Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

VẤN ĐỀ VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.49 KB, 22 trang )

1
A.

MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều vấn đề xã hội

được quan tâm. Nhất là vấn đề liên quan đến quyền con người, như quyền được
sống, quyền được tự do,... Hơn nữa, hiện nay do các yếu tố ảnh hưởng như về
sức khỏe, điều kiện sống và nhu cầu của mỗi cá nhân, mỗi gia đình nên vấn đề
nuôi con nuôi ngày càng được quan tâm. Đây không chỉ là vấn đề của mỗi quốc
gia mà là vấn đề chung của toàn cầu. Nuôi con nuôi là một hoạt động hết sức
nhân đạo và ý nghĩa. Vừa giúp đỡ được trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, vừa đáp
ứng được ước vọng, mong muốn của bản thân mà còn đảm bảo được quyền con
người. Việt Nam là một nước đang phát triển, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều
khó khăn, trình độ dân trí và ý thức chưa được tốt, do đó tình trạng bỏ rơi trẻ
em, trẻ sơ sinh còn khá phổ biến. Theo thống kê của Bộ tư pháp, trong năm
2015 có 2.787 trường hợp nuôi con nuôi trong nước (giảm 137 trường hợp so
với năm 2014) và 528 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (tăng 30
trường hợp so với năm 2014). Có thể thấy vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài đang có chiều hướng gia tăng. Điều này như một hệ quả tất yếu của việc
hoàn thiện chế định về nuôi con nuôi thông qua việc triển khai thi hành Luật
nuôi con nuôi và Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi. Để làm rõ hơn về quy định của pháp luật của Việt Nam về
vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, em xin chọn đề tài: “Phân tích pháp
lý về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và đưa ra
giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện
nay”.
Trong quá trình hoàn thiện bài tiểu luận còn gặp nhiều khó khăn và thiếu
xót, mong thầy cô thông cảm và góp ý để bài làm được hoàn thiện và chính xác
hơn.


1


2

B. NỘI DUNG
1. Khái quát chung về nuôi con
1.1.
Khái niệm nuôi con nuôi

nuôi có yếu tố nước ngoài

Con nuôi là một người được người khác nhận làm con nhưng không trục
tiếp sinh ra, người nhận con nuôi gọi là cha nuôi, mẹ nuôi. Quan hệ pháp luật
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi giống như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ. Việc nhận
con nuôi phải tuân theo những quy định của pháp luật.
Việc nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương, tinh
thần, trách nhiệm và mối quan hệ tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa
con người với con người . Là biện pháp tích cực giúp đỡ trẻ em không nơi
nương tựa có mái ấm gia đình, được chăm sóc và phát triển trong điều kiện tốt
nhất. Đồng thời, việc nuôi con nuôi còn giảm được gánh nặng về tài chính, kinh
tế cho Nhà nước ta trong việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Nuôi con nuôi là lĩnh vực nhạy cảm, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi giữa
các bên, đặc biệt là đối với trẻ em. Để việc áp dụng pháp luật được diễn ra đúng
quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, cần có những quy định cụ
thể, rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa các bên trong
mối quan hệ ba chiều, giữa cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và con nuôi.
Khái niệm về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật như sau, Khoản 1
Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 giải thích: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan
hệ cha, mẹ con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.

Có thể thấy, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi trên cơ sở không trái đạo
đức xã hội và không vi phạm pháp luật, nhằm hướng đến mục đích tốt đẹp và
đầy tính nhân văn. “Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha mẹ con lâu
dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi được nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình” (Điều 2 Luật nuôi con
nuôi 2010). Xác lập việc nuôi con nuôi với mục đích cơ bản là “đem đến cho
đứa trẻ một gia đình chứ không phải đem đến cho gia đình một đứa trẻ”.
2


3

3


4
1.2.

Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.2.1 Khái niệm
Trong thời đại hiện nay, việc nuôi con nuôi không chỉ là vấn đề diễn ra

trong lãnh thổ mỗi quốc gia, mà nó trở thành vấn đề chung của toàn thế giới.
Công dân của nước này, có thể đi đến nước khác nhận con nuôi hoặc trẻ em
được công dân nước khác nhận làm con nuôi. Vì thế, có thể đây đây là vấn đề
nhân đạo mang tính toàn cầu, được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và pháp
luật trong nước.
Có thể thấy nuôi con nuôi là một quan hệ dân sự mà cụ thể hơn là quan hệ
hôn nhân gia đình. Theo Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy

định: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân
và gia đình mà ít nhất một bên chủ thể tham gia là người nước ngoài, người
Việt nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên
tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài, hoặc tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Từ căn cứ trên có thể định nghĩa quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là quan hệ nuôi con nuôi: Giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam;
Giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài; Giữa công dân Việt Nam với
nhau mà việc nhận nuôi con nuôi được xác lập ở nước ngoài ; Giữa công dân
Việt Nam mà một trong các bên định cư ở nước ngoài
Do theo quy định về quan hệ hôn nhân và gia đinh có yếu tố nước ngoài
bao gồm có ít nhất một bên chủ thể tham gia là người nước ngoài nên quan hệ
nuôi nuôi giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam cũng được
ghi nhận là quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Tuy nhiên, tại Khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 lại quy định
“Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt
Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một trong các bên định cư ở nước
ngoài”. Có thể thấy với quy định này, quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với nhau mà việc các lập quan hệ được diễn ra ở nước ngoài không được
4


5

đề cập đến. Tuy nhiên, trường hợp này vẫn có thể xảy ra trong thực tế là việc
nhận nuôi con nuôi giữa công dân Việt nam với nhau đang tạm trú ở nước ngoài
và để hướng dẫn trình tự giải quyết trường hợp này, các nhà làm luật cũng đã
ghi nhận và quy định tại Mục 5, Chương II, Nghị định 19/2011/NĐ-CP Quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.
Tóm lại, cũng như các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung hay
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng, thì quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn có ít nhất một bên chủ thể là người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hay giữa công dân Việt Nam với
nhau nhưng việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi diễn ra ở nước ngoài.
1.2.2
a.

Đặc trưng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn mang yếu tố
nước ngoài

Có thể thấy quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc xác lập quan hệ
cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, mà
các bên chủ thể khác quốc tịch hoặc cùng quốc tịch nhưng một bên chủ thể ở
nước ngoài hoặc sự kiện pháp lý diễn ra ở nước ngoài nhằm đảm bảo cho người
được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù
hợp với đạo đức xã hội. Do vậy, yếu tố nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài bao gồm:


Yếu tố chủ thể
Khi đề cập đến yếu tố chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước

ngoài thì có 2 loại chủ thể cơ bản:
Thứ nhất, công dân Việt Nam tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài phải có quyền năng chủ thể tức là phải có năng lực pháp luật và
năng luật hành vi trước tiên theo pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và
năng lực hành vi. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính

của chủ thể pháp luật, là đặc trung không thể thiếu của chủ thể pháp luật. Vấn đề
năng lực pháp luật và năng lực hành vi ở đây trước hết được xác định trên cơ sở
các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
Thứ hai, người nước ngoài cũng là chủ thể cơ bản của quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
5


6

Pháp luật Việt Nam và pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều có nét
đặc trưng chung là đều lấy dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa người nước ngoài.
Có thể khái quát, người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước sở tại.
Để tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng
lực pháp luật và năng lực hành vi trước tiên theo pháp luật của nước mà người
đó mang quốc tịch hoặc nước mà người đó thường trú nếu người đó là người
không quốc tịch.
Thứ ba, người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng là chủ thể của quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người
gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài (Khoản 3 Điều 3 Luật
Quốc tịch Việt Nam 2008).


Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con
nuôi xảy ra ở nước ngoài
Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi

xảy ra ở nước ngoài phải phù hợp với pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước

ngoài. Sự kiện pháp lý còn là hành vi pháp lý. Hành vi pháp lý là hành vi hợp
pháp xảy ra do các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi thực hiện (làm chấm dứt
quan hệ nhân thân về tài sản của đứa trẻ với cha, mẹ đẻ và làm phát sinh quan hệ
đó giữa cha mẹ nuôi và con nuôi). Hành vi của những người tham gia quan hệ
pháp luật nuôi con nuôi nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa
vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi cần thiết phải có cả quyết định của cơ quan có
thẩm quyền công nhận sự kiện hoặc hành vi theo thủ tục luật định.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài là sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài. Về việc nhận nuôi
con nuôi ở nước ngoài, pháp luật Việt Nam thường sử dụng quy tắc luật nơi thực
hiện hành vi để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh trong quan hệ này. Trong
trường hợp Việt Nam và các nước hữu quan ký kết điều ước quốc tế thì xung đột

6


7

pháp luật trong vấn đề này được điều chỉnh theo các quy phạm pháp luật ghi
nhận trong các điều ước đó.
b.

Phương pháp điều chỉnh

Phương pháp điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu
tố nước ngoài trong đó có quan hệ nuôi con nuôi là phương pháp xung đột và
phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài hòa và tác động
tương hỗ với nhau trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.



Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc

được ấn định để áp dụng pháp luật của một nước chỉ định nhằm giải quyết quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phát sinh thông qua các quy phạm xung
đột.
Để giải quyết xung đột trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài,
các nước thường sử dụng một số kiểu hweej thuộc luật như: Luật nhân thân (lex
personalis) bao gồm luật quốc tịch (lex patriae) và luật nơi cư trú (lex domicili);
luật nơi thực hiện hành vi (lex loci astus) và luật tòa án (lex fori).
Ở Việt Nam, quy phạm xung đột về vấn đề hôn nhân và gia đình nói
chung và về nuôi con nói riêng được quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình
2014, cụ thể tại Điều 122 quy định về áp dụng pháp luật đối với quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra các quy phạm xung đột còn
được ghi nhận trong Hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP) mà Việt Nam đã
ký kết với các nước như: Điều 29 HĐTTTP Việt Nam – Bungari; Điều 30
HĐTTTP Việt Nam – Ba Lan; Điều 29 HĐTTTP Việt Nam – Mông cổ đều
khẳng định “việc nuôi con nuôi sẽ được áp dụng luật của nước ký kết mà người
nhận con nuôi là công dân”.



Phương pháp thực chất
7


8


Phương pháp thực chất là phương pháp điều chỉnh dựa vào việc nhất thể
hóa các quy phạm luật thực chất, cách thức giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài trong pháp luật của từng nước, định rõ quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quan hệ này dưới dạng định ra các quy phạm thực chất thống
nhất.
Tóm lại, để điều chỉnh trực tiếp quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, các quốc gia thường sử dụng hai phương pháp xung đột và phương pháp
thực chất cới các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất. Hai loại quy phạm
này cùng tồn tại song song, hỗ trợ cho nhau với nhữn chức năng khác nhau để
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
2.

Vấn đề pháp lý về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ờ Việt

Nam
2.1.
Pháp luật Việt Nam về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 quy định nguyên tắc,
điểu kiện nuôi con nuôi; thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con
nuôi; quyền, nghĩa vụ của cha mẹ nuôi, con nuôi và cha mẹ đẻ; trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức trong việc nuôi con nuôi. Đồng thời, cũng theo luật này bãi bỏ
Chương VIII, Điều 105 và sửa đổi một số điều của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định về nuôi con nuôi và rõ ràng hơn là sự ra đời của Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 không có quy định cụ thể về nuôi con nuôi. Sự ra đời của
luật nuôi con nuôi có ý hết hết sức to lớn trong việc hoàn thiện quy định của
pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài nói riêng.
2.1.1.


Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi cũng như nguyên tắc giải quyết

việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 4 Luật Nuôi con
nuôi 2010, theo đó:
Thứ nhất, khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ
em được sống trong môi trường gia đình gốc. Quyền trẻ em luôn là vấn đề được
8


9

quan tâm hàng đầu trên thế giới. Được thể qua các điều ước quốc quốc tế hay
các văn kiện của Liên hợp quốc. Quan hệ nuôi con nuôi là một quan hệ gắn liền
với trẻ em mà đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thì tất nhiên phải đảm bảo
các quyền cơ bản cho trẻ em, trong đó có quyền được sống trong môi trường gia
đình gốc.
Thứ hai, việc nuôi con nuôi phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng,
không phân biệt nam nữ, không trái đạo đức xã hội. Cũng như các quan hệ dân
sự khác, các bên tham gia vào quan hệ này đều phải được đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Hơn nữa đây là quan hệ đặc biệt, mang tính đạo đức xã
hội rất cao cho nên cần đảm bảo sự tự nguyện, bình đẳng cũng như không đi
ngược lại với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội.
Thứ ba, chỉ cho làm con nuôi ở nước ngoài khi không thể tìm thấy gia
đình thay thế trong nước. Đây là nguyên tắc quan trọng và liên quan trực tiếp
đến quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Chỉ cho người nước ngoài
nhận con nuôi tại Việt Nam khi đầy đủ một số điều kiện nhất định và đặc biệt
người được nhận làm con nuôi phải không còn người thân thích, họ hàng. Ví dụ
như trẻ em bị bỏ rơi mà mà không tìm thấy cha mẹ, người thân, hay trẻ em có

hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cha mẹ, người thân đều mất hết.

2.1.2.
a.

Điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Điều kiện đối với người nhận con nuôi
Điều kiện của người nhận con nuôi trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố

nước ngoài được quy định tại Điều 29 Luật Nuôi con nuôi 2010, theo đó:
Thứ nhất, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật nước người đó thường trú và phải có đủ các
điều kiện như sau:
-

Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Đây là điều kiện không thể thiếu trong
hầu hết các quan hệ dân sự, ở đây người nhận con nuôi là chủ thể xác lập mối
9


10

quan hệ và chủ động trong việc bảo vệ và chăm sóc cho bên chủ thể còn lại
-

nên cần phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi là việc
xác lập quan hệ, quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi. Mà quan
hệ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi tương tự như quan hệ giữa cha, mẹ ruột với

con đẻ, do đó, mức chênh lệch độ tuổi giữa cha mẹ và con cái phải phù hợp
với pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Ở đây cha, mẹ nuôi phải hơn con

-

nuôi độ tuổi là 20.
Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con nuôi. Khi một người nhận con nuôi thì phải tạo môi trương gia
đình cho người được nhận và có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con nuôi. Do đó, cần phải có đầy đủ điều kiện về kinh tế, sức khỏe, điều kiện

-

giáo dục tốt cho con nuôi.
Có tư cách đạo đức tốt. Đây là điều kiện không thể thiếu đối với người nhận
con nuôi. Việc nhận con nuôi là vấn đề mang tính nhân đạo và đạo đức rất
cao. Vì vậy, người nhận con nuôi cần phải có tư cách đạo đức tốt để tránh
tình trạng lợi dụng việc nuôi con nuôi để mưu lợi bất chính, lợi dụng sức lao

-

động của trẻ em, hành hạ trẻ em...
Không bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Như chúng ta đã biết, đối tượng được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16
tuổi, là trẻ em chưa thành niên. Do đó người nhận con nuôi bị hạn chế một số
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên thì không đủ tư cách để nhận

-

con nuôi.

Không phải là người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở
giáo dục, sơ sở chữa bệnh. Khi đang chấp hành quyết định xử lý hành chính
tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, người nhận con nuôi không đủ điều kiện

-

về sức khỏe, điều kiện nuôi dưỡng con nuôi.
Người không đang chấp hành hình phạt tù. Người chấp hành hình phạt tù bị
hạn chế một số quyền về công dân, hạn chế năng lực hành vi, năng lực pháp
luật. Hơn nữa, khi chấp hành hình phạt tù sẽ không có điều kiện để chăm sóc,
giáo dục nuôi dưỡng con nuôi. Do đó, người đang chấp hành hình phạt tù

-

không được nhận con nuôi.
Không phải là người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác; ngược đãi
10


11

hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi
dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm
pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Thứ hai, công dân Việt Nam nhận người nước ngoài là con nuôi cũng đáp
ứng đầy đủ các điều kiện tương tự đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con
nuôi. Bên cạnh đó cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo pháp luật của
nước người được nhận làm con nuôi thường trú.

b.

Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Đối với người được nhận làm con nuôi, điều kiện để được nhận làm con

nuôi kể cả trong nước và nước ngoài đều phải đáp ứng những điều kieenh như
sau:
Thứ nhất, phải là trẻ em dưới 16 tuổi. Quy định này xuất phát từ cơ sở
những người chưa thành niên dưới 16 tuổi chưa có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, họ chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, quan hệ nuôi con nuôi sẽ
bảo đảm cho người con nuôi có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Hơn nữa, căn
cứ vào đặc tính thể chất, ở lứa tuổi này, các em chưa có được khả năng tự lập
nên cần được nuôi dưỡng, quan tâm chăm sóc và giáo dục. Nếu các em ở độ tuổi
này rơi vào tình trạng không còn cha mẹ, không xác định được cha mẹ thì các
em có quyền được nhận làm con nuôi để được cha mẹ nuôi chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục.
Thứ hai, người từ đủ 16 tuôi đến 18 tuổi được nhận làm con nuôi trong
trường hợp được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi. Được cô, cậu, dì, chú,
bác ruột nhận làm con nuôi.

2.1.3.

Chấm dứt việc nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói
riêng đều mang tính nhân đạo và là biện pháp xã hội để bảo vệ trẻ em nhằm tạo
11


12


ra mái ấm gia đình, sự yêu thương đùm bọc của cha mẹ nuôi để cứu giúp những
đứa trẻ bất hạnh như trẻ em mồ côi, trẻ lang thang cơ nhỡ, trẻ em bị cha mẹ bỏ
rơi.
Việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi là nằm ngoài mong đợi của cha mẹ
nuôi và con nuôi. Tuy pháp luật nuôi con nuôi chưa quy định rõ việc chấm dứt
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, nhưng để bảo vệ quyền lợi của các bên thì
các trường hợp chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi nói chung cũng được áp dụng
đối với quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
-

Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con

-

nuôi.
Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đã, hanhfhaj cha mẹ nuôi hoặc

-

con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi.
Cha mẹ nuôi bi kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức

-

khỏe, danh dự, nhân phẩm của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi.
Quan hệ nuôi con nuôi vi phạm về lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi,
bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; giải mạo
giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi; phân biệt đối xử giữa con đẻ và con

nuôi; lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số; lợi dụng
việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người
thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của nhà nước; ông,
bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi; lợi
dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức,
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
2.1.4. Trình tự và thủ tục giải quyết nuôi con nuôi tại Việt Nam
Trình tự và thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được

thể hiện chi tiết tại Luật Nuôi con nuôi 2010 và Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.
a.

Hồ sơ của người nhận con nuôi

Theo Điều 13 nghị định 19/2011/NĐ-CP thì hồ sơ của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em
12


13

Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy tờ sau: Đơn xin nhận con nuôi; Bản sao
Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; Văn bản cho phép được nhận con nuôi
ở Việt Nam; Bản điều tra về tâm lý, gia đình;Văn bản xác nhận tình trạng sức k
hỏe; Văn bản xác nhận thu thập và tài sản; Phiếu lý lịch tư pháp; Văn bản xác
nhận tình trạng hôn nhân; Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích
danh quy định tại Khoản 2 Điều 28 của Luật nuôi con nuôi.
Khi nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi, người nhận con nuôi đích danh theo quy
định tại khoản 2 Điều 28 của Luật nuôi con nuôi phải nộp 01 bộ hồ sơ cảu người

được nhận làm con nuôi và tùy từng trường hợp còn phải có giấy tờ tương ứng
sau:
-

Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của cha dượng hoặc mẹ kế với mẹ đẻ hoặc

-

cha đẻ của người được nhận làm con nuôi.
Giấy tờ, tài liệu để chứng minh người nhận con nuôi là cô, cậu, dì, chú, bác

-

ruột của người được nhận làm con nuôi.
Bản sao quyết định của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cho người đó nhận
con nuôi Việt Nam và giấy tờ, tài liệu để chứng minh người con nuôi đó với

-

trẻ em được nhận làm con nuôi là anh, chị em ruột.
Giấy tờ, tài liệu để chứng minh trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ em
thuộc một trong các trường hợp trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm
nghèo được nhận đích danh làm con nuôi theo quy định tại điểm d khoản 2
Điều 28 của luật Nuôi con nuôi gồm trẻ em bị sứt môi hở hàm ếch; trẻ em bị
mù một hoặc cả hai mắt; trẻ em bị câm, điếc; trẻ em bị khoèo chân, tay; trẻ
em có không có ngón hoặc bàn chân, tay; trẻ em nhiễm HIV; trẻ em mắc các
bệnh về tim; trẻ em bị thoát vị rốn, bẹn bụng; trẻ em không có hậu môn hoặc
bộ phận sịn dục; trẻ em bị các bệnh về máu; trẻ em bị mắc bệnh cần điều trị
cả đời; trẻ em bị khuyết tật khác hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác mà cơ hội


-

được nhận làm con nuôi bị hạn chế.
Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã, nới cư trú tại Việt
Nam và giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh người nhận con nuôi là người
nước ngoài đang làm việc, học tập liên tục tại Việt Nam trong thời gian ít
nhất là 01 năm, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục con nuôi.

b.

Hồ sơ của người được nhận làm con nuôi
13


14

Theo quy định tại Điều 15 Ngị định 19/2011/NĐ-CP, hồ sơ của người
được nhận làm con nuôi phải có các giấy tờ được lập theo quy định tại Điều 32
Luật nuôi con nuôi và được lập thành 03 bộ, cụ thể như sau:
-

Giấy khai sinh; giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cáp huyện trở lên cấp;
hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; biên bản xác nhận do
Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với
trẻ em bị bỏ rơi; giấy chứng tử của cha đẻ mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án
tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết
định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con
nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ
mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻcủa người được giới
thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu

làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất năng lực hành vi dân sự; quyết định tiếp

-

nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng.
Văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em.
Tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước cho
trẻ em nhưng không thành.
Đối với các loại giấy tờ trên thì cần phải lưu ý bảng tóm tắt đặc điểm, sở

thích, thói quen của trẻ em phải ghi trung thực các thông tin về sức khỏe, tình
trạng bệnh tật (nếu có) của trẻ em, sở thích, thói quen hằng ngày đáng lưu ý của
trẻ em để thuận lợi cho người nhận con nuôi trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục trẻ em sau khi được nhận làm con nuôi. Đối với cha dượng hoặc mẹ kế
nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì không cần văn bản này. Đối
với trẻ em cần tìm gia đình thay thế trong nước, cần phải có văn bản của Sở Tư
pháp kèm theo giấy tờ, tài liệu về việc đã thông báo tìm gia đình thay thế trong
nước và văn bản xác nhận của Cục Con nuôi về việc đã hết hết thời hạn thông
báo nhưng không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi.
c.

Kiểm tra hồ sơ và lấy ý kiến của những người liên quan về việc
cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài

Theo Điều 15 Nghị định 19/2011/NĐ-CP và Điều 33 Luật nuôi con nuôi
thì Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, tiến hành lấy ý kiến của những
14


15


người có quyền đồng ý cho làm con nuôi trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ hợp lệ. Việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc
điểm chỉ của người được lấy ý kiến. Trong trương hợp trẻ em bị bỏ rơi cần được
xác minh thì Sở Tư pháp đề nghị Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
xác minh. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị xác minh của
Sở Tư pháp thì cơ quan Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải có
trách nhiệm tiến hành xác minh và trả lời bằng văn bản.
Việc kiểm tra hồ sơ và lấy ý kiến phải đảm bảo khi kiểm tra hồ sơ, công
chức tư pháp – hộ tịch phải nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và hoàn
cảnh của những người liên quan. Trường hợp người được nhận làm con nuôi có
cha đẻ, mẹ đẻ, thì công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra việc cha mẹ đẻ có thỏa
thuận với cha mẹ nuôi để giữ lại quyền, nghĩa vụ đối với con và cách thức thực
hiện quyền, nghĩa vụ đó sau khi đã cho làm con nuôi. Khi lấy ý kiến những
người liên quan, công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn để trẻ em tiếp tục được
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của
gia đình. Trường hợp cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp cuối cùng vì lợi ích
tốt nhất của trẻ em, thì công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho
những người liên quan về mục đích nuôi con nuôi; quyền và nghĩa vụ phát sinh
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sau khi đăng ký nuôi con nuôi; về việc cha mẹ đẻ
sẽ không còn các quyền, nghĩa vụ với con, nếu cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không
có thỏa thuận khác.
Trường hợp những người liên quan do chưa nhận thức được đầy đủ, chưa
hiểu rõ những vẫn đề được tư vấn hoặc bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm
lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm con nuôi sau đó muốn thay đổi ý kiến thì
trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được lấy ý kiến, những người liên quan phải
thông báo bằng văn bản cho Sở Tư pháp nơi đang giải quyết hồ sơ nuôi con
nuôi. Hết thời hạn này, những người liên quan không được thay đổi ý kiến về
việc cho trẻ em làm con nuôi.
d.


Kiểm tra và chuyển hồ sơ của người nhận con nuôi

Việc kiểm tra hồ sơ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được
15


16

thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật Nuôi con nuôi. Khoản 1
Điều 34 Luật Nuôi con nuôi quy định “Bộ Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra và
xử lý hồ sơ của người nhận con nuôi trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ
hồ sơ hợp lệ”. Bên cạnh đó cần phải tuân thủ các quy định:
-

Sau khi nhận đủ hồ sơ của người nhận con nuôi, Cục Con nuôi kiểm tra,
thẩm định hồ sơ để xác định người nhận con nuôi đã được cơ quan có thẩm
quyền của nước nơi người đó thường trú bảo đảm đáp ứng đủ điều kiện nuôi
con nuôi theo pháp luật của nước đó; người nhận con nuôi đáp ứng đủ điều

-

kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam.
Khi thẩm định hồ sơ, nếu thấy cần thiết, Cục Con nuôi lấy ý kiến của chuyên
gia tâm lý, y tế, gia đình, xã hội để xác định người nhận con nuôi có điều

-

kiện tốt nhất để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.

Hồ sơ của người nhận con nuôi được chấp thuận nếu đáp ứng các yêu cầu
trên; trường hợp không chấp thuận, Cục Con nuôi trả lại hồ sơ và nêu rõ lý
do bằng văn bản.
Về yêu cầu chuyển hồ sơ của người nhận con nuôi để Sở Tư pháp giới

thiệu trẻ em làm con nuôi thì sau khi kết thúc thời hạn tìm gia đình thay thế cho
trẻ em, nếu trẻ em không được người trong nước nhận làm con nuôi thì Bộ Tư
pháp chuyển hồ sơ của người nhận con nuôi cho Sở Tư pháp nơi trẻ em được
giới thiệu làm con nuôi thường trú để xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi,
trừ trường hợp người nhận con nuôi đích danh.

e.

Chứng nhận việc nuôi con nuôi

Bộ Tư pháp chứng nhận việc nuôi con nuôi đã được giải quyết theo đúng
quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010 và điều ước quốc tế về nuôi con nuôi mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để gửi cơ quan, tổ chức
có thầm quyền của nước ngoài, nếu có yêu cầu.
2.2.

Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
nuôi con nuôi giữa các nước
2.2.1. Nội dung cơ bản của công ước Lahay 1993
16


17

“Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con

nuôi giữa các nước” được thông qua tại khóa họp lần thứ XVII Hội nghị Lahay
diễn ra từ ngày 10 đến ngày 29 tháng 5 năm 1993.
Công ước Lahay là công ước có tính toàn cầu về vấn đề nuôi con nuôi
được cộng đồng quốc tế và các quốc gia có liên quan đánh giá cao. Công ước
gồm lời mở đầu, 7 chương và 48 điều. Trong đó, Chương I quy định về “Phạm
vi công ước”; Chương II quy định về “Những yêu cầu đối với việc nuôi con nuôi
quốc tế”; Chương III quy định về “các cơ quan Trung ương và các tổ chức được
chỉ định”; Chương IV quy định về “Những yêu cầu về thủ tục đối với việc nuôi
con nuôi quốc tế”; Chương V quy định về “Công nhận và hệ quả của việc nuôi
con nuôi”; Chương VI quy định về “Những quy định chung” và Chương VII
quy định về “Những điều khoản cuối cùng”.
2.2.2. Nội dung chi tiết của Công ước Lahay
a. Mục đích và phạm vi áp dụng Công ước

1993

-

Công ước nhằm mục đích:
Định ra những đảm bảo về việc nuôi con nuôi giữa các nước là vì lợi ích tốt

-

nhất của đứa trẻ và tôn trọng quyền cơ bản của trẻ em.
Thiết lập hệ thống hợp tác, thông qua cơ chế liên hệ giữa các nhà chức trách



trung ương của nước gốc và nước nhận nhằm tôn trọng những đảm bảo trên
-


và ngăn chặn bắt cóc, mua bán trẻ em.
Đảm vảo cho việc nuôi con nuôi giữa các nước phù hợp với Công ước được

-

công nhận và có giá trị pháp lý tại nước ký kết.
• Phạm vi của công ước (Điều 2,3): Công ước được áp dụng khi
Có việc đưa đứa trẻ từ nước gốc (nước nơi đứa trẻ thường trú) đến thường trú

-

tại nước nhận (nước nơi cha mẹ hoặc người nuôi thường trú)
Công ước chỉ áp dụng đối với những trường hợp nuôi con nuôi tạo lập mối

-

quan hệ cha mẹ lâu dài, từ đó làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con.
Trước khi đứa trẻ đủ mười tám tuổi phải có sự đồng ý cho tiến hành thủ tục
nuôi con nuôi của Nhà nước chức trách trung ương hai nước.
b. Những điều kiện nuôi con nuôi giữa hai nước
Nhà chức trách trung ương của Nước gốc có trách nhiệm đảm bảo vieech

tuân thủ những điều kiện về xác định đứa trẻ có thể được cho làm con nuôi; việc
nuôi con nuôi là cách tốt nhất đáp ứng lợi ích của đứa trẻ; các cá nhân, tổ chức
mà việc nuôi con nuôi cần thiết phải có sự đồng ý của họ đã được tham khảo ý
17


18


kiến và thông tin một cách đầy đủ về những hậu quả mà sự đồng ý của họ mang
lại; người mè đẻ chỉ có thể đồng ý việc nuôi con nuôi sau khi đứa trẻ đã ra đời;
đứa trẻ cũng đã được tham khảo ý kiến và thông tin một cách đầy đủ về những
hậu quả của việc nó đồng ý làm con nuôi và việc nuôi con nuôi.
Nhà chức trách trung ương của Nước nhận có trách nhiệm đảm bảo việc
tuân thủ các điều kiện về việc xác nhận cha mẹ nuôi hoặc người nuôi tương lai
phải có đủ tiêu chuẩn và thích hợp để nuôi con nuôi; đảm bảo cha mẹ nuôi hoặc
người nuôi tương lai đã được tham khảo ý kiến một cách thích hợp; xác nhận
đứa trẻ được hoặc sẽ được phép xuất nhập cảnh tại nước nhận.
c.

Những yêu cầu về thủ tục cho – nhận con nuoi nước ngoài

Trong việc giải quyết một hồ sơ cho – nhận con nuôi theo Công ước
Lahay cần trải qua ba giai đoạn bắt buộc:

Giai đoạn và gửi hồ sơ về cha mẹ nuôi:
Cha mẹ nuôi phải gửi đơn xin nuôi con nuôi đến nhà chức trách trung
ương của nước nhận. Khi cơ quan trung ương của nước nhận con nuôi cho rằng
cha mẹ nuôi có đủ tư cách và điều kiện để nhận con nuôi thì cơ quan trung ương
sẽ lập báo cáo gửi về cha mẹ nuôi (Điều 15). Nhà chức trách nói trên phải gửi
báo cáo đó cho nhà chức trách trung ương cảu nước gốc.


Giai đoạn lập và gửi hồ sơ về đứa trẻ nuôi
Nhà chức trách của Nước gốc, sau khi đã xác nhận rằng đứa trẻ có thể

được cho làm con nuôi sẽ làm một báo cáo đầy đủ các chi tiết về nhân thân, khả
năng được cho làm con nuôi, tình trạng cá nhân, gia đình, sức khỏe, những nhu

cầu đặc biệt của đứa trẻ. Nhà chức trách nói trên sẽ chuyển báo cáo đó kèm theo
bằng chứng về sự đồng ý của những người có liên quan và những lý do được xác
nhận việc giao đứa trẻ cho nhà chức trách trung ương của Nước nhận.


Giai đoạn đưa đứa trẻ từ nước gốc đến nước nhận
Việc đưa đứa trẻ từ nước gốc tới nước nhận khi nhà chức trách trung ương

cảu hai nước đảm bảo tuân thủ các điều kiện về việc cha mẹ nuôi tương lai đồng
18


19

ý với việc đó; được nhà chức trách trung ương của nước nhận chấp thuận nếu
luật của nước đó đòi hỏi như vậy; nhà chức trách trung ương của hai nước chấp
thuận cho tiến hành thủ tục nuôi con nuôi; đứa trẻ được phép nhập cảnh và
thường trú tại nước nhận; nhà chức trách trung ương của nước nhận phải thường
xuyên thông báo cho nhà chức trách trung ương của nước gốc về sự tiến triển
của giai đoạn thử thách trước khi thực hiện việc nuôi con nuôi nếu luật của
Nước nước nhận có quy định cần có một giai đoạn như vậy.
d.

Công nhận và hậu quả của việc nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi được nhà chức trách có thẩm quyền Nước nơi thực
hiện việc nuôi con nuôi chứng nhận là phù hợp với Công ước sẽ được công nhận
có giá trị pháp lý tại các nước ký kết khác.
Việc nuôi con nuôi có những hậu quả như công nhận mối quan hệ cha mẹ
giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi; công nhận trách nệm pháp lý giữa cha mẹ nuôi

và đứa trẻ; cắt đứt quan hệ pháp lý trước đó giữa cha mẹ đẻ với đứa trẻ nếu việc
nuôi con nuôi dẫn đến hậu quả như vậy tại nước nới thục hiện việc nuôi con
nuôi đó.
3.

Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu

tố nước ngoài nói riêng cơ bản đã hòa thiện và đầy đủ thông qua Luật nuôi con
nuôi 2010 và một số văn bản pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, cần lưu ý hoàn
thiện một số vấn đề nhăm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Cần tạo ra sự gắn kết, liên thông giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi
con nuôi quốc tế, trong đó ưu tiên tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em,
việc cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài chỉ là giải pháp cuối cùng, khi không
thể tìm được mái ấm trong nước cho trẻ em. Muốn vậy, cần phải tăng cường hơn
nữa công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật, đồng thời đẩy mạnh công
tác tuyên truyền , phổ biến pháp luật trong nhân dân nhằm nâng cao nhận thức
của toàn xã hội về nuôi con nuôi. Hoàn thiện cơ chế minh bạch về thủ tục, trình
19


20

tự giải quyết việc nuôi con nuôi, nhất là sự minh bạch về các vấn đề tài chính có
liên quan đến nuôi con nuôi quốc tế. Tăng cường vai trò của cơ quan nuôi con
nuôi Trung ương. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước tư
trung ương đến địa phương. Cuối cùng là tăng cường thanh tra, kiểm tra nhằm
phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm trong lĩnh vực nuôi con

nuôi có yếu tố nước ngoài . Công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành
thường xuyên, định kỳ và có trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức, đối phó.

C.

Kết luận
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, quan hệ hôn nhân và gia

đình có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng, trong đó

số lượng trẻ em Việt

Nam được nhận làm con nuôi nước ngoài chiếm một số lượng lớn. Điều này đòi
hỏi pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cần phải hoàn thiện
hơn nữa.
Trong thời gian qua, pháp luật Việt Nam đã có sự hoàn thiện nhờ sự ra
đời của Luật Nuôi con nuôi 2010. Bên cạnh đó là các hiệp định về hợp tác nuôi
con nuôi với các nước đã được ký kết như giữa Việt Nam với Pháp, Ý, Đan
Mạch, Ailen, Thụy Điển, Bỉ,...Tạo cơ sở pháp lý vững chắc và quan trọng để
việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được nhanh chóng và thuận lợi. Song
bên cạnh đó còn tồn tại nhiều khó khăn và bất cập cần sớm được tháo gỡ để
pháp luật ngày càng được hoàn thiện hơn.

20


21

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Luật Nuôi con nuôi 2010.
Nghị định 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2011 Quy định chi

4.
5.

tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi.
Bộ luật Dân sự 2005.
Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con

6.

nuôi giữa các nước.
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội –

7.

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Giáo Trình luật Tư pháp quốc tế Trường Đại học Luật Hà Nội – Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà nội.

21


22


MỤC LỤC

22



×