Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh hà nội ngân hàng phương đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.93 KB, 99 trang )

Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

MỤC LỤC

1

SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TSĐB

Tài sản đảm bảo


CVTD

Cho vay tiêu dùng

GTCG

Giấy tờ có giá

TTK

Tiền tiết kiệm

2

SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

3

SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A



Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

LỜI MỞ ĐẦU

Trong điều kiện nền kinh,tế nước ta ngày càng phát triển, cuộc sống
ngày càng hiện đại hơn, đời sống nhân dân ngày,càng được cải thiện và nâng
cao, thị trường hàng hóa cũng ngày càng đa dạng,và phong phú hơn với nhiều
mẫu mã và chủng loại, đã đáp ứng được các nhu cầu khác nhau và ngày một
gia tăng của người tiêu dùng. Tuy nhiên,,không phải người tiêu dùng nào
cũng có khả năng tự chi trả hoàn toàn cho nhu cầu tiêu dùng của mình. Từ
thực tế đó, các ngân hàng đã phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, vừa đáp
ứng nhu cầu của khách hàng đồng thời tạo ra thu nhập cho ngân hàng.
Theo xu hướng đó, Chi nhánh Hà Nội ngân hàng Phương Đông cũng đã
phát triển một số sản phẩm cho vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng như: cho vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà ở, cho vay mua
xe ô tô, cho vay không có tài sản đảm bảo đối với các cán bộ nhân viên đang
làm việc tại các Đơn vị được OCB chấp nhận,…Trong những năm qua, chi
nhánh đã thu được những kết quả khả quan cả về quy mô và chất lượng món
vay. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc mở
rộng và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng một cách hiệu quả là vấn đề
quan trọng cần được quan tâm và chú trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng hoạt động cho vay
tiêu dùng, cũng với mong muốn được tìm hiểu về thực trạng và khả năng phát
triển hoạt động này tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng Phương Đông trong
tương lai, em đã lựa chọn đề tài: “Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại
chi nhánh Hà Nội ngân hàng Phương Đông” để nghiên cứu cho chuyên đề

tốt nghiệp của mình.

4
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Kết cấu chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Hà
Nội ngân hàng Phương Đông
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi
nhánh Hà Nội ngân hàng Phương Đông

5
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính,quan trọng
nhất của nền kinh tế, thường chiếm tỷ trọng lớn nhất,về quy mô tài sản, số
lượng các ngân hàng.
Với sự hiện,hữu của ngân hàng, các doanh nghiệp, công ty, hãng kinh
doanh có thể dùng các khoản vay của ngân hàng như một nguồn tài trợ vốn
hiệu,quả khi có nhu cầu bổ sung thêm vốn để mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tăng khả năng cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác trên thị trường trong nước và nước ngoài. Với các
cá nhân, hộ gia đình, bằng những khoản vay ngân hàng thương mại , họ có thể
trang trải chi phí học tập, mua sắm ô tô, đồ dùng gia đình, sửa chữa và xây
dựng nhà cửa,… Việc phân bổ,vốn qua ngân hàng góp phần nâng cao hiệu
quả huy động và sử dụng vốn của nền kinh tế.
Do hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực
trong nền kinh tế nên đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về ngân
hàng thương mại mà tùy thuộc vào mục đích và khía cạnh nghiên cứu.
Trên cơ sở xem xét những loại hình dịch vụ cung cấp, giáo sư Peter
Rose đã khẳng định: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch

6
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A



Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Dưới giác độ nghiên cứu của một nhà quản lý, Luật các tổ chức tín dụng
của nước Cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt Nam (2011) quy định: “Ngân hàng
là loại hình tổ chức tín dụng có thể thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
theo quy định của Luật này”. “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung
ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
a)
b)
c)

Nhận tiền gửi.
Cấp tín dụng.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.

Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 số 47/2010/QH12 thì “Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lợi nhuận”.
Như vậy, có thể thấy NHTM là tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất trong các loại hình hoạt động tín dụng. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội cụ thể của từng nước mà pháp luật về ngân hàng có những
đặc điểm đặc thù về tổ chức và hoạt động.
- NHTM là trung gian về vốn: Thông qua việc huy động các khoản vốn,tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại hình thành nên quỹ

cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với đặc điểm này, NHTM vừa
đóng vai trò là người đi vay,vừa đóng vai trò là người cho vay.
- NHTM là trung gian về kỳ hạn, giúp chuyển đổi kỳ hạn của vốn. Nguồn tiền
trong ngân hàng được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục của các khoản huy động

7
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

và đi vay. Do đó, một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là ngắn hạn, có thể tồn tại
trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kỳ hạn thực tế là trung và dài hạn.
- NHTM là trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại thực hiện chức năng
trung gian thanh toán,trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian,tín dụng vì
tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng chính là một phần
tiền gửi trước đó.Ngân hàng thực hiện thanh toán, giá trị hàng hóa và dịch vụ
theo lệnh của khách hàng.
- NHTM là trung gian về thông tin. Thông tin trong ngân hàng thương mại
được tập trung cao, sẵn sàng chia sẻ với các tổ chức tín dụng khác khi cần
thiết và phù hợp.
- NHTM là trung gian về rủi ro. Trong ngân hàng thương mại, rủi ro được bù
đắp theo nguyên tắc số đông.
- NHTM có tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn nhỏ, nguồn vốn chủ
yếu mà ngân hàng sử dụng trong kinh doanh là vốn huy động từ bên ngoài,
trong khi đó vốn riêng của ngân hàng lại,chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng

nguồn vốn kinh doanh. Do đó, trách nhiệm của NHTM đối với các chủ nợ là
rất cao. Thông tư 13/2010/TT- NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo
an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, quy định tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu (CAR) là 9%.
Trong nguồn vốn của NHTM, phần tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ
trọng cao, do đó ngân hàng cần chú ý tới việc quản lý thanh khoản nhằm đảm
bảo khả năng hoạt động cho ngân hàng.
Trong tổng tài sản của ngân hàng, tài sản hữu hình chiếm,tỷ trọng rất
thấp, mà chủ yếu là tài sản vô hình, tài sản tài chính. Nó tồn tại dưới hình thức
8
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

các tài sản tài chính, chẳng hạn như các loại kỳ phiếu, cổ,phiếu, hợp đồng tín
dụng, khế ước nhận nợ và các loại giấy tờ có giá trị khác. Do đó, cần khắc
phục khe hở về kỳ hạn để đảm bảo hoạt động của ngân hàng.
- NHTM là tổ chức kinh doanh có điều kiện. Để được phép hoạt động trong
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, các NHTM phải đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu, quy định nghiêm ngặt về vốn, các điều kiện về cơ sở vật chất, mạng lưới
chi nhánh,…
- Sản phẩm dịch vụ tài chính mà NHTM cung cấp liên tục biến đổi theo điều
kiện thị trường, dễ bắt chước và không có bản quyền.Do đó, để cạnh tranh,
các NHTM cần nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Mặt khác, sản phẩm
của ngân hàng là sự tích hợp các sản phẩm cũ thành sản phẩm mới, sự tích

hợp này dựa trên nền tảng công nghệ cao, do đó để cạnh tranh, cần phát triển
các sản phẩm dịch vụ thông qua kênh phân phối hiện đại.
- NHTM hoạt động dựa trên yếu tố “tín”, lòng tin. Khi ngân hàng có uy tín thì
các khách hàng sẽ gửi tiền vào ngân hàng, đồng thời, việc ngân hàng cho
khách hàng vay cũng dựa trên sự tin tưởng về khả năng hoàn trả nợ của khách
hàng. Tuy nhiên, yếu tố lòng tin không vững chắc do thông tin không cân
xứng, dẫn đên sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
- Do đó, hoạt động của NHTM chịu sự giám sát chặt chẽ từ cơ quan quản lý
nhà nước về hoạt động ngân hàng, của NHNN và các Hiệp hội.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn

9
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Hoạt động huy động vốn đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất
lượng hoạt động của NHTM. Trong đó, nguồn vốn quan trọng nhất và chiếm
tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM là nguồn tiền gửi của
khách hàng.
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại
tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn

trong nước và nước ngoài.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ
chức tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác của NHTM theo quy định của NHNN.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Theo Điều 98, Luật các tổ chức tín dụng 2010, NHTM được phép cấp
tín dụng cho các chủ thể nền kinh tế dưới các hình thức: “cho vay; chiết khấu,
tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; bảo lãnh ngân
hàng, phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán trong nước, bao thanh toán quốc
tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế và các hình
thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận.”
Trong các hoạt động tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
10
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

- Cho vay: NHTM được cho vay các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình
thức cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng
nhu cầu về vốn,lưu động cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng ngắn hạn. Cho
vay trung và dài hạn nhằm tài trợ cho các dự án,đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu dài.
- Chiết khấu: NHTM được phép chiết khấu các giấy tờ có giá,như thương

phiếu, tín phiếu,.. đối với các tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó,NHTM cũng có
thể đem những giấy tờ có giá này tới các tổ chức tín dụng khác hoặc NHNN
để tái chiết khấu.
- Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo,lãnh ngân hàng khác
bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
- Cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính của NHTM được xếp vào loại hình
tín dụng trung và dài hạn. NHTM thường thành lập bộ phận cho thuê hay một
công ty cho thuê tài chính độc lập. Ngân hàng cũng thường kết nối với các
doanh nghiệp để đảm bảo chất lượng tài sản cho thuê.
1.1.2.3. Các dịch vụ tài chính khác
Ngoài các hoạt động quan trọng như huy động vốn và cấp tín dụng, các
NHTM còn có các sản phẩm dịch vụ tài chính khác được quy định trong Luật
các tổ chức tín dụng 2010 như:
- Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
- Cung ứng các phương tiện thanh toán.

11
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

- Cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản: cung ứng phương tiện thanh
toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy
nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho

khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
Ngoài ra, NHTM còn thực hiện hoạt động mua bán ngoại tệ, bảo quản
tài sản hộ, quản lý ngân quỹ, ủy thác và tư vấn, cung cấp dich vụ môi giới
chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm cho các chủ thể trong nền kinh tế, tạo điều
kiện đa dạng hóa các hoạt động và sản phẩm trong NHTM.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cho vay tiêu dùng
1.2.1.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thỏa
thuận để khách hàng là cá nhân và hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với
mục đích tiêu dùng, với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian
nhất định.
Các khoản cho vay tiêu dùng nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
người tiêu dùng. Đây là nguồn tài chính quan trọng, hữu ích giúp người tiêu
dùng có thể trang trải các nhu cầu chi tiêu, mua sắm trong đời sống như nhà
ở, phương tiện, đồ dùng gia đình,… Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng còn đáp
ứng những chi tiêu cho nhu cầu về giáo dục, y tế, du lịch,.. nhờ vậy mà họ có
được một cuộc sống có chất lượng hơn.
1.2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng

12
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm


Cho vay tiêu dùng có những đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân
hàng nói chung:
Một là, quy mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn.
Do nhu cầu của người dân đối với các loại hàng hóa xa xỉ thường là không
cao, hoặc đã có tích lũy từ trước nên các khách hàng tìm đến ngân hàng với
mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không cao. Bên cạnh đó, một
phần là do đi kèm với rủi ro cao hơn nên ngân hàng cũng thường thận trọng
hơn trong việc quyết định số tiền cho vay căn cứ theo khả năng trả nợ và tài
sản đảm bảo của các khách hàng.
Tuy nhiên, xét về số lượng các khoản vay tiêu dùng thì nhu cầu vay
tiêu dùng là khá lớn do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân có
đủ điều kiện trong xã hội, từ những người có thu nhập cao đến những người
có thu nhập trung bình, và thấp, với những nhu cầu phong phú và đa dạng.
Khi nền kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí tăng thì
nhu cầu vay tiêu dùng sẽ càng lớn, số lượng các khoản cho vay tiêu dùng sẽ
càng nhiều.
Hai là, về lãi suất của các khoản cho vay tiêu dùng. Do các khoản vay
thường nhỏ, nên chi phí để cho vay các khoản này thường cao hơn các loại
hình cấp tín dụng khác, dẫn đến lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi
suất cho vay thương mại thông thường.
Mặt khác các khoản cho vay tiêu dùng thường có lãi suất “cứng nhắc”.
Ngay khi quan hệ tín dụng được hình thành thì mức lãi suất đã được xác định
và duy trì trong suốt thời hạn vay mà không thể thay đổi theo điều kiện thị
trường.
13
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A



Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Ba là, các khoản cho vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao, bởi nguồn
trả nợ của người vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào thu nhập, quá trình
làm việc, kinh nghiệm, tài năng, sức khỏe,…của người trả nợ. Nếu người vay
gặp vấn đề về sức khỏe, mất việc làm hay có biến cố bất ngờ ảnh hưởng đến
thu nhập, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ. Hơn nữa, tư cách,
phẩm chất của khách hàng thường rất khó xác định, không rõ ràng, đầy đủ
như thông tin về doanh nghiệp (thông báo công khai qua các báo cáo tài
chính), mà chủ yếu dựa vào đánh giá cảm nhận và kinh nghiệm của cán bộ tín
dụng. Điều này rất dễ gây ra rủi ro đạo đức và rủi ro thông tin không cân
xứng, ảnh hưởng quan trọng tới quyết định hoàn trả của khoản vay.
Bốn là,các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn. Số lượng các
món vay tiêu dùng nhiều, nhưng lượng vay lại nhỏ nên ngân hàng cần phải
huy động nhiều nhân lực cho hoạt động cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ,
thẩm định khách hàng, quyết định cho vay, giải ngân cũng như kiểm soát và
thu hồi nợ sau khi cho vay. Mặt khác, chi phí quản lý các khoản vay này lại
lớn do thông tin về khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng cá nhân,
hộ gia đình thường không công khai minh bạch như các doanh nghiệp. Do đó,
chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với
các loại hình cho vay khác.
Năm là,cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có khả năng
sinh lời cao nhất. Đi kèm với rủi ro cao là lợi nhuận kỳ vọng cũng cao.Do cho
vay tiêu dùng có độ rủi ro cao, lãi suất lại cao hơn so với cho vay thương mại
nên độ sinh lời sẽ tăng.
Sáu là, cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Khi nền
kinh tế tăng trưởng, đời sống của nhân dân được nâng cao, họ có xu hướng
14

SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

tăng nhu cầu vay tiêu dùng nhằm tăng chất lượng cuộc sống. Khi nền kinh tế
suy thoái thì nhu cầu này lại giảm đi. Vào các dịp lễ tế, khi nhu cầu mua sắm
nhiều thì số lượng các khoản vay cũng tăng lên theo.
1.2.1.3. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng


Đối với người tiêu dùng

Cho vay tiêu dùng có tác dụng đặc biệt quan trọng đối với những người có
thu nhập thấp và trung bình. Nhờ có cho vay tiêu dùng, họ sẽ được hưởng
điều kiện sống tốt hơn, chất lượng cuộc sống được cải thiện, được hưởng các
dịch vụ, tiện ích trước khi có đủ khả năng về tài chính khi mua sắm các hàng
hóa có giá trị cao nhưng thiết yếu như nhà cửa, xe cộ,… hay trong những
trường hợp có tính đột xuất, cấp bách như nhu cầu y tế và giáo dục.
Cuộc sống của con người càng không ngừng nâng cao nên nhu cầu tiêu
dùng của con người không chỉ dừng lại ở những hàng hóa giản đơn mà có xu
hướng hướng tới những hàng hóa có giá trị,cao hơn nhằm thỏa mãn nhu cầu
ngày càng tăng của họ. Mặt khác, việc thỏa mãn nhu cầu sẽ thúc đẩy người
tiêu dùng phấn đấu chi trả cho nhu cầu đó càng sớm càng tốt, vì ngân hàng
thông thường sẽ lấy chính tài sản mua sắm,làm tài sản đảm bảo. Điều này sẽ
khiến họ làm việc chăm chỉ, tích cực hơn và làm tăng thu nhập trong tương lai

của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều việc đi vay để tiêu dùng có thể sẽ vượt
quá khả năng chi trả các khoản nợ của họ, giảm tiết kiệm và chi tiêu trong
nước. Do vậy, người tiêu dùng cần tính toán để việc chi tiêu được hợp lý,
không vượt quá mức cho phép và đảm bảo khả năng chi trả.


Đối với nhà sản xuất

15
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Các nhà sản xuất luôn mong muốn tăng được lợi nhuận, mở rộng sản xuất
kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh đối với các đối thủ và vững vàng về thị
phần. Để đạt được mục tiêu đó, họ tiêu thụ càng nhiều hàng hóa càng tốt, họ
sẵn lòng bán những hàng hóa trả góp, hay bán chịu trong một thời gian. Do
vậy, nhà sản xuất bán được sản phẩm, khả năng quay vòng vốn nhanh hơn,
mở rộng sản xuất, lợi nhuận công ty được tăng lên.


Đối với ngân hàng thương mại

Ngoài những rủi ro và chi phí khi cho vay tiêu dùng, ngân hàng còn có thể

có được những lợi ích từ cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng giúp ngân hàng nâng cao tính cạnh tranh đối với các
ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, thu hút được khách hàng mới do
khách hàng thường có ràng buộc với khách hàng về việc chuyển tiền hoặc
dùng lương trả qua tài khoản ngân hàng. Qua đó mà mở rộng quan hệ với
khách hàng. Bằng cách nâng cao và mở rộng mạng lưới, đa dạng hóa sản
phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng
đến với ngân hàng sẽ ngày càng tăng, nhờ đó, hình ảnh của ngân hàng sẽ ngày
càng được nâng cao.
Bên cạnh đó, nhờ hoạt động cho vay tiêu dùng, ngân hàng sẽ đa dạng hóa
được sản phẩm, mở rộng sản xuất kinh doanh , nâng cao thu nhập và phân tán
rủi ro cho ngân hàng.


Đối với nền kinh tế

Có thể nói, việc ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay tiêu
dùng không chỉ thoả mãn nhu cầu thiết yếu, nâng cao chất lượng cuộc sống
của người tiêu dùng mà còn là hoạt động phân bổ,vốn hiệu quả cho nền kinh
16
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

tế, chuyển tiền từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn, thúc đẩy sản

xuất, tạo công ăn việc làm, tăng khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất.
Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho người tiêu dùng, các NHTM đã
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng khả năng cạnh tranh của các hàng hóa
trong nước, qua đó, hỗ trợ Nhà nước trong việc đạt được các mục tiêu về kinh
tế, xã hội như tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giải quyết công ăn
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người dân.
1.2.2. Phân loại cho vay tiêu dùng
1.2.2.1. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng được phân thành
ba loại:
- Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó
người đi vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những
kỳ hạn nhất định do,ngân hàng quy định (tháng, quý,…). Hình thức này áp
dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc những,khách hàng mà thu nhập
định kỳ của họ không đủ khả năng thanh toán hết số nợ vay trong một lần.
- Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Là khoản vay ngắn hạn của các cá nhân và hộ
gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời,hoặc mua hàng hóa có giá trị
không lớn và được thanh toán một lần khi đến hạn.
Đặc điểm của các khoản cấp tín dụng này là thường có quy mô nhỏ,
thời hạn cho vay ngắn. Ngân hàng áp dụng hình thức này bởi đây là biện
pháp sẽ giúp ngân hàng không mất nhiều thời gian như khi phải tiến hành thu
nợ làm nhiều kỳ. Trên thực tế, khoản cho vay tiêu dùng cấp theo hình thức
17
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

này có rất ít.
- Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng cho phép khách hàng vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn,
theo một hạn mức tín dụng tín dụng, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập
kiếm được trong từng kỳ. Khách hàng có thể sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát
hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.
1.2.2.2. Căn cứ vào mục đích vay
Theo mục đích vay vốn, cho vay tiêu dùng có thể được phân thành 2
loại: cho vay tiêu dùng thông thường và cho vay bất động sản.


Cho vay tiêu dùng thông thường:
Đây là những khoản vay nhằm phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như

mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt, du lịch, học hành, giải trí,…
Thông thường, các khoản tín dụng này có quy mô tương đối nhỏ, thời gian tài
trợ ngắn nên ngân hàng sẽ chịu độ rủi ro nhỏ hơn so với các khoản cho vay
tiêu dùng khác. Đối với loại hình cho vay tiêu dùng này, yếu tố quan trọng để
quyết định việc ngân hàng có cho vay hay không là ở khả năng trả nợ của
người vay, sau đó mới xem xét đến giá trị tài sản đảm bảo. Một số loại hình
cho vay tiêu dùng có thể kể đến như:
- Cho vay mua xe hơi: khoản cho vay này tài trợ cho các cá nhân, hộ gia đình
có nhu cầu mua ô tô phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
- Cho vay du học: là khoản vay đối với thân nhân của những người đi du học
nhằm hỗ trợ về mặt tài chính tại chỗ hoặc nước ngoài cho người đi du học.

18
SV: Đồng Thị Linh Hằng


Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

- Cho vay hỗ trợ tiêu dùng khác: là các khoản vay nhằm phục vụ cho các mục
đích đa dạng khác của cá nhân và hộ gia đình như du lịch, y tế, …


Cho vay tiêu dùng bất động sản:
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm,

xây dựng, cải tạo nhà cửa của các cá nhân và hộ gia đình. Đặc điểm của các
khoản vay này là thường có quy mô lớn và thời gian dài. Đối với loại hình
này thì việc đánh giá giá trị tài sản đảm bảo có vai trò vô cùng quan trọng đối
với ngân hàng. Nếu như trong hoạt động cho vay tiêu dùng thông thường thì
thu nhập tương lai của người đi vay là yếu tố quyết định thì trong cho vay tiêu
dùng bất động sản, giá trị thị trường cũng như tình hình biến động của tài sản
đảm bảo là yếu tố mà các ngân hàng rất luôn quan tâm. Do giá trị của khoản
tín dụng này thường là lớn, nên sự biến động theo hướng tiêu cực của giá tài
sản đảm bảo sẽ gây thiệt hại rất lớn tới thu nhập của ngân hàng.
1.2.2.3. Căn cứ vào nguồn gốc của các khoản nợ
Theo nguồn gốc của các khoản nợ, cho vay tiêu dùng được chia thành 2
loại: cho vay tiêu dùng trực tiếp và cho vay tiêu dùng gián tiếp.


Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó,

ngân hàng sẽ tiếp xúc với khách hàng của mình, thẩm định, đánh giá nhu cầu
vay vốn của khách hàng và việc thu nợ cũng được trực tiếp tiến hành bởi các
cán bộ tín dụng của ngân hàng.
Việc cho vay tiêu dùng trực tiếp có thể sơ đồ hóa qua các bước sau đây:
Công
ty bán
Ngân Sơ
hàng
đồ 1.1: Quy trình cho vay tiêu dùng
trực
tiếp:lẻ

19
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A

Người tiêu dùng


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

(3)

(5)
(1)

(4)

(2)

(1) Ngân hàng ký hợp đồng trực tiếp với người mua về cho vay để trả tiền cho
doanh nghiệp bán lẻ. Trường hợp này, ngân hàng phải phân tích tình hình thu
nhập của khách hàng và yêu cầu tài sản đảm bảo nếu cần. Trong trường hợp
cho vay mua nhà, ngân hàng yêu cầu người mua phải thế chấp ngôi nhà vừa
mua cho ngân hàng.
(2) Người tiêu dùng trả trước doanh nghiệp bán lẻ một phần số tiền mua hàng
hóa của mình.
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho doanh nghiệp bán lẻ.
(4) Doanh nghiệp bán lẻ giao hàng hóa cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng trực tiếp thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Ưu điểm của hình thức cấp tín dụng này là rất linh hoạt. Ngân hàng và
người tiêu dùng trực tiếp đàm phán với nhau, quyết định cho vay hay không
20
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

cho vay hoàn toàn phụ thuộc vào ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng có thể khai
thác được trình độ kiến thức cũng như kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng.
Do đó, cho vay tiêu dùng bằng cách trực tiếp thường có chất lượng cao hơn
khi được quyết định bởi đội ngũ nhân viên của ngân hàng chứ không phải là
của nhân viên của công ty bán lẻ. Khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân
hàng nên có nhiều lợi thế phát sinh, ngân hàng có thể cung cấp thêm một số

sản phẩm khác làm tăng khả năng thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng và đồng
thời cũng làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
• Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Đây là hình thức ngân hàng sẽ không trực

tiếp ký kết hợp đồng với người tiêu dùng, mà thay vào đó ngân hàng
sẽ ký hợp đồng với chính nhà cung cấp hay các doanh nghiệp bán lẻ,
thực ra là mua những khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã
bán chịu hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng. Hợp đồng ký kết giữa
ngân hàng và nhà cung cấp quy định rõ điều kiện bán chịu như: đối
tượng khách hàng được bán chịu, loại hàng được bán chịu, số tiền
được bán chịu... Thông qua những điều kiện đó mà nhà cung cấp sẽ
thoả thuận với khách hàng của mình về việc bán chịu hàng hoá.
Như vậy, cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức NHTM tài trợ cho
các hãng bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để họ bán hàng trả góp
cho người tiêu dùng.
Quy trình của hoạt động cho vay tiêu dùng gián tiếp có thể được minh họa
thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Quy trình cho vay tiêu dùng gián tiếp:
(1), (5)
Ngân hàng

Công ty bán lẻ

21
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

(4)

(3)
(6)

(2)
Người tiêu dùng

(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng về việc tài trợ (một phần
hay toàn bộ) cho người mua hàng trả góp. Ngân hàng sẽ phân tích tình hình
tiêu thụ của doanh nghiệp, khả năng mở rộng tiêu thụ nếu thực hiện bán trả
góp cũng như khả năng thu tiền sau khi bán. Nếu mối liên hệ giữa doanh
nghiệp với khách hàng không tốt thì khả năng thu hồi tiền trả góp sẽ gặp khó
khăn.
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng
hóa. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ tập hợp toàn bộ hóa đơn chứng từ bán chịu hàng hóa lên
ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
22
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A



Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Cho vay tiêu dùng gián tiếp có thể giúp ngân hàng tiếp cận với những
đối tượng có nhu cầu vay cao, tiết kiệm được chi phí liên quan đến việc thẩm
định và đánh giá khách hàng nhờ có sự trợ giúp của phía công ty bán lẻ. Đồng
thời làm gia tăng uy tín và mở rộng địa bàn hoạt động. Tuy nhiên, việc cho
vay tiêu dùng gián tiếp cũng sẽ làm tăng rủi ro cho ngân hàng do ngân hàng
không thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, nhân viên bán lẻ chưa có đầy
đủ trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm khi xét duyệt thẩm định các
khoản vay lớn. Sự kết hợp đồng thời giữa ba bên: ngân hàng, công ty bán lẻ
và khách hàng cũng đòi hỏi một sự phối hợp nhịp nhàng và một hợp đồng
chặt chẽ về trách nhiệm các bên.
1.2.3. Sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.3.1. Quan điểm về phát triển cho vay tiêu dùng cá nhân
Có nhiều quan điểm khác nhau về “phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng”. Có thể hiểu phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng là “việc làm tăng tỷ
trọng của cho vay tiêu dùng trong tổng tài sản có của NHTM, là sự đáp ứng
ngày càng tăng về khách hàng, về quy mô và hiệu quả cho vay tiêu dùng”.
Đứng trên góc độ người tiêu dùng, phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng có nghĩa là phải thỏa mãn được các nhu cầu hợp lý ngày càng tăng của
khách hàng về khối lượng cung cấp, sự đa dạng của các hình thức cho vay
tiêu dùng và các dịch vụ kèm theo.
Xét trên góc độ ngân hàng, việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng
đồng nghĩa với việc đưa hoạt động này thành hoạt động chủ đạo trong toàn bộ
hoạt động cho vay của ngân hàng. Đó là sự tăng lên cả về chiều rộng (quy mô,
đối tượng, phạm vi, phương thức) và chiều sâu (chất lượng và hiệu quả) của
23
SV: Đồng Thị Linh Hằng


Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

hoạt động cho vay tiêu dùng được xác định trong một thời gian nhất định của
NHTM. Đây cũng là góc độ được nghiên cứu trong phạm vi chuyên đề này.
1.2.3.2. Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thương mại
a) Quy mô cho vay tiêu dùng
(i) Doanh số cho vay tiêu dùng
Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng tiêu dùng đối với khách
hàng cá nhân của ngân hàng. Doanh số CVTD phản ánh chính xác về hoạt
động cho vay tiêu dùng trong một khoảng thời gian, qua đó có thể thấy được
khả năng tín dụng qua các năm của ngân hàng, cũng như xu hướng của hoạt
động CVTD.
(ii) Tỷ trọng doanh số cho vay tiêu dùng (%)
= x 100%
Chỉ tiêu này cho biết doanh số CVTD chiếm bao nhiêu phần trăm tổng
doanh số cho vay của ngân hàng. Khi chỉ tiêu này cao, chứng tỏ ngân hàng
đang tập trung tăng trưởng hình thức cho vay này. Ngược lại, khi chỉ tiêu này
thấp, điều đó có nghĩa là ngân hàng đang tập trung vào phát triển các sản
phẩm khác mà giảm bớt hoạt động này, hay nói cách khác, hoạt động CVTD
trong ngân hàng chưa được phát triển, chất lượng các món vay tiêu dùng cũng
có thể được ít quan tâm hơn so với những ngân hàng tập trung nhiều vào hoạt
động này.
(iii) Dư nợ cho vay tiêu dùng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng

cá nhân
24
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


Chuuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Dư nợ cho vay tiêu dùng là chỉ tiêu được tính vào thời điểm cuối kỳ số
tiền ngân hàng hiện đang cho khách hàng vay theo hình thức CVTD. Tổng dư
nợ cao chứng tỏ ngân hàng cho vay được nhiều, uy tín của ngân hàng tương
đối tốt, khả năng thu hút khách hàng cao. Ngược lại, khi chỉ tiêu này thấp
chứng tỏ ngân hàng chưa mở rộng và phát triển được hoạt động CVTD, từ đó
có thể thấy khả năng thu hút khách hàng chưa cao, khả năng tiếp thị kém, ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, khi đánh giá, cần
đặt mối quan hệ giữa hoạt động CVTD với nguồn vốn, điều kiện kinh doanh
cụ thể, trong mối tương quan giữa khách hàng và ngân hàng để thấy được rõ
hơn về sự phát triển của hoạt động CVTD.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng phản ánh quy mô và xu
hướng của việc đầu tư tín dụng tiêu dùng là mở rộng hay thu hẹp.
(iv) Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay
Tỷ trọng dư nợ CVTD (%) = x 100%
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ dư nợ CVTD trong tổng dư nợ. Chỉ tiêu này
được so sánh qua các năm, thể hiện mức độ phát triển loại hình CVTD, đồng
thời phản ánh quy mô của CVTD tại ngân hàng. Nếu tỷ lệ này tăng qua các
năm, cho thấy ngân hàng đặt mục tiêu và có những định hướng đúng đắn
trong việc phát triển hoạt động CVTD.

(v) Số lượng khách hàng vay
Chỉ tiêu này phản ánh về mặt số lượng khách hàng sử dụng các sản phẩm
CVTD tại ngân hàng. Số lượng khách hàng càng lớn thể hiện sự phát triển của
hoạt động CVTD. Ngược lại, số lượng khách hàng ít, quy mô cho vay thấp,
hoạt động CVTD không được quan tâm phát triển.
25
SV: Đồng Thị Linh Hằng

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 54A


×