KHOA LUT
PHM TH TRANG
PHáP LUậT Về TRợ GIúP Xã HộI
ĐốI VớI NGƯờI KHUYếT TậT - Từ THựC TIễN
TạI THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN HU CH
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
PHẠM THỊ TRANG
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI
KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ....................................................................11
1.1.
Người khuyết tật và vai trò của người khuyết tật trong đời
sống xã hội .......................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật................................................................. 11
1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật ........................................................... 15
1.1.3. Vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hộiError! Bookmark not defined
1.2.
Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not d
1.2.1. Khái niệm pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmar
1.2.2. Sự cần thiết phải có pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật ............................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................... Error! Bookmark not defined.
2.1.
Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookma
2.1.1. Đối tượng được trợ giúp xã hội........... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Trình tự, thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark n
2.1.3. Quyền lợi về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not defin
2.1.4. Nguồn tài chính và cơ quan tổ chức thực hiệnError! Bookmark not defined.
2.2.
Thực tiễn thực hiện trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
tại Thành phố Hà Nội ....................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Tình hình người khuyết tật và công tác người khuyết tật trên địa
bàn Thành phố Hà Nội ........................ Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Đối tượng được trợ giúp xã hội........... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Trình tự, thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark n
2.2.4. Quyền lợi về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not defin
2.2.5. Nguồn tài chính và cơ quan tổ chức thực hiệnError! Bookmark not defined.
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT .................... Error! Bookmark not defined.
3.1.
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật .......................... Error! Bookmark not defined.
3.2.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 19
PHỤ LỤC ....................................................... Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống, không phải ai cũng gặp may mắn, thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển,
trái lại họ thường xuyên phải đối mặt với những rủi ro, bất hạnh, biến cố… vì nhiều nguyên nhân
khác nhau. Khi rơi vào hoàn cảnh như vậy, nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống,
vươn lên hòa nhập cộng đồng trở thành cấp thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc. Do đó, có thể
nhận thấy, trợ giúp xã hội là biện pháp tương trợ cộng đồng đầu tiên mà con người tìm đến để
giúp nhau vượt qua những tình huống khó khăn. Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một
hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm.
Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và
tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc bảo đảm sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình,
xã hội và Nhà nước.
Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống
nhân đạo của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 đều khẳng định
người khuyết tật là công dân - thành viên của xã hội, được hưởng đầy đủ các quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì khuyết tật,
nên người khuyết tật có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện được quyền bình
đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời khuyết tật, họ
được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân.
Xã hội ngày càng phát triển song hành với các chiến lược phát triển kinh tế
thì những chủ trương chính sách phát triển xã hội thông qua các chính sách đảm
bảo đời sống an sinh xã hội của người dân cũng ngày càng được chú trọng. Hiện
nay, người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các cơ hội tiếp cận các hoạt
động, dịch vụ nhằm nâng cao năng lực, tạo thuận lợi cho việc hội nhập đời sống
của cộng đồng. Bản thân người khuyết tật không thể hội nhập vào cuộc sống cộng
đồng nếu đó chỉ là sự nỗ lực của bản thân mà còn cần được sự quan tâm chia sẻ,
tạo thuận lợi từ gia đình, cộng đồng và xã hội để người khuyết tật có thể dễ dàng
hoà nhập với cộng đồng và xã hội từ đó phát huy được khả năng của mình.
5
Tuy nhiên, thực trạng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở nước ta
cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như: còn một số đối tượng người khuyết tật chưa được
hưởng trợ giúp; thủ tục, điều kiện hưởng trợ giúp rườm rà; mức trợ giúp hiện hành
cho người khuyết tật còn thấp… Vì những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật - Từ thực tiễn tại Thành phố Hà Nội”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật
và thực tiễn trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Thành phố Hà Nội nói riêng
và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật có ý nghĩa thực tiễn vô
cùng to lớn đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Vì vậy,
vấn đề này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong số các công trình đã
được công bố, có thể kể tên một số công trình liên quan trực tiếp đến đề tài luận
văn là:
- Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết
tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật”
của Hồ Thị Trâm năm 2013;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Chế độ bảo trợ đối với người khuyết tật” của
Nguyễn Đức Hoàng năm 2013;
- Luận văn thạc sỹ công tác xã hội “Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Thành
phố Hà Nội” của Nguyễn Thị Quỳnh năm 2014;
- “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”
của Mai Ngọc Cường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
- Giáo trình Luật Người khuyết tật năm 2011 của Trường đại học Luật Hà
6
Nội do Nguyễn Hữu Chí chủ biên;
- Bài viết “Pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật tại Việt Nam
- Thực tiễn và một số kiến nghị” của Nguyễn Hiền Phương trên tạp chí Luật học số
đặc san năm 2013;
- Bài viết “Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện”
của Lê Thị Hoài Thu trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1 năm 2014;
- Bài viết “Một số bất cập trong áp dụng pháp luật về bảo trợ xã hội đối với
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Kim Khuyên số 10 năm 2015.
Những công trình nghiên cứu trên nhìn chung đã nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn về hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên từng khía cạnh
và mức độ khác nhau. Tuy vậy, công trình nghiên cứu về vấn đề trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật một cách hệ thống và toàn diện thì vẫn còn ít, nhất thực tiễn
thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội là chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì
vậy, tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài này, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện
hơn về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật và thực tiễn tại Thành phố Hà Nội,
đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật, dựa trên cơ sở lý luận đó để đánh giá về thực
trạng các quy định pháp luật hiện hành, thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hà
Nội và đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật nhằm đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của thực tiễn về vấn đề bảo vệ,
hỗ trợ và thực hiện hóa quyền của người khuyết tật. Với mục đích như trên, nhiệm vụ
nghiên cứu của luận văn là:
Đánh giá về những quan điểm hiện hành và từ đó xây dựng nội dung lý luận
về pháp luật trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật như: Xây dựng khái niệm trợ
7
giúp xã hội đối với người khuyết tật, xác định các nguyên tắc cơ bản trong việc trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Đánh giá nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, bao
gồm những ưu nhược điểm và hạn chế của các quy định của pháp luật hiện hành.
Việc đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật nhằm phát hiện những bất cập,
hạn chế cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành. Đánh giá thực tiễn thực hiện
và áp dụng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
Xây dựng các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật. Những phương hướng này cần bám sát và thể
hiện đúng chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà
nước nhằm đảm bảo và hỗ trợ người khuyết tật. Các giải pháp đưa ra cần có tính
khả thi và có cơ sở khoa học, được dựa trên cơ sở lý luận và những đánh giá về
thực trạng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:
Hệ thống các quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật bao gồm: Luật về người khuyết tật, và các văn bản pháp luật
khác có liên quan.
Các quan điểm khoa học đã được công bố trong các công trình nghiên cứu
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Luận văn được xác định giới hạn nghiên cứu như sau:
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống quy định pháp luật về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật ở Việt Nam kể từ khi có luật về người khuyết tật năm 2010
cho đến hiện nay và có so sánh với các quy định pháp luật trước đó.
Những nghiên cứu của luận văn hướng tới hệ thống các quy định pháp luật
8
điều chỉnh hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu và mục đích nghiên cứu,
luận văn được tiếp cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. Đối với từng nội dung cụ thể, đề tài chủ yếu
sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh luật
học và phương pháp lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu về hệ thống lý luận về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật cũng như đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp
xã hội đối với người khuyết tật. Do đó luận văn sẽ góp phần bổ sung một số vấn đề
lý luận mới về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Kết quả nghiên cứu của
luận văn có tính ứng dụng thực tiễn. Một là, luận văn đóng góp những căn cứ khoa
học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết
tật ở Việt Nam. Hai là, luận văn sẽ góp phần đóng góp vào hệ thống kiến thức
pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức công tác xã hội và người khuyết
tật áp dụng các quy định của pháp luật một cách hiệu quả.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về người khuyết tật và pháp luật về
trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
9
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ
PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Người khuyết tật và vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã
hội
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
Vào những năm 1970, trong các văn bản quốc tế thường dùng hai từ tiếng
Anh “disability” (khuyết tật) và “handicap” (không hội nhập được) để nói về
người khuyết tật. Từ “disability” được dùng để nói về một loạt những hạn chế về
mặt chức năng khác nhau xuất hiện ở bất cứ cộng đồng dân cư và bất cứ quốc gia
nào trên thế giới. Người ta có thể bị khuyết tật về cơ thể, trí tuệ hoặc giác quan.
Những khiếm khuyết ấy có thể là lâu dài và cũng có thể là nhất thời. Có nghĩa là từ
“disability” giải thích vấn đề “tàn tật” từ góc độ y học và chẩn đoán.
Còn “handicap” có nghĩa là thiếu hoặc bị hạn chế những cơ hội để tham gia
vào đời sống của cộng đồng một cách bình đẳng như những người khác. Nó mô tả
sự đụng độ giữa người khuyết tật với môi trường sinh hoạt. Mục đích của từ này là
muốn nhấn mạnh đến những sự thiếu hoàn chỉnh của môi trường sinh hoạt và trong
nhiều hoạt động có tổ chức của xã hội, chẳng hạn như các lĩnh vực thông tin, giao
tiếp và giáo dục, sự thiếu hoàn chỉnh ấy đã góp phần làm ngăn cản người khuyết
tật được tham gia một cách bình đẳng. Có nghĩa là từ “handicap” giải thích vấn đề
“tàn tật” từ góc độ thiếu hoàn thiện của môi trường xã hội.
Hai từ “disability” và “handicap” thường được dùng không rõ ràng và nhiều
khi lẫn lộn với nhau, vì thiếu mà nhiều khi đã dẫn đến sự dẫn hướng chưa được
thích đáng cho phía hoạch định chính sách và thi hành chính sách.
Năm 1980, Tổ chức y tế thế giới đã thông qua sự phân loại trên phạm vi
quốc tế về các khái niệm "impairment" (khiếm khuyết), "disability" (khuyết tật hay
11
tàn tật) và "handicap" (không hội nhập được), nó cho thấy có một sự tiếp cận vấn
đề chuẩn xác hơn, nhằm sử dụng được một cách thỏa đáng trong nhiều lĩnh vực
như phục hồi chức năng, giáo dục, thống kê, chính sách, lập pháp, điều tra dân số,
xã hội học, kinh tế học và nhân học...
Những trải nghiệm thu nhận được từ việc thực hiện Chương trình hành động
thế giới về người khuyết tật và qua rất nhiều cuộc thảo luận được mở ra trong Thập
kỉ người khuyết tật của Liên hiệp quốc (1983-1992) đã khiến cho người ta có được
những kiến thức sâu hơn và sự hiểu biết rộng hơn về vấn đề người khuyết tật cùng
những từ ngữ được dùng nói trên. Việc sử dụng đồng thời các từ này cho thấy sự
cần thiết của việc cần hướng đến cả những nhu cầu cá nhân (như phục hồi chức
năng và các trợ giúp kĩ thuật) và cả sự còn thiếu hoàn chỉnh của xã hội (những trở
ngại khác nhau khi tham gia vào các hoạt động xã hội).
Trước đây trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như của Việt Nam
thường sử dụng thuật ngữ “người tàn tật”.
Theo Tuyên ngôn của người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hiệp quốc
thông qua ngày 9/12/1975 thì:
Người tàn tật có nghĩa là bất cứ người nào mà không có khả năng tự bảo
đảm cho bản thân, toàn bộ hay từng phần những sự cần thiết của một cá nhân bình
thường hay của cuộc sống xã hội do sự thiếu hụt bẩm sinh hay không bẩm sinh
trong những khả năng về thể chất hay tâm thần của họ [26].
Theo Nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ Việt Nam về
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động người tàn tật.
Điều 1 quy định, người tàn tật là “người mà khả năng lao động bị suy giảm từ 21%
trở lên do tàn tật được hội đồng giám định y khoa xác định” [9].
Theo pháp lệnh về người tàn tật của Việt Nam ban hành ngày 30/7/1998
Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người khiếm
khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những
dạng tật khác nhau làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh
12
hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [49].
Tuy nhiên, hiện nay hầu như tất cả các văn bản liên quan đến người khuyết
tật đều không sử dụng thuật ngữ “người tàn tật” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “người
khuyết tật”. Sau này công ước quốc tế và những văn bản quốc tế đều dùng từ
Poeple with disability – Người sống chung với khuyết tật; như một cách nói tránh
để giảm sự kỳ thị với người khuyết tật – Luật người khuyết tật Việt Nam được xây
dựng sau khi có công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, tiếp thu công ước
nên cũng xây dựng và tiếp cận người khuyết tật theo hướng quyền, và nguyện vọng
của người khuyết tật – Chứ không theo hướng bảo trợ xã hội như pháp lệnh người
tàn tật 1998 – Nên thống nhất sử dụng thuật ngữ “người khuyết tật”
Điều 1, Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm
2006 quy định:
Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh,
trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt
những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ với hiệu quả của người khuyết tật
vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác [50].
Theo định nghĩa trong Đạo luật người khuyết tật Hoa Kỳ năm 1990 thì
“người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh
hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống”[43,
tr. 18-19]. Một người được coi là người khuyết tật nếu đã có một khiếm khuyết
nào đó từ trước. Những khiếm khuyết ấy có thể bao gồm khiếm khuyết về cơ thể,
giác quan, nhận thức hoặc trí tuệ. Những người bị rối loạn tâm thần và mắc các
loại bệnh kinh niên khác nhau cũng có thể được coi là người khuyết tật. Các
khuyết tật có thể xuất hiện trong cuộc đời hoặc có ngay từ lúc sinh ra ở một người
nào đó.
Bộ luật xã hội Đức định nghĩa:
Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lý
13
tiến triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6
tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế
tham gia vào cuộc sống xã hội [43, tr.18]
Ở Việt Nam, người khuyết tật được Đảng, Nhà nước quan tâm từ rất sớm.
Tuy vậy, thuật ngữ người khuyết tật mới được sử dụng gần đây với sự ra đời của
Luật người khuyết tật năm 2010. Theo đó người khuyết tật được hiểu là “người bị
khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được
biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [34,
Điều 2, Khoản 1].
Lý do để giải thích cho việc thay đổi thuật ngữ này là việc hiểu bản chất của
khuyết tật có thể từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là từ cá nhân, từ xã hội.
Nếu dùng từ “tàn tật” thì chỉ tập trung vào sự bất lợi của người khuyết tật đối với
mọi người xung quanh, tức là phân biệt họ với những người khác trong xã hội. Do
vậy, xu hướng chung được khuyến nghị là sử dụng thuật ngữ “khuyết tật” thay cho
“tàn tật”.
Ở Việt Nam khái niệm “Người khuyết tật” đã thay đổi theo từng giai đoạn
và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố văn hóa và lịch sử. Trước năm 2009,
thuật ngữ phổ biến để chỉ người khuyết tật là “tàn tật” và quan điểm nhìn nhận phổ
biến về người khuyết tật chủ yếu theo xu hướng mô hình từ thiện. Bắt đầu từ năm
2010, thuật ngữ “người khuyết tật” được sử dụng thay thế cho thuật ngữ “người
tàn tật”, điều này thể hiện sự tiến bộ mạnh mẽ trong công tác bảo vệ, giáo dục,
chăm sóc người khuyết tật. Hiện nay tại Việt Nam, thuật ngữ “khuyết tật” được sử
dụng với vai trò là thuật ngữ chính thống và phổ biến khi nói về nhóm đối tượng
dân cư đặc thù này. Điều này không chỉ có tác dụng tích cực với nhóm người
khuyết tật về mặt tinh thần mà còn tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của xã
hội nhằm hướng tới những thay đổi mạnh mẽ.
Như vậy, tùy từng thời điểm và từng quốc gia mà khái niệm về người khuyết
14
tật có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Để có khái niệm chung nhất
về người khuyết tật nhằm thuận lợi cho việc tìm hiểu nghiên cứu tác giả xin trích
dẫn khái niệm trong Giáo trình Luật về người khuyết tật của trường Đại học Luật
Hà Nội vào, đây là khái niệm mà tác giả thấy phù hợp, ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa
bao quát hết được những đặc điểm cơ bản của người khuyết tật. Theo đó “Người
khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia
của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể
khác” [43, tr.21].
1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật
Việc xác định và làm rõ đặc điểm của người khuyết tật không chỉ có ý nghĩa
trong việc xác định đúng đối tượng nào là người khuyết tật mà còn có ý nghĩa trong
việc xây dựng những quy định của pháp luật mang tính khả thi cao về người khuyết
tật, điều chỉnh đúng phạm vi đối tượng là người khuyết tật.
Người khuyết tật trước hết cũng là những con người nên họ mang những đặc
điểm chung về tâm sinh lý, đặc điểm về kinh tế - xã hội như mọi người khác trong
xã hội. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên người
khuyết tật nói chung lại có những nét đặc thù so với những người không khuyết tật
và mỗi nhóm khuyết tật khác nhau lại có những nét đặc thù tương đối khác nhau.
Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ
khuyết tật.
Đặc điểm về dạng tật
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về phân loại người khuyết tật
theo các tiêu chí khác nhau, tuy nhiên thì tiêu chí về sự khiếm khuyết bộ phận
cơ thể hoặc suy giảm chức năng là tiêu chí được quan tâm nhiều nhất. Ở Việt
Nam, theo quy định của Luật Người khuyết tật năm 2010 thì các dạng khuyết tật
được phân theo dạng tật: Khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật
15
nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác [34].
Mỗi dạng khuyết tật này có những đặc điểm riêng, chung về tâm sinh lý, về
khả năng qua đó tác động đến các nhu cầu của bản thân và có ảnh hưởng qua lại,
tác động đáng kể tới môi trường xung quanh làm xuất hiện những hệ quả pháp lý
trong quá trình hòa nhập cộng đồng.
Khuyết tật vận động là những người có cơ quan vận động bị tổn thương, khó
khăn trong di chuyển (nằm, ngồi, cầm, nắm, di chuyển...). Do đó, người khuyết tật
gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, học tập, lao động và vui chơi. Họ cần
được hỗ trợ về phương tiện đi lại đối với những người khuyết tật vận động về vùng
chân như dùng xe lăn, gậy chống... và không gian cần thiết tiếp cận, thuận tiện để
sinh hoạt và di chuyển.
Khuyết tật nghe, nói: Người khuyết tật gặp khó khăn trong việc phát âm ra
tiếng và nghe được âm thanh, từ đó cũng dẫn tới những khó khăn về đọc, về viết
kéo theo cả một loạt các khó khăn và hạn chế khác trong hoạt động sinh hoạt học
tập, lao động, hòa nhập với cộng đồng. Đối với những người khiếm thính họ cần
được hỗ trợ máy trợ thính để có thể nghe được, và học ngôn ngữ ký hiệu trong giao
tiếp đối với người bị câm, điếc. Một số người khiếm thính ở dạng nhẹ ngoài việc
kết hợp dùng máy trợ thính, họ học phương pháp đọc khẩu hình. Người khuyết tật
về nghe, nói thường rất khó khăn trong việc thể hiện ngôn ngữ giao tiếp và tiếp
nhận thông tin từ cộng đồng, bởi ngôn ngữ của họ là ngôn ngữ ký hiệu.
Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Đó là những người có tật về
mắt làm cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không rõ ràng. Công cụ hỗ trợ cho họ là
chiếc gậy trắng, chữ nổi Braille, chó dẫn đường, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối
đi có gờ nổi ký hiệu nhận diện, phát ra âm thanh hướng dẫn... Đối với những người
nhìn kém thì môi trường cần thiết cho họ phải đảm bảo đủ ánh sáng, dùng những
màu tương phản hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung cấp thiết bị
phóng đại hình ảnh.
16
Khuyết tật trí tuệ: Đây là dạng khuyết tật bị giảm hoặc mất khả năng
nhận thức, tư duy biểu hiện bằng chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về
sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Những người khuyết tật về trí tuệ có
nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ và người thân.
Xét ở góc độ đặc điểm về tâm lý, sinh lý cho thấy tính đa dạng của khuyết
tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp lý cũng cần
tính đến yếu tố đặc thù của các dạng khuyết tật khác nhau.
Đặc điểm về mức độ khuyết tật
Căn cứ vào mức độ khuyết tật, người khuyết tật được chia làm 3 loại: người
khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người khuyết tật nhẹ. Theo quy
định của Nghị định số 28/2012/NĐ-CP thì:
Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người khuyết tật dẫn đến mất hoàn
toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi
lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá
nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn (khoản 1
Điều 3).
Người khuyết tật nặng là những người khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc
suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt
động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh
hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc (khoản 2
Điều 3).
Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc hai trường hợp kể trên
(khoản 3 Điều 3).
Xét ở góc độ đặc điểm thể chất - tâm lý - xã hội cho thấy tính đa dạng của
người khuyết tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp
lý cũng cần tính đến yếu tố đặc thù của các mức độ (hạng) khuyết tật khác nhau.
Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội.
17
Trước hết người khuyết tật là nhóm dân cư đặc biệt phải chịu thiệt thòi về
mặt kinh tế, xã hội và nhân khẩu học.
Đối với bản thân người khuyết tật, chính họ phải chịu rất nhiều thiệt thòi
trong mọi mặt cuộc sống. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các công
việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết
hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội. Để khắc phục những khó khăn
này, người khuyết tật chủ yếu dựa vào gia đình, nguồn giúp đỡ chính đối với họ.
Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn nếu gia đình người khuyết tật không
có đủ kinh tế và nhân lực để chăm sóc hỗ trợ người khuyết tật, làm cho người
khuyết tật càng ít có cơ hội được tham gia và hòa nhập vào cộng đồng.
Đối với gia đình có người khuyết tật thường thì sẽ phải chịu những gánh
nặng về kinh tế, năng suất lao động của người khuyết tật thường thấp và có khi họ
không có khả năng lao động mà có thể còn phải chi một khoản tiền nhất định mỗi
tháng cho họ để phục hồi chức năng - Như dụng cụ chỉnh hình, chân tay giả, xe
lăn... người khuyết tật cũng ít có cơ hội được tham gia học hành, một phần là do
bản thân họ không có khả năng tự mình đến trường, không có phương tiện dụng cụ
chỉnh hình phục hồi chức năng hoặc ngôi trường hay cơ sở đào tạo không tiếp cận,
hoặc không có chương trình, giáo viên chuyên biệt để dạy cho người khuyết tật,
trong các dạng khuyết tật đặc thù, hai là do kinh tế gia đình còn eo hẹp nên chất
lượng lao động của họ đa số là rất thấp. Vì vậy mà thu nhập của người khuyết tật
thường rất thấp hoặc không có thu nhập dẫn đến điều kiện sống và sinh hoạt không
tốt, ảnh hưởng phần nào đến chất lượng cuộc sống của cả gia đình trong các gia
đình có người khuyết tật.
Hơn nữa, trong xã hội còn tồn tại nhiều quan niệm tiêu cực định kiến sai lầm
về người khuyết tật nên thường dẫn đến thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử đối với
người khuyết tật. Một số gia đình thường bao bọc quá mức, hoặc tập trung đầu tư
và hỗ trợ cho những người con không khuyết tật thì có thể gây áp lực cho người
18
khuyết tật về vấn đề tâm lý, vì họ thường không có thu nhập mà lại gây ra gánh
nặng cho gia đình. Trong cộng đồng, nhiều người coi người khuyết tật là đáng
thương hoặc do những sai lầm ở kiếp trước “tật nguyền”, “quả báo”, không có
cuộc sống bình thường là “gánh nặng” của xã hội [43, tr.24]. Ở trường học thường
thì không nhận những học sinh khuyết tật hoặc không đủ điều kiện dạy học sinh
khuyết tật mà họ phải đi học tại trường dành riêng cho người khuyết tật, đôi khi là
ở quá xa nhà, hoặc quá ít trường chuyên biệt như vậy, nên họ không thể theo học
được. Đây có lẽ cũng là một thiệt thòi lớn đối với người khuyết tật khi không được
nhận sự giáo dục đầy đủ nhất. Đối với một số người khuyết tật có việc làm thì việc
kỳ thị không giao việc cho người khuyết tật, hoặc nhận người khuyết tật vì mục
đích từ thiện nhân đạo cũng diễn ra phổ biến do e ngại rằng họ không đủ năng lực
để làm, nhiều khi dẫn đến làm họ chán nản công việc và không được đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ nên trình độ không đáp ứng được điều kiện làm việc và
cuối cùng họ phải nghỉ việc dẫn đến thất nghiệp.
Ngoài ra thì hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật còn rất hạn chế, thực tế cho thấy
sự khác biệt lớn giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp đỡ mà họ nhận
được. Những hoạt động hỗ trợ thường mang tính từ thiện, phát DANH MỤC TÀI
LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1.
Nguyễn Thị Báo (2007), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật
ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia, Hà Nội.
2.
Nguyễn Thị Báo (2007), “Pháp luật về quyền con người khuyết tật và vai trò
của nó trong thực hiện quyền của người khuyết tật”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, (6), tr.18-21.
3.
Nguyễn Thị Báo (2007), “Quyền của người khuyết tật trong văn kiện quốc tế
19
về quyền con người”, Tạp chí Luật học, (10), tr.3-8.
4.
Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội (2010), Thông tư số 24/2010/TTLTBLĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
và Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP
và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, Hà Nội.
5.
Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội (2015), Sơ kết 5 năm thực hiện Luật
Người khuyết tật và đánh giá giữa kỳ Đề án 1019 năm 2015, Hà Nội.
6.
Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội (2014), Thông tư liên tịch số
29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 24 tháng 10 năm 2014 Hướng dẫn thực
hiê ̣n một số điều của Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm
2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng
bảo trợ xã hội, Hà Nội.
7.
Anh Chi (2012), Việt Nam có số người khuyết tật cao hơn khu vực châu Á –
Thái Bình Dương, , (truy cập 19/7/2016).
8.
Nguyễn Đức Chiện (2012), Thành công và bất cập trong chính sách trợ giúp xã
hội thường xuyên, , (ngày truy cập 23/8/2016).
9.
Chính phủ (1995), Nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 hướng dẫn thi hành một
số điều của Bộ luật lao động về lao động người tàn tật, Hà Nội.
10.
Chính phủ (2000), Nghị định 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 về chính sách
cứu trợ xã hội, Hà Nội.
11.
Chính phủ (2007), Nghị định của Chính số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007
về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội.
12.
Chính phủ (2010), Nghị định của Chính phủ số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định của Chính số 67/2007/NĐ-CP về chính
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội.
13.
Chính phủ (2012), Nghị định của Chính phủ số 28/2012/NĐ-CP ngày
10/04/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành của Luật Người khuyết
tật, Hà Nội.
20
14.
Chính phủ (2013), Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ
giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội.
15.
Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an
sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16.
Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng và Robet Leroy bach
(2005), Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
17.
Nguyễn Trọng Đàm (2016), Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
và giải pháp đổi mới giai đoạn tới, , (ngày truy
cập 19/7/2016).
18.
Đinh Thị Cẩm Hà (2012), “Hoàn thiện các quy định của Hiến pháp bảo
đảm quyền của người khuyết tật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (9), tr. 4952.
19.
Nguyễn Đức Hoàng (2013), Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật,
Những vẫn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội.
20.
Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam
(1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội.
21.
Nguyễn Văn Hồi (2014), Những bước tiến quan trọng trong công tác bảo
trợ xã hội, , (ngày truy cập 19/07/2016).
22.
Nguyễn Hải Hữu (2008), “Mười năm công tác trợ giúp người tàn tật và
những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (333), tr.16-18.
23.
Nam Khánh (2015), Tạo cơ chế mở cho hoạt động bảo trợ xã hội,
, (ngày truy cập 22/7/2016).
24.
Hoàng Kim Khuyên (2015), “Một số bất cập trong áp dụng pháp luật về bảo
trợ xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, (10), tr.58-65,84.
25.
Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn về nhân quyền.
21
26.
Liên hợp quốc (1975), Tuyên ngôn của người khuyết tật.
27.
Nguyễn Hiền Phương (2010), Pháp luật an sinh xã hội – Những vấn đề lí
luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp.
28.
Hồng Phượng (2015), Hà Nội, Quan tâm chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội,
, (ngày truy cập 15/7/2016).
29.
Nguyễn Hiền Phương (2013), “Pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết
tật tại Việt Nam – Thực tiễn và một số kiến nghị”, Tạp chí Luật học, (Đặc
san), tr.63-67.
30.
Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
31.
Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
32.
Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
33.
Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
34.
Quốc hội (2010), Luật người khuyết tật, Hà Nội.
35.
Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
36.
Nguyễn Thị Quỳnh (2014), Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Thành phố
Hà Nội, Luận văn thạc sỹ công tác xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Hà Nội.
37.
Sở Lao Động - TB&XH (2016), Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Luật
Người khuyết tật và Kế hoạch thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2013-2020 trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội
38.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội (2015), Báo cáo kết quả thực
hiện chính sách đối với người khuyết tật năm 2015, Hà Nội.
39.
Nguyễn Quốc Sử (2015), “Chế độ an sinh của Việt Nam đối với người
khuyết tật”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (12), tr.54-58.
40.
Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012
về việc phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, Hà
22
Nội.
41.
Lê Thị Hoài Thu (2014), “Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam và phương
hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1), tr.35-45.
42.
Hồ Thị Trâm (2013), Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật, Luận văn
thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
43.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật về người khuyết tật,
Nxb Công An nhân dân, Hà Nội.
44.
UBNDTP Hà Nội (2011), Quyết định số 34/2011/QĐ-UBND ngày
16/11/2011 về việc quy định mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối
tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng và tại các cơ sở bảo trợ xã hội
thuộc Sở LĐ – TB & XH Hà Nội, Hà Nội.
45.
UBNDTP Hà Nội (2013), Kế hoạch số 161/KH-UBND về trợ giúp người
khuyết tật thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 – 2020 và phân công trách
nhiệm tổ chức thực hiện cho các Sở, Ban, Ngành, các tổ chức đoàn thể xã
hội, Hà Nội.
46.
UBNDTP Hà Nội (2014), Quyết định số 78/2014/QĐ-UBND ngày
31/10/2014 về quy định mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng
bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng và tại các cơ sở Bảo trợ xã hội thuộc Sở
Lao động TB&XH Hà Nội, Hà Nội.
47.
UBNDTP Hà Nội (2014), Quyết định số 5444/QĐ-UBND về việc phê duyệt
dự án “Bổ sung dinh dưỡng, hỗ trợ giáo dục và phát triển đời sống tâm sinh
lý xã hội cho trẻ em mồ côi bị nhiễm HIV và trẻ em mồ côi khuyết tật trong
độ tuổi từ 3 đến 15 tuổi hiện đang sinh sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội của
Sở LĐ – TB&XH Hà Nội, Hà Nội.
48.
UBNDTP Hà Nội (2015), Quyết định 25/2015/QĐ – UBND thành phố Hà
Nội sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 78/2014/QĐ-UBND, Hà
Nội.
49.
Ủy ban thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh của người tàn tật, Hà Nội.
23
50.
Văn phòng điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (2008), Công
ước về quyền của người khuyết tật 2006, Nxb Lao động - xã hội.
51.
Nguyễn Vũ (2012), Bảo trợ xã hội chưa theo kịp thực tế, http://www.
kinhtedothi.vn, (ngày truy cập 18/7/2016).
II. Tài liệu trang Website
52.
truy cập ngày
16/7/2016.
53.
(ngày truy cập 16/7/2016).
54.
/>
55.
/>
24
25