Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đảng lãnh đạo giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp thời kì 1936 – 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.44 KB, 25 trang )

A. MỞ ĐẦU
Việc xác định đúng đắn đường lối chiến lược là yêu cầu cơ bản quyết định tới thắng
lợi của Cách mạng. Sau khi xác định đúng đắn đường lối, điều cần thiết là công tác chỉ
đạo để biến lý luận đường lối thành thực tiễn Cách mạng.
Thực tiễn Cách mạng nước ta năm 1936 – 1939 cho thấy, Đảng cộng sản Việt Nam đã
giải quyết hết sức đúng đắn và thành công vấn đề lựa chọn cũng như xác định đúng đắn
đối tượng của Cách mạng. Bằng sự nhạy bén chủ động tiếp cận thực tiễn, Đảng đã đưa ra
sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược hết sức đúng đắn, để từ đó giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đóng vai trò quyết
định cho những thành công trong cao trào 1936 – 1939, tạo động cơ cho Đảng quyết định
chuyển hướng chiến lược vào thời kì 1939 – 1945
Nghiên cứu vấn đề Đảng giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, từ đó đưa ra
đường lối chiến đấu giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về tính cách mạng, khoa học
của Đảng, nguyên nhân của Cách mạng tháng Tám. Mặt khác, giúp chúng ta rút được
những kinh nghiệm trong lãnh đạo điều chỉnh chiến lược, nắm bắt tình hình, đưa ra hình
thức đấu tranh cho phù hợp thực tiễn, từ đó góp phần vận dụng giải quyết nhiều vấn đề
trong tình hình thực tiễn hiện nay, với những chính sách mềm mỏng trong đấu tranh,
nhưng kiên quyết giữ vững mục tiêu Cách mạng, giải quyết được những vấn đề về thời
cơ và thách thức mà thời đại hiện nay đặt ra.
Với lý do trên, em xin trình bày “Đảng lãnh đạo giải quyết mối quan hệ dân tộc và
giai cấp thời kì 1936 – 1939” làm tiểu luận.

1


B. NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG GIẢI QUYẾT MỐI
QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP THỜI KÌ 1936 – 1939.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn và việc Đảng giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp
1936 - 1939
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp.


1.1 Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là hai mặt
của cuộc Cách mạng giải phóng con người.
Giai cấp, theo Lênin, là tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về quyền nắm
giữ tư liệu sản xuất, quyền phân chia lao động nên khác nhau về sản phẩm đầu ra, giai
cấp là những người khác nhau về địa vị chính trị trong xã hội.
Chủ nghĩa Mác chính là thế giới quan và phương pháp luận để giải quyết và giải
phóng giai cấp vô sản tiến tới giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đưa nhân loại
tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu
tranh giai cấp. Chính các cuộc đấu tranh giai cấp đã làm cho xã hội phát triển, thông qua
các cuộc cách mạng xã hội, và trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách
mạng. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản là cuộc đọ súng giữa giai
cấp vô sản với giai cấp tư sản, là vấn đề xem “ai thắng ai”. Vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp trong xã hội tư bản “là của giai cấp vô sản chứ không ai khác”: Mục đích trước
mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản
2


khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản,
giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Theo ý nghĩa đó, có thể thấy cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản trong xã hội tư bản được tóm tắt thành công thức là xóa bỏ chế độ tư hữu.
Đó là nhiệm vụ chủ yếu và chắc chắn của giai cấp vô sản. Chỉ có giai cấp vô sản mới làm
được điều này, vì đơn giản công nhân là giai cấp duy nhất “không có tổ quốc”, là giai
cấp bị bóc lột và đàn áp nhiều nhất, nên có tinh thần cách mạng nhất, đó là điều đương
nhiên.
Tuy nhiên, không phải chủ nghĩa Mác chỉ nghiên cứu vấn đề giai cấp riêng rẽ, mà chủ
nghĩa Mác còn xem xét vấn đề giai cấp trong mối quan hệ mật thiết với vấn đề dân tộc và
ách áp bức dân tộc.
Quyền bình đẳng không chỉ dừng lại ở mức độ giai cấp, mà còn ở tầm độ dân tộc, giác

độ con người. Chủ nghĩa Mác khẳng định rằng mọi ách áp bức dân tộc chỉ đơn giản là do
nạn người bóc lột người, giai cấp bóc lột giai cấp mà ra, chính vì vậy xóa bỏ nạn người
bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ, bởi khi sự đối
kháng giữa giai cấp không còn thì sự thù địch giữ các dân tộc cũng đồng thời mất theo.
Do tính chất quốc tế của giai cấp công nhân, giải quyết vấn đề dân tộc – giải quyết
mâu thuẫn giữa dân tộc quốc gia này với dân tộc quốc gia khác - thực chất chính là giải
quyết một mặt của vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác –
Lênin đã khẳng định để giải quyết vấn đề dân tộc hay giai cấp, đưa cái nào lên quan trọng
hơn cái nào chính là xem xét trong hoàn cảnh tranh đấu mà xem vấn đề nào quan trọng
hơn trên cơ sở quyền lợi giai cấp. Chủ nghĩa Mác khẳng định ở những nước thuộc địa
không độc lập về mặt lãnh thổ nói chung, phải đặt lên hàng đầu không phải là những
nguyên tắc trừu tượng hoặc hình thức, mà, thứ nhất là sự đánh giá đúng tình hình cụ thể,
và trước hết, là tình hình kinh tế, thứ hai là sự phân biệt rõ rệt lợi ích của giai cấp bị áp

3


bức, của những người lao động, của những người bị bóc lột, với các khái niệm chung về
lợi ích của nhân dân nói chung.
Có thể thấy, chủ nghĩa Mác – Lênin đã nghiên cứu và khẳng định rằng, ở những nước
chưa được bình đẳng dân tộc – những quốc gia dân tộc chưa được giải phóng – thì vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp phải được xem xét ở mức độ ngang nhau trong tiến trình giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong từng giai đoạn cụ thể, vấn đề phải đặt cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc lên trước và trên giải phóng giai cấp, điều đó mới phù hợp
quy luật của cuộc đấu tranh giai cấp ở những người vô sản nước chưa được hưởng bình
đẳng dân tộc.
1.2 Thực tiễn lịch sử
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), các nước tư bản trên thế giới chịu ảnh
hưởng nặng nề (Trừ Hoa Kì), do vậy, các nước này đều tăng cường phát triển kinh tế, đẩy
mạnh đầu tư xuất khẩu tư bản, bóc lột nhân dân trong nước cũng như thuộc địa. Chính vì

vậy, nền kinh tế tư bản thế giới phát triển một cách nhanh chóng sau chiến tranh, đồng
thời với đó là sự xuống cấp trầm trọng của mức sống các giai tầng bị bóc lột ở nước tư
bản cũng như các nước thuộc địa, sức mua giảm tỉ lệ nghịch với lượng hàng hóa sản xuất
ngày càng nhiều đã khiến cho giới tư bản lâm vào khủng hoảng “thừa” vào những năm
30 của thế kỉ này. Cuộc khủng hoảng đã tàn phá nặng nề hệ thống kinh tế tư bản chủ
nghĩa, hệ thống chính trị đồng thời với đó bị lung lay.
Để thoát khỏi khủng hoảng đồng thời để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh từ sau
chiến tranh thế giới thứ nhất, nhiều nước đã chuyển nền chính trị dân chủ tư sản sang nền
chuyên chính phát xít, một nền chuyên chính phản động nhất, hiếu chiến nhất, sô – vanh
nhất, đe dọa nghiêm trọng tới nền hòa bình an ninh thế giới và nguy cơ lớn đối với phong
trào giải phóng của nhân loại. Trong khi đó, các nước đế quốc đứng đầu là Mỹ – Anh –
4


Pháp lại dung dưỡng cho phát xít phát triển, với mưu đồ tiêu diệt Liên Xô, từ đó đàn áp
Cách mạng thế giới.
Các tập đoàn phát xít hiếu chiến dần được hình thành trên phạm vi thế giới, cầm đầu
là liên minh Đức – Italia – Nhật Bản, cùng với đó, khuynh hướng phát xít hóa cũng lan
rộng trong giới tư bản, như ở Ba Lan, Áo, Hy Lạp, Nam Tư, Tây Ban Nha..hay ngay cả
Mỹ, Anh, Pháp, các nhóm phát xít cũng được hình thành và phát triển. Bọn chúng ráo riết
chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh nhằm phân chia lại thị trường thế giới, đồng thời
để tiêu diệt thành trì Cách mạng của thế giới là Liên Xô. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít đang
đẩy nhân loại tới bờ vực của sự hủy diệt.
Liên Xô và Quốc tế cộng sản (Quốc tế III)
Cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công, nước Nga xây dựng chế độ chủ nghĩa
xã hội. Nhân dân từ thân phận người nô lệ nay được làm chủ đất nước hăng hái tham gia
sản xuất phục hồi nền kinh tế, đồng thời vượt mọi gian khổ bảo vệ thành quả của Cách
mạng. Chính vì vậy, nước Nga Xô – viết đã đạt được nhiều thành tựu phát triển, dần tạo
thế cân bằng về lượng và chất với thế giới tư bản, trở thành thành trì của Cách mạng thế
giới. Tháng 12 năm 1922, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết ra đời.

Trong khi đó, hoạt động của Quốc tế cộng sản (Thành lập từ tháng 3 năm 1919) đang
phát triển, Quốc tế cộng sản dần trở thành Tổng chỉ huy quân sự chỉ đạo các Đảng cộng
sản và phong trào Cách mạng của toàn thế giới. Tính tới năm 1928, tổ chức này đã 6 lần
Đại hội, quyết định nhiều vấn đề quan trọng tác động tới phong trào vô sản các nước.
Trước nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh tới gần, yêu cầu bức thiết của phong
trào Cách mạng thế giới là chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ Liên Xô và phong
trào Cách mạng thế giới.

5


Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội VII Quốc tế cộng sản đã họp từ ngày 25 tháng 7 tới ngày
25 tháng 8 năm 1935 tại Moscow do đồng chí Đi – mi – tơ – rốp, Tổng bí thư Quốc tế
cộng sản chủ trì. Tham dự Đại hội có 510 đại biểu đại diện cho 65 Đảng cộng sản, thay
mặt cho 3.141.000 Đảng viên trên toàn thế giới.
Đại hội đã phân tích nguyên nhân xuất hiện và nguy cơ từ chủ nghĩa phát xít, cũng
như âm mưu, thủ đoạn của các nước đế quốc, giai cấp tư sản và Đảng Dân chủ xã hội
trong việc thỏa hiệp với chủ nghĩa phát xít. Đại hội cũng chỉ ra tình hình đương thời việc
phong trào công nhân và Đảng cộng sản các nước còn nhiều hạn chế, chưa đủ sức mạnh
để ngăn chặn xu hướng phát xít.
Đại hội xác định kẻ thù chủ yếu trước mắt không phải là giai cấp tư sản nói chung mà
là bọn phát xít phản động và đế quốc theo chân phát xít, chính vì vậy nhiệm vụ trước mắt
của Đảng cộng sản và giai cấp công nhân quốc tế chưa phải là đấu tranh để đánh đổ chủ
nghĩa tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà là đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ, hòa bình và bảo vệ Liên Xô,
xây dựng sự thống nhất hành động của giai cấp công nhân từng nước và trên thế giới.
Tuy nhiên, Đại hội phủ định việc đánh giá quá cao chủ nghĩa phát xít, nhấn mạnh chủ
nghĩa phát xít không thể không bị đánh bại. Chính vì vậy, Đại hội đã vạch ra những điều
kiện để công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít được thắng lợi, đó là phải thực hiện
thống nhất, phát huy tính tích cực trong cách mạng của giai cấp công nhân trên thế giới,

đồng thời mở rộng sự đoàn kết giữa các Đảng cộng sản trên phạm vi quốc tế. Đại hội
nhấn mạnh phải mở rộng sự đoàn kết giữa các giai tầng như công nhân, nông dân, tiểu tư
sản thành thị, quần chúng lao động, các dân tộc bị áp bức dưới lá cờ cộng sản.
Chủ trương của Đại hội là thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi các lực lượng
quần chúng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức nhằm đấu tranh chống chủ nghĩa
6


phát xít, chống chiến tranh. Nhiệm vụ này không chỉ đúng với các nước độc lập mà áp
dụng với cả các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, Đại hội cũng chỉ rõ: Do tình hình thế
giới và trong nước có những thay đổi nên vấn đề mặt trận thống nhất đế quốc có tầm
quan trọng đặc biệt.
Như vậy, với sự nhạy bén trước tình hình thực tiễn có sự thay đổi, Đại hội VII Quốc tế
cộng sản đã tỏ rõ được vai trò lãnh đạo cũng như khả năng dự đoán báo trước tình hình
của mình, xứng đáng với vai trò Tổng chỉ huy cho Cách mạng vô sản toàn thế giới. Sự
chuyển hướng chỉ đạo sáng suốt và kịp thời này đã giúp cho không chỉ ở tầm vóc phong
trào vô sản thế giới mà còn ở tầm vóc nhân loại ở chỗ giúp cho toàn thế giới tập hợp dưới
ngọn cờ của mặt trận thống nhất chống một kẻ thù chung là chủ nghĩa phát xít, đấu tranh
chống họa diệt chủng và sự đàn áp thảm khốc từ phía phát xít, đáp ứng được đúng đắn
nguyện vọng bức thiết của giai cấp công nhân và toàn quần chúng lao động trên toàn cầu.
Vì vậy, chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế III được coi là một trong những
nguyên nhân thắng lợi của công cuộc chống chiến tranh phát xít. Có thể nói, Đại hội lần
này là Đại hội thắng lợi hoàn toàn cảu sự thống nhất giữa giai cấp vô sản Liên Xô –
nước của chủ nghĩa xã hội chiến thắng với giai cấp vô sản trong thế giới tư bản chủ
nghĩa đang đấu tranh tự giải phóng
Thực hiện chủ trương của Đại hội VII Quốc tế III, tại nhiều quốc gia chính quốc cũng
như thuộc địa trên thế giới, một số nước đã thành lập được mặt trận dân chủ. Mặt trận
Tây Ban Nha, mặt trận thống nhất chống phát xít ở Trung Quốc dần được thành lập. Ở
Pháp, ngày 17 tháng 6 năm 1935, với chủ trương chống phát xít, đòi quyền lợi chính trị,
kinh tế cho đông đảo quần chúng, thi hành chính sách đối ngoại hòa bình và cải thiện đời

sống kinh tế, chính trị cho "các dân tộc hải ngoại" (tức các thuộc địa của Pháp). Mặt trận
giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 1936, và thành lập chính phủ do Léon
Blum đứng đầu vào ngày 4 tháng 6 năm 1936. Chính phủ này đã thi hành một số chính
sách đối nội và đối ngoại có tính chất giải phóng hơn cho các thuộc địa. Điều này có ý
7


nghĩa hết sức to lớn đối với tình hình Cách mạng các nước thuộc địa Pháp nói chung và
Cách mạng nước ta nói riêng.
Hoàn cảnh lịch sử trong nước
Đại hội VII Quốc tế III đã tác động sâu rộng tới tình thế Cách mạng nước ta cả giai
đoạn sau 1935. Nghị quyết Đại hội đã công nhận Đảng cộng sản Đông Dương là một chi
bộ của Quốc tế cộng sản tại Đông Dương. Điều này đã mở ra một cơ hội mới cho Cách
mạng nước ta trong tiến trình hòa nhập với Cách mạng thế giới.
Tình hình thực tiễn nước ta, chủ nghĩa tư bản lúc này còn ở giai đoạn mới hình thành
(Xuất hiện sau cả giai cấp công nhân) chưa phát triển cao, trong khi đó bị đô hộ của thực
dân Pháp nên giai cấp tư sản cũng bị chèn ép. Mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta lúc bấy giờ là
mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với phong kiến, và mâu thuẫn dân tộc giữa toàn thể
nhân dân cần lao với đế quốc thực dân Pháp. Điều đó có nghĩa là, với thực tiễn lịch sử
nước ta có những điểm khác hơn so với mâu thuẫn chủ yếu của các nước phương Tây.
Đây chính là đặc điểm riêng quy định những đường lối chính sách đấu tranh của nước ta
phải khác hơn so với các nước bạn.
Cùng với đó, trong nước sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, thực dân
Pháp tăng cường bóc lột, đàn áp dã man phong trào Cách mạng, đẩy mâu thuẫn dân tộc
lên cao dẫn tới cao trào Xô – viết Nghệ – Tĩnh 1930 – 1931. Cao trào tuy thất bại nhưng
đã để cho chúng ta nhiều bài học xương máu, trong đó có bài học về tập hợp lực lượng
chĩa mũi nhọn vào một kể thù chung. Sau giai đoạn Đảng lãnh đạo khôi phục lực lượng
1932 – 1935, lực lượng Cách mạng nước ta đã dần được phục hồi, các cơ sở Đảng trước
bị khủng bố trắng thì nay dần được xây dựng lại, bám chắc vào quần chúng.
Sau Đại hội VII Quốc tế III, tình hình thế giới có nhiều biến động, nguy cơ chủ nghĩa

phát xít tới gần đã khiến cho toàn thế giới xích lại gần nhau. Chính phủ Blum ở Pháp cầm
8


quyền đã thi hành nhiều chính sách tiến bộ, trong đó có những chính sách liên quan tới
các thuộc địa trong đó có nước ta. Chính vì vậy, yêu cầu đối với Đảng hiện giờ chính là
thay đổi tình hình chỉ đạo chiến lược cho phù hợp tình hình mới, kiên định mục tiêu giải
phóng dân tộc, giai cấp và con người, nhưng chuyển đổi đúng đắn sách lược sao cho phù
hợp với thực tiễn.
Nguy cơ chủ nghĩa phát xít không chỉ đe dọa tới nhân loại nói chung mà còn trực tiếp
đe dọa vào tiến trình Cách mạng giải phóng của chúng ta nói riêng. Việc Đảng nhanh
chóng nhạy bén chuyển hướng chỉ đạo chiến lược là một tất yếu đòi hỏi sự nhạy bén
trong lãnh đạo chỉ đạo. Song song với quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược ấy
chính là quá trình xác định đúng đắn vị trí và vai trò của hai cuộc Cách mạng dân tộc và
dân chủ, cũng có nghĩa là phải giải quyết đúng đắn hợp lý nhất mối quan hệ của cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đồng nghĩa với việc giải quyết mối quan
hệ chung của nhiệm vụ dân tộc và giai cấp mà giai cấp công nhân, tiền phong là Đảng
cộng sản lãnh trách nhiệm dẫn dắt dân tộc đấu tranh giành lấy. Trước yêu cầu đó, Đảng
đã phân tích tình hình thận lợi và đánh giá đúng mức tình hình thuận lợi cách mạng Đông
Dương, khôn khéo nhạy bén giải quyết hợp lý kịp thời mối quan hệ này.
2. Nhận thức của Đảng về vấn đề dân tộc và giai cấp trước 1936
Ngay từ khi Đảng mới ra đời (1930), Đảng đã đưa ra những quyết định quan trọng
trong xem xét mục tiêu và chiến lược đấu tranh của Đảng. Chính vì vậy, Đảng đã nhận
thức được một cách biện chứng vấn đề độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp trong
đường lối đấu tranh của mình. Ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo tại Hội nghị hợp nhất Đảng đầu năm 1930, Đảng đã nhận định được
nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc trong cách mạng giải phóng giai cấp, chủ
trương của Đảng là làm dân quyền Cách mạng và thổ địa Cách mạng để đi tới chủ nghĩa
cộng sản. Đảng xác định giải phóng dân tộc phải đi trước giải phóng giai cấp vô sản, độc
9



lập dân tộc đi trước giải phóng giai cấp, Chính cương khẳng định trong đấu tranh về
phương diện chính trị thì đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến là đường
lối đấu tranh của mình. Điều đó đã chứng tỏ sự nhận thức của Đảng về tầm quan trọng
của vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 được triệu tập tại
Hương Cảng (Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã quyết định những
vấn đề quan trọng như quyết định đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản
Đông Dương, thông qua Nghị quyết và điều lệ mới của Đảng, bầu Ban chấp hành Trung
ương… Hội nghị đã thông qua Luận cương chính trị của Đảng cộng sản Đông Dương do
đồng chí Trần Phú soạn thảo. Trong bản Luận cương đã vạch ra và mở rộng thêm đường
lối đã được đề ra ở Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo ở Hội
nghị hợp nhất, trong đó có vấn đề dân tộc, giai cấp và giải quyết mối quan hệ dân tộc và
giai cấp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh đang tồn tại trong Quốc tế
cộng sản, cho nên bản Luận cương còn có những hạn chế nhất định khi xem xét vấn đề
này.
Bản Luận cương tháng 10 năm 1930 đã khẳng định nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng
là tranh đấu để đánh đổ các di tích của phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối
tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến – Nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ giai cấp – phải đi đôi và có quan hệ khăng
khít với nhau. Luận cương đã làm phát triển thêm cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng bằng cách chỉ rõ con đường Cách mạng nước ta phải đồng thời giải quyết hai vấn
đề giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc, và hai nhiệm vụ này phải có mối quan hệ
không tách rời nhau trong thực tiễn Cách mạng.

10



Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của Luận cương khi không căn cứ tình hình thực tiễn mà
vận dụng một cách giáo điều những nguyên tắc của Quốc tế cộng sản mà không áp dụng
được với thực tiễn nước thuộc địa như nước ta. Điều này đã dân tới sai là nghiêm trọng
của Hội nghị Thủ tiêu chánh cương sách lược và Điều lệ cũ của Đảng, lấy kinh nghiệm
trong thời kỳ vừa qua mà thực hành công việc cho đúng theo bản Án nghị quyết Hội
nghị đề ra. Bản Luận cương nhận định Chính cương đầu tiên nêu lên “những điều sai lầm
về sách lược đã tỏ ra rằng chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh
đấu”. Điều này là chưa thỏa đáng, không áp dụng với tình hình đấu tranh của một Đảng
vô sản ở nước thuộc địa. Luận cương chưa đánh giá đúng được tầm quan trọng của giải
phóng dân tộc trong Cách mạng nước thuộc địa, đề cao đấu tranh đòi ruộng đất, tức là
nặng về đấu tranh giai cấp. Vì vậy đã không đề ra được một chiến lược liên minh rộng rãi
giữa dân tộc và giai cấp.Vì vậy, chưa tập trung sức mạnh dân tộc chống kẻ thù chung là
đế quốc Pháp.
Trong cả thời kì 1931 – 1935, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
của Đảng ta cơ bản vẫn theo hướng chỉ đạo của Luận cương tháng 10 năm 1930. Tuy
nhiên, trong thực tiễn đấu tranh, nhất là sau khi cao trào 1930 – 1931 thất bại, bị thực dân
Pháp khủng bố trắng, Đảng đã căn cứ tình hình thực tiễn mà có những quyết sách đúng
đắn cho phù hợp tình hình đấu tranh Cách mạng. Cụ thể là chỉ thị ngày 18 tháng 11 năm
1930 đã chỉ rõ: Tổ chức Hội phản đế đồng minh là một công tác cần khẩn và hơi mới
đối với chúng ta. Vì chúng ta chưa quan niệm đúng cái tổ chức Phản đế đồng minh là
một nhiệm vụ giai cấp đấu tranh trong chủ nghĩa Mác? Thời đại đế quốc, và là
lêninnít nỗ lực nhất. Do đó chúng ta đã tách rời dân tộc cách mạng với giai cấp cách
mạng làm hai đường mà chưa nhận định đúng là dân tộc cách mạng vẫn là
một nhiệm vụ trong giai cấp cách mạng. Sự chuyển biến lối này hay lối khác đó là
hoàn cảnh từng nơi từng lúc, chứ không phải hai đường sai trái nhau. Điều đó có nghĩa
là, Đảng đã nhận thức được những khuyết điểm trong đường lối đã được vạch ra trong
11


Hội nghị tháng 10 năm 1930 không phù hợp với thực tiễn ở chủ trương tập hợp lực lượng

giải quyết các mâu thuẫn cùng tồn tại. Lần lượt trong thực tiễn đấu tranh, Đảng đã khắc
phục được những hạn chế trong cương lĩnh mà hoàn chỉnh trong hành động. Điều này đã
khẳng định được tính sáng tạo và vận dụng triệt để mối quan hệ lý luận và thực tiễn cho
đường lối tranh đấu của mình.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI
CẤP TRONG THỰC TIỄN CÁCH MẠNG THỜI KÌ 1936 – 1939
1. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Trước biến đổi của tình hình trong nước và thế giới, dưới ánh sáng của chủ trương
chuyển hướng chiến lược của Đại hội VII Quốc tế cộng sản, Đảng chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược bước đầu trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
tháng 7 năm 1936 họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Lê
Hồng Phong, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Quốc tế cộng sản. Hội nghị đã thông qua
Nghị quyết quan trọng, quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thể hiện ở những
nội dung:
(1) Hướng mục tiêu đấu tranh vào đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, cải thiện đời sống,
tập trung chĩa mũi nhọn vào kẻ thù trước mắt là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai.
(2) Tổ chức mặt trận nhân dân rộng rãi, bao gồm các giai tầng công nhân, nông dân,
tiểu tư sản, tư sản dân tộc, các tầng lớp trí thức tiến bộ, các đảng phái khác (Trừ bọn tay
sai đế quốc phản động).
(3) Thực hiện phòng thủ Đông Dương, không chủ trương nội chiến Cách mạng.
(4) Triệt để sử dụng các hình thức đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp kết
hợp các tổ chức bí mật mà tăng cường mọi hình thức hoạt động của Đảng và quần chúng.
12


Để thực hiện thắng lợi những nội dung này, Hội nghi chủ trương nêu khẩu hiệu ủng
hộ mặt trận nhân dân pháp, ủng hộ các lực lượng tiến bộ trong chính phủ mặt trận nhân
dân Pháp và quyết định thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương bao
gồm nhiều giai tầng, đảng phái chính trị khác nhau: “Nhiệm vụ rất quan trọng của những
người cộng sản ở các xứ thuộc địa và bán thuộc địa là lập Mặt trận nhân dân chống đế

quốc”. Hội nghị xác định kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương không
phải là thực dân Pháp nói chung mà là bọn phản động thuộc địa và tay sai. Vì vậy, phải tổ
chức được một mặt trận nhân dân rộng rãi để tập hợp quần chúng đánh đổ chúng. Hội
nghị cũng chủ trương chuyển hướng hoạt động bí mật không hợp pháp sang hình thức tổ
chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp là chủ yếu. Trong công tác xây dựng Đảng,
Hội nghị chủ trương không phải là Đảng bỏ cách bí mật mà theo chủ nghĩa công khai.
Đảng vẫn củng cố tổ chức và công tác bí mật của Đảng hơn xưa trong các tổ chức quần
chúng phát triển và phong trào vận động lan rộng. Đảng lại hết sức thu nạp Đảng viên
và củng cố hàng ngũ của mình. Hội nghị bầu đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng bí thư
Đảng.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị đã đánh dấu bước trưởng
thành mới của Đảng ta trong việc giải quyết mối đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu
chiến lược với mục tiêu cụ thể trước mắt của Cách mạng, mối quan hệ giữa mục tiêu đấu
tranh với hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh, mối quan hệ giữa liên minh công
nông và mặt trận, mối quan hệ giữa phong trào Cách mạng Đông Dương với phong trào
Cách mạng thế giới nói chung và Pháp nói riêng.
Hội nghị nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố dân tộc ở một nước thuộc địa,
bước đầu giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng dần được bổ xung trong thực
tiễn đấu tranh thông qua các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 3 năm 1937,
13


tháng 9 năm 1937 và tháng 3 năm 1938. Những chủ trương này là một nhân tố quan trọng
quyết định thắng lợi của thời kì đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thời kì 1936 – 1939.
2. Đảng giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc thời kì
1936 – 1939
Xem xét và đánh giá chính xác hoàn cảnh lịch sử, Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài đã
có những chỉ đạo cổ vũ động viên phong trào Cách mạng trong nước. Người đã đóng góp
nhiều ý kiến chỉ đạo cho công tác đấu tranh của Đảng để mở rộng và phát huy hơn nữa

thắng lợi của phong trào, đặc biệt là mục tiêu Cách mạng, cách thức giải quyết những vấn
đề về dân tộc giải phóng và giai cấp Cách mạng. Người khẳng định: Lúc này Đảng không
nên đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, nghị viện.v..v…). Như thế sẽ rơi vào
cạm bẫy của phát xít Nhật. Chỉ nên đòi hỏi những quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do
hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân xá toàn thể chính trị phạm” Như vậy,
bằng nhãn quan chính trị nhạy bén và sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc đã có những chỉ đạo
mang tính chất chiến lược trong tình hình mới. Theo Người, ngay trong lúc này thì vấn đề
Cách mạng dân tộc giải phóng và giai cấp giải phóng nên được tạm thời gác lại, mà tập
trung đòi tranh thủ về vấn đề “dân chủ, tự do”, nghĩa là những quyền lợi cơ bản cho dân
tộc. Người còn chủ trương tổ chức mặt trận rộng rãi, bao gồm nhiều giai tầng, đảng phái
khác nhau, mặt trận ấy không những chỉ có người Đông Dương mà bao gồm cả người
Pháp tiến bộ ở Đông Dương, không những chỉ có nhân dân lao động mà gồm cả giai cấp
tư sản dân tộc. Những chỉ thị này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã giúp cho Trung ương
Đảng thêm vững vàng trong lãnh đạo và chỉ đạo chuyển hướng chiến lược Cách mạng ở
Đông Dương.
Chỉ đạo giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp thời kì 1936 – 1939 được Đảng ta
xem xét trong nhiều Hội nghị quan trọng trong giai đoạn này:

14


Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 7 năm 1936
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 7 năm 1936 được triệu tập tại Thượng Hải
(Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì được coi là Hội nghị đầu tiên về vấn đề
chuyển hướng chiến lược Cách mạng nước ta cả giai đoạn 1936 – 1939. Dưới ánh sáng
của những Nghị quyết của Đại hội VII Quốc tế cộng sản, Hội nghị đã phân tích và làm rõ
những mục tiêu phương hướng chiến lược trong tình hình mới, nhận thức được tầm quan
trọng của nhân tố dân tộc trong một nước thuộc địa, bước đầu thay đổi phương hướng
giải quyết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp. Trong Thư của Ban chỉ huy ở ngoài gửi các
đồng chí, Đảng ta có nhận xét: tất cả các phần tử của tất cả các giai cấp, phải đặt lợi ích

của dân tộc lên trên tất cả; lợi ích này là lợi ích của tất cả các tầng lớp, tất cả các giai
cấp xã hội và đặc biệt là của quần chúng nhân dân rộng rãi. Việc cần hơn hết thời
điểm này chính là đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, dự bị những điều
kiện để Cách mạng giải phóng dân tộc phát triển vì rằng “chiến sách của Đảng là nhận
rõ ai là kẻ địch nhân nguy hiểm nhất trong lúc hiện thời nhất định sẽ tập trung ngọn lửa
vào đó mà đánh”. Bởi vì “Chủ nghĩa cộng sản là đảng của những người vô sản,
điều đó là hoàn toàn phù hợp với học thuyết của Các Mác.
Nhưng trong tình hình đặc thù ở nước ta và trong giai đoạn hiện thời của phong
trào giải phóng quần chúng, chúng ta cũng không kém mácxít, lêninnít, xtalinnít hơn
khi nói rằng chủ nghĩa cộng sản bảo vệ các lợi ích của toàn thể dân cư”.
Qua văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới của Đảng” tháng 11 năm 1936,
Đảng chủ trương chuyển hướng giải quyết các mối quan hệ trong đấu tranh giải phóng
giai cấp với đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ phản đế và điền địa tuy không thay
đổi nhưng lúc này chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp. Đảng nhận định trong văn kiện:
“Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cách mạng điền địa, nghĩa
là không thể nói rằng: Muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa,
15


muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác
đáng. Điều ấy có nghĩa là, muốn làm cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, đem lại ruộng
đất cho nông dân nhưng cuộc cách mạng ấy lại ngăn trở tiến trình đấu tranh phản đế thì
có thể lựa chọn vấn đề cách mạng dân tộc mà giải quyết trước nếu trong thời điểm nó là
quan trọng hơn. Chỉ có điều này mới có thể tập trung được lực lượng mà làm cách mạng
một cách triệt để nhất. Chọn địch nhân chính mà tập trung sức để giải quyết là phương
pháp đánh hữu hiệu nhất, mà ít tốn sức nhất. Đây chính là một sáng tạo quan trọng của
Đảng khi áp dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn nước ta.
Hội nghị Trung ương tháng 3 năm 1937, tháng 9 năm 1937, tháng 3 năm 1938
Tiếp theo Hội nghị Trung ương tháng 7 năm 1936, các Hội nghị Trung ương lần lượt
được triệu tập trong các năm tiếp theo sau đó để bổ xung và hoàn chỉnh chủ trương

chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nhận thức đúng hơn về cách thức giải quyết vấn đề đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, kịp thời uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, hữu khuynh
hay tả khuynh trong việc nhận thức và chấp hành đường lối tổ chức và phương pháp đấu
tranh của Đảng.
Các Hội nghị nhận xét, trong tình hình mới, nhiệm vụ mới phải có những đường lối
chính trị mới và đường lối chính trị mới muốn thực hiện được thắng lợi phải có một
đường lối tổ chức mới. Chủ trương chĩa mũi nhọn vào phản động thuộc địa và tay sai, đòi
quyền dân chủ, dân sinh, cơm áo, hòa bình chính là nhiệm vụ trước mắt của những người
Đảng. Để thực hiện được mục tiêu này, việc tổ chức một Mặt trận thống nhất toàn Đông
Dương là cần thiết, phân hóa được những người Pháp ở Đông Dương và thu hút được bộ
phận dân chủ, cô lập hơn nữa bọn phát xít Pháp hiếu chiến và bọn phản động thuộc địa.
Đồng thời với đó là mở rộng hình thức đấu tranh phù hợp với khả năng và trình độ của
quần chúng. Các Hội nghị cũng nhấn mạnh việc chống bọn Tờ - rốt - kít ở Đông Dương
dùng mọi biện pháp để xuyên tạc đường lối chủ trương của ta. Theo Nghị quyết Hội nghị,
16


Mặt trận dân chủ Đông Dương đã ra đời. “Vấn đề thành lập Mặt trận thống nhất dân chủ
là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng giai đoạn hiện tại”. Chính sách Mặt trận dân tộc
chính là những vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về công tác mặt trận
đối với sự nghiệp Cách mạng, giải quyết thực tiễn, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ chính trị.
Những Nghị quyết đường lối của Đảng thông qua các Hội nghị Trung ương đã phát
huy được sức mạnh của nó, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng giai đoạn 1936 –
1939, làm tiền đề cho đường lối chuyển hướng chiến lược giai đoạn 1939 – 1945 sau này.
Thông qua các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương trên, có thể nhận thấy được Đảng
đã giải quyết một cách sáng tạo mối quan hệ dân tộc và giai cấp, thể hiện chính ở những
luận điểm sau:
Thứ nhất, Đảng đã nhận thức được vai trò tầm quan trọng của yếu tố dân tộc trong đấu
tranh giai cấp. “Một dân tộc bị áp bức như xứ Đông Dương, vấn đề dân tộc giải phóng là

một nhiệm vụ quan trọng của người cộng sản”. Cách mạng giải phóng dân tộc không
nằm dưới, hay nằm bên ngoài cuộc đấu tranh điền địa, mà phải nằm trong và là một bộ
phận không thể tách rời của của cuộc đấu tranh này, không nhất thiết là phải hoàn thành
cùng một lúc cả hai cuộc đấu tranh Cách mạng trong tình hình cho phép. Trong văn kiện
Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Đảng nhận định rõ: “Cuộc dân tộc giải phóng
không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng:
Muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề
điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng”.
Trong tình hình có nhiều sự thay đổi cả ở trong nước lẫn nước ngoài, nguy cơ chủ
nghĩa phát xít đe dọa toàn nhân loại trong đó có cuộc đấu tranh của nhân dân ta, trong khi
đó thực dân Pháp ở chính quốc lại đang thi hành nhiều chính sách tiến bộ. Vì vậy, ngay
17


lúc này việc nhanh chóng đấu tranh chống Pháp giải phóng dân tộc, đấu tranh đòi ruộng
đất cho dân cày, đánh đổ phong kiến là điều chưa cần thiết và chưa có điều kiện thực
hiện, thay vào đó, Đảng chủ trương tập hợp quần chúng đòi quyền dân sinh dân chủ, đòi
quyền lợi cơ bản thể hiện sự sáng suốt của Đảng. “Giai cấp vô sản khổ vì chủ nghĩa tư
bản ít hơn là khổ vì chủ nghĩa tư bản phát triển không đầy đủ”. Đây là một trong những
điểm sáng tạo cơ bản của Đảng giai đoạn này.
Thứ hai, Đảng không chỉ xem xét được mối quan hệ biện chứng của vấn đề dân tộc và
giai cấp, mà Đảng còn nhận định được những chiến sách để giải quyết không chỉ hiệu quả
kết quả của từng cuộc đấu tranh này. “Trong thời kì nhất định thì chiến lược không thay
đổi. Còn chiến sách thì tùy theo trình độ cuộc vận động mà thay đổi luôn”. Chiến sách đó
là đưa và giải quyết vấn đề dân tộc lên trước vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong
từng thời kì nhất định. “Chiến sách của Đảng là nhận rõ ai là kẻ địch nhân nguy hiểm
nhất trong lúc hiện thời nhất định sẽ tập trung ngọn lửa vào để mà đánh”. “Một chính
đảng không biết tuỳ theo hoàn cảnh mà thay đổi chiến sách thì không bao giờ làm xong
mục đích của cuộc cách mạng. Vậy cho nên thay đổi chiến sách không thể cho
rằng thay đổi mục đích được

Thứ ba, Đảng đã xác định đúng đắn phương hướng và mục tiêu trước mắt là không
phải là giai cấp đấu tranh đòi điền địa, cũng không phải là đấu tranh lật đổ ách thống trị
thực dân Pháp ngay khi hoàn cảnh không cho phép, mà ở đây mục tiêu trước mắt phải là
chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm
áo và hòa bình.“Trong chính sách liên minh, chúng ta, những người cộng sản, chỉ có
thể tuỳ theo hoàn cảnh mỗi lúc mà liên hiệp với những đảng phái cách mạng hay
những đảng phái cải lương, tấn bộ ít nhiều, chớ còn với những đảng phản động thì
không bao giờ có thể liên minh được

18


Chính vì vậy, Đảng xác định kẻ thù chủ yếu, trước mắt lúc này chưa phải là thực dân
Pháp và giai cấp phong kiến nói chung, tức là chưa phải là cuộc đấu tranh giai cấp và giải
phóng dân tộc đơn thuần, mà “xét tình hình quần chúng vận động hiện thời cả
về chính trị và về tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính
quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Vậy nhiệm vụ lập Mặt trận nhân dân
phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn
thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để
cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ. Bởi chính quyền Pháp ở chính
quốc đang thi hành những chính sách tiến bộ như thả tù chính trị, điều tra tình hình thuộc
địa… Chính vì vậy, không phải là thực dân Pháp nói chung mà chỉ có những tên phản
động thuộc địa và tay sai, những kẻ theo chân phát xít tại thuộc địa thực hiện những
chính sách phi dân chủ mới là đối tượng của Cách mạng lúc này. Chủ trương này đã góp
phần cô lập thêm bọn phản động Pháp ở Đông Dương, đưa cuộc đấu tranh của ta ra đấu
tranh hợp pháp.
Nhiệm vụ cần thiết trong lúc này là phải làm sao đoàn kết được toàn dân tộc cùng
nhau đấu tranh thực hiện được mục tiêu trước mắt là đòi những quyền dân chủ cơ bản ấy.
Chính vì vậy, Đảng hết sức sáng tạo với chủ trương tổ chức ra các mặt trận như Mặt trận
nhân dân phản đế Đông Dương, sau thành Mặt trận dân chủ Đông Dương, tập hợp rộng

rãi các giai cấp, tầng lớp thuộc đảng phái khác nhau, miễn là có tư tưởng muốn đấu tranh
đòi quyền dân chủ cơ bản, chống chiến tranh phát xít. Chủ trương này đã tập hợp được
đông đảo quần chúng tham gia, lực lượng đấu tranh nhờ vậy mà mở rộng nhanh chóng.
Điểm sáng tạo nổi bật hơn nữa là Mặt trận này đã cố gắng liên minh liên kết với Mặt trận
nhân dân Pháp lúc này đang tiến bộ vì lợi ích của Mặt trận. Nguyễn Ái Quốc từng chỉ
đạo: Mặt trận dân chủ Đông Dương phải có liên hệ chặt chẽ với Mặt trận nhân dân
Pháp, vì mặt trận này cũng đấu tranh cho các quyền tự do dan chủ và có thể giúp rất
nhiều cho ta
19


Thứ tư, Đảng đã khéo léo tận dụng sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, Mặt trận bình dân
cũng như Đảng cộng sản Pháp, sự cổ vũ động viên của nhân dân nước thuộc địa nói riêng
và toàn nhân loại tiến bộ nói chung cho công tác đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Trong
Thư ngỏ gửi của Đảng cộng sản Đông Dương gửi chính phủ Mặt trận bình dân Pháp,
Đảng ta có nêu rõ: Đảng Cộng sản Đông Dương chúng tôi không chống tất cả mọi
người Pháp, mà chỉ đấu tranh chống 200 gia đình và bọn tay sai phản động
bởi vì chúng tôi đã và sẽ mãi mãi là những người đồng minh tốt của nhân dân dân
chủ Pháp, người đã nhiều lần ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở xứ chúng tôi
Việc này vừa tranh thủ được sự ủng hộ của nhân loại, còn tỏ rõ được thiện chí muốn hòa
bình, đấu tranh chính nghĩa của Đảng ta.
Với chính sách chuyển hướng chiến lược, tập trung giải quyết vấn đề trước mắt để làm
tiền đề cho mục tiêu chiến lược là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị thực dân và giải
phóng giai cấp trước xiềng xích phong kiến, Đảng đã khéo léo vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin, kịp thời tổ chức quần chúng đấu tranh và thu được những thắng lợi,
làm tiền đề cho cao trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945 sau này. Những thắng lợi đó
được thể hiện thông qua cao trào đấu tranh 1936 – 1939.
3. Kết quả việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp của Đảng thời kì 1936
– 1939
Dưới sự chỉ đạo của Nghị quyết các Hội nghị Trung ương năm 1936, 1937 và 1938 về

chuyển hướng cho nhiệm vụ đấu tranh độc lập dân tộc và giải phóng ruộng đất cho nhân
dân, cùng với việc tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, phong trào đấu tranh của
nhân dân ta nổi lên khá sôi động và mạnh mẽ, đạt được nhiều thắng lợi lớn trên nhiều
lĩnh vực.

20


Mở đầu là phong trào Đông Dương đại hội: Sau khi lên nắm chính quyền, chính phủ
Mặt trận bình dân Pháp đã ban hành nhiều điều luật tiến bộ ở Pháp, trong đó có quyết
định sẽ thả tù chính trị, thi hành một số cải cách xã hội cho nhân dân thuộc địa, đồng thời
sẽ thành lập một Ủy ban điều tra về tình hình Đông Dương. Nắm được cơ hội này, Đảng
đã chủ trương phát động phong trào đấu tranh công khai dưới hình thức Ủy ban trù bị
Đông Dương đại hội, thu thập nguyện vọng của nhân dân, rồi sẽ thông qua bản Dân
nguyện gửi cho Ủy ban điều tra thuộc địa của Pháp. Đây chính là điều kiện để Đảng đưa
hoạt động ra công khai sau một thời gian dài bị khủng bố đầu những năm 30. Dựa vào đó,
Đảng đã ra sức tuyên truyền giác ngộ quần chúng, tiếp cận bám sát quần chúng cả những
nơi hết sức nguy hiểm. Điều này thể hiện sự khôn khéo của Đảng.
Phong trào đòi thực hiện dân chủ dân sinh và đấu tranh hướng ứng phong trào Đông
Dương đại hội phát triển nhanh chóng với nhiều hình thức phong phú như mít tinh, hội
họp, kí tên… Cao hơn nữa là những cuộc bãi công , bãi khóa, bãi chợ…do Đảng lãnh đạo
đòi quyền dân sinh, dân chủ. Các cuộc bãi công nổ ra liên tiếp với quy mô ngày càng
rộng lớn. Điển hình như cuộc bãi công của công nhân Hòn Gai, Cẩm Phả,… đã thu hút
hàng vạn người tham gia.
Chủ trương thành lập các Ủy ban hành động của Đảng được mở rộng cả về quy mô
lẫn chất lượng. Tính riêng 1936 ở miền Nam đã có hơn 600 Ủy ban hành động được
thành lập. Trước sức ép to lớn của phong trào quần chúng, thực dân Pháp phải thực thi
một số chính sách như giảm thuế cho nhân dân, giảm giờ làm, chia ruộng đất, tăng
lương… Đây là những thắng lợi bước đầu của Đảng.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động là một nội dung quan trọng trong phong

trào. Đảng thành lập Hội truyền bá chữ quốc ngữ, xuất bản nhiều sách báo giới thiệu chủ
nghĩa Mác – Lênin, tăng cường tuyên truyền đường lối của Đảng và phản ánh cuộc sống
khổ cực của nhân dân một cách hợp pháp. Nhiều tờ báo công khai đã ra đời, nhiều sách
21


chính trị phổ thông được phát hành thời kì này. Trong điều kiện một nước thuộc địa nửa
phong kiến không có tự do ngôn luận, thực hiện cuộc đấu tranh tư tưởng trên lĩnh vực
báo chí là một thành công không nhỏ của Đảng.
Đảng còn lợi dụng hình thức đấu tranh hợp pháp để tham cử người tham gia tranh cử
vào Viện dân biểu, Hội đồng quản hạt, rồi nói lên tiếng nói của Đảng trên diễn đàn nghị
trường, tấn công một cách gián tiếp vạch trần âm mưu thâm độc của địch, bênh vực cổ vũ
động viên phong trào đấu tranh vì lợi ích của nhân dân. Thắng lợi vang dội nhất trên bàn
nghị trường là cuộc đấu tranh đòi bỏ dự án thuế ở Trung kì năm 1938 với rất nhiều người
giác ngộ Cách mạng đã được vào Viện dân biểu Trung kì.
Nhiều phong trào đấu tranh quần chúng liên tiếp nổ ra và giành những thắng lợi như
phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, phong trào đấu tranh đòi tự do báo chí và tự do xuất
bản, đấu tranh vận động phòng thủ Đông Dương chống nguy cơ chủ nghĩa phát xít
Nhật… Những thắng lợi đó đã khẳng định được cuộc đấu tranh dân chủ dân sinh dựa trên
việc giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp là đúng đắn và sáng tạo.
Tuy cao trào 1936 – 1939 giành được nhiều thắng lợi to lớn, song việc xem xét giải
quyết vấn đề dân tộc và giai cấp của Đảng thời kì này vẫn còn một số hạn chế nhất định:
Nếu như ở thời kì 1930 – 1935, Đảng ta đặt vấn đề dân tộc gắn kết trong đấu tranh
giai cấp, tuy nhiên, do tư tưởng tả khuynh chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Quốc tế cộng sản,
việc xem xét giải quyết chiến sách cách mạng bó hẹp trong vấn đề đòi ruộng đất, nghĩa là
quá đề cao vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở một nước thuộc địa khi mà mâu thuẫn
dân tộc nổi cộm và sâu sắc hơn, thì ở thời kì này lại ngược lại. Vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp nhiều lúc bị xem xét quá mờ nhạt. Phong trào đấu tranh đôi lúc biểu hiện ở
khuynh hướng hữu khuynh, xem nhẹ đấu tranh nông dân, tổ chức và vận động nông dân
còn thấp nên phong trào nông dân phát triển còn chưa xứng với phong trào. Thời kì này

22


lại quá xem trọng đấu tranh của tầng lớp trên, mà còn coi nhẹ các tầng lớp bên dưới, coi
nhẹ đấu tranh của quần chúng công nông, tạo kẽ hở cho bọn phản động thuộc địa lợi
dụng.
Đảng dùng hình thức đường lối đấu tranh công khai hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo,
tuy nhiên trong Đảng có những biểu hiện của chủ nghĩa công khai, đề quá cao hình thức
đấu tranh hợp pháp mà thiếu củng cố tới xây dựng lực lượng đấu tranh bí mật. Công tác
báo chí công khai mà thiếu bổ xung huấn luyện bí mật, dẫn tới công tác tuyên truyền của
Đảng gặp hạn chế.
Những hạn chế này được Đảng sớm nhận thức và có những biện pháp chỉ đạo chấn
chỉnh nhanh chóng và kịp thời, bởi vậy đã khắc phục được những tiêu cực xảy ra, đưa
cuộc đấu tranh tới thắng lợi.
Tất cả đều được ghi nhận trong tác phẩm Tự chỉ trích của đồng chí Nguyễn Văn Cừ,
một tác phẩm đúc rút, tổng kết những kinh nghiệm về xây dựng Mặt trận dân chủ, nhằm
tăng cường tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng. Tác phẩm đã phê phán những nhận
thức và quan điểm lệch lạc của một số đồng chí cán bộ ta trong công tác Mặt trận, đồng
thời phân tích và khẳng định tính đúng đắn trong đường lối của Đảng ta. Tác phẩm đã
góp phần không nhỏ vào thành công trong cao trào 1939 – 1945 sau này.


C. KẾT LUẬN
Đảng lãnh đạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục
tiêu trước mắt không chỉ cho thấy Đảng xem xét mối quan hệ dân tộc và giai cấp một
23


cách biện chứng, mà còn cho thấy Đảng đã thấm nhuần và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào thực tiễn nước ta. Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông, thực

tiễn mà không có lý luận là thực tiễn mù quáng. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn đã
được xem xét một cách phù hợp, giải quyết triệt để.
Vận dụng một cách sáng tạo chủ trương của Đại hội VII Quốc tế cộng sản vào thực
tiễn Cách mạng Đông Dương, Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc và giai cấp, kịp thời chuyển hướng chiến lược, phát động một cao trào đấu tranh
rộng lớn, tập hợp quần chúng dưới ngọn cờ của Mặt trận thống nhất, chĩa mũi nhọn vào
kẻ thù nguy hiểm trước mắt là bọn phản động thuộc địa và tay sai. Nhiệm vụ chiến lược
của Cách mạng dân tộc, dân chủ đã được Đảng cụ thể hóa bằng những những mục tiêu cụ
thể, dựa trên sự phân tích một cách khoa học về kẻ thù, đưa ra để phân hóa hàng ngũ kẻ
địch. Thực tiễn cao trào 1936 – 1939 đã kiểm chứng tính đúng đắn của sự thay đổi chỉ
đạo chiến lược này.
Kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo độc lập chủ nghĩa Mác – Lênin vào việc giải quyết
mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt, giải quyết yêu cầu của thực
tiễn đối với Cách mạng là một trong những tôn chỉ làm nên ngọn cờ bách chiến bách
thắng của Đảng ta. Giai đoạn đấu tranh dân chủ 1936 – 1939 đã để lại nhiều bài học
không chỉ với những giai đoạn cách mạng sau này, mà trong giai đoạn hiện nay vẫn còn
nguyên giá trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

24


1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, 2, 5, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, 7, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng thời kì Đổi mới, NXB Chính trị quốc gia,
Hội nghị, 2005
4. Viện Lịch sử Đảng, Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (Hệ lý luận chính

trị cao cấp), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
5. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Cách mạng
tháng Tám 1945, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
6. Ban NCLSĐTW, Văn kiện Đảng 1930 – 1945, NXB Sự thật, Hà Nội.

25


×