I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHM TH TRANG
PHáP LUậT Về TRợ GIúP Xã HộI
ĐốI VớI NGƯờI KHUYếT TậT - Từ THựC TIễN
TạI THàNH PHố Hà NộI
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHM TH TRANG
PHáP LUậT Về TRợ GIúP Xã HộI
ĐốI VớI NGƯờI KHUYếT TậT - Từ THựC TIễN
TạI THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN HU CH
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
PHẠM THỊ TRANG
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI
KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ...................................................................... 7
1.1.
Người khuyết tật và vai trò của người khuyết tật trong đời
sống xã hội ............................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật ........................................................... 11
1.1.3. Vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hội ............................ 16
1.2.
Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ................... 16
1.2.1. Khái niệm pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ....... 16
1.2.2. Sự cần thiết phải có pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật ............................................................................................. 19
1.2.3. Nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật......... 20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................28
2.1.
Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật .... 28
2.1.1. Đối tượng được trợ giúp xã hội........................................................... 29
2.1.2. Trình tự, thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ............ 33
2.1.3. Quyền lợi về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ....................... 39
2.1.4. Nguồn tài chính và cơ quan tổ chức thực hiện.................................... 45
2.2.
Thực tiễn thực hiện trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
tại Thành phố Hà Nội ....................................................................... 48
2.2.1. Tình hình người khuyết tật và công tác người khuyết tật trên địa
bàn Thành phố Hà Nội ........................................................................ 48
2.2.2. Đối tượng được trợ giúp xã hội........................................................... 52
2.2.3. Trình tự, thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ............ 58
2.2.4. Quyền lợi về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ....................... 60
2.2.5. Nguồn tài chính và cơ quan tổ chức thực hiện.................................... 65
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT .................................................................... 66
3.1.
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật .......................................................................... 66
3.2.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật .................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 82
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống, không phải ai cũng gặp may mắn, thuận lợi cho sự
tồn tại và phát triển, trái lại họ thường xuyên phải đối mặt với những rủi ro,
bất hạnh, biến cố… vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi rơi vào hoàn cảnh
như vậy, nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, vươn lên hòa nhập
cộng đồng trở thành cấp thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc. Do đó, có thể
nhận thấy, trợ giúp xã hội là biện pháp tương trợ cộng đồng đầu tiên mà con
người tìm đến để giúp nhau vượt qua những tình huống khó khăn. Người
khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một
hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật
nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và
tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc bảo đảm sự bình đẳng trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với người
khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và Nhà nước.
Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền
thống nhân đạo của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 đều
khẳng định người khuyết tật là công dân - thành viên của xã hội, được hưởng
đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, được chung hưởng thành quả
xã hội. Vì khuyết tật, nên người khuyết tật có quyền được xã hội trợ giúp để
thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của
xã hội, đồng thời khuyết tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân.
Xã hội ngày càng phát triển song hành với các chiến lược phát triển
kinh tế thì những chủ trương chính sách phát triển xã hội thông qua các chính
sách đảm bảo đời sống an sinh xã hội của người dân cũng ngày càng được chú
1
trọng. Hiện nay, người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các cơ hội
tiếp cận các hoạt động, dịch vụ nhằm nâng cao năng lực, tạo thuận lợi cho
việc hội nhập đời sống của cộng đồng. Bản thân người khuyết tật không thể
hội nhập vào cuộc sống cộng đồng nếu đó chỉ là sự nỗ lực của bản thân mà
còn cần được sự quan tâm chia sẻ, tạo thuận lợi từ gia đình, cộng đồng và xã
hội để người khuyết tật có thể dễ dàng hoà nhập với cộng đồng và xã hội từ
đó phát huy được khả năng của mình.
Tuy nhiên, thực trạng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở nước ta
cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như: còn một số đối tượng người khuyết tật chưa
được hưởng trợ giúp; thủ tục, điều kiện hưởng trợ giúp rườm rà; mức trợ giúp
hiện hành cho người khuyết tật còn thấp… Vì những lý do đó, tôi lựa chọn đề
tài “Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật - Từ thực tiễn tại
Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn góp
phần hoàn thiện pháp luật và thực tiễn trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
ở Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật có ý nghĩa thực tiễn
vô cùng to lớn đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Vì vậy, vấn đề này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong số các
công trình đã được công bố, có thể kể tên một số công trình liên quan trực tiếp
đến đề tài luận văn là:
- Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết
tật” của Hồ Thị Trâm năm 2013;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Chế độ bảo trợ đối với người khuyết tật”
của Nguyễn Đức Hoàng năm 2013;
2
- Luận văn thạc sỹ công tác xã hội “Đánh giá việc thực hiện chính sách
trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ,
Thành phố Hà Nội” của Nguyễn Thị Quỳnh năm 2014;
- “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt
Nam” của Mai Ngọc Cường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
- Giáo trình Luật Người khuyết tật năm 2011 của Trường đại học Luật
Hà Nội do Nguyễn Hữu Chí chủ biên;
- Bài viết “Pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật tại Việt
Nam - Thực tiễn và một số kiến nghị” của Nguyễn Hiền Phương trên tạp chí
Luật học số đặc san năm 2013;
- Bài viết “Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam và phương hướng hoàn
thiện” của Lê Thị Hoài Thu trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1 năm 2014;
- Bài viết “Một số bất cập trong áp dụng pháp luật về bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Kim Khuyên số 10
năm 2015.
Những công trình nghiên cứu trên nhìn chung đã nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên
từng khía cạnh và mức độ khác nhau. Tuy vậy, công trình nghiên cứu về vấn
đề trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật một cách hệ thống và toàn diện thì
vẫn còn ít, nhất thực tiễn thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội là chưa có
công trình nghiên cứu nào. Vì vậy, tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài này,
nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật và thực tiễn tại Thành phố Hà Nội, đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật
trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, dựa trên cơ sở lý luận đó để đánh giá về
3
thực trạng các quy định pháp luật hiện hành, thực tiễn thực hiện trên địa bàn
thành phố Hà Nội và đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật nhằm đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của
thực tiễn về vấn đề bảo vệ, hỗ trợ và thực hiện hóa quyền của người khuyết tật.
Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Đánh giá về những quan điểm hiện hành và từ đó xây dựng nội dung lý
luận về pháp luật trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật như: Xây dựng khái
niệm trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, xác định các nguyên tắc cơ bản
trong việc trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Đánh giá nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết
tật, bao gồm những ưu nhược điểm và hạn chế của các quy định của pháp luật
hiện hành. Việc đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật nhằm phát hiện
những bất cập, hạn chế cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành. Đánh
giá thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Xây dựng các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về
trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Những phương hướng này cần bám
sát và thể hiện đúng chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam,
pháp luật của Nhà nước nhằm đảm bảo và hỗ trợ người khuyết tật. Các giải
pháp đưa ra cần có tính khả thi và có cơ sở khoa học, được dựa trên cơ sở lý
luận và những đánh giá về thực trạng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:
Hệ thống các quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật bao gồm: Luật về người khuyết tật, và các văn
bản pháp luật khác có liên quan.
4
Các quan điểm khoa học đã được công bố trong các công trình nghiên
cứu về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Luận văn được xác định giới hạn nghiên cứu như sau:
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống quy định pháp luật về trợ giúp xã hội
đối với người khuyết tật ở Việt Nam kể từ khi có luật về người khuyết tật năm
2010 cho đến hiện nay và có so sánh với các quy định pháp luật trước đó.
Những nghiên cứu của luận văn hướng tới hệ thống các quy định pháp
luật điều chỉnh hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu và mục đích nghiên
cứu, luận văn được tiếp cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin trong việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. Đối với từng nội dung cụ
thể, đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu về hệ thống lý luận về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật cũng như đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Do đó luận văn sẽ góp phần bổ
sung một số vấn đề lý luận mới về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính ứng dụng thực tiễn. Một là, luận văn
đóng góp những căn cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam. Hai là, luận văn sẽ góp phần
đóng góp vào hệ thống kiến thức pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước, tổ
chức công tác xã hội và người khuyết tật áp dụng các quy định của pháp luật
một cách hiệu quả.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về người khuyết tật và pháp
luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ
PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Người khuyết tật và vai trò của người khuyết tật trong đời
sống xã hội
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
Vào những năm 1970, trong các văn bản quốc tế thường dùng hai từ
tiếng Anh “disability” (khuyết tật) và “handicap” (không hội nhập được) để
nói về người khuyết tật. Từ “disability” được dùng để nói về một loạt những
hạn chế về mặt chức năng khác nhau xuất hiện ở bất cứ cộng đồng dân cư và
bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Người ta có thể bị khuyết tật về cơ thể, trí
tuệ hoặc giác quan. Những khiếm khuyết ấy có thể là lâu dài và cũng có thể là
nhất thời. Có nghĩa là từ “disability” giải thích vấn đề “tàn tật” từ góc độ y
học và chẩn đoán.
Còn “handicap” có nghĩa là thiếu hoặc bị hạn chế những cơ hội để
tham gia vào đời sống của cộng đồng một cách bình đẳng như những người
khác. Nó mô tả sự đụng độ giữa người khuyết tật với môi trường sinh hoạt.
Mục đích của từ này là muốn nhấn mạnh đến những sự thiếu hoàn chỉnh của
môi trường sinh hoạt và trong nhiều hoạt động có tổ chức của xã hội, chẳng
hạn như các lĩnh vực thông tin, giao tiếp và giáo dục, sự thiếu hoàn chỉnh ấy
đã góp phần làm ngăn cản người khuyết tật được tham gia một cách bình
đẳng. Có nghĩa là từ “handicap” giải thích vấn đề “tàn tật” từ góc độ thiếu
hoàn thiện của môi trường xã hội.
Hai từ “disability” và “handicap” thường được dùng không rõ ràng và
nhiều khi lẫn lộn với nhau, vì thiếu mà nhiều khi đã dẫn đến sự dẫn hướng
chưa được thích đáng cho phía hoạch định chính sách và thi hành chính sách.
Năm 1980, Tổ chức y tế thế giới đã thông qua sự phân loại trên phạm
7
vi quốc tế về các khái niệm "impairment" (khiếm khuyết), "disability" (khuyết
tật hay tàn tật) và "handicap" (không hội nhập được), nó cho thấy có một sự
tiếp cận vấn đề chuẩn xác hơn, nhằm sử dụng được một cách thỏa đáng trong
nhiều lĩnh vực như phục hồi chức năng, giáo dục, thống kê, chính sách, lập
pháp, điều tra dân số, xã hội học, kinh tế học và nhân học...
Những trải nghiệm thu nhận được từ việc thực hiện Chương trình hành
động thế giới về người khuyết tật và qua rất nhiều cuộc thảo luận được mở ra
trong Thập kỉ người khuyết tật của Liên hiệp quốc (1983-1992) đã khiến cho
người ta có được những kiến thức sâu hơn và sự hiểu biết rộng hơn về vấn đề
người khuyết tật cùng những từ ngữ được dùng nói trên. Việc sử dụng đồng
thời các từ này cho thấy sự cần thiết của việc cần hướng đến cả những nhu
cầu cá nhân (như phục hồi chức năng và các trợ giúp kĩ thuật) và cả sự còn
thiếu hoàn chỉnh của xã hội (những trở ngại khác nhau khi tham gia vào các
hoạt động xã hội).
Trước đây trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như của Việt Nam
thường sử dụng thuật ngữ “người tàn tật”.
Theo Tuyên ngôn của người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hiệp
quốc thông qua ngày 9/12/1975 thì:
Người tàn tật có nghĩa là bất cứ người nào mà không có khả năng tự
bảo đảm cho bản thân, toàn bộ hay từng phần những sự cần thiết của một cá
nhân bình thường hay của cuộc sống xã hội do sự thiếu hụt bẩm sinh hay
không bẩm sinh trong những khả năng về thể chất hay tâm thần của họ [26].
Theo Nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ Việt Nam về
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động người tàn
tật. Điều 1 quy định, người tàn tật là “người mà khả năng lao động bị suy
giảm từ 21% trở lên do tàn tật được hội đồng giám định y khoa xác định” [9].
Theo pháp lệnh về người tàn tật của Việt Nam ban hành ngày 30/7/1998
Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người
8
khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới
những dạng tật khác nhau làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [49].
Tuy nhiên, hiện nay hầu như tất cả các văn bản liên quan đến người
khuyết tật đều không sử dụng thuật ngữ “người tàn tật” mà chỉ sử dụng thuật
ngữ “người khuyết tật”. Sau này công ước quốc tế và những văn bản quốc tế
đều dùng từ Poeple with disability – Người sống chung với khuyết tật; như
một cách nói tránh để giảm sự kỳ thị với người khuyết tật – Luật người
khuyết tật Việt Nam được xây dựng sau khi có công ước quốc tế về quyền của
người khuyết tật, tiếp thu công ước nên cũng xây dựng và tiếp cận người
khuyết tật theo hướng quyền, và nguyện vọng của người khuyết tật – Chứ
không theo hướng bảo trợ xã hội như pháp lệnh người tàn tật 1998 – Nên
thống nhất sử dụng thuật ngữ “người khuyết tật”
Điều 1, Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc
năm 2006 quy định:
Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần
kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với
hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ với hiệu quả của
người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác [50].
Theo định nghĩa trong Đạo luật người khuyết tật Hoa Kỳ năm 1990
thì “người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây
ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc
sống”[43, tr. 18-19]. Một người được coi là người khuyết tật nếu đã có một
khiếm khuyết nào đó từ trước. Những khiếm khuyết ấy có thể bao gồm khiếm
khuyết về cơ thể, giác quan, nhận thức hoặc trí tuệ. Những người bị rối loạn
tâm thần và mắc các loại bệnh kinh niên khác nhau cũng có thể được coi là
người khuyết tật. Các khuyết tật có thể xuất hiện trong cuộc đời hoặc có ngay
từ lúc sinh ra ở một người nào đó.
9
Bộ luật xã hội Đức định nghĩa:
Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc
tâm lý tiến triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời
gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc
họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội [43, tr.18]
Ở Việt Nam, người khuyết tật được Đảng, Nhà nước quan tâm từ rất
sớm. Tuy vậy, thuật ngữ người khuyết tật mới được sử dụng gần đây với sự ra
đời của Luật người khuyết tật năm 2010. Theo đó người khuyết tật được hiểu
là “người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm
chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp khó khăn” [34, Điều 2, Khoản 1].
Lý do để giải thích cho việc thay đổi thuật ngữ này là việc hiểu bản
chất của khuyết tật có thể từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là từ cá
nhân, từ xã hội. Nếu dùng từ “tàn tật” thì chỉ tập trung vào sự bất lợi của
người khuyết tật đối với mọi người xung quanh, tức là phân biệt họ với những
người khác trong xã hội. Do vậy, xu hướng chung được khuyến nghị là sử
dụng thuật ngữ “khuyết tật” thay cho “tàn tật”.
Ở Việt Nam khái niệm “Người khuyết tật” đã thay đổi theo từng giai
đoạn và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố văn hóa và lịch sử. Trước
năm 2009, thuật ngữ phổ biến để chỉ người khuyết tật là “tàn tật” và quan
điểm nhìn nhận phổ biến về người khuyết tật chủ yếu theo xu hướng mô hình
từ thiện. Bắt đầu từ năm 2010, thuật ngữ “người khuyết tật” được sử dụng
thay thế cho thuật ngữ “người tàn tật”, điều này thể hiện sự tiến bộ mạnh mẽ
trong công tác bảo vệ, giáo dục, chăm sóc người khuyết tật. Hiện nay tại Việt
Nam, thuật ngữ “khuyết tật” được sử dụng với vai trò là thuật ngữ chính
thống và phổ biến khi nói về nhóm đối tượng dân cư đặc thù này. Điều này
không chỉ có tác dụng tích cực với nhóm người khuyết tật về mặt tinh thần mà
10
còn tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của xã hội nhằm hướng tới những
thay đổi mạnh mẽ.
Như vậy, tùy từng thời điểm và từng quốc gia mà khái niệm về người
khuyết tật có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Để có khái niệm
chung nhất về người khuyết tật nhằm thuận lợi cho việc tìm hiểu nghiên cứu
tác giả xin trích dẫn khái niệm trong Giáo trình Luật về người khuyết tật của
trường Đại học Luật Hà Nội vào, đây là khái niệm mà tác giả thấy phù hợp,
ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa bao quát hết được những đặc điểm cơ bản của người
khuyết tật. Theo đó “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế
đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã
hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác” [43, tr.21].
1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật
Việc xác định và làm rõ đặc điểm của người khuyết tật không chỉ có ý
nghĩa trong việc xác định đúng đối tượng nào là người khuyết tật mà còn có ý
nghĩa trong việc xây dựng những quy định của pháp luật mang tính khả thi cao
về người khuyết tật, điều chỉnh đúng phạm vi đối tượng là người khuyết tật.
Người khuyết tật trước hết cũng là những con người nên họ mang
những đặc điểm chung về tâm sinh lý, đặc điểm về kinh tế - xã hội như mọi
người khác trong xã hội. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng
khuyết tật nên người khuyết tật nói chung lại có những nét đặc thù so với
những người không khuyết tật và mỗi nhóm khuyết tật khác nhau lại có
những nét đặc thù tương đối khác nhau.
Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ
khuyết tật.
Đặc điểm về dạng tật
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về phân loại người
11
khuyết tật theo các tiêu chí khác nhau, tuy nhiên thì tiêu chí về sự khiếm
khuyết bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng là tiêu chí được quan tâm
nhiều nhất. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Người khuyết tật năm
2010 thì các dạng khuyết tật được phân theo dạng tật: Khuyết tật vận động;
khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết
tật trí tuệ; khuyết tật khác [34].
Mỗi dạng khuyết tật này có những đặc điểm riêng, chung về tâm sinh
lý, về khả năng qua đó tác động đến các nhu cầu của bản thân và có ảnh
hưởng qua lại, tác động đáng kể tới môi trường xung quanh làm xuất hiện
những hệ quả pháp lý trong quá trình hòa nhập cộng đồng.
Khuyết tật vận động là những người có cơ quan vận động bị tổn
thương, khó khăn trong di chuyển (nằm, ngồi, cầm, nắm, di chuyển...). Do đó,
người khuyết tật gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, học tập, lao
động và vui chơi. Họ cần được hỗ trợ về phương tiện đi lại đối với những
người khuyết tật vận động về vùng chân như dùng xe lăn, gậy chống... và
không gian cần thiết tiếp cận, thuận tiện để sinh hoạt và di chuyển.
Khuyết tật nghe, nói: Người khuyết tật gặp khó khăn trong việc phát
âm ra tiếng và nghe được âm thanh, từ đó cũng dẫn tới những khó khăn về
đọc, về viết kéo theo cả một loạt các khó khăn và hạn chế khác trong hoạt
động sinh hoạt học tập, lao động, hòa nhập với cộng đồng. Đối với những
người khiếm thính họ cần được hỗ trợ máy trợ thính để có thể nghe được, và
học ngôn ngữ ký hiệu trong giao tiếp đối với người bị câm, điếc. Một số
người khiếm thính ở dạng nhẹ ngoài việc kết hợp dùng máy trợ thính, họ học
phương pháp đọc khẩu hình. Người khuyết tật về nghe, nói thường rất khó
khăn trong việc thể hiện ngôn ngữ giao tiếp và tiếp nhận thông tin từ cộng
đồng, bởi ngôn ngữ của họ là ngôn ngữ ký hiệu.
Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Đó là những người có
12
tật về mắt làm cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không rõ ràng. Công cụ hỗ
trợ cho họ là chiếc gậy trắng, chữ nổi Braille, chó dẫn đường, các dụng cụ hỗ
trợ thông minh, lối đi có gờ nổi ký hiệu nhận diện, phát ra âm thanh hướng
dẫn... Đối với những người nhìn kém thì môi trường cần thiết cho họ phải
đảm bảo đủ ánh sáng, dùng những màu tương phản hợp lý trong sinh hoạt và
các hoạt động khác, cung cấp thiết bị phóng đại hình ảnh.
Khuyết tật trí tuệ: Đây là dạng khuyết tật bị giảm hoặc mất khả
năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng chậm hoặc không thể suy nghĩ,
phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Những người khuyết
tật về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường
của họ và người thân.
Xét ở góc độ đặc điểm về tâm lý, sinh lý cho thấy tính đa dạng của
khuyết tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp
lý cũng cần tính đến yếu tố đặc thù của các dạng khuyết tật khác nhau.
Đặc điểm về mức độ khuyết tật
Căn cứ vào mức độ khuyết tật, người khuyết tật được chia làm 3 loại:
người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người khuyết tật nhẹ.
Theo quy định của Nghị định số 28/2012/NĐ-CP thì:
Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người khuyết tật dẫn đến mất
hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các
hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ
nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp,
chăm sóc hoàn toàn (khoản 1 Điều 3).
Người khuyết tật nặng là những người khuyết tật dẫn đến mất một phần
hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được
một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ
giúp, chăm sóc (khoản 2 Điều 3).
13
Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc hai trường hợp
kể trên (khoản 3 Điều 3).
Xét ở góc độ đặc điểm thể chất - tâm lý - xã hội cho thấy tính đa dạng
của người khuyết tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương
diện pháp lý cũng cần tính đến yếu tố đặc thù của các mức độ (hạng) khuyết
tật khác nhau.
Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội.
Trước hết người khuyết tật là nhóm dân cư đặc biệt phải chịu thiệt thòi
về mặt kinh tế, xã hội và nhân khẩu học.
Đối với bản thân người khuyết tật, chính họ phải chịu rất nhiều thiệt
thòi trong mọi mặt cuộc sống. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện
các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch
vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội. Để khắc phục
những khó khăn này, người khuyết tật chủ yếu dựa vào gia đình, nguồn giúp
đỡ chính đối với họ. Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn nếu gia
đình người khuyết tật không có đủ kinh tế và nhân lực để chăm sóc hỗ trợ
người khuyết tật, làm cho người khuyết tật càng ít có cơ hội được tham gia và
hòa nhập vào cộng đồng.
Đối với gia đình có người khuyết tật thường thì sẽ phải chịu những
gánh nặng về kinh tế, năng suất lao động của người khuyết tật thường thấp và
có khi họ không có khả năng lao động mà có thể còn phải chi một khoản tiền
nhất định mỗi tháng cho họ để phục hồi chức năng - Như dụng cụ chỉnh hình,
chân tay giả, xe lăn... người khuyết tật cũng ít có cơ hội được tham gia học
hành, một phần là do bản thân họ không có khả năng tự mình đến trường,
không có phương tiện dụng cụ chỉnh hình phục hồi chức năng hoặc ngôi
trường hay cơ sở đào tạo không tiếp cận, hoặc không có chương trình, giáo
viên chuyên biệt để dạy cho người khuyết tật, trong các dạng khuyết tật đặc
14
thù, hai là do kinh tế gia đình còn eo hẹp nên chất lượng lao động của họ đa
số là rất thấp. Vì vậy mà thu nhập của người khuyết tật thường rất thấp hoặc
không có thu nhập dẫn đến điều kiện sống và sinh hoạt không tốt, ảnh hưởng
phần nào đến chất lượng cuộc sống của cả gia đình trong các gia đình có
người khuyết tật.
Hơn nữa, trong xã hội còn tồn tại nhiều quan niệm tiêu cực định kiến
sai lầm về người khuyết tật nên thường dẫn đến thái độ kỳ thị và phân biệt đối
xử đối với người khuyết tật. Một số gia đình thường bao bọc quá mức, hoặc
tập trung đầu tư và hỗ trợ cho những người con không khuyết tật thì có thể
gây áp lực cho người khuyết tật về vấn đề tâm lý, vì họ thường không có thu
nhập mà lại gây ra gánh nặng cho gia đình. Trong cộng đồng, nhiều người coi
người khuyết tật là đáng thương hoặc do những sai lầm ở kiếp trước “tật
nguyền”, “quả báo”, không có cuộc sống bình thường là “gánh nặng” của xã
hội [43, tr.24]. Ở trường học thường thì không nhận những học sinh khuyết tật
hoặc không đủ điều kiện dạy học sinh khuyết tật mà họ phải đi học tại trường
dành riêng cho người khuyết tật, đôi khi là ở quá xa nhà, hoặc quá ít trường
chuyên biệt như vậy, nên họ không thể theo học được. Đây có lẽ cũng là một
thiệt thòi lớn đối với người khuyết tật khi không được nhận sự giáo dục đầy
đủ nhất. Đối với một số người khuyết tật có việc làm thì việc kỳ thị không
giao việc cho người khuyết tật, hoặc nhận người khuyết tật vì mục đích từ
thiện nhân đạo cũng diễn ra phổ biến do e ngại rằng họ không đủ năng lực để
làm, nhiều khi dẫn đến làm họ chán nản công việc và không được đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ nên trình độ không đáp ứng được điều kiện làm việc
và cuối cùng họ phải nghỉ việc dẫn đến thất nghiệp.
Ngoài ra thì hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật còn rất hạn chế, thực
tế cho thấy sự khác biệt lớn giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp
đỡ mà họ nhận được. Những hoạt động hỗ trợ thường mang tính từ thiện, phát
15
quà, cho tiền nhiều hơn là việc hỗ trợ họ phát triển con người, như đào tạo,
dạy nghề cho người khuyết tật.
1.1.3. Vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hội
Người khuyết tật là một bộ phận cấu thành của xã hội không thể tách
rời và họ cũng có trách nhiệm tham gia vào các hoạt động xã hội và đóng góp
công sức của mình trong việc thúc đẩy và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia và cũng có quyền được hưởng đầy đủ các thành quả phát triển của
nhân loại. Do mặc cảm về khiếm khuyết của cơ thể nên họ có tâm lý tự ti, bỏ
mặc không hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, nếu họ vượt lên được hoàn cảnh
khó khăn đó thì họ có thể sống, hoạt động đóng góp cho xã hội như những
người bình thường khác. Tấm gương về thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký đã thôi
thúc không chỉ những người khuyết tật mà còn cả những người bình thường
vươn lên trong cuộc sống, trở thành người có ích cho xã hội.
Người khuyết tật tuy là một bộ phận dân cư “yếu thế”, nhưng họ cũng
chung tay vào việc kiến thiết, xây dựng và phát triển đất nước, ổn định và
phát triển xã hội. Mang trong mình những nỗi đau thể xác và tinh thần vì bị
tật nguyền đeo bám suốt cuộc đời nhưng hàng ngày, hàng giờ họ vẫn đấu
tranh để sinh tồn, đấu tranh vượt qua số phận để trở thành những công dân có
ích, để khẳng định giá trị của họ trong xã hội, để khẳng định mình là những
con người “ tàn nhưng không phế”.
1.2. Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
1.2.1. Khái niệm pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
Khái niệm trợ giúp xã hội
Trợ giúp xã hội là một yêu cầu khách quan trong đời sống xã hội tại
nhiều nước trên thế giới và đã xuất hiện từ rất lâu. Mọi người đều có nguy cơ
phải đối mặt với rủi ro tự nhiên (bão, lũ lụt, hạn hán...), rủi ro môi trường (ô
nhiễm), rủi ro sức khỏe (ốm đau, bệnh tật), rủi ro vòng đời (tuổi già), rủi ro
16
kinh tế (tai nạn giao thông, tai nạn lao động, nghèo đói...), rủi ro xã hội (chiến
tranh, thay đổi thể chế). Những rủi ro này ảnh hưởng tới cuộc sống của một
bộ phận dân cư, cuộc sống của họ bị đe dọa, hạn chế hoặc bị đẩy ra bên lề của
sự phát triển và phải nhờ cần đến sự giúp đỡ của cộng đồng, của xã hội. Nếu
không có sự trợ giúp họ có thể bị rơi vào sự bần cùng và nghèo đói. Điều 25
của Tuyên ngôn về Nhân quyền (1948) nêu rõ rằng:
Tất cả mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống đầy đủ về
sức khỏe và phúc lợi cho bản thân người đó và gia đình, bao gồm lương thực,
quần áo, nhà ở, chăm sóc ý tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, có quyền được
hưởng chế độ an sinh trong trường hợp không có việc làm, đau ốm, tàn tật,
góa bụa, tuổi già hoặc thiếu sinh kế trong những hoàn cảnh vượt ngoài tầm
kiểm soát của mình [25].
Người khuyết tật luôn chiếm một tỉ lệ nhất định trong dân số mỗi quốc
gia, ở Việt Nam theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (năm
2015), ước tính cả nước có khoảng 7,2 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân
số cả nước [17]. Xem xét về thể trạng và cơ hội tạo thu nhập đảm bảo cuộc
sống cho thấy đương nhiên với những khuyết tật của mình, nhóm đối tượng
này trở thành yếu thế so với những người bình thường. Họ cần hỗ trợ, giúp đỡ
để đảm bảo cuộc sống. Với trách nhiệm đảm bảo và chăm lo đời sống cho các
thành viên xã hội, Nhà nước xác định trách nhiệm của mình đối với cuộc sống
của người khuyết tật, trước hết và cơ bản là khoản trợ cấp hỗ trợ nuôi dưỡng
trong chế độ bảo trợ xã hội. Trợ giúp xã hội là hình thức an sinh xã hội mang
tính xã hội cao nhất vì đây là hình thức không đòi hỏi người hưởng trợ cấp
phải nộp bất cứ một khoản đóng góp nào.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, trợ giúp xã hội là “sự giúp
đỡ bằng tiền mặt hoặc điều kiện sinh sống thích hợp để đối tượng được giúp
đỡ và có thể phát huy khả năng, tự lo liệu cuộc sống của mình hoặc gia đình,
sớm hòa nhập với cộng đồng” [20, tr.641].
17
Ở Việt nam, khái niệm trợ giúp xã hội gần với bảo trợ xã hội, là một
trong ba bộ phận cấu thành cơ bản của hệ thống an sinh xã hội. Trong một số
tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ bảo trợ xã hội hay trợ giúp xã hội và cứu trợ xã
hội đều đề cập đến nội hàm khái niệm có phạm vi như nhau [27, tr.86-87].
Theo đó, trợ giúp xã hội là sự đảm bảo và giúp đỡ của Nhà nước, sự hỗ trợ
của nhân dân và cộng đồng về thu nhập và các điều kiện sinh sống bằng các
hình thức và biện pháp khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào hoàn cảnh
rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thòi, yếu thế, không đủ khả năng tự lo được
cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Chính sách trợ giúp xã hội
không phải cố định, mà thường xuyên thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ
thể về phát triển kinh tế, thu nhập và mức sống của xã hội.
Như vậy, trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng xã
hội cho các đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thòi,
yếu thế, không đủ khả năng tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia
đình. Trợ giúp xã hội có thể bằng tiền, cũng có thể là các điều kiện và phương
tiện thích hợp để đối tượng có thể phát huy những khả năng tự lo liệu của họ
nhằm sớm hòa nhập trở lại với cộng đồng.
Khái niệm pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
Xuất phát từ khái niệm trợ giúp xã hội nói chung, trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật được hiểu là tổng hợp các cơ chế, chính sách và các giải
pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội nhằm trợ giúp và bảo vệ cho người
khuyết tật, trước hết và chủ yếu là những khoản trợ cấp, hỗ trợ và các chi phí
khác nhằm giúp cho người khuyết tật ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.
Trên quan điểm tiến bộ, trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật được
tiếp cận từ góc độ nhân quyền với trách nhiệm của Nhà nước chứ không chỉ
dừng lại ở mục đích nhân đạo, ban ơn, chiếu cố tới những thân phận khiếm
khuyết về sức khỏe. Các khoản trợ cấp, hỗ trợ cho cuộc sống của người
18
khuyết tật được thực hiện như một sự phân phối lại lợi ích xã hội theo hướng
công bằng, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong tương
quan phát triển kinh tế và xã hội.
Còn pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong đời sống.
Theo đó, pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật được hiểu
là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
1.2.2. Sự cần thiết phải có pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật
Thứ nhất, pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội. Thông qua
pháp luật, các chính sách trợ giúp xã hội nói chung, trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật nói riêng được thể chế hóa thành các quy định pháp luật.
Với chức năng xã hội của Nhà nước, thì trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật là trách nhiệm của Nhà nước, chứ không đơn thuần là mục đích
nhân đạo, ban ơn, chiếu cố đến những người chịu thiệt thòi trong cuộc sống.
Các khoản trợ cấp, hỗ trợ cho cuộc sống của những người khuyết tật được
thực hiện như một sự phân phối lại lợi ích xã hội theo hướng công bằng, đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Thứ hai, xuất phát từ tầm quan trọng của trợ giúp xã hội đối với cuộc
sống của người khuyết tật. Trợ giúp xã hội chủ yếu là sự hỗ trợ về tài chính
giúp cuộc sống của bản thân người khuyết tật và gia đình người khuyết tật bớt
đi phần nào khó khăn. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ này thể hiện thái độ quan tâm
của Nhà nước, của cộng đồng đối với người khuyết tật giúp họ không còn
cảm thấy tự ti, mặc cảm vì khiếm khuyết của mình. Nhiều người khuyết tật từ
đó ý thức được vai trò và vị trí của mình trong xã hội, tự tin vươn lên trong
cuộc sống học tập và lao động như những người bình thường, trở thành công
dân tốt của xã hội.
19
Thứ ba, do yêu cầu của quá trình hội nhập nên việc ban hành pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật là tất yếu. Ngày 22/10/2007, Việt
Nam ký kết tham gia Công ước về quyền của người khuyết tật. Ngày
28/11/2014 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII,
kỳ họp thứ 8 đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người
khuyết tật. Với tư cách là thành viên, Việt Nam có trách nhiệm rà soát, nội
luật hóa các quy định của Công ước trong các văn bản pháp luật hiện hành
của Việt Nam nhằm tạo ra sự thống nhất với quy định của pháp luật trong
nước với công ước quốc tế.
Thứ tư, pháp luật trợ giúp xã hội sẽ góp phần xóa đi tâm lý tự ti, mặc
cảm của người khuyết tật, giúp họ vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập cộng
đồng. Chính sự quan tâm của cộng đồng, của Nhà nước thông qua những quy
phạm mang tính bắt buộc của pháp luật giúp cho những người khuyết tật hiểu
được vai trò, vị trí của họ trong cộng đồng, trong xã hội.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng sự ra đời của pháp luật về trợ
giúp xã hội nói chung và trợ giúp xã hội cho người khuyết tật nói riêng đó là
một tất yếu.
1.2.3. Nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
Nội dung trợ giúp xã hội trong pháp luật quốc tế được quy định trong
các công ước và khuyến nghị về quyền con người nói chung và người khuyết
tật nói riêng. Tiêu biểu nhất là Công ước về quyền của người khuyết tật năm
2006. Điều 28 Công ước quy định rõ:
Các quốc gia thành viên của công ước này thừa nhận quyền của người
khuyết tật được hưởng mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình, bao
gồm đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở và được cải thiện điều kiện sống thường xuyên;
và cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo hộ và thúc đẩy việc thực
hiện quyền này trên thực tế mà không có sự phân biệt đối xử vì lí do khuyết
tật [50, Điều 28].
20