Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu gạo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.42 KB, 6 trang )

Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57

Trường Đại học An Giang

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG XUẤT KHẨU GẠO
VIỆT NAM
Phạm Thị Thanh Hà1 và Phạm Hà Phương2
1

ThS. Khoa Quản trị Nhân lực, Trường Đại học Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh
ThS. Khoa Quản trị Nhân lực, Trường Đại học Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh

2

Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 08/10/13
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
12/11/13
Ngày chấp nhận đăng:
30/07/14
Title:
Several solutions for the
improvement of
competitiveness competence in
Vietnamese’s rice export
Từ khóa:
Năng lực cạnh tranh, lúa gạo,
xuất khẩu
Keywords:
Competiteness competence,
rice, export



ABSTRACT
In the commodity export of Vietnam, rice is always played as key agricultural
commodities, with contributions billions of dollars each year in total export
value. It's not only contributing to the overall growth of the economy, but also
gradually affirmed Vietnam's position on the international rice market. However,
it has not still been commensurate with the value and potential of rice from
Vietnam. In addition, the fact is that in recent years although export rice
increased sharply, brought about many records for Vietnam but lower prices
than other rice exporting countries (Thailand, India, Pakistan). So what is the
cause and solution to enhance competitiveness and promote export of rice
products in Vietnam? That's what the author wanted to mention and exchange in
this article.

TÓM TẮT
Trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thì gạo luôn giữ vai trò là
mặt hàng nông sản chủ lực với sự đóng góp mỗi năm hàng tỷ USD trong tổng giá
trị xuất khẩu, không những góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của nền kinh
tế, mà còn dần khẳng định được vị thế của Việt Nam trên thị trường gạo quốc tế.
Nhưng những con số mà mặt hàng gạo tạo ra được trong các năm qua vẫn chưa
tương xứng với giá trị và tiềm năng. Ngoài ra, còn một thực tế nữa là mặc dù
mấy năm gần đây xuất khẩu gạo tăng mạnh, đã mang về nhiều kỷ lục cho Việt
Nam nhưng giá lại thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo khác (Thái Lan, Ấn
Độ, Pakistan). Vậy đâu là nguyên nhân và giải pháp nào để nâng cao khả năng
cạnh tranh cũng như đẩy mạnh xuất khẩu của mặt hàng lúa gạo Việt Nam? Đó
cũng là điều mà tác giả muốn đề cập và trao đổi trong bài viết này.

thiếu linh hoạt, chính vì thế việc xuất khẩu gạo
của Việt Nam còn kém hiệu quả và thua thiệt
nhiều. Số lượng xuất khẩu của ta nhiều song lại

phải bán với giá thấp vì chưa hấp dẫn với khách
hàng quốc tế. Bên cạnh đó lợi ích của người nông
dân sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu không được
đảm bảo, giá trị gia tăng từ sản phẩm cuối cùng
không có sự phân bổ công bằng giữa các chủ thể
tham gia sản xuất kinh doanh lúa gạo, trong đó
người nông dân thường bị thua thiệt. Điều đó
khiến cho hiệu quả của xuất khẩu cũng như năng
lực cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo Việt Nam
còn thấp, thiếu tính bền vững.

1. GIỚI THIỆU
Hiện nay, lúa gạo của Việt Nam đã có mặt ở trên
80 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên điều đó
không có nghĩa xuất khẩu gạo của nước ta đã phát
triển vững chắc và đạt hiệu quả cao. Có nhiều vấn
đề nổi cộm trong xuất khẩu gạo như: chất lượng
gạo còn thấp, chênh lệch giá xuất khẩu của Việt
Nam và thế giới còn lớn. Khả năng cạnh tranh của
Việt Nam trên thị trường thế giới chủ yếu dựa vào
giá thấp, thị trường không ổn định. Hệ thống thu
gom xuất khẩu còn yếu kém, đơn lẻ nên chưa phù
hợp và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Quản lý
điều hành của các Bộ, ngành liên quan còn chậm,
52


Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57

Trường Đại học An Giang


Thiên nhiên: Việt Nam hàng năm phải gánh chịu
hơn 10 cơn bão lớn nhỏ khác nhau và hậu quả
thiệt hại rất nặng nề. Các trận hạn hán cũng
thường xảy ra ở giữa mùa hay gần cuối vụ mùa ở
những nơi thiếu hệ thống thuỷ lợi tốt. Vì nhiều
nơi trong nước chưa có đủ hệ thống tưới tiêu tốt
nên hạn hán hay lũ lụt giữa mùa hay cuối vụ lúa
thường xảy ra. Phèn mặn ở những vùng đất khó
khăn như vùng ven biển bị nước mặn lấn át. Sâu
bệnh luôn hoành hành làm giảm đáng kể sản
lượng thu hoạch

2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu,
tác giả đã thu thập và sử dụng những tài liệu, số
liệu liên quan đến xuất khẩu gạo từ năm 2008 đến
nay. Tác giả sử dụng phương pháp luận: Phép
biện chứng duy vật, các quan điểm, chủ trương
của Đảng, chính sách của nhà nước về xuất khẩu
gạo, đồng thời kế thừa các kết quả nghiên cứu có
liên quan đến bài viết (các bài báo, tạp chí khoa
học về xuất khẩu gạo) và các phương pháp nghiên
cứu cụ thể: Trừu tượng hóa khoa học, kết hợp
logic với lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu so
sánh, thống kê.

Cung cấp vật tư và tín dụng nông nghiệp: Khả
năng sản xuất phân hoá học của nước ta còn chưa
đủ, đặc biệt là phân ure còn phải nhập khẩu hàng

năm; Về bảo vệ mùa màng: bình quân dùng thuốc
sát trùng tại Việt Nam còn kém so với các nước
khác nhưng cũng có một số vùng sử dụng thuốc
quá độ; Hạt giống: Do phần đa người nông dân
vẫn còn quen với tập quán “tự để giống” mà
không theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp 1
là phải dùng giống xác định nên phẩm chất hạt
giống thường thấp; Tín dụng: đa số nông dân còn
quá nghèo, không đủ khả năng kinh tế để mua đầy
đủ vật tư nhằm áp dụng đúng kỹ thuật.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Tổng quan về lúa gạo Việt Nam những năm
gần đây
3.1.1 Thuận lợi
Lãnh thổ nước ta nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi
cho việc liên hệ, giao thương và xây dựng những
trục giao thông có ý nghĩa quốc tế với nhiều nước.
Ngoài ra, Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa với
đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa là nhiều
nắng, lắm mưa, độ ẩm trung bình cao, là điều kiện
rất thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loài thực
vật, là điều kiện tốt để xen canh, gối vụ, tăng
nhanh vòng quay ruộng đất, thâm canh tăng năng
suất. Miền khí hậu Nam rất thích hợp cho việc
trồng lúa gạo. Toàn bộ quỹ đất đai của nước ta có
trên 33 triệu ha (đứng thứ 58 trên thế giới) với
nhiều loại đất khác nhau là nguồn lực tự nhiên
phong phú và đa dạng giúp phát triển đa ngành
nghề nông nghiệp.


Ruộng đất phân mảnh: Ruộng đất thường bị phân
chia thành từng mảnh nhỏ do đất hẹp và người
đông nên gây khó khăn cho vấn đề hiện đại hoá và
cải thiện hiệu năng ngành canh tác lúa, nhất là làm
kém đi hiệu suất của lao động và vốn đầu tư trong
nước
Ảnh hưởng môi trường: Phân hoá học được sử
dụng ngày càng nhiều, nhưng ảnh hưởng đến môi
sinh chưa được báo cáo trong canh tác lúa ở ruộng
nước; Chất khí nhà kính và chất thải trong nông
nghiệp làm nguy hại đến môi trường.

Việt Nam là một nước đông dân và có tỷ lệ gia
tăng tự nhiên của dân số qua các thời kỳ là rất
cao, khiến cho tốc độ tăng nguồn lao động cũng
rất cao. Dẫn đến nguồn lao động dồi dào phục vụ
cho ngành nông nghiệp.

Chất lượng nguồn lao động: Nguồn nhân lực nông
nghiệp, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do
trình độ chuyên môn của lao động thấp kỹ thuật
lạc hậu; Mặt khác, lao động nước ta do thu nhập
thấp nên dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày
chưa đáp ứng được một cách đầy đủ. Vì vậy, sức
khỏe của nguồn lao động cả nước nói chung và
của nông thôn nói riêng là chưa tốt.

3.1.2 Khó khăn
Lợi tức nông dân và hạ tầng cơ sở nông thôn:

Hiện nay phần lớn đầu tư nước ngoài chỉ nhằm
vào dịch vụ, du lịch, khách sạn, công nghiệp nhẹ
và dầu khí. Còn đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm
11%. Với 1 hecta lúa, một gia đình nông dân 6
người thu lợi tức được 570 USD ở Đồng bằng
sông Cửu Long, khoảng 95 USD/người cho mỗi
vụ lúa. Ở Đồng bằng sông Hồng, mỗi người thu
hoạch lợi tức độ 169 USD/1ha/1 vụ.

3.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của lúa
gạo Việt Nam hiện nay
3.2.1 Thực trạng xuất nhập khẩu gạo
Sản lượng và kim ngạch
53


Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57

Trường Đại học An Giang

Sau hơn 20 năm liên tiếp xuất khẩu gạo trên quy
mô lớn, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước
xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới (chỉ sau Thái
Lan) và có lúc đã đứng đầu thế giới (2012) với
mức đóng góp gần 92 triệu tấn và mức bình quân

4,5 triệu tấn/năm cho thị trường gạo thế giới. Xuất
khẩu gạo tăng về lượng, nhưng giá trị lại không
tăng hoặc tăng ở tốc độ không tương xứng (Bảng
1, Hình 1).


Bảng 1. Xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2013
Năm
2008
2009
2010
2011
2012
6/2013

Khối lượng gạo xuất khẩu (triệu tấn)
4,679
6,053
6,754
7,105
7,72
2,858

0,000
1,374
0,701
0,351
0,615

Trị giá FOB (tỷ USD)
2,663
2,464
2,912
3,507
3,45

1,241

0,000
-0.199
0,448
0,595
-0,057

Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA)

cao của Việt Nam không nhiều và chủ yếu vẫn là
loại gạo phẩm cấp trung bình. Trong tỷ trọng xuất
khẩu gạo năm 2001 thì gạo chất lượng cao (5%
tấm) chiếm 25%, gạo tấm 25% chiếm 32%, gạo
100% tấm chiếm 5%. Đến năm 2010, tỷ trọng
gạo 5% tấm cũng chỉ tăng lên khoảng 30%, gạo
7%-10% tấm chiếm khoảng 8%, các loại gạo 15%
tấm và 25% tấm chiếm tỷ trọng lớn nhất tới trên
55% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2012, Việt Nam
đã đẩy mạnh được xuất khẩu gạo cao cấp với tỷ lệ
chiếm hơn 46%. Gạo phẩm cấp thấp chỉ chiếm
hơn 11%.
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA)

Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam

Hình 1. Khối lượng và trị giá FOB của gạo xuất khẩu
từ năm 2008 đến hết 6/2013

Việt Nam đã mở rộng thị trường ra trên 80 quốc

gia và vùng lãnh thổ. Nhìn chung, cho đến nay thị
trường gạo của Việt Nam đã có sự phát triển đáng
kể, không những về chiều rộng mà còn theo chiều
sâu (Bảng 2).

Cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu
Trong những năm qua, chất lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam tuy đã được cải thiện, song vẫn
thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo chính trên
thế giới. Hiện các loại gạo xuất khẩu phẩm cấp
Bảng 2. Xuất khẩu gạo của Việt Nam mùa vụ 2011/2012
ĐVT: tấn
5%
Châu Á
2.684.815
Châu Phi 821.826
Châu Âu và39.828
các
nước
CIS
Châu Mỹ 32.014
Châu Úc
19.235
Tổng
3.597.718

10%

15%


25%

100%

Glutinous

Jasmine

24.699

1.505.767
75.947
756

793.317
98.407
-

15.925
365.610
-

309.434
-

433.707
104.162
24.564

Các loại

Tổng
khác
5.832 5.748.797
52.356 1.518.308
89.847

24.699

213.090
1.795.560

2.901
894.625

55.883
437.418

309.434

25.445
11.036
598.914

329.333
30.271
58.188 7.716.556

Nguồn: Thông tin thương mại/ Tổng cục Hải quan Việt Nam/ Hiệp hội Lương thực Việt Nam

Châu Á là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của

Việt Nam, chiếm 77,7% tổng lượng gạo xuất khẩu
của cả nước (tương đương 6 triệu tấn). Năm 2012,

Indonesia, Phillipines và Malaysia vẫn tiếp tục là
ba thị trường nhập khẩu truyền thống. Tiềm năng
tiêu thụ gạo của các thị trường này vẫn còn khá

54


Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57

Trường Đại học An Giang

lớn, tuy nhiên, theo USDA, trong vài năm tới,
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang các thị
trường này sẽ bị thu hẹp dần.

thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo
ở khu vực nông thôn nói riêng và trong cả nước
nói chung; Xuất khẩu gạo đã đi cùng quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ buổi đầu
(1989) và góp phần quan trọng vào quá trình này.

Theo báo cáo của USDA, Việt Nam đang muốn
tiếp cận thị trường mới để đẩy mạnh xuất khẩu.
Việt Nam đã xuất khẩu gạo đến Chile và Haiti
trong năm ngoái và đang tìm cách mở rộng thị
phần tại Tây bán cầu.


3.2.2.2 Hạn chế và một số vấn đề đặt ra
Trong thời gian vừa qua thị trường xuất khẩu gạo
của Việt Nam vẫn là thị trường có sức mua thấp
thiếu tính bền vững, chủ yếu là thị trường đòi hỏi
phẩm cấp sản phẩm không cao (Châu Phi, Trung
Quốc,…).
Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn kém,
gạo 5% tấm, gạo nếp, gạo thơm mới chiếm
khoảng 50%. Chất lượng gạo xuất khẩu thấp do
một số nguyên nhân chính như: Do nông dân vẫn
sử dụng những loại giống kém chất lượng (tự để
giống); Sản phẩm gạo cấp thấp vẫn được thị
trường tiêu thụ với số lượng lớn; Công nghệ chế
biến lạc hậu, các công việc sau thu hoạch chưa đạt
được tiêu chuẩn làm thất thoát một lượng gạo
đáng kể.

Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
Giá trung bình xuất khẩu gạo mùa vụ 2010/2011
vào khoảng 493 USD/tấn so với mức giá 479
USD/tấn trong mùa vụ 2009/2010 và mức giá 406
USD/tấn trong mùa vụ 2008/2009.
Ngành gạo tuy có thể tự hào với kỷ lục mới về
lượng gạo xuất khẩu, nhưng lại không thể vui bởi
giá gạo giảm mạnh so với năm 2011. 11 tháng đầu
năm 2012, giá gạo xuất khẩu bình quân giảm tới
43,03 USD/tấn so với cùng kỳ của năm trước đó.
Vì thế, dù lượng gạo xuất khẩu năm 2012 có thể
cao hơn năm 2011 tới 500-600 ngàn tấn, nhưng
giá trị thì lại chỉ bằng hoặc thấp hơn (giá trị xuất

khẩu gạo năm 2011 là trên 3,5 tỷ USD). Do giá
gạo xuất khẩu giảm mạnh nên lợi nhuận của các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo là khá thấp. Lợi
nhuận của nông dân trồng lúa cũng giảm đi khá
nhiều, vì giá lúa gạo hàng hóa trong nước giảm
khá nhiều so với năm 2011. Với 3 loại gạo xuất
khẩu chính của Việt Nam là gạo 5% tấm, 25%
tấm và gạo thơm đều có giá thấp hơn so với các
nước xuất khẩu gạo khác như Thái Lan, Ấn Độ,
Pakistan.

Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn giá gạo
xuất khẩu của một số nước như Thái Lan, Ấn Độ,
Mỹ vì thế kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu là do
tăng khối lượng xuất khẩu.
Những tồn tại nổi cộm của sản phẩm lúa gạo hiện
nay:
- Quan hệ giữa khối lượng và kim ngạch xuất
khẩu
Những con số tăng trưởng liên tục về khối lượng
gạo xuất khẩu lại báo động một thực tế đáng lo về
xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo năm 2011 và 2012
không thoát khỏi căn bệnh “tích cực bán ra khi giá
thấp, còn khi giá tăng thì co lại” như thực tế đã
từng xuất hiện và gần đây nhất là năm 2008. Cụ
thể, theo số liệu của VFA, nếu tính theo quý, khi
giá xuất khẩu gạo quý II năm 2011 ở mức đáy 465
USD/tấn thì khối lượng xuất khẩu lại ở mức đỉnh
2,053 triệu tấn, chiếm 28,9% tổng khối lượng xuất
khẩu cả năm. Ngược lại, khi giá quý IV đạt đỉnh

562 USD/tấn thì khối lượng xuất khẩu chỉ đạt
1,234 triệu tấn, chỉ chiếm 17,4%.

3.2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh lúa gạo
VN hiện nay
3.2.2.1 Những thành tựu
Xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt được một số
thành tựu nổi bật như: Thực hiện đường lối, chính
sách đổi mới của Đảng và nhà nước, kinh tế nông
nghiệp và nông thôn nước ta đã có những bước
phát triển đáng kể; Khối lượng và kim ngạch xuất
khẩu gạo không ngừng tăng lên; Kết cấu chủng
loại gạo xuất khẩu đã có những cải thiện nhất định
trong những năm gần đây; Thị trường xuất khẩu
gạo không ngừng được mở rộng; Xuất khẩu gạo
góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời
kỳ khó khăn, tạo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã
hội, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới;
Xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng đối với phát
triển nông nghiệp, nông thôn; Xuất khẩu gạo tạo

- Lợi ích của người nông dân trồng lúa trong
chuỗi giá trị xuất khẩu gạo
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Luật và
Nguyễn Đức Lộc thì tham gia vào chuỗi giá trị
gạo xuất khẩu có 5 tác nhân: nông dân, thương lái,
55


Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57


Trường Đại học An Giang

nông nghiệp, các cơ sở chế biến, bảo quản, vận
chuyển,...
Thứ hai: Đổi mới cơ cấu sản xuất lúa gạo theo
hướng tạo sản phẩm chất lượng cao

nhà máy xay xát, nhà máy lau bóng, công ty xuất
khẩu. Tổng giá trị gia tăng của 1 kg gạo xuất khẩu
là 100% thì nông dân được 36,5%, thương lái
18,9%, nhà máy xay xát 12,3%, công ty xuất khẩu
28,9%. Như vậy, người nông dân trực tiếp sản
xuất ra lúa gạo xuất khẩu chỉ được hưởng chưa
đến 2/5 lợi ích thu được từ xuất khẩu gạo. Người
nông dân là người trực tiếp sản xuất ra lúa gạo
nhưng lợi ích mà họ đang nhận được là quá thấp,
trong khi đó thương lái và các công ty xuất khẩu
thì chỉ cần những khâu đơn giản đã có thể thu lợi
gấp nhiều lần.

Trong thời gian tới, Việt Nam cần phải tập trung
vào một số hướng chính sau: Quy hoạch vùng sản
xuất lúa gạo xuất khẩu với chất lượng cao đảm
bảo cho sản phẩm đầu ra tiêu thụ nhanh chóng với
mức giá có lợi; Cơ cấu lại giống lúa theo hướng
nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu; Thực hiện chính sách
bảo hiểm sản xuất lúa gạo để nông dân yên tâm
đầu tư phát triển các loại lúa mới có chất lượng

cao.

Tính bền vững của xuất khẩu gạo
Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo nhằm thực
hiện đa mục tiêu công: An ninh lương thực; Phát
triển nông thôn và phát triển kinh tế - xã hội vùng;
Thương mại.

Thứ ba: Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và
bảo quản
Việt Nam đã bước vào giai đoạn hội nhập sâu và
toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu hóa giai đoạn
thực hiện nhiều hơn, sâu hơn các cam kết khi gia
nhập WTO. Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo đứng
trước những cơ hội hết sức to lớn. Đó là sự mở
rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ tiên
tiến trong sản xuất và chế biến gạo

- Cái bẫy của kỷ lục xuất khẩu gạo về khối lượng
Năm 2009, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã vượt
qua ngưỡng 6 triệu tấn/năm. Năm 2011, 2012 Việt
Nam xuất khẩu gạo vượt ngưỡng 7 triệu tấn/năm.
Tới hết tháng 10/2012, Việt Nam đứng đầu thế
giới về khối lượng gạo xuất khẩu và vị trí này có
thể duy trì hết 2012 thậm chí sang năm 2013. Tuy
nhiên, chất lượng gạo xuất khẩu thấp dẫn tới giá
thấp vì vậy kim ngạch xuất khẩu gạo không tăng
tương xứng với sản lượng gạo xuất khẩu. Xét về
kim ngạch xuất khẩu, trong số 3 quốc gia xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới hiện nay (Việt Nam,

Ấn Độ, Thái Lan) thì Việt Nam lại đứng ở hạng
cuối cùng. Vì thế càng xuất khẩu nhiều gạo, tính
bền vững càng không đậm nét. Vì vậy, Việt Nam
không nên quá bận tâm với vị trí thứ nhất hay thứ
nhì trong xuất khẩu gạo. Vì vị trí thứ nhất hay thứ
nhì chưa chắc mang lại sự giàu có, sung túc mà có
thể là một cái bẫy với nhiều ảo tưởng và mang lại
nhiều rủi ro.

Thứ tư: Xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu
Một ví dụ điển hình về việc xây dựng thương hiệu
lúa gạo mà Công ty Bảo vệ thực vật An Giang đã,
đang làm là áp dụng mô hình cánh đồng mẫu lớn
với sự liên kết chặt chẽ giữa người nông dân với
nhà sản xuất, nhà khoa học đã mang lại hiệu quả
cho các bên.
Chuyên gia lúa gạo Đặng Đình Bích đã nói trên
Đối thoại chính sách: “Để xây dựng thương hiệu
lúa gạo bền vững thì thay vì với thương hiệu
chung chung như hiện nay là gạo 5% tấm, 10%
tấm… sẽ thay bằng thương hiệu gắn với một
doanh nghiệp cụ thể để tạo nên tên tuổi cũng như
chất lượng đặc trưng riêng cho từng loại gạo của
từng doanh nghiệp”.

3.3 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của xuất khẩu gạo Việt Nam
Thứ nhất: Hoàn thiện cơ chế và chính sách

Thứ năm: Mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn

chiều sâu

Nhà nước phải tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách
về đất đai; hoàn thiện chính sách tín dụng và đầu
tư cho sản xuất lúa gạo. Bổ sung, đổi mới chính
sách và giải pháp thị trường, chú trọng phát triển
các ngành công nghiệp hỗ trợ trực tiếp cho sản
xuất, chế biến và lưu thông lúa gạo, như sản xuất
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công cụ cơ giới

Để đạt được mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu,
tăng thị phần của gạo Việt Nam trên thị trường thế
giới, nên thực hiện chiến lược đa dạng hóa thị
trường với các biện pháp như giữ vững thị trường
quen thuộc và truyền thống như Malaysia,
Singapore, Trung Đông, Nam Phi,… Đổi mới hơn

56


Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57

Trường Đại học An Giang

nữa phương thức xuất khẩu, chuyển từ xuất khẩu
qua trung gian sang xuất khẩu trực tiếp.

chính sách nhà nước. Các chủ thể này phải liên
kết với nhau vì lợi ích của mình và tôn trọng lợi
ích của các chủ thể khác trong chuỗi ngành hàng


Thứ sáu: Huy động vốn và hỗ trợ vốn cho xuất
khẩu gạo

Thứ tám: Bảo vệ môi trường sinh thái ngành sản
xuất lúa

Đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp đặc
biệt là sản xuất và xuất khẩu gạo là rất ít. Do đó
cần có các chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài cho các dự án đầu tư sản xuất nguồn
giống có chất lượng cao, nâng cao năng lực sau
thu hoạch, đầu tư vào quá trình sản xuất và bao
tiêu sản phẩm, có cơ chế hỗ trợ về thuế, về ưu đãi
đầu tư, rút ngắn và đơn giản hóa thủ tục đầu tư;
Khuyến khích các công ty lương thực có tiềm lực
về tài chính đầu tư vốn cho nông dân sản xuất lúa
và bao tiêu sản phẩm bằng các hình thức khác
nhau như hỗ trợ nguồn vật tư đầu vào, cung cấp
giống có chất lượng cao; Nhà nước có chính sách
về tín dụng cho nông dân thông qua các hình thức
tín chấp qua các tổ, nông hội, hội phụ nữ…để
đảm bảo nguồn vốn vay; Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
phục vụ cho nông thôn.

Bảo vệ môi trường sinh thái nhằm bảo vệ nguồn
nước, bảo vệ đa dạng sinh học, chống thoái hóa và
xói mòn đất, giảm hiệu ứng nhà kính từ sản xuất
nông nghiệp
4. KẾT LUẬN

Để nâng cao hiệu quả cũng như năng lực cạnh
tranh của xuất khẩu gạo trong bối cảnh mới của
Việt Nam và của thế giới, cần đổi mới quan điểm
về xuất khẩu gạo và thực hiện đồng bộ tổng thể
các giải pháp liên quan đến sản xuất, chế biến và
xuất khẩu gạo. Để các giải pháp phát huy tác dụng
đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ và khoa học
giữa các chính sách, giữa nhà nước với nhà doanh
nghiệp, nhà khoa học và nhà nông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Thứ bảy: Hoàn thiện và tăng cường liên kết 4 nhà

Nguyễn Đình Luận. (2013). Tạp chí kinh tế và phát
triển, số 193, tháng 07/2013, 9 – 14.
Nguyễn Công Thành. (k.n). Bàn về chất lượng và giá
trị gạo xuất khẩu của nước ta. Truy cập từ:
/>1c800405c19518fe4ff6a3b7591b5/Bai+3_012013.pdf?MOD=AJPERES
Phạm Huyền Diệu. (2012). Xuất khẩu gạo trong giai
đoạn hiện nay. Truy cập từ
Website của Hiệp hội lương thực Việt Nam:
/>
Có thể nói liên kết 4 nhà là một trong những
phương thức tốt nhất cho phép người nông dân
tận dụng được nhiều lợi thế để phát triển sản xuất;
nhà khoa học có điều kiện để thực hiện năng lực
chuyên môn và tăng thu nhập; nhà doanh nghiệp
có cơ hội tìm được những sản phẩm đáp ứng được
nhu cầu thị trường; Nhà nước có điều kiện thể
hiện rõ vai trò của mình với tư cách người nhạc

trưởng; Nhà nông cần đứng chung với doanh
nghiệp, nhà khoa học dưới sự tác động hỗ trợ của

57



×