cuộc „đổi
chác“ kém ngon lành, vì họ buộc phải chấp nhận một loạt hiệp định mới, liên quan đến phí tổn
(ví dụ như hiệp định TRIPS về sở hữu trí tuệ) hay nghĩa vụ mới về mở cửa thị trường (ví dụ như
hiệp định GATS về dịch vụ), trong khi các nước công nghiệp chỉ phải thực thi nghĩa vụ mở cửa
thị trường của mình cho sản phẩm nông nghiệp và dệt may một cách rất dè dặt. Mặc dù vậy,
người ta vẫn mong đợi các nước đang phát triển hãy thực thi nghĩa vụ của mình trong hiệp định
nông nghiệp WTO về hạ mức thuế quan. Một thời gian dài, các nước đang phát triển chống lại
bước gia nhập vòng đàm phán đa phương mới, và họ được xã hội dân sự quốc tế ủng hộ. Mãi đến
tháng 12/2001, khi các nước công nghiệp ở Doha (Qatar) đồng ý chú trọng đặc biệt đến lợi ích
của các nước đang phát triển trong vòng đàm phán mới này cũng như chấp nhận chỉnh sửa một
số điểm của hiệp định Uruguay theo đề nghị của các nước đang phát triển (ví dụ như hiệp định
TRIPS), lúc đó các nước đang phát triển mới chấp thuận khai mạc vòng đàm phán WTO. Để
quảng bá tinh thần sẵn sàng này đề cập đến lợi ích của các nước đang phát triển, vòng đàm phán
này được bổ sung danh hiệu „Vòng phát triển“ hay „Chương trình phát triển Doha“ (Doha
Development Agenda).
Các vòng đàm phán nông nghiệp trong khuôn khổ Vòng Doha theo đuổi mục tiêu cụ thể
hóa sâu hơn nghĩa vụ tự do hóa của các nước công nghiệp cũng như thỏa thuận về thời hạn chắc
chắn để thực thi (tuyệt đối bãi bỏ mọi trợ giá xuất khẩu vào năm 2013), đồng thời chú trọng hơn
nữa quyền lợi của các nước đang phát triển. Để bảo đảm an ninh lương thực và khuyến khích
phát triển nông thôn, các nước đang phát triển được phép tiến hành các biện pháp bảo vệ đặc biệt
tương tự như những biện pháp mà các nước công nghiệp vẫn ứng dụng để hỗ trợ nền nông
nghiệp của mình cho đến nay („Tính đa công năng của nông nghiệp“). Tuy nhiên, các bước tiến
bộ đã đạt được cho đến 2004 trong việc ấn định phương thức tự do hóa thương mại tương lai còn
đang lửng lơ, vì các cuộc đàm phán của Vòng Doha 2006 bị Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy
cắt đứt, với lý do là một số lĩnh vực không đạt được tiến bộ đàm phán đáng kể. Một lý do là
những mong đợi của các nhóm quốc gia còn khác biệt: trong khi các nước công nghiệp đòi hỏi
các nước ngưỡng cửa mở rộng thêm cửa vào thị trường cho sản phẩm công nghiệp và dịch vụ để đền đáp lại quá trình tự do hóa trong khu vực nông nghiệp, thì các nước đang phát triển cho
rằng sự nhượng bộ của mình ở Vòng Uruguay đã là quá đủ để đền đáp lại việc các nước công

nghiệp mở thị trường cho nông sản từu các nước đang phát triển, không việc gì phải đền đáp
thêm nữa.
Ngoài ra, các lợi ích trong quan hệ với thương mại nông sản giữa các nhóm quốc gia
đang phát triển cũng khác biệt đến mức họ không thể có một lập trường chung cho tất cả các
nước đang phát triển khi đàm phán. Các nước có khả năngc ạnh tranh trong xuất khẩu như Brazil
và Argentina cổ súy việc tự do hóa tổng thể cho thương mại, các quốc gia có nhu cầu bảo vệ
6


nông nghiệp như Ấn Độ tuy cũng đồng ý mưor cửa thị trường cho các nước công nghiệp nhưng
vẫn ngập ngừngkhi tự mình cũng phải mở cửa thị trường trong khu vực nông nghiệp, và cuối
cùng là một số nước ở châu Phi cận Sahara vốn phụ thuộc vào nhập khẩu lương thực, họ lo ngại
sẽ mất đi nguồn lương thựuc nhập khẩu giá rẻ (vì được trợ giá) đến từ các nước công nghiệp, do
đó không thiết tha gì đến một khu vực nông nghiệp được tự do hóa ở phạm vi toàn cầu. Cộng
vào sự bất thống nhất trong quyền lợi của các nước đang phát triển là hàng loạt hiệp định tự do
thương mại song phương và ở tầm khu vực, vốn là sợi dây kết nối vẫn được nhiều nước đang
phát triển nhận định là vững chắc hơn một vòng đàm phán đa phương thành công trong WTO (và
do đó họ cũng có vị trí đàm phán nhiệt tình hơn)
Nông nghiệp trong thỏa thuận gia nhập WTO của Việt Nam
Đối với Việt Nam là thành viên WTO, một mặt hiệp định nông nghiệp WTO với những
quy định đặc biệt về mọi hình thái trợ giá và các hiệp định WTO khác quan trọng cho khu vực
nông nghiệp (nhất là hiệp định về vệ sinh và thuốc độc hại – SPS) có ý nghĩa lớn, mặt khác
những khoản nhân nhượng mà Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập đã dành cho các
thành viên WTO khác tham gia đàm phán cũng cần được chú trọng.
Thỏa thuận gia nhập của Việt Nam được đem ra đàm phán năm 1995 và kết thúc năm 2006 đề ra
những bước hòa hợp sau đây cho khu vực nông nghiệp:
Chính sách nhập khẩu
 Từng bước hạ mức thuế quan cho nông sản, 20% trong vòng 3-5 năm (từ 24,5% xuống
20%)
 Giảm các khoản thuế quan đặc biệt cao áp dụng cho thịt, sữa, rau quả đã qua chế biến,

lương thực đã qua chế biến, hoa quả ôn đới (táo, lê, Grapefruit, Kiwi)
 Cố định đa số các khoản thuế quan cho nông sản và hàng nông nghiệp trong khoảng 0%
đến 35%. Vẫn giữ lại thuế quan cao đối với một số ít các sản phẩm như đồ uống có cồn, cà
phê tan.
 Việt Nam được phép giữ quyền ấn định thuế quan đặc biệt, nghĩa là thuế quan áp dụng cho
số lượng (mỗi tấn) chứ không cho giá trị của hàng nhập khẩu (“ad valorem”)
 Một số sản phẩm được bảo vệ bởi hạn ngạch thuế quan (tariff quotas), nghĩa là một số
lượng hàng hạn chế phải chịu thuế quan thấp, tất cả hàng nhập khẩu quá hạn ngạch thuế quan
nhất định bị đánh thuế cao (trứng, thuốc lá, đường và muối). Hạn ngạch thuế quan phải được
giảm từng bước cho đến khi bãi bỏ hẳn.
 Các hạn chế nhập khẩu định lượng (Hạn ngạch, Cấm nhập khẩu, ví dụ: thuốc lá, xì gà)
phải được bãi bỏ hoặc áp dụng theo quy định của WTO ( không phân biệt đối xử nghĩa là
thuốc lá quốc nội cũng bị cấm vì lý do bảo vệ sức khỏe.
 Bộ phận hải quan phải tuân thủ và hiện đại hóa theo quy định của WTO về thẩm định hải
quan (customs valuation) để tránh tạo ra rào cản nhập khẩu mang tính hành chính.
 Việt Nam áp dụng các hiệp định WTO về trở ngại kỹ thuật cho thương mại (Technical
Barriers to Trade, TBT) và các biện pháp Vệ sinh và chất độc (SPS)
Chính sách xuất khẩu
 Chấm dứt trợ giá xuất khẩu đối với mọi nông sản (kể cả cà phê) sau khi gia nhập
7


 Tiếp tục cho phép khuyến khích thương mại, nếu không trợ giá xuất khẩu trực tiếp (nghiên
cứu thị trường, hội chợ, cải thiện tài chính xuất khẩu, cơ sở hạ tầng thương mại hữu hiệu)
 Từ sau năm 2009 bãi bỏ độc quyền xuất khẩu gạo của doanh nghiệp nhà nước
 Hạn chế xuất khẩu cho một số sản phẩm như gạo vẫn được phép tiến hành (đảm bảo cung
cấp cho người dân), các hình thức kiểm tra xuất khẩu phải phù hợp tinh thần của quy định
WTO (minh bạch và không phân biệt đối xử)
Hỗ trợ nội bộ
 Ủng hộ nông dân qua các biện pháp làm méo mó thương mại (“amber box”: đèn vàng) về

nguyên tắc được phép, nhưng mọi trợ giá đều phải trình báo tại WTO.
 Như các nước đang phát triển khác, Việt Nam cũng được giữ một số hỗ trợ quy mô nhỏ (“de
minimis”), không được phép qúa 10% giá trị của sản xuất quốc nội trong ngạch đó.
 Ngoài ra, cũng như mọi thành viên WTO khác, Việt Nam được phép hỗ trợ nông nghiệp của
mình qua các biện pháp không làm méo mó thương mại, kể cả trợ giá (“green box”), nghĩa
là thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu, tư vấn
cho nông dân, nghiên cứu nông nghiệp, các biện pháp nhằm tuân thủ tiêu chuẩn SPS quốc tế
và tiêu chuẩn chất lượng của các nước nhập khẩu.
Các chính sách khác
 Doanh nghiệp quốc doanh phù hợp với quy định WTO, nếu hoạt động kinh tế theo các
nguyên tắc thương mại, nghĩa là đưa ra giá đủ bù phí tổn, qua đó ngăn ngừa cạnh tranh thiếu
lành mạnh với hàng nhập khẩu hoặc trên các thị trường xuất khẩu.
 Các hình thức kiểm tra giá phải được trình báo cho WTO.
 Điểm xung đột trong khi đàm phán gia nhập: Luật thương mại – chỉ dành cho doanh nghiệp
Việt Nam hay cũng cho doanh nghiệp nước ngoài mà không kèm hạn chế hoặc kỳ thị? Hiện
tại không còn luật thương mại độc quyền nữa: mỗi doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài
và bất cứ ai cũng được xuất và nhập khẩu, chỉ có nghĩa vụ phải đăng ký.
 Ngay sau khi gia nhập, Việt Nam phải áp dụng hiệp định WTO về sở hữ trí tuệ (TRIPS).
 Hiệp định SPS: Hệ thống thú y và công tác bảo vệ thực vật của Việt Nam phải được cải
thiện và hòa hợp với tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh và dư lượng thuốc trừ sâu trong thực
phẩm, quan trọng nhất là phải có hệ thống thanh tra toàn quốc để đối phó với nguy cơ lây lan
dịch bệnh động vật (cúm gà) và thực vật. Xin nói thêm sự hòa hợp này kỳ thực cũng phải
được tiến hành ngay cả khi Việt Nam không gia nhập WTO, vì mỗi quốc gia xuất khẩu phải
chú trọng các tiêu chuẩn, và quy chế của quốc gia nhập khẩu thì sản phẩm của mình mới
được ở đó cấp phép. Điều đó thậm chí cũng phải được chú ý với khi tồn tại các tiêu chuẩn
rộng hơn mà các doanh nghiệp tư nhân đề ra cho nhà cung cấp. Hiệp định SPS của WTO chỉ
thể hiện sự bảo vệ chống lại việc tự ý đưa ra các tiêu chuẩn mang tính kỳ thị, nó bắt buộc tất
cả thành viên WTO tuân thủ luật chơi của sự công khai hóa và kịp thời thông tin và các sản
phẩm quốc nội có tác động tới sản phẩm nhập khẩu.
Tác động đến nông nghiệp Việt Nam

8


Mới nhìn qua, thi danh sách các „khoan nhượng“ mà Việt Nam phải đưa ra khi gia nhập
WTO rất dài và có chất lượng. Các thành viên đàm phán trong nhóm công tác về việc Việt Nam
gia nhập WTO (cũng như khi các nước khác gia nhập nhận xét điều đó là hợp lý, vì Việt Nam
gia nhập vào một „câu lạc bộ“ những nước đã có trình độ cao trong tự do hóa thương mại tương
hỗ và hòa hợp chính sách thương mại thông qua nhiều vòng đàm phán trong quá khứ, và trình độ
này nước nào muốn gia nhập cũng phải đạt được, kể cả khi đó là nước đang phát triển, bởi vì các
nước đang phát triển cũng là một nhóm trong vòng đàm phán Uruguay xin chấp nhận nhiều
nghĩa vụ và đưa ra nhiều nhân nhượng thương mại. Các nước đang phát triển tuy nhận được sự
linh động lớn hơn khi thực thi nghĩa vụ, tùy vào mức độ phát triển của mình (special and
differential treatment), tuy nhiên Việt Nam là một nước đặc biệt năng động và là một trong
những nhà xuất khẩu dẫn đầu (gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều) sau các cải cách kinh tế thị trường
chỉ kéo dài vài năm, do đó không được hy vọng quá lớn vào sự thông cảm của các nước công
nghiệp hoặc tinh đoàn kết của các các nước đang phát triển khác trong trường hợp xảy ra xung
đột, mà phải nghiêm chỉnh thực thi nghĩa vụ của mình.4 Ngoài ra, Việt Nam là thành viên của
khối ASEAN đã nhận nghĩa vụ thực thi các điều kiện thương mại tự do trong khuôn khổ chương
trình AFTA. Do đó, việc mở cửa thị trường ở mức độ cao vẫn phải tiến hành đối với các nước
láng giềng, ngay cả khi không phải là thành viên của WTO, tuy nhiên việc có chân trong WTO
cũng là sự bảo đảm tiếp cận thị trường của các quốc gia thành viên khác và đó là một tiền đề cơ
bản để tiếp tục thắng lợi những chiến lược phát triển mang định hướng xuất khẩu của Việt Nam.
Về nguyên tắc, việc mở cửa thị trường sẽ tăng áp lực cạnh tranh đè lên các nhà sản xuất nông
nghiệp cũng như công nghiệp phục vụ nông nghiệp.
Nhưng áp lực này hiện tại cũng như trong tương lai gần không phải là vấn đề lớn vì giá
cả trên thị trường quốc tế đang ở mức độ cao. Thậm chí ngược lại, chính phủ có vẻ như nhận
diện được mối nguy hiểm rằng, giá thị trường quốc tế cao sẽ lây lan sang mặt bằng giá ở Việt
Nam gây ra vấn đề cung cấp cho tầng lớp dân nghèo. Câu hỏi đặt ra là, liệu các hạn chế xuất
khẩu (phù hợp tinh thần WTO) có phải là công cụ tốt nhất để giải quyết vấn đề hay không một
khi giá trên thị trường quốc tế cao là một dấu hiệu cho thấy lương thực là nông sản quan trọng bị

thiếu hụt, vì quan trọng nhất là phải huy động các khoản dự trữ về sản xuất và sức sản xuất ở
càng nhiều quốc gia càng tốt, ngõ hầu mở rộng sức cung cấp toàn cầu phù hợp với yêu cầu gia
tăng. Là một nước xuất khẩu gạo lớn, Việt Nam có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình đó
và cần làm tất cả để củng cố năng lực của ngành nông nghiệp qua các công cụ phù hợp tinh thần
WTO. Tùy vào mức độ thành công mà việc mở thị trường hoàn toàn trong khuôn khổ ASEAN
cũng như mở thị trường từng bước với tư cách thành viên WTO không phải là vấn đề không giải
quyết được đối với nông nghiệp trong nước.
Các vấn đề về cơ cấu của nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp ở Việt Nam có
thể khắc phục được bằng các công cụ phù hợp tinh thần WTO:
 Một đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam là cơ cấu tiểu nông (bình quân mỗi hộ chỉ có 0,8
ha), sức sản xuất kém, chất lượng sản phẩm thấp. Giải pháp: dồn diện tích, tách lọc diện tích
xấu, tạo ra việc làm phi nông nghiệp ở vùng nông thôn (tiểu công nghiệp, du lịch và các dịch
vụ khác).
4

Xin nhắc nhở các nhà kinh tế rằng, các nhân nhượng, khi mở cửa thị trường đằng nào cũng phù hợp với lợi
ích riêng của quốc gia muốn tiến hành tự do hóa. Nó hòa hợp hơn vào phân chia công việc quốc tế (xét về các thuận
lợi so sánh) và thậm chí được hưởng lợi ngay cả khi các quốc gia khác không mở cửa thị trường của mình với cùng
tốc độ.

9


 Nông dân hầu như không tiếp cận được các thông tin thị trường, họ hầu như không biết ý
nghĩa của việc gia nhập WTO hay ASEAN đối với họ là gì, sản xuất thiếu định hướng chiến
lược. Chính phủ và các hội đoàn phải cung cấp nhiều thông tin hơn về phát triển thị trường
và điều kiện tiếp cận thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thông tin về tiêu chuẩn sản phẩm
tại các thị trường xuất khẩu. Nghĩa là rất cần sự hỗ trợ kỹ thuật để tiến hành hòa hợp chất
lượng, tiến hành thử nghiệm và cấp chứng chỉ cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
 Tốc độ áp dụng kiến thức khoa học và phát triển kỹ thuật còn thấp. Xét đến các cơ hội xuất

khẩu lớn trong điều kiện thị trường quốc tế hiện tại, xét đến việc tận dụng quá ít cơ hội để đặt
chân vào tầng giá ca tại các thị trường xuất khẩu với các sản phẩm chất lượng cao (Premium
Products, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ), nay chính phủ nên tăng cường đầu tư vào nghiên
cứu nông nghiệp, cũng như quảng bá kết quả đối với các nhà sản xuất nông nghiệp. Các
nhà hỗ trợ phát triển nhất là Ngân hàng thế giới sẽ ủng hộ quá trình này.
 Tình trạng nghèo vốn của các xí nghiệp nhỏ và thiếu khả năng tín dụng ở nông thôn gây
khó khăn cho đầu tư và chuyên sâu trong sản xuất, các ngân hàng hợp tác xã có mộ mạng
lưới dày đặc các chi nhánh ở nông thôn và trong quá khứ chúng có vai trò quan trong trong
việc phát triển nông nghiệp hiện đại. Đối với Việt Nam, cải thiện việc cung cấp dịch vụ nhà
băng ở nôn thôn là chìa khóa cho tăng trưởng khả năng cạnh tranh quốc tế của nông nghiệp.
 Để thúc đẩy ý chí đầu tư của các xí nghiệp nông nghiệp, nên bớt chú ý vào các biện pháp
mang tính chính sách thương mại (đóng cửa cấm hàng rẻ nhập khẩu) mà nên phát triển hệ
thống an sinh xã hội để bảo hiểm cho dân nông thôn khi mất mùa hoặc kém thu nhập do gia
tăng nhập khẩu quá nhanh hoặc giá cả không ổn định trên thị trường xuất khẩu – đây là một
công cụ phù hợp tinh thần WTO và có ý nghĩa lớn trong xóa nghèo.
 Một khởi đầu cơ bản nhằm cải thiện năng lực của nông nghiệp Việt Nam là: thúc đẩy khả
năng cạnh tranh của công nghiệp phục vụ nông nghiệp, một lĩnh vực cho đến nay chưa
được chuẩn bị đầy đủ để cạnh tranh quốc tế (nhiều doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ,
nghèo vốn, 25% làm ăn lỗ - theo MARD 2006). Đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh
phải hiện đại hoá hoặc cổ phần hóa nhanh chóng (equitization). Cho đến nay các nhà đầu tư
nước ngoài ít quan tâm đến nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp ở Việt Nam
(chỉ 6-7% đầu tư nước ngoài trực tiếp), cần sự động viên lớn. Các điều kiện thị trường quốc
tế hiện tại và ý chí tuân thủ luật chơi WTO (kể cả TRIPS) của chính phủ Việt Nam sẽ là tiền
đề tốt để làm việc này.
 Cuối cùng, tay nghề của người lao động và trình độ quản ly các cơ sở nông nghiệp phải được
nâng cao hợp tầm thương mại quốc tế (ngoại ngữ, computer, kiến thức tiếp thị quốc tế, luật
thương mại quốc tế) thì mới tận dụng được cơ hội mới trên thị trường thế giới. Có nhiều xuất
phát điểm để hỗ trợ chính phủ trong công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp
phục vụ nông nghiệp (đào tạo, nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, phát triển hạ
tầng, hạ tầng cơ sở tài chính ở nông thôn...)


Kết luận
Kết thúc thắng lợi của Vòng phát triển Doha trong WTO phù hợp với lợi ích của Việt
Nam. Một mặt nó là đất dụng võ bổ sung được trao cho các nước đang phát triển nhằm bảo vệ
các sản phẩm rất nhạy cảm (special product) và khi nhập khẩu tăng vọt (special safeguard
mechanism). Trong khi giá trên thị trường thế giới tiếp tục cao đối với lương thực và nông sản
10


thì điều đó chưa có ý nghĩa lớn lắm. Mối quan tâm chính của nước xuất khẩu Việt Nam là sự mở
cửa thị trường vẫn tiếp diễn và được bảo đảm (tích hợp thuế quan trong WTO) không chỉ ở các
nước công nghiệp mà còn ở các các nước đang phát triển khác.
Tình trạng phát triển giá hiện tại trên thị trường thế giới đã từ lâu đem lại cơ hội tốt cho
các nước công nghiệp bãi bỏ can thiệp thị trường làm méo mó cạnh tranh cũng như mở cửa hoàn
toàn thị trường của mình mà không chịu nhiều bất lợi cho nông nghiệp trong nước. Vậy thì các
nước đang phát triển (trừ các nước kém nhất) cũng cần có thiện chí mở thị trường của mình và từ
bỏ sự can thiệp của nhà nước có tác động tới sản xuất. Một kết thúc thắng lợi của vòng đàm phán
WTO có lẽ là một sự bảo đảm phần nào để các chính phủ hạn chế can thiệp trực tiếp (hạn chế
xuất nhập khẩu) ngay cả trong giai đoạn khó khăn khi cung cấp cho tầng lớp nghèo khó, cũng
như để giá cao do thiếu nông sản biến thành sự khuyến khích mở rộng sản xuất. Áp lực bổ sung
cho người tiêu dùng (không làm nông nghiệp) cần được giảm thiểu thông qua tăng cường việc
làm và trợ cấp thu nhập trực tiếp. Các chính phủ và tổ chức quốc tế nên tập trung hỗ trợ phát
triển năng lực nông nghiệp cũng như công nghiệp và dịch vụ hữu khoan ở tất cả các nước nhằm
ngăn chặn nạn đói đe dọa một lượng người ngày càng gia tăng. Dễ dự đoán rằng những vấn đề
này sẽ trầm trọng thêm, vì lượng tiêu thụ của các nước đang phát triển có kinh tế năng động đang
tăng lên, diện tích do năng lượng sinh học tăng lên, diện tích thu hẹp do đô thị hóa và sa mạc
hóa, cũng như mất mùa bởi toàn cầu ấm lên và các thiên tai do biến đổi khí hậu (hạn, lụt). Với
một nền nông nghiệp có năng lực cao hơn, Việt Nam có thể đóng một vai trò cơ bản trong việc
giải quyết vấn đề cung cấp ở các nước đang phát triển.


TĂNG CƯỜNG TRUYỀN THÔNG KHUYẾN NÔNG, THÚC ĐẨY NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN VIỆT NAM PHÁT TRIỂN SAU KHI GIA NHẬP WTO
* PGS. TS. Lê Thanh Bình, TBT Bản tin Đại học QGHN
Truyền thông được định nghĩa là: ”Một quá trình, trong đó các thành viên tham gia việc tạo lập và
chia xẻ thông tin với những thành viên khác nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau” (Kincaid, 1979; Rogers
và Kincaid, 1981). Còn trong truyền thông khuyến nông (TTKN) nhấn mạnh quá trình tạo lập, chia xẻ
những thông tin phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, xuất phát từ nhu cầu của người nông dân. Đối
với các vùng nông thôn, sản xuất nông nghiệp, công tác truyền thông khuyến nông giữ vai trò to lớn và
11


cần thiết vì tồn tại nhu cầu trao đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường giữa nông dân với cán bộ
khuyến nông, cán bộ nghiên cứu nông nghiệp, các doanh nghiệp, cán bộ quản lý, nhà báo… và chính giữa
họ với nhau Đồng thời vì nông dân các vùng, địa phương hiện có trình độ, tập quán khác nhau nên phải
thực hiện truyền thông khuyến nông để tạo cơ hội, môi trường cho họ học tập lẫn nhau, trao đổi kinh
nghiệm, hợp tác làm ăn, xây dựng thương hiệu, tìm hướng xuất khẩu... Chắc chắn rằng giải pháp truyền
thông hay tập hợp các giải pháp khác đều phục vụ mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất, lưu thông, tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp, tăng cường vai trò thực sự của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau khi gia
nhập WTO với nhiều cơ hội mới, thách thức mới.
1. Khái niệm truyền thông khuyến nông và lý do tăng cường lĩnh vực này để thức đẩy nông nghiệp,
nông thôn, nông dân (tam nông) sau khi Việt Nam gia nhập WTO:
1.1. Khái niệm:
Truyền thông khuyến nông (Communication on Agricultural Promotion) là thuật ngữ và hoạt
động mang tính quốc tế, trước đây trong lĩnh vực chuyên môn ở Việt Nam cũng đề cập, nhưng khi là
thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế WTO rồi thì chúng ta càng cần phải nhận thức đầy đủ, toàn
diện. ở nước ta, công tác truyền thông khuyến nông mấy năm gần đây có vị trí quan trọng trong chiến
lược phát triển tam nông (nông nghiệp, nông thôn, nông dân). Các cấp quản lý, lãnh đạo, chuyên môn ở
địa phương, cơ sở đã chú ý thực hiện truyền thông khuyến nông về các lĩnh vực như giống mới, định
hướng sản xuất, thủy lợi, tìm thị trường mới, thông qua phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá sản
phẩm… Các tổ chức quốc tế quan tâm đến xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn đều có những

chương trình chuyên sâu hoặc liên quan đến truyền thông khuyến nông.
Người ta thường căn cứ vào các mục tiêu sau để đánh giá hiệu quả truyền thông khuyến nông:
- Nâng cao được nhận thức hiểu biết của người nông dân về các công nghệ, kỹ thuật mới, kinh
nghiệm trong sản xuất, bảo quản, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp và các kiến thức, thông tin về các
mặt quản lý, kinh tế – xã hội khác, để cải thiện đời sống nông dân về vật chất, tinh thần nhằm phát triển
bền vững nông nghiệp và nông thôn.
- Giúp đỡ, hỗ trợ các tổ chức khuyến nông các cấp, các tổ chức liên quan về thu nhận, lưu giữ, xử
lý thông tin, liên kết chặt chẽ hơn giữa tổ chức thực hiện truyền thông khuyến nông với các tổ chức nói
trên, giữa họ với nhau và với nông dân.
- Nâng cao kỹ năng truyền thông; kỹ năng nói, viết, thuyết phục vận động, quan hệ công chúng,
cách tiếp cận với giới báo chí để truyền thông… cho cán bộ khuyến nông và cho chính những người nông
dân.
- Góp phần thực hiện tốt chương trình khuyến nông địa phương, tạo diễn đàn trao đổi học tập
giữa nông dân và các bên liên quan. Tạo thói quen cho nông dân tìm hiểu và ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật- công nghệ qua phương tiện truyền thông đại chúng (TTĐC: báo, đài, quảng cáo, sách, quan
hệ công chúng PR, Internet, báo mạng…) và truyền thông gián tiếp.
- Phát hiện, tổ chức, bồi dưỡng, hình thành đội ngũ cộng tác viên từ cơ sở.
Để thực hiện các mục tiêu đó, trước hết truyền thông phải đảm bảo các yêu cầu như:
- Công tác truyền thông khuyến nông phải kịp thời, xuất phát từ nhu cầu nông dân sở tại, phù hợp
với điều kiện sở tại.
- Thông tin, thông điệp cần đơn giản, cụ thể, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ phân phối, dễ lan tỏa.
12


- Thông tin khi cung cấp phải chính xác, cập nhật, tập hợp cả kiến thức mới và kinh nghiệm địa
phương, có tính khả dụng, khả thi…
- Hình thức truyền thông đa dạng; dễ lồng ghép, phối hợp với nhau.
- Hấp dẫn, cuốn hút nông dân bằng nội dung phong phú, hình thức dễ chấp nhận với các thủ pháp
như sử dụng màu sắc, âm thanh, hình ảnh, ca dao tục ngữ, văn nghệ chú trọng ví dụ minh hoạ, hình ảnh
của chính địa phương.

Người ta thường dùng các hình thức và phương tiện truyền thông khuyến nông sau đây:
- Dùng các chuyên mục trên báo, tạp chí; chuyên mục phát thanh truyền hình, chuyên mục mở
trên trang Web (Ví dụ các chuyên mục trên phát thanh, truyền hình như “ Bạn với nhà nông”, “Nông dân
và doanh nghiệp”, “khuyến nông và phát triển”, “Nông sản và thị trường“…).
- Các phương tiện khác gồm: Bản tin khuyến nông, các ấn phẩm báo chí chuyên về khuyến nông;
sách khuyến nông, tủ sách khuyến nông, băng hình, tờ gấp, tranh ảnh, mô hình, sơ đồ dùng cho tập huấn;
tranh dán tường, tranh lật, tranh cômic…
- Hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, giao lưu như:
Hội thảo, tập huấn kỹ thuật, tham quan; họp hội nghị, mít tinh; tổ chức câu lạc bộ khuyến nông, làng
khuyến nông tự quản, các nhóm cùng sở thích (Nhóm ươm giống, nhóm truyền đạt kinh nghiệm nuôi gà
vịt; phường tiêu thụ nông sản nhanh…), đồng thời xây dựng các mô hình trình diễn trước cộng đồng như:
Nhóm sở thích trình bày mô hình sản xuất, lưu thông, tiêu thụ của mình; Nông dân làm ăn giỏi phổ biến
kinh nghiệm của mình, xây dựng các ô mẫu điển hình gắn kết các kỹ thuật mới trong qui trình sản xuất,
bảo quản sau thu hoạch tiêu thụ, tái đầu tư … Ngoài ra, trong tình hình Việt Nam đã tham gia Tổ chức
Thương mại thế giới WTO, các hoạt động truyền thông nói trên còn phải lồng ghép hoặc đi sâu riêng vào
chủ đề liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn và WTO ở những tầm lớn nhưng nông dân cũng
phải biết (chủ trương, chiến lược của Đảng Nhà nước ta về tam nông, các quy định của WTO tác động thế
nào đến nông dân Việt Nam; cung cách và phương hướng sản xuất, lưu thông, tiêu thụ, cạnh tranh thế
nào?...)
Để tổ chức và thực hiện tốt truyền thông khuyến nông, có một khâu không thể bỏ qua hay làm sơ sài, đó
là xây dựng mạng tư liệu phục vụ truyền thông khuyến nông lâu dài, thường xuyên, hệ thống, bài bản.
Quy trình xây dựng tư liệu TTKN có các bước: Trước hết, cần đánh giá đầy đủ nhu cầu thông tin của
nông dân và các bên liên quan; Tiếp theo là phân tích và xác định loại hình thông tin sẽ phát hành, trình
diễn, số lượng, thời gian cụ thể cho mỗi công đoạn thiết kế chương trình, bài viết, biên tập, in ấn, phát
hành… Trong các kho tư liệu, các tổ chức chuyên về khuyến nông phải sắp xếp ngày càng đa dạng các
thư mục, chủ đề để tương thích dần với bối cảnh nông nghiệp một nước thành viên WTO. Cần mở rộng
thông tin sang các chủ đề của giai đoạn mới như: Tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp
chuẩn quốc tế; kinh nghiệm bảo vệ hàng xuất khẩu; giá cả nông sản trên thị trường khu vực và quốc tế;
thương hiệu các doanh nghiệp có thể làm đối tác tin cậy; các bài học của thế giới về phát triển nông thôn
bền vững, không bị ảnh hưởng tiêu cực từ công nghiệp hóa …v.v. Dĩ nhiên là chuyên mục nhỏ, phổ thông

cần thiết hàng ngày của nhà nông cũng phải luôn cập nhập, cải tiến.
Từ đó xây dựng các nội dung cần thiết về khuyến nông, biên tập, sắp xếp theo các chủ đề, các đối tượng,
các cơ sở… ; Bước sau nữa là phải thử nghiệm rồi đánh giá, chỉnh lý, hoàn thiện trước khi quảng bá rộng
rãi; cuối cùng là phát hành, hướng dẫn sử dụng lưu trữ để khai thác lâu dài, hoặc đưa lên báo, đài để đông
đảo bà con nông dân và người quan tâm có thông tin sốt dẻo, rộng đường dư luận; dẫn đến thay đổi tư
duy, nếp sống, hành vi.
13


1.2. Lý do tăng cường truyền thông khuyến nông nhằm thúc đẩy tam nông sau khi Việt Nam gia nhập
WTO:
Nhiều số liệu và phân tích trên các phương tiện thông tin đại chúng trong, ngoài nước lâu nay đã chỉ rõ:
Sự tụt hậu, yếu kém ở khu vực nông nghiệp, nông thôn nhiều nước đã trở thành một lực cản trong phát
triển kinh tế- xã hội và còn là một tác nhân nguy hiểm, gây nên tình trạng bất ổn về chính trị. Nhìn ra thế
giới, bài học đắt giá từ những khu vực, quốc gia cho thấy: do không nhận thức đủ, đúng vai trò của nông
nghệp, nông thôn, nông dân; không giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa nông thôn với thành thị; không xử
lý hài hòa các quan hệ trong quá trình công nghiệp hóa… nên đã hứng chịu nhiều hậu quả tai hại mà đến
nay vẫn chưa có lời giải hữu hiệu. Tháng 3/2008, bà Josette Sheeran- Giám đốc điều hành Chương trình
Lương thực thế giới của Liên hợp quốc (WFP) và Tổ chức Lương- Nông Thế giới đã khuyến cáo: Lượng
dự trữ gạo thế giới đã ở mức thấp nhất trong vòng 20 năm qua. Giá lương thực biến động, tăng ở mức kỷ
lục cùng lạm phát kéo dài ít nhất đến 2010 sẽ gây ra một “nạn đói mới” trên toàn cầu (Thời báo Kinh tế
Việt Nam 12/3/2008).
Nhìn sang nước láng giềng Thái Lan của chúng ta, có thể thấy rất rõ rằng: sự mất ổn định về
chính trị, an ninh ở miền Nam chủ yếu là do không được chính phủ chú trọng tới tam nông như các vùng
khác. Khoảng cách mức sống, quyền lợi của nông dân bị thiệt thòi không chỉ so với thành thị mà còn so
với nông thông nơi khác cộng với sự đồng hóa nền văn hóa Hồi giáo (nói tiếng Malaysia) đã biến thành
mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc… làm ngòi cho các xung đột vũ trang, bạo động, ly khai.
Các nước Nam Á, phát động “cách mạng xanh” đưa năng xuất nông nghiệp tăng trong mấy thập kỷ trước,
nhưng xử lý không thành công vấn đề tam nông trong chiến lược công nghiệp hóa nên hệ lụy vẫn nan
giải. Hiện nền kinh tế bị chia cắt thành 2 mặt đối kháng: giữa các đô thị công nghiệp khá phát triển có

nhiều người giàu có phất lên và mặt đối diện là nông thôn nghèo đói, xơ xác, bất bình (Năm 1960 cả vùng
có khoảng hơn 270 triệu người nghèo tuyệt đối, ước tính đến 2010 có khoảng hơn 580 triệu). Xung đột vũ
trang triền miên, mâu thuẫn sắc tộc trầm trọng, môi trường bị hủy hoại, có đến hơn 60 % nông dân và dân
nghèo sống chật vật ở nông thôn, trong số họ có rất nhiều người vẫn tìm cách di cư về thành thị, tạo thêm
gánh nặng cho đô thị.
Bức tranh và các vấn đề tương tự cũng tồn tại ở châu Mỹ la tinh, nơi tam nông vẫn bế tắc cùng tình trạng
nợ nước ngoài tăng, thất nghiệp tràn lan, kinh tế bất ổn, nông dân và người nghèo thất vọng…
Nhưng trên thế giới còn những bức tranh sáng đẹp về nông nghiệp. Đài Loan và Hàn Quốc là những
ví dụ điển hình. Từ lâu, chính quyền Đài Loan đã chủ trương rõ: Muốn chính trị ổn định phải phát triển
nông thôn, muốn giữ chính quyền phải bảo vệ quyền lợi nông dân và sau này tiến hành công nghiệp hóa
thì luôn nhấn mạnh chính sách: Gắn bó công nghiệp đô thị với công nghiệp nông thôn. Tại các vùng nông
thôn, họ phân bố công nghiệp phân tán; chủ yếu chỗ nào đất xấu không canh tác được, không phát triển
du lịch sinh thái bền vững được mới bố trí xây dựng khu công nghiệp, nhà máy. Đài Loan dùng tổ chức
nông hội làm cầu nối giữa nông dân với chính quyền các cấp. Nông hội phụ trách khuyến nông, chú trọng
truyền thông khuyến nông, lập các trạm sơ chế nông sản, tham gia vào hầu hết mọi việc bảo vệ quyền lợi
nhà nông, đại biểu cho tam nông. Các hoạt động như hỗ trợ doanh nghiệp nông thôn xuất khẩu, lập công
ty bảo quản, tiêu thụ nông sản; thiết kế nhãn mác, kết nối các hoạt động truyền thông phục vụ tam nông…
đều có nông hội góp sức quan trọng. Công nghiệp hóa xuất phát từ nông thôn, bám chắc lấy địa bàn nông
thôn, đầu tiên tập trung lĩnh vực chế biến nông sản xuất khẩu, sau chuyển dần đầu tư sang công nghiệp
nhẹ, hàng điện tử, ngày nay chỉ giữ lại vài mặt hàng Đài Loan có lợi thế cao như thực phẩm đông lạnh, đồ
hộp. Do làm tốt khâu quy hoạch từ đầu nên các khu công nghiệp đóng ở vị trí hợp lý, không làm hỏng
môi trường; lao động nông thôn làm nghề phi nông nghiệp đến nay là khoảng 80%, lao động nông nghiệp
còn chừng 20%; nông thôn và thành thị hầu như chẳng khác biệt. Bài học để đưa công nghiệp hóa về
nông thôn thành công ở đây là: phát triển sớm cơ sở hạ tầng (quy hoạch, đầu tư giao thông, điện, viễn
14


thông tốt) và chất lượng lao động (Phát triển giáo dục quốc gia bài bản, ưu tiên giáo dục nông thôn và đào
tạo hướng nghiệp).
Tại Hàn Quốc, Chính Phủ bắt đầu có chính sách vực nông thôn lên từ 1970, khi thấy công nghiệp

hóa có thành tựu nhưng nông thôn lại lại hậu, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xã hội. Chính phủ phát động phong
trào xây dựng các cộng đồng “Làng mới” với mục tiêu cấp vốn, thay đổi tâm lý thụ động, ỷ lại của nông
dân, tạo niềm tin cho họ tự tổ chức phát triển nông thôn. Các cộng đồng tổ chức cho dân bầu trực tiếp
lãnh đạo, vừa quản lý vốn nhà nước vừa huy động vốn trong dân để tiến hành mọi việc của tam nông, họ
còn trực tiếp tham gia các cuộc họp Chính phủ để trình bày các vấn đề tam nông, còn chính Tổng thống
cũng xuống tận nhiều làng, bản bàn bạc với dân. Sau từng thời gian, nông dân các làng tự đánh giá kết
quả công khai, nếu hiệu quả phát triển tốt mới được nhà nước đầu tư tiếp. Hiện nay, cũng giống như Đài
Loan, chênh lệch giữa nông thông và thành thị Hàn Quốc rất ít. Cả 2 nước này hạ tầng cơ sở nông thôn
tốt, đời sống tinh thần nông thôn cao, truyền thông trong khuyến nông đến nay đã ở tầm hiện đại, các
phương tiện báo, đài phục vụ đắc lực cho đời sống cộng đồng…
Đối với trường hợp Việt Nam, có thể nói vấn đề tam nông cũng đang cần có giải pháp đột phá để
gắn với công nghiệp, đô thị, môi trường bền vững; tạo bước chuyển hẳn trong phát triển hội nhập của
quốc gia. Đất nước ta là đất nước có hơn 70% là nông dân sản xuất nông nghiệp (đóng góp nông nghiệp
trong tổng GDP chỉ 20%), chủ yếu vẫn theo kiểu thủ công, chưa cơ giới hoá được toàn diện, đời sống
nông dân còn thấp, dân trí không đồng đều, nhìn chung trình độ văn hoá và nhận thức xã hội có nhiều hạn
chế. Bài học tổng kết từ chính quá trình phát triển nước ta, cộng thêm kinh nghiệm các nước hơn lúc nào
hết đang đòi hỏi chúng ta phải tiến hành đồng thời rất nhiều công việc để thúc đẩy tam nông. Rõ ràng các
mắt xích sau vừa là những lĩnh vực riêng nhưng lại gắn kết nhau chặt chẽ như khâu quy hoạch hợp lý các
khu công nghiệp ở nông thôn; mở mang giao thông, liên lạc; đào tạo nghề cho nông dân để tăng chất
lượng lao động; nâng cao kiến thức về tam nông, truyền thông khuyến nông; mở rộng hình thức hoạt
động công ty trong làm ăn, kinh doanh, dịch vụ ở nông thôn; cung cấp thông tin giá cả, thị trường nông
sản; nâng cao giáo dục- văn hóa cho cộng đồng nông thôn…v.v đều là những bài toán lớn cần những lời
giải xác đáng, kịp thời, nhưng trước hết bài này muốn bàn đến một mắt xích quan trọng là truyền thông
khuyến nông. Vì truyền thông khuyến nông ở Việt Nam nếu chú ý thích đáng và làm tốt sẽ vượt qua giới
hạn ban đầu là truyền thông khuyến khích phát triển nông nghiệp, để đảm nhận cả việc nâng cao nhận
thức về vai trò nông dân, nông nghiệp, nông thôn; tạo sự đồng thuận cả xã hội ủng hộ tam nông; làm diễn
đàn cung cấp sáng kiến cho tam nông; giám sát hiệu quả thực hiện tam nông; mở rộng giao lưu lĩnh vực
tam nông Việt Nam với quốc tế. Hoàn cảnh Việt Nam càng cần nhấn mạnh truyền thông hơn, bởi hiện
nay là thành viên của WTO, không thể hội nhập mà không hiểu rõ các quy định, cam kết, luật lệ, tiêu
chuẩn liên quan đến nông nghiệp khi quốc gia mình tham gia “sân chơi” quốc tế, không thể không biết

quảng bá thương hiệu các nông phẩm nhãn Việt Nam…v.v. Đấy là chưa kể các thiếu sót đáng báo động ở
nước ta như đất nông nghiệp thu hẹp, xuất khẩu nông sản chưa bền vững do chất lượng chưa đạt chuẩn
thế giới; có những nhà máy, khu công nghiệp đặt ở các vị trí chưa đắc địa, gây ô nhiễm môi trường; đào
tạo nghề ở nông thôn vẫn yếu; sách báo chưa phát huy hết hiệu quả truyền thông về tam nông, đời sống
nông dân nhiều vùng còn đầy khó khăn; khoảng cách giữa đô thị và nông thôn ngày càng xa, áp lực di
dân về đô thị vẫn rất cao; hiểu biết của nhà chức trách, nông dân, doanh nghiệp về nghĩa vụ, thời cơ,
thách thức khi Việt Nam tham gia WTO vẫn chưa đầy đủ, hệ thống… Những thiếu sót này phải sớm được
khắc phục bằng tổ hợp nhiều giải pháp, song trước hết vẫn cần phương tiện truyền thông phát huy sức
mạnh bằng đặc thù của mình (Tuyên truyền, cổ động, tổ chức, giám sát), cũng như kết hợp trong truyền
thông khuyến nông mới có tác dụng nhanh, sâu rộng tới mọi nông dân và cả xã hội nói chung.
2. Các khó khăn, thách thức và giải pháp đẩy mạnh công tác truyền thông khuyến nông ở nước ta
Dân cư ở nông thôn phân bố không đều, nên rất khó khăn trong việc thông tin, quảng bá, phát hành các
tài liệu khuyến nông. Do nông dân đã hàng nghìn năm quen với cách làm ăn tiểu nông, chưa quen quy
15


trình làm nông nghiệp bài bản, chưa quen và hiểu rõ những khâu mang tính hiện đại như truyền thông
khuyến nông, nên có nhiều cư dân ở nông thôn vẫn tuỳ tiện, tầm nhìn ngắn, tư lợi trong sản xuất, kinh
doanh. Tại nhiều địa phương, công tác TTKN vẫn chưa thực sự được chú trọng đúng mức. Hiện nay, kỹ
năng truyền thông của cán bộ khuyến nông, chuyên trách về TTKN còn yếu, nhiều người chưa qua đào
tạo; chế độ, chính sách thù lao đối với họ chưa tương xứng. Ngoài ra, nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn vẫn chưa được tiếp cận với các chương trình khuyến nông trên các phương tiện thông tin đại
chúng; các hình thức TTKN khác cũng khó được thực hiện ở các vùng đó. Tại miền Bắc nước ta, nông
dân trước đây làm việc trong Hợp tác xã, tổ chức nặng về công tác xã hội, tình hình mới đòi hỏi nông dân
tư duy mới, đổi mới cách thức hoạt động hợp tác xã, gắn kết với dịch vụ, sản xuất, kinh doanh, trong đó
có TTKN và các hoạt động mới mẻ khác thời kinh tế thị trường. Còn ở Nam Bộ, nhiều vùng nông dân
vẫn có tâm lý dựa vào ưu đãi thiên nhiên, việc học hành của con em chưa được quan tâm, việc áp dụng
khoa học- kỹ thuật chưa thành nếp; dù có báo đài và các phương tiện thông tin đại chúng khác nhưng
chưa khai thác theo hướng tiếp cận của TTKN, có khi lại khai thác theo mục đích khác. Nhìn chung tại
các vùng nông thôn cả nước, việc sử dụng TTKN, khai thác phương tiện thông tin đại chúng trong tuyên

truyền- giải thích, cổ động, tổ chức các phong trào liên quan tam nông còn yếu. Nước ta vào WTO đã khá
đủ thời gian để tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm cho lộ trình phát triển nông nghiệp trong giai đoạn
mới, nhưng các ngành chức năng, từng địa phương, từng vùng nông thôn vẫn chưa có những tổng kết cần
thiết về mọi mặt, trong đó gồm có việc đề xuất các giải pháp chấn hưng nông thôn.
Để khắc phục các khó khăn, thách thức, tăng cường hoạt động TTKN, góp phần thức đẩy tam nông nước
ta, theo chúng tôi cần thực hiện các giải pháp chủ yếu:
- Phải nhận thức được TTKN hiện tiến hành trong bối cảnh phương tiện Thông tin đại chúng phát triển
mạnh, là món ăn văn hóa tinh thần hàng ngày nên cần có sự kết hợp chặt chẽ hơn giữa TTKN với truyền
thông đại chúng, với công nghệ thông tin và truyền thông (Information Communication Technology); gắn
TTKN với chấn hưng tam nông, với hội nhập, với đời sống WTO.
- Trong quá trình TTKN gắn với quá trình truyền thông kinh tế, văn hóa- xã hội khác, cần chú ý
truyền thông đặc biệt về khâu An toàn vệ sinh thực phẩm; xây dựng và bảo vệ thương hiệu nông sản khi
xuất khẩu; phối hợp thông tin giữa các doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu với tham tán thương
mại Việt Nam ở nước ngoài;
- Trong các chương trình TTKN cần phối hợp các nhà: Nhà nông, nhà quản lý, nhà khoa học, nhà tín
dụng, nhà doanh nghiệp, nhà truyền thông (gồm cả nhà báo).
- Thông điệp trong thông tin TTKN cần viết đơn giản, sử dụng từ ngữ của nông dân; bố cục rõ ràng có
kèm tranh ảnh minh họa, hay trình chiếu thêm phương tiện nghe nhìn cho dễ hiểu, hấp dẫn.
- Tăng cường các hình thức truyền thông khác như phát hành ấn phẩm khuyến nông, xây dựng tủ sách
khuyến nông, lồng ghép với truyền thông trực tiếp, với sinh hoạt hoạt văn hóa địa phương.
- Tập huấn kỹ thuật truyền thông, có thù lao hợp lý cho người tham gia chuyên trách.
- Chú ý tìm những nhà nông có uy tín kinh nghiệm, bồi dưỡng kiến thức truyền thông khuyến nông cho
họ, tạo điều kiện cho họ chủ trì cùng với sự giúp đỡ của các trợ thủ trẻ, năng động thực hiện những
chương trình có tính mở màn, điển hình để lôi kéo, thúc đẩy phong trào khuyến nông.
- Thường xuyên tổ chức các Hội thi kỹ thuật nông nghiệp lồng ghép với TTKN không chỉ ở trong
địa phương mình mà kết hợp với các địa phương bạn để tạo không khí cạnh tranh, phấn khích, thi đua,
gắn kết với thực tiễn.

16



- Lập Quỹ chuyên về khuyến nông, có chương trình cho nông dân vay tiền mua sách, báo, đài, ti vi,
nối mạng Internet… và hỗ trợ TTKN khi cần thiết
- Tranh thủ các dự án quốc tế liên quan đến TTKN, tổ chức tốt, mở rộng hiệu quả việc thụ hưởng
thành quả các dự án đó.
- Tăng cường hoạt động của khuyến nông viên cơ sở và tổ chức làng khuyến nông có người tự
quản, các nhóm cùng sở thích.
- Tăng ngân sách cho hoạt động TTKN.
- Khuyến khích, tạo điều kiện cho con em nông dân tuổi còn trẻ, có văn hóa tiếp cận với các
phương tiện TTĐC hiện đại như Internet, Multi Media; Mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề về nghiệp vụ
báo chí truyền thông như làm tin, viết bài cổ động, tổ chức công việc, hiểu biết về giao tiếp thông thường
và quan hệ công chúng…
Tóm lại tại thế kỷ XXI này, nông nghiệp nước ta vẫn có vị trí quan trọng trong chiến lược an toàn
lương thực quốc gia cùng với các mục tiêu lâu dài như hiện đại hóa mọi mặt sản xuất nông nghiệp, trong
đó có xuất khẩu nông sản; đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nông dân trong sản xuất, kinh doanh; từng
bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của những người dân sống ở nông thôn. Để
thực hiện tốt các mục tiêu trên thì một trong những khâu cần thiết rõ ràng là chú trọng công tác truyền
thông khuyến nông. Làm tốt công tác truyền thông khuyến nông, người nông dân sẽ chủ động hơn, gắn
bó với khoa học kỹ thuật hơn, hiểu rộng toàn diện hơn về quá trình sản xuất, bảo quản, chế biến, thị
trường tiêu thụ nông sản theo chuẩn WTO, thâm nhập thị trường 150 nước của WTO… Đột phá vào khâu
truyền thông khuyến nông, trình độ người nông dân có điều kiện để bứt phá lên, làm quen với nhiều tri
thức mới mà các nền nông nghiệp tiên tiến đang sử dụng, ví dụ như thương hiệu nông sản, nông sản được
chế biến theo tiêu chuẩn xuất khẩu quốc tế, văn hóa kinh doanh trong môi trường nông nghiệp, nông
nghiệp “xanh, sạch” trong chiến lược phát triển bền vững. Mặt khác, nếu chỉ tập trung sản xuất thì hiện
đầu ra vẫn khó khăn mà nông thôn rất khó bứt lên trở thành giàu có nhờ nông nghiệp thuần túy. Theo
chúng tôi, trong nền kinh tế hiện nay, doanh nghiệp ngày càng có vị trí quan trọng vì thế để nông thôn
tiến kịp thành thị cần quảng bá rộng rãi phương thức “Công ty hóa” các hoạt động sản xuất- dịch vụ ở
nông thôn. Nghĩa là cần phải có lộ trình và chính sách rộng rãi, đồng bộ để thành lập thật nhiều công ty
sản xuất, buôn bán, dịch vụ trong nông nghiệp. Khi đó người nông dân dần làm quen với hình thức làm ăn
doanh nghiệp: ký kết hợp đồng, xây dựng thương hiệu, quảng cáo sản phẩm, có bộ phận quan hệ công

chúng chuyên nghiệp, cạnh tranh để phát triển, liên doanh liên kết… trên cơ sở đó quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nông thôn mới có động lực đi lên. Dĩ nhiên tại những vùng đất không canh tác được
hay cho năng suất thấp vẫn cần phân tán công nghiệp về những vùng đó để thu hút lao động nông thôn.
Cũng chính truyền thông đại chúng, truyền thông khuyến nông sẽ phải góp phần đắc lực vào quá trình
“Công ty hóa” nói trên. Các công ty- doanh nghiệp mới ở nông thôn cũng cần phấn đấu theo hướng dần
đưa hàm lượng tri thức ngày càng nhiều vào sản phẩm; áp dụng công nghệ sinh học chuẩn quốc tế vào
nuôi trồng cây, con; giảm tối đa thời gian thu hoạch, chế biến và đưa ra bày bán trên thị trường… Thúc
đẩy tam nông đã thành một mệnh lệnh để bộ mặt nông thôn ngày càng đổi thay, rút ngắn khoảng cách
giữa nông thôn với thành thị, tạo nên sự cân đối, hài hoà, thịnh vượng, bền vững khắp mọi miền đất nước
Việt Nam thân yêu.
Tài liệu tham khảo
1. Asia Times 11/3/2008,
2. Thời báo Kinh tế Việt Nam (các số Tháng 3/2008),
3. T/c Tia Sáng số 4/2008
17


4. Lê Thanh Bình (2005): Báo chí truyền thông và các vấn đề kinh tế, văn hóa- xã hội, NXB Văn
hóa- Thông tin Hà Nội.

18


MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ TÁC ĐỘNG CỦA WTO
ĐỐI VỚI NÔNG NGHIÊP VIỆT NAM HIỆN NAY
* ThS Tống Văn Chung
Khoa Xã hội học, Trường ĐH KHXH&NV (ĐHQGHN)

I - Đặt vấn đề
Ở Việt Nam, hiện lĩnh vực nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của hơn 60% dân số

cả nước. Kể từ năm 1989 đến nay, nước ta đã trở thành một quốc gia xuất khẩu nông sản, trong
đó, gạo chiếm một tỷ lệ khá lớn. Ngành sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3
hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện nghèo và có nguy cơ tiềm ẩn tái
nghèo. Với vị trí quan trọng như vậy nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối
với người dân Việt Nam nói chung và nông thôn nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông
nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có những tác động ảnh hưởng
đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp. Nghiên cứu này đề cập đến những tác động đó.
II- Bối cảnh kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời hội nhập.
2.1 – Vài nét về tình hình lao động nông nghiệp Việt Nam hiện nay
2.1.1 Sự biến đổi cơ cấu lao động nông nghiệp
Việc sử dụng tốt các nguồn lực, nhất là lực lượng lao động nông nghiệp đem lại sự tăng
trưởng cho kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ chất lượng nguồn nhân lực quyết định,
và thúc đẩy sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Theo tính toán từ số liệu thống kê
cho thấy: so với tổng dân số của cả nước, hiện nay cứ bình quân 4 người sẽ có 1 lao động nông
nghiệp; còn so chung với lao động đang làm việc trong nền kinh tế thì trong số 10 lao động có
khoảng 5,6 lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Bảng 1: Số lượng lao động nông nghiệp hàng năm (nghìn người)
Năm

Số lao động nông
nghiệp (nghìn)

Năm

Số lao động nông
nghiệp (nghìn)

2001

24468,4


2004

24430,7

2002

24455,8

2005

24342,4

2003

2443,4

2006

24122,8 (ước tính)

[Nguồn:Tổng cục Thống kê]
Biểu 1: Tỷ lệ lao động của các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp (%)

[Nguồn: Tổng cục Thống kê]
19


Số liệu thống kê cho thấy tỷ trọng cơ cấu lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động kinh
tế quốc dân nói chung còn chiếm đại đa số, đây là yếu tố ảnh hưởng nhất định đến định hướng

phát triển trong quá trình hội nhập vào WTO.
2.1.2 - Trình độ kỹ thuật của đội ngũ lao động nông nghiệp, theo nhiều kết quả nghiên cứu về
cho thấy, nhìn chung chất lượng lao động trong khu vực kinh tế nông nghiệp của nước ta còn
thấp so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan và so với các nước thành viên
WTO. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:





Hiện có tới 75,21% lao động chưa qua đào đào tạo nghề., trong đó phần lớn là lao động
nông nghiệp.
Đại bộ phận lao động nông nghiệp vẫn bị thói quen lao động theo mùa vụ, sản xuất nhỏ
lẻ, manh mún, kỷ luật lao động lỏng lẻo, tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm đối với công việc,
… chi phối, chưa có tác phong lao động công nghiệp, nhất là nông dân.
Trình độ văn hóa thấp, trình độ tay nghề chuyên môn chưa cao.
Lao động sản xuất nông nghiệp mang nặng về kinh nghiệm sản xuất nhỏ, mang đậm nét
truyền thống.

Biểu đồ 2: Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân (%)

[Nguồn: Tổng cục thống kê]
2.2 – Một số thành tựu của nền nông nghiệp Việt Nam những năm gần đây
Theo số liệu thống kê hàng năm cho thấy trong giai đoạn 2001-2006 tăng trưởng kinh tế
của cả nước dat bình quân (ước tính) 7,6%, riêng năm 2007 đạt mức thấp hơn (khoảng 7,1%).Về
sản xuất nông nghiệp, số liệu thống kê hàng năm cho thấy: Sản lượng lương thực trong giai đoạn
2001-2006 tăng bình quân 1,32 triệu tấn/năm.
Bảng 2: Giá trị sản xuất nông nghiệp Việt Nam 2001-2007 (nghìn tỷ đồng)
Năm


Tổng

Trồng trọt

Chăn nuôi

Dịch vụ

2001

130,2

101,4

25,5

3,3

2002

145,0

111,2

30,5

3,3

2003


154,0

116,1

34,5

3,4

20


2004

172,5

131,6

37,3

3,6

2005

184,8

138,0

43,4

3,4


2006

197,0

144,8

48,6

3,6

2007

200,0

114,3

29,2

3,3

[Nguồn: Tổng cục Thống kê]
Sự phát triển kinh tế của Việt nam trong các năm qua đã góp phần xóa đói, giảm nghèo,
đưa tỉ lệ người nghèo giảm từ 50% xuống còn 20%. GDP bình quân đầu người Việt nam hiện
nay là 600US$ và tăng mỗi năm từ 50-100US$. Ở nước ta, hiện lĩnh vực nông nghiệp đang là
nguồn sinh kế chính của hơn 60% dân số cả nước. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam đang trên
đà phát triển, nó đã cung cấp cho thị trường quốc tế những sản phẩm hàng hóa, nhất là lúa gạo.
Kể từ năm 1989 đến nay, nước ta đã trở thành một quốc gia xuất khẩu nông sản, trong đó, gạo
chiếm một tỷ lệ khá lớn. Ngành sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia
đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện nghèo và có nguy cơ tiềm ẩn tái

nghèo.Với vị trí quan trọng như vậy nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối
với người dân. Tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp của nước ta liên tục tăng cao.
Đặc biệt là xuất khẩu lúa gạo đã đạt hàng thứ hai trên thế giới (xem biểu sau)
Biểu đồ 3: Xuất khẩu nông nghiệp trong những năm 2001-2007

[Nguồn: Tổng cục Thống kê]
Theo báo cáo của Bộ NN và PT Nông thôn tháng 12 năm 2007 cho biết: Giá trị sản xuất
nông lâm thủy sản ước đạt gần 200 nghìn tỷ đồng tăng 4,6% so với năm 2006, trong đó nông
nghiệp đạt 146,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,87%, lâm nghiệp đạt 6,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,06%, thủy
sản ước đạt 47 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2%. Tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 40,17 triệu
tấn, tăng 1,3% so với năm 2006. Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 4,1 triệu tấn, đạt 108% so với
kế hoạch và tăng 11,6% so với năm 2006. Uớc kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm
2007 đạt 12,6 tỉ USD, vượt kế hoạch cả năm 16%, tăng 18,7% so với năm 2006. Theo ước tính,
năm 2007 xuất khẩu gạo của Việt Nam ước đạt trên 4,53 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,4 tỷ USD.
Theo Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quí I/2008 (theo giá
cố định 1994) ước đạt 42.597,13 tỉ đồng Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản toàn
ngành quí I năm 2008 ước đạt 3,2 tỉ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ, trong đó các mặt hàng
nông sản đạt 1,7 tỉ USD tăng 11,5%; thuỷ sản đạt gần 800 triệu USD cũng có mức tăng 11,5%;
lâm sản đạt 712 triệu USD, tăng 12%.
21


Xuất khẩu quí I/2008 tăng về kim ngạch so với cùng kì năm trước, nhưng số lượng nhiều
mặt hàng có giá trị XK cao như: cà phê, tiêu, cao su, đồ gỗ...lại bị giảm. Đó là do giá trung bình
của hầu hết các mặt hàng tăng từ 30 - 40%, mặt hàng thấp nhất cũng tăng 10%. Yếu tố tăng giá
thế giới cũng làm cho kim ngạch nhập khẩu đối với một số nguyên liệu (yếu tố đầu vào) phục vụ
sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, v.v... cũng tăng đáng kể, tạo sự mất cân bằng
mới trong cán cân thương mại nông nghiệp.
Biểu 4:


[Nguồn: Bộ NN và PT nông thôn]
Nông nghiệp Việt Nam hiện nay mang đậm những nét đặc trưng sau đây:








Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm, đây là xu hướng tất yếu do quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. tỷ lệ bình quân giảm ở mức 7,8% trong vòng 6
năm (2001-2006).
Giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ làm việc trọng các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tính đế nử nảm 2006, số hộ lao động trong
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ở nông thôn là 9,78 triệu hộ, giảm 7,9 triệu hộ so với năm
2001.
Nhóm hộ trong lĩnh vực thuỷ sản tăng lên: Năm 1994 chiếm 2,3% tổng số hộ hoạt động
trong ngành nông nghiệp trong cả nước; năm 2001 – 4,2%; năm 2006 đã chiếm 6,2%.
Riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long tăng manh nhất – năm 2006 chiếm 15,1% (so
với năm 2001 là 9,8%).
Kinh tế trang trại phát triển. Đây là mô hình kinh tế theo hướng kinh tế hàng hóa, thị
trường. Năm 2006 kinh tế trang trị đã tạo ra việc làm thường xuyên cho gần 400 nghìn
lao động nông nghiệp ở nông thôn (gấp 1,7 lần so với năm 2001).
Lao động kỹ thuật trong những năm qua có xu hướng tăng lên. Năm 2005, số lao động
này chiếm 4,2% tổng số lao động nông nghiệp của cả nước. Lao động kỹ thuật bậc cao có
tăng lên (năm 1999 – là 2,3%; năm 2005 – 3,8%). Tuy vậy, nếu nhìn toàn cục, thì đội ngũ
có chất lượng lao động kỹ thuật cao chưa tăng mạnh mẽ.
22






Xét tổng quát, sự chuyển đổi cơ cấu hộ gia đình từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang
các lĩnh vực kinh tế khác còn rất chậm. Và ở các vùng miền không đồng đều.
Kinh tế nông thôn Việt Nam vẫn còn mang nặng tính chất thuần nông. Tình hình thất
nghiệp trá hình còn lớn (do thừa lao động, do thiếu việc làm, nông nhàn, v.v.) . Theo
thống kê của Bộ TBLĐ-XH thời gian làm việc bình quân của 1 lao động nông nghiệp chỉ
chiếm 80% thời gian lao động cả năm. Còn trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp chỉ
chiếm khảng 76%. Đây là một trong những nguyên nhân “đẩy” người dân nông thôn ra
đô thị tham gia vào dòng chuyển cư nông thôn-đô thị, nông thôn-nông thôn, và một bộ
phận tham gia vào xuất khẩu lao động.

Bảng 3:
Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế
và phân theo ngành kinh tế
%
2000
TỔNG SỐ

2001

2002

2003

2004

2005


100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0

Sơ bộ
2006
100.0

Phân theo thành phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước

9.3

9.3

9.5

9.9

9.9

9.5

9.2

90.1

89.7

89.4


88.8

88.6

88.9

89.2

0.6

0.9

1.1

1.3

1.5

1.6

1.6

62.5

60.6

58.7

57.0


55.4

53.8

52.1

2.6

2.8

3.2

3.3

3.4

3.5

3.6

10.3

11.0

11.5

12.3

12.7


13.5

14.3

2.8

3.3

3.9

4.2

4.6

4.7

4.6

10.4

10.5

10.8

11.2

11.5

11.6


11.7

Khách sạn, nhà hàng

1.8

1.8

1.8

1.8

1.8

1.8

1.8

Vận tải, kho bãi, thông tin liên
lạc

3.1

3.1

3.0

2.9

2.9


2.7

2.6

Văn hoá, y tế, giáo dục

3.6

3.7

3.8

3.9

4.0

4.1

4.2

Các ngành dịch vụ khác

2.9

3.1

3.3

3.5


3.7

4.4

5.2

Kinh tế ngoài Nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài
Phân theo ngành kinh tế
Nông nghiệp và lâm nghiệp
Thuỷ sản
Công nghiệp
Xây dựng
Thương nghiệp

[Nguồn: Tổng cục Thống kê]

23


2.3 – Những cam kết Việt Nam phải thực hiện khi vào WTO
Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát
triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông
nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là người nông dân
nghèo. Theo quy định của WTO về nông nghiệp, nước xin gia nhập vào tổ chức thương mại này
phải thoả mãn 2 điều kiênh:
1. Giảm trợ cấp nông nghiệp, bao gồm cả trợ cấp xuất khẩu và sản xuất,
2. Tăng mức độ mở của thị trường của mình, hay nói cách khác, là tăng sự tiếp cận thị

trường cho các quốc gia thành viên của WTO.
Sau khi ký kết và trở thành thành viên WTO, Việt Nam đã cam kết cắt giảm trợ cấp xuất
khẩu nông nghiệp ngay sau khi gia nhập WTO. Việt Nam sẽ có 5 năm quá độ cho việc cắt giảm
trợ cấp xuất khẩu dưới dạng khuyến khích đầu tư.Việt Nam đã cam kết thực hiện những điều
khoản vệ sinh an toàn thực phẩm ngay sau khi hội nhập, đồng thời Việt Nam sẽ cắt giảm mức
thuế quan đối với các mặt hàng nông nghiệp. Hiện tại mức thuế quan bình quân trong nông
nghiệp của Việt Nam là 27%, rất nhiều khả năng mức thuế này sẽ bị cắt giảm xuống khoảng
15%. Một cam kết nữa là Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự vệ đặc biệt nhằm giảm
thiểu tác động của đột biến nhập khẩu đối với giá cả các mặt hàng chăn nuôi như thịt heo, thịt
bò... điều này sẽ gây thiệt thòi cho người nông dân. Điều đó dẫn đề những thuận lợi và khó khăn
cho nông nghiệp Việt Nam hội nhập vào WTO.
2.4 - Những thuận lợi, khó khăn khi Việt Nam đã là thành viên WTO
Để thực hiện những cam kết và hội nhập vào sân chơi của WTO. Việt Nam đang gặp những
2.4.1- Sự cạnh tranh về giá cả trong thương mại
Nhiều tổ chức thế giới đã và đang hỗ trợ giúp Việt Nam phát triển, trong đó có Ngân hàng
thế giới (WB). Trong những công bố của mình (WB) luôn quan tâm khuyến cáo Việt Nam về
những thách thức của WTO đối với Việt Nam, nhất là nông nghiệp và nông thôn, vì đây là khu
vực dễ tổn thương nhất, trong đó nhấn mạnh sự cạnh tranh trong thương mại nông nghiệp. Theo
WB, thử thách lớn của Việt Nam khi gia nhập WTO chính là sự chuyển động chậm chạp trong
thương mại nông nghiệp của Việt Nam. Bởi khi vào WTO, nông sản sẽ hầu như lưu thông tự do
với thuế suất giảm, thậm chí bằng 0, và do vậy, nước nào yếu kém hơn sẽ thua. Chính vì thế,
Việt Nam phải thương mại hóa nông nghiệp hơn nữa: Gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội cho việc tăng
tốc trở lại của thương mại nông nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển
nông thôn và bổ sung cho nhu cầu của thị trường nội địa. Lý do là:
1. Thế mạnh xuất khẩu nông nghiệp Việt Nam là lúa gạo. Song chỉ dựa vào lúa gạo thì chưa
kích thích nổi vai trò của sản xuất của các ngành nghề khác.
2. Những hàng hóa nông sản mà Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, một số cây ưu tiên cho
xuất khẩu (như cây bông vải), hoặc có thể gặp phải rủi ro do quá thiên lệch vào một số
chủng loại như bắp/ngô, mà chưa chú trọng phát triển những cây trồng, vật nuôi có thế
mạnh cho xuất khẩu như lạc, đỗ, bông v.v.). Vậy sản xuất cây công nghiệp của Việt Nam

cần chú trọng không chỉ về số lượng mà cả năng suất nữa. Để bán hàng hoá WTO đòi hỏi
không chỉ số lượng mà chất lượng sản phẩm, những với giá cạnh tranh.
3. Việt Nam gia nhập WTO, hàng hoá nông nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt, Việt Nam vẫn
có những lợi ích mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống. Đồng
thời, Việt Nam có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
24


4. Ngoài sản xuất khẩu gạo, Việt Nam còn rất nhiều sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh
tranh như cà phê, điều, hồ tiêu... các sản phẩm thuỷ sản )như cá tra, ba sa...). Đây là
những sản phẩm mà các nước lớn hầu như có ít lợi thế. Tuy nhiên cần có hình thức trợ
giúp người nông dân một cách hợp lý, và minh bạch những hình thức trợ giúp đó cho
nông dân để tránh thiệt hại do bị kiện bán phá giá.
2.4.2 - Đất đai, thị trường lao động, di dân nông nghiệp thời hội nhập luôn di, biến động.
Với tư cách thành viên WTO, vấn đề hết sức nổi cộm của nông nghiệp Việt Nam là: để sản xuất
theo hướng hàng hóa trong sản xuất nông nghiệp, cần tập trung giải quyết bài toán ruộng đất: Do
thực hiện khoán hộ trong quá trình Đổi mới nên nảy sinh một hiện trạng đất đai canh tác nông
nghiệp quá “manh mún” không sản xuất lớn được. Hơn thế, việc thi hành Luật đất đai (1993 và
2003) cho thấy sự mâu thuẫn giữa nhu cầu sản xuất tập trung, chuyên canh trên diện tích rộng để
cơ giới hoá nông nghiệp, với quyền sử dụng đất giao cho các hộ gia đình nên vấp phải vấn đề
làm sao tích tụ đủ ruộng đất để có thể vận dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tăng
sản lượng, năng suất cho cây trồng, nhất là những cây xuất khẩu. Mặt khác, về khía cạnh xã hội,
Việt Nam lại phải giải quyết các mâu thuẫn “điền chủ” trong xã hội nông thôn - vấn đề quyền sử
dụng đất nông nghiệp.
Hiện nay, trong nông thôn Việt Nam đang chuyển sang một giai đoạn mới thực thi chính
sách quản lý đất đai với những điểm nổi bật sau: Một là, Tăng cường quản lý hành chính về đất
đai như là một ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ quyền sử dụng đất cũng như thị trường đất đai đã
hình thành trước đây, cũng như việc thực hiện sự công bằng xã hội đối với đất đai bằng cách
đưa tên người vợ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai là, thực hiện chính sách dồn điền
đổi thửa cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún, một trong những khó khăn chủ yếu của phát

triển sản xuất lớn để phát triển nông nghiệp trong hội nhập. Ba là, Dân số ở nông thôn sẽ không
giảm, nên cách tiến hành cần mềm dẻo, linh hoạt, cần phát huy sức mạnh trí tuệ của cộng đồng,
cũng như cần có những tác động hỗ trợ cần thiết khác để đạt được kết quả như mong đợi. Bốn là,
Việc thực hiện chính sách đất đai ở nông thôn cũng là một vấn đề trọng điểm không chỉ ở đồng
bằng mà cả ở vùng trung du, miền núi. Lý do là sự tác động của phong tục, tập quán, luật tục của
bà con địa phương. Cần chú ý đến tập quán sử dụng đất này, bởi quyền sử dụng đất truyền thống
có thể đóng góp tích cực vào quản lý rừng và giảm nghèo ở vùng cao nơi có nhiều cộng đồng
dân tộc thiểu số. Vậy, cần phải tiến hành thận trọng đối với đất rừng và đất chưa sử dụng tại
vùng dân tộc thiểu số, nơi vẫn giữ các cơ cấu xã hội truyền thống, và hợp pháp hóa các diện tích
đất đai mà trước đây chính quyền địa phương đã giao một cách không chính thức cho các cộng
đồng (khoảng hơn 1 triệu ha). Cần tiến hành đồng thời cải cách các lâm trường quốc doanh”.
Năm là, quá trình sử dụng đất đai và sự hiện diện của thị trường đất đai cho thấy sự báo động về
những bất trắc một khi nông dân nghèo bán đất; mặt khác, khả năng tập trung đất từ nhiều trang
trại nhỏ hiện nay là rất hạn chế. Hậu quả xã hội xảy ra một khi nông dân mất ruộng đất, kéo
theo nó là những rủi ro và các vấn đề xã hội nảy sinh.
III - Tác động của sự hội nhập vào WTO đến nông nghiệp Việt Nam hiện nay
3.1 - Những tác động lớn, toàn diện đến nên nông nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, Những cú sốc bắt nguồn từ bên ngoài giống như việc rớt giá các nông sản (từ
toàn cầu hóa/gia nhập WTO), đặc biệt ở những vùng chuyên canh một vài loại cây trồng: việc sụt
giảm thu nhập từ cà phê sau khi bị rớt giá vào cuối những năm 1990 nên các hộ sản xuất nhỏ
sống dựa vào trồng cà phê phải tìm kiếm thêm việc làm khác để bổ sung thu nhập. Tương tự như
vậy nhưng ở mức độ nhẹ hơn, nông dân ở các vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long
cũng bị ảnh hưởng bởi sự rớt giá nông sản trên thị trường thế giới, và đã xuất hiện xu hướng
thoát ly khỏi nông nghiệp và tăng việc làm công ăn lương. Tại các vùng khác, việc tăng lao động
làm công phần nhiều do yếu tố hấp dẫn của các hoạt động phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn
làm nông nghiệp. Những thay đổi này - bao gồm cả những thay đổi tích cực - đang dần rõ nét và
mãnh mẽ hơn khi là thành viên WTO.
Thư hai, Giá cả các loại hàng hóa khác thay đổi, nhất là vật tư nông nghiệp nhập từ thị
trường thế giới, tất yếu gây ra những tác động của, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định sản
25



×