Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Phủ Tây Hồ và tín ngưỡng thờ Mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.04 KB, 47 trang )

MỤC LỤC
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.........................................................................................3
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU..................................................................................5
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU........................................................6
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.........................................................6
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........................................................................7
6. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI........................................................................................7
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI..........................................................................................7
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ PHỦ TÂY HỒ - PHƯỜNG QUẢNG AN - QUẬN
TÂY HỒ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............................................................................8
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI PHỦ TÂY HỒ.......................................................................8
1.1.1.Vị trí địa lí.........................................................................................................9
1.1.2. Kiến trúc phủ Tây Hồ........................................................................................10
1.1.3.Tình hình dân cư................................................................................................11
1.2. KHÁI QUÁT DIỆN MẠO ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN PHỦ
TÂY HỒ...................................................................................................................11
1.2.1 Diện mạo đời sống kinh tế..................................................................................11
1.2.2 Diện mạo đời sống văn hóa................................................................................12
Chương 2: TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY HỒ - PHƯỜNG QUẢNG AN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............................................................................................14
2.1. KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở
VIỆT NAM...............................................................................................................14
2.1.1 Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu...........................................................................14
2.1.2. Nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ .............................17
2.2. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY HỒ.........23
2.2.1. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ ...............................................23
2.2.2. Vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ hiện nay......................26
1


2.3 THỰC TRẠNG VIỆC THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY HỒ HIỆN NAY..........................30


2.3.1 Thực trạng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ hiện nay..................................30
2.3.2. Những yếu tố tạo nên giá trị văn hóa..................................................................30
2.3.3 Những vấn đề đặt ra đối với tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ hiện nay...............33
Chương 3: PHÁT HUY NHỮNG NÉT VĂN HÓA TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
Ở PHỦ TÂY HỒ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI.................................................................35
3.1 XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY HỒ
HIỆN NAY...............................................................................................................35
3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TRONG VIỆC PHÁT HUY NHỮNG
NÉT ĐẸP TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY HỒ..............................36
3.2.1. Một số giải pháp chủ yếu...................................................................................36
3.2.2. Một số kiến nghị, đề xuất...................................................................................40
KẾT LUẬN..............................................................................................................42
PHỤ LỤC.................................................................................................................44

2


MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong xã hội hiện đại, những phong tục lễ nghi truyền thống vẫn luôn được các
thế hệ người Việt Nam trân trọng giữ gìn, kế thừa và phát huy. Nó là sợi dây vô hình
gắn kết người Việt bởi nó phản ánh khát vọng sống chân chính, nét đẹp của đạo lí cổ
nhân và chiều sâu của tâm hồn Việt. Có thể nhận thấy rằng tín ngưỡng thờ Mẫu đóng
vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa chung của cộng đồng. Khi mà con người còn
mơ hồ về một thế giới chưa có sự lí giải thì thờ Mẫu là một yếu tố giúp cộng đồng có sự
an ủi tin vào số mệnh của mình là do thần linh nắm giữ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và

có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, được bảo tồn qua các lễ hội, qua niềm tin và đời
sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của người dân đất Việt. Thờ
Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc bản địa và bắt nguồn từ nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, một hình thức tôn vinh người phụ nữ làm Thánh Mẫu, Quốc
Mẫu…. Ở nhiều địa phương trên khắp cả nước thì những cơ sở thờ Mẫu đã trở thành
trung tâm thờ Mẫu lớn.
Thờ Mẫu nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là một khái niệm
tương đối phức tạp, về phương diện điện thần thì thờ Mẫu bước đầu đã hình thành một
hệ thống và có những nghi lễ điển hình như hầu bong ( hầu đồng)…..mà các tín ngưỡng
dân gian khác không có.Vì thế tính phức tạp lại càng tăng khi ngày càng có nhiều quan
điểm khác nhau về thờ Mẫu. Có quan điểm cho rằng thờ Mẫu đã trở thành một tôn giáo
sơ khai nhưng lại có những quan điểm không đồng tình chỉ khẳng định thờ Mẫu là một
tín ngưỡng dân gian….điều này càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học, đặc biệt là những người quan tâm đến lĩnh vực tôn giáo tín ngưỡng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn với thân phận người
phụ nữ Việt Nam…..người ta đến với Mẫu để tìm chỗ dựa tinh thần, tìm được sự che

3


chở của người mẹ dẫu biết rằng khi đến với tín ngưỡng này người ta cầu xin từ nhưng
cái vô hình để hy vọng nhận được cái hữu hình.
Tôn giáo - tín ngưỡng - mê tín dị đoan là ba khái niệm rất phức tạp, là vấn đề
đang được quan tâm của nhiều người, nhiều nhà khoa học khác nhau. Hiện nay Đảng
và Nhà nước ta đã cho phép phục hồi một số lễ hội truyền thống trong đó có cả tín
ngưỡng thờ Mẫu. Ngoài ra nhu cầu trở về cội nguồn như một xu thế vừa tự phát lại vừa
tự giác đã kéo theo hiện tượng mà trước đây được liệt dạng vào mê tín dị đoan nhưng
nay lại đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều nơi, nhiều di tích đó là nghi thức hầu bóng
(hầu đồng) trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Vấn đề đặt ra là phải loại bỏ mê tín dị đoan
nhưng phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân được pháp luật bảo vệ.

Song đối mặt với xu thế cuộc sống là điều hết sức nhạy cảm và phức tạp. Hiện nay
chưa có căn cứ rõ ràng để phân biệt cái gì là văn hóa, cái gì là phản văn hóa, cái gì là
mê tín hay cái gì là dị đoan trong tín ngưỡng thờ Mẫu.
Trong xã hội hiện nay đang tồn tại một số cá nhân lợi dụng niềm tin của một số
người vào thần thánh, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta
đã tìm mọi cách “kinh doanh” trên lĩnh vực tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ
Mẫu nói riêng nhằm trục lợi của các cá nhân gây mất ổn định xã hội …. đây là điều mà
các cơ quan quản lí các ngành, các cấp cần phối hợp làm rõ để mọi người cùng hiểu và
tránh xa những hiện tượng tiêu cực này.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã tồn
tại trong lịch sử cả thời đại ngày nay. “Mẫu” là hình tượng, một biểu trưng và là sự kết
tinh sống động của đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam. “Mẫu” có sức
hấp dẫn đặc biệt nhưng cũng đặt ra không ít vấn đề cho nhà khoa học, nhiều người
nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau trong toàn xã hội. Đến với thờ “Mẫu” không
chỉ dừng lại ở việc đáp ứng những nhu cầu đời sống tâm linh, tín ngưỡng thờ Mẫu còn
là hiện tượng sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn có sức lôi cuốn con người.

4


Người ta đến với “Mẫu” còn có sự đồng cảm về giá trị văn hóa và góp phần củng cố ý
thức cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Ở đất nước ta có rất nhiều nơi thờ Mẫu nhưng hơn cả có lẽ phải kể đến phủ Tây
Hồ tại thành phố Hà Nội. Đây là một trong những địa điểm khá nổi tiếng với tín
ngưỡng thờ Mẫu, được nhiều người biết đến. Nhưng tại đây vẫn còn rất nhiều điểm cần
phải làm rõ hơn nữa. Với những lí do trên nhóm chúng tôi đã chọn vấn đề “Phủ Tây
Hồ và tín ngưỡng thờ Mẫu” làm đề tài nghiên cứu môn học.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Theo GS. Vũ Ngọc Khánh tính từ thế kỷ XVII đến nay (không kể đến những ý
kiến viện dẫn hoặc phân tích trên các sách báo và các thần tích tại các địa phương và

các phủ điện thờ) sơ bộ đã có 25 công trình với ba ngôn ngữ ( Hán nôm, Việt, Pháp)
viết về chúa Mẫu Liễu Hạnh gồm: sách Hán Nôm, sách Quốc ngữ và chữ Pháp…
Sau khi miền Nam được giái phóng, cả nước thống nhất chúng ta có nhiều điều
kiện để tập trung nghiên cứu về vẫn đề này hơn. Vì thế đã có nhiều công trình nghiên
cứu, nhiều cuộc hội thảo và các bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Tiêu biểu
phải kể đến là:
- “ Đạo Mẫu ở Việt Nam” năm 1996 hay cuốn “ Đạo Mẫu và các hình thức
Shaaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á” năm 2004 của tác giả Ngô Đức
Thịnh chủ biên. Tác giả đã đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Việt Nam đã trở thành Đạo Mẫu.
- “ Văn hóa tâm linh Nam Bộ” của Nguyễn Đăng Duy (1997) tác giả có viết một
chương về tín ngưỡng thờ Mẫu, những là thờ Mẫu ở Nam Bộ.
- Cuốn “ Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nma” tác
giả Lê Quang Trứ có bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng còn sơ sài, tác giả giới thiệu
dàn đều bốn loại hình tín ngưỡng chủ yếu tại Việt Nam.
- Cuốn “ Lịch sử tín ngưỡng Đông Nam Á” xuất bản năm 2000, tái bản năm
2003 của TS Trương Sĩ Hùng ( chủ biên) trong đó có bài viết: Thờ Mẫu Việt Nam- một
5


tín ngưỡng điển hình ở Đông Nam Á. Tác giả giới thiệu về lễ hội thờ Mẫu và bước đầu
đưa ra kết luận tín ngưỡng chủ yếu tại Việt Nam mang sắc thái điển hình ở Đông Nam
Á.
- Năm 2005 cuốn sách “ Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” do
TS Nguyễn Đức Lễ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ
đề cập đến khái niệm thờ Mẫu và một số đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu
vào nguồn gốc, vai trò… của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước,
trong những thời gian gần đây về tín ngưỡng thờ Mẫu.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục đích
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ
Mẫu nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị phát huy những giá trị tích cực và khác
phục những hạn chế trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, bài nghiên cứu cần thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở
phủ Tây Hồ.
- Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá và rút ra một số nhận xét trong tín ngưỡng thờ
Mẫu ở phủ Tây Hồ.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy những mặt tích cực cũng như
hạn chế của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ nói
riêng.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
6


- Không gian: phủ Tây Hồ, đường Đặng Thai Mai, quận Tây Hồ, thành phố Hà
Nội.
- Thời gian: tháng 8/2014 đến tháng 11/2014.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp: điều tra khảo sát, thống kê và tổng
hợp, lịch sử, điền dã…để đạt được mục đích và thực hiện nhiệm vụ mà bài nghiên cứu
đã đặt ra.
6. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
- Bài nghiên cứu góp phần nhận diện tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ với đặc
điểm của nó.

- Bài nghiên cứu giúp cho người đọc hiểu thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ
Tây Hồ và nét sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống của đậm đà bản sắc dân tộc của
người Việt Nam.
- Thông qua bài nghiên cứu này giúp chúng ta hiểu thêm một phần nào đó nhằm
phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức trong thờ Mẫu. Đồng thời hạn chế những mặt
tiêu cực của loại hình tín ngưỡng này.
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu ( 06 trang), Kết luận( 02 trang), và phụ lục, nội dung chính
của bài nghiên cứu bao gồm 3 chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về phủ Tây Hồ, phường Quảng An, quận Tây Hồ,
thành phố Hà Nội.
Chương 2: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ.
Chương 3: Phát huy những nét văn hóa trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây
Hồ- thành phố Hà Nội.

7


Chương 1:
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ PHỦ TÂY HỒ - PHƯỜNG QUẢNG AN - QUẬN
TÂY HỒ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI PHỦ TÂY HỒ
Phủ Tây Hồ là một danh lam thắng cảnh Hà Nội nổi tiếng, nơi đây không chỉ là
một di tích lịch sử và văn hóa với những nét đặc biệt của riêng mình, mà còn là một
trong những chốn linh thiêng nhất trong hệ thống đình chùa của Hà Nội.
Không chỉ những người dân Hà Nội, mà đa số du khách khắp nơi khi đến thăm
Hà Nội đều đến thắp hương cầu phúc ở phủ Tây Hồ. Phủ Tây Hồ nằm ở trên một bán
đảo nhô ra giữa Hồ Tây mộng mơ, nơi đây gắn với sự tích về bà chúa Liễu Hạnh – một
trong bốn vị thần “Tứ bất tử” của người Việt, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ
phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hóa tôn làm Thánh Mẫu và cuộc “tao

ngộ” thi vị giữa nàng công chúa Liễu Hạnh và trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Người
ta lý giải sự ra đời của phủ Tây Hồ cũng chính là từ “huyền tích” đầy ly kỳ này.
Tương truyền công chúa thứ hai của Ngọc Hoàng – nàng Quỳnh Hoa, hay còn
được biết đến là bà chúa Liễu Hạnh, vì vô tình làm vỡ cái ly quý mà bị đày xuống hạ
giới. Khi bị đày xuống hạ giới, nàng không cam chịu mà vẫn chu du, khám phá khắp
mọi miền đất nước Việt Nam. Bà đã diệt trừ yêu quái, tham gia giúp dân an cư lạc
nghiệp. Một lần qua đảo Tây Hồ, tiên chúa bỗng dừng lại, mỉm cười khi phát hiện ra
đây là địa linh sơn thủy hữu tình. Nàng quyết định lưu lại nơi đây một thời gian và mở
quán nước để làm cớ vui thú văn chương, với cảnh thiên nhiên huyền diệu.
Trong dân gian cũng tồn tại nhiều truyền thuyết khác nhau về công chúa Quỳnh
Hoa, tức bà chúa Liễu Hạnh, công đức rạng ngời tỏa khắp thiên hạ. Cũng theo truyền
thuyết, phủ Tây Hồ là nơi hội ngộ lần thứ hai của công chúa Liễu Hạnh và trạng Bùng
Phùng Khắc Khoan. Như tiền duyên xui khiến, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan trong
lần đi thuyền dạo chơi trên hồ, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào quán Tiên chúa. Tâm đầu ý
hợp, họ cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán” mà nay vẫn còn lưu truyền mãi. Tiên
8


chúa ở đây trong bao lâu không ai biết, chỉ biết khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm thì
không còn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm. Cái xuất xứ ly kỳ
của phủ Tây Hồ là thế.
Phủ Tây Hồ được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa do Bộ văn hóa thông tin
cấp chứng nhận vào năm 1995. Phủ gồm có 2 phần: phủ chính và động Sơn Trang quay
vê hưỡng Tây Nam.
1.1.1.Vị trí địa lí
Phủ Tây Hồ xưa thuộc thôn Tây Hồ, nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ,
thành phố Hà Nội. Phủ Tây Hồ cách trung tâm Thủ đô khoảng 4km về phía Tây. Phủ
nằm trên bán đảo lớn của làng Nghi Tàm, nhô ra giữa Hồ Tây, trước là đất của một làng
cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía Đông của hồ Tây nay thuộc phường Quảng
An, quận Tây Hồ - Hà Nội.

Từ phố Xuân Diệu, đi khoảng nửa cây số, rẽ vào phố Đặng Thai Mai, thẳng tiến
gần cuối đường, du khách sẽ đến Phủ Tây Hồ. Phủ Tây Hồ có kiến trúc đơn giản tạo
cho khách tham quan cảm giác gần gũi. Các cung bậc thờ tự được sắp xếp mang đầy ẩn
ý tâm linh. Cũng như nhiều đền chùa khác, phủ Tây Hồ có cổng làm kiểu Tam Quan
cùng những công trình chính như Phương Đình, Tiền Tế, Hậu Cung…. Phủ Tây
Hồ cũng lưu giữ nhiều di vật có giá trị văn hóa, lịch sử như: hoành phi, câu đối, bức đại
tự “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện), bức hoành “Mẫu nghi thiên hạ” (Tấm
gương người mẹ cho cả thiên hạ)…
Nhìn hướng ra hồ Tây mênh mông, khuôn viên phủ tao nhã và thâm nghiêm với
hàng cau vút cao và hai cây cổ thụ tỏa bóng. Nếu đến thăm phủ Tây Hồ vào mùa hè, du
khách sẽ được thưởng ngoạn những đầm sen nở hoa thanh khiết dọc theo các con
đường gần nơi đây.
Từ cổng tam quan đi vào theo hướng phải là ngôi đền Kim Ngưu gắn liền với
truyền thuyết về thần Trâu vàng hồ Tây. Đền Kim Ngưu, chùa Trấn Quốc… cùng Phủ

9


Tây Hồ tạo thành quần thể di tích lịch sử – văn hóa cũng như du lịch nổi tiếng bên hồ
Tây mà bất cứ du khách nào khi đến thăm Hà Nội đều muốn ghé qua.
1.1.2. Kiến trúc phủ Tây Hồ
Tam quan vào cổng phủ Tây Hồ đắp đao lửa, mái làm giả ngói ống, dưới diềm
khắc 4 chữ “ Phong đài nguyên các” ( nghĩa là đài gió gác trăng) nhằm nói về sự tích
Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh.
Phủ chính có quy mô kiến trúc lớn, mặt trước Phủ có cửa tam quan 2 tầng, mái
giữa có ghi “Tây Hồ hiển tích” (Dấu để Tây Hồ), được trang trí tỉ mỉ, công phu. Bốn
cánh cửa giữa phần trên chạm tứ quý, phần dưới chạm tứ linh, giữa chạm đào thọ. Qua
tam quan vào là phương đình 2 tầng, 8 mái. Nhà tiền tế xây sát sau phương đình.
Phần thờ tự theo thứ tự từ ngoài vào: lớp thứ nhất thờ Tam phủ công đồng, Tứ
phủ vạn linh và Hội đồng các quan, có tượng ông Hoàng Bảy, Hoàng Mười, 3 đôi câu

đối ca ngợi chúa Liễu Hạnh.
Lớp thứ hai, thờ Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu, có câu đối ca ngợi thắng
cảnh Tây Hồ. Lớp thứ ba thờ Tam Tòa Thánh Mẫu có cửa võng đề “Tây Hồ phong
nguyệt” và đôi câu đối ca ngợi bà Liễu Hạnh. Trên nóc mái giáp cửa hậu treo đại tự
“Mẫu nghi thiên hạ”, hai bên có câu đối bằng gỗ.
Lớp trên cùng hậu cung là nơi đặt tượng của bà Liễu Hạnh và tượng Chầu
Quỳnh, Chầu Quế. Trên cao là bức đại tự “Thiên tiên trắc giáng” và “Mẫu nghi thiên
hạ”.
Sát Phủ chính là lầu Sơn Trang 3 tầng, 8 mái cong, lòng nhà có 2 tầng, tầng trên
thờ Quan Âm, tầng dưới là 3 động Sơn Trang chiếm 3 gian. Phía ngoài Phủ chính xây 2
am thờ nhỏ thờ Cô và Cậu. Phía trước lầu có tháp nhỏ, dưới gốc si là tấm bia Từ chỉ của
xã Vĩnh Thuận dựng năm Thiệu Trị 5 (1845).
Di vật trong Phủ còn khá phong phú với nhiều câu đối, cửa võng, long ngai, bài
vị, sập thờ. Cửa cuốn, cửa võng được chạm khắc đẹp, mang nét nghệ thuật thế kỷ XIX .
Ngoài ra còn có các loại tàn, tán, lọng, 3 quả chuông đồng, 1 bát hương đồng ghi
10


“Đông Cung Điêu”, bát hương đá, 10 đạo sắc phong (3 đạo phong chúa cho Liễu Hạnh,
7

đạo

phong

cho

thần

Kim


Ngưu),

50

pho

tượng

tròn

lớn

nhỏ.

Đền Kim Ngưu đã bị đổ trong chiến tranh chống Pháp, nhưng vẫn còn dấu tích là cây
đa cổ thụ trên đó có bàn thờ mà dân làng Tây Hồ dựng lên để thờ vị thần Kim Ngưu
(Trâu Vàng).
Theo truyền thuyết, tiếng chuông làm bằng đồng đen của nhà sư Nguyễn Minh
Không đời Lý đã làm cho con trâu vàng bị giam giữ ở Trung Quốc tưởng là tiếng trâu
mẹ gọi, lồng về phía Việt Nam. Đường trâu vàng chạy lún thành sông Kim Ngưu. Đến
phía tây Kinh thành thì tiếng chuông tắt, trâu đã lồng và xéo nát một vùng thành hồ
Kim Ngưu, tức Hồ Tây ngày nay. Đền Kim Ngưu có Tam quan, phủ chính, điện thờ
Mẫu, sân trong và nhà khách.
Trong những năm gần đây, quận Tây Hồ đã có các cuộc hội thảo khoa học về
đền Kim Ngưu, để từ đó có cơ sở phục hồi một điểm di tích gắn với vùng Hồ Tây.
1.1.3.Tình hình dân cư
Phường Quảng An là một trong 8 phường của quận Tây Hồ. Nơi đây cũng có
nhiều khách sạn, căn hộ cao cấp, nhà nghỉ phục vụ du lịch và cho thuê . Trong đó có 2
khách sạn 5 sao, khách sạn Sheraton Hà Nội đã từng đón tiếp phu nhân và tổng thống

Mỹ George Bush. Chợ hoa Quảng An của phường là một trong những chợ hoa lớn và
nổi tiếng của Hà Nội.
1.2. KHÁI QUÁT DIỆN MẠO ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN
PHỦ TÂY HỒ
1.2.1 Diện mạo đời sống kinh tế
Khái quát chung tình hình kinh tế của cả quận:
Từ ngày thành lập đến nay, quận Tây Hồ xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế
theo hướng "Dịch vụ- Công nghiệp-Nông nghiệp” với giá trị sản xuất.

11


Công nghiệp đạt mức tăng trưởng bình quân 31,2%/năm; giá trị dịch vụ-du lịch,
thương mại tăng bình quân 14,9%/năm; giá trị sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản giảm
bình quân 3,8 một năm.
Quận Tây Hồ còn là “dinh lũy” của hoa và cây cảnh với các làng hoa, cây cảnh
Nghi Tàm; làng hoa Phú Thượng, Xuân La, Tứ Liên ...
Với bề dày truyền thống của vùng đất lịch sử văn hoá cách mạng gắn liền với
năm tháng hào hùng vẻ vang của thủ đô, có cảnh quan thiên nhiên đẹp, nghề truyền
thống làng hoa cây cảnh nên Quảng An luôn có sự phát triển kinh tế khá vững chắc.
Nguồn thu từ sản xuất chè sen, hoa, cây thế... đã góp phần thiết thực nâng cao thu nhập,
ổn định đời sống vật chất của nhân đân
Nếu cạnh phố Huế có một Tràng An tịch mịch, đầu đường Thanh niên có quán
Thánh trầm tư, ... thì phủ Tây hồ bao giờ cũng rộn rã hơn nhiều.
Cũng không hiểu từ đâu và từ bao giờ, trên đường vào phủ và ngay trước cổng
mọc lên hàng trăm quán ăn uống và các thứ hàng mua bán khác, trong đó có món ăn Hà
Nội: bún ốc. Nói đến Phủ, người ta nghĩ ngay đến bún ốc khá quen và bánh tôm .
Phủ Tây Hồ mở cửa từ 5h-19h hàng ngày vào những ngày lễ, có hàng vạn khách
tới tham quan. Khung giờ đông lễ nhất là từ 10h-16h
1.2.2 Diện mạo đời sống văn hóa

Nhiều năm qua, Đảng ủy, chính quyền cùng các ban ngành đoàn thể và nhân dân
Phủ Tây hồ luôn nhận thức sâu sắc việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làm nền
tảng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân.
Hàng năm vào những ngày đầu xuân, du khách thập phương nô nức hành hương
đến phủ Tây Hồ dâng hương rất đông. Từ ngày giao thừa cho tới rằm tháng Giêng, Phủ
Tây Hồ lúc nào cũng đông nghịt người tới lễ. Người ta tới Phủ Tây Hồ vừa đi lễ Mẫu
ban cho điều lành và mọi sự may mắn, cầu an, cầu tài lộc… vừa đi vãn cảnh ngắm

12


chùa, thưởng ngoạn cảnh đẹp Hồ Tây để tìm chút không khí khoáng đạt, chút thong
dong hòa mình vào thiên nhiên.
Cũng như Phủ Giầy, Đền Sòng... phủ Tây Hồ vào hội có hầu bóng, một loại hình
nghệ thuật dân gian vừa có âm nhạc, vừa có ca hát và vũ điệu với trang phục sặc sỡ, mà
điển hình là điệu hát chầu văn đã khá phổ biến hiện nay.

13


Chương 2:
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY HỒ - PHƯỜNG QUẢNG AN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH CỦA TÍN NGƯỠNG
THỜ MẪU Ở VIỆT NAM
2.1.1 Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu
Để tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu trước tiên phải tìm hiểu sơ qua khái
niệm tín ngưỡng tôn giáo. Bởi vì hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa có một quan
điểm thống nhất xem thờ Mẫu là tín ngưỡng hay tôn giáo.

Chủ nghĩa Mác-Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường hư ảo hiện thực khách quan. Điều này đã được
Ph.Ăngghen khẳng định “ Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
đầu óc con người”.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: tín ngưỡng tôn giáo là một sức mạnh
thần bí ,thuộc lĩnh vực tinh thần tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí, sức
mạnh cho con người với một số đại diện cho trường phái này là Platon, Hêghen….
Tín ngưỡng tôn giáo có sự khác nhau song lại có quan hệ mật thiết mà ranh giới
để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn tôn giáo. Trong giáo trình chủ nghĩa xã
hội khoa học có viết: “ Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một
hiện tượng, một lực lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn
giáo. Còn tôn giáo được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng có quan niệm, ý
thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo”.
Trong Hán -Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa “ Tín ngưỡng là lòng
ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa”.

14


Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng: “tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh (niềm
tin thiêng liêng) cũng có phần tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng
dẫn đến tôn giáo”
Hay tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và một
khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn
thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo - tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá trị
niềm an ủi sự nâng đỡ về tâm lí…..
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tín ngưỡng và tôn giáo, giữa tôn giáo
và tín ngưỡng tuy có điểm giống nhau nhưng vẫn có những sự khác biệt đó là:
Tôn giáo được hình thành, tồn tại trên cơ sở lí luận chặt chẽ và có tính hệ thống

cao. Nghi lễ trong tôn giáo được thực hiện mang tính bắt buộc đối với tín đồ, được duy
trì thường xuyên cùng những quy định khác. Còn tín ngưỡng được hình thành và tồn tại
dựa trên cơ sở lí luận chưa chặt chẽ thiếu tính hệ thống. Cho nên tín ngưỡng phần lớn
mang tính dân gian, gần gũi với đời thường và phần nghi lễ được thực hiện đơn giản,
không bát buộc đối với người theo.
Ở tôn giáo niềm tin được đặc biệt đề cao có thể đó là đức tin, nó đòi hỏi có cách
lí giải mang tính logic, hệ thống và được xây dựng trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh
quan, ý thức, tình cảm…. còn tín ngưỡng niềm tin không trở thành đức tin mà niềm tin
ấy mang tính huyễn hoặc, mờ ảo, không rõ rang mà còn dựa vào sự cảm nhận của chủ
thể tín ngưỡng. Nói cách khác xét về mặt nào đó thì tín ngưỡng có nội hàm hẹp hơn tôn
giáo, bởi vì tôn giáo nào cũng có tín ngưỡng, niềm tin, đức tin tôn giáo, nhưng không
phải mọi hình thức tín ngưỡng đều là tôn giáo.
Có thể quan niệm tín ngưỡng như sau: tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã
hội, là một lĩnh vực thuộc yếu tố tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội, được hình
thành bởi quá trình lịch sử-văn hóa, là sự biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lí xã hội vào
cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người
trong xã hội.
15


Thuật ngữ tín ngưỡng bao gồm: tín ngưỡng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên theo những nguyên tắc
thực hành tôn giáo nhất định.
Theo GS,TS Phạm Ngọc Quang: tín ngưỡng dân gian cũng có thể và cần được
xem là một yếu tố, một bộ phận văn hóa dân gian. Từ quan niệm đó, nếu văn hóa dân
gian được hiểu là loại hình văn hóa ra đời nhờ sự sáng tạo của chính nhân dân, thì tín
ngưỡng dân gian cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng tôn giáo do chính nhân dân
trước hết là những người lao động sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc
dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình.
Tín ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và

cả cộng đồng, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ gắn liền với phong tục
tập quán truyền thống.
Tín ngưỡng thờ Mẫu:
Ở Việt Nam đa phần các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu
là một loại hình tín ngưỡng dân gian, đã thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Nội hàm của tín ngưỡng thờ Mẫu được dùng
để biểu thị sự tôn vinh một nhân vật nào đó hay có thể đồng nhất với việc thờ các vị nữ
thần hiển linh được tôn phong là Mẫu như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu….
Tín ngưỡng thờ Mẫu cón được hiểu theo một nghĩa hẹp đó chỉ là dạng hình thức
tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam phủ-Tứ phủ, hình thức thờ cúng những vị Mẫu cai
quản trong vũ trụ.
Có thể hiểu: tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bát nguồn từ tín
ngưỡng thờ nữ thần (nhưng không phải tất cả nữ thần đều là Mẫu), là một bộ phận của
ý thức xã hội được hình thành từ chế độ thị tộc mẫu hệ, để tôn vinh những người phụ
nữ có công với nước với cộng đồng tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử văn
hóa đọa đức xã hội làm Thánh mẫu, Vương mẫu…. và qua đó người ta gửi gắm niềm
tin vào sự che chở giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên thuộc nữ thần.
16


2.1.2. Nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ
2.1.2.1. Nguồn gốc
Tôn giáo tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng cũng ra đời từ
nguồn gốc kinh tế xã hội, nhận thức và tâm lý tình cảm. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín
ngưỡng có nguồn gốc bản địa “có thể là tín ngưỡng sớm nhất của con người Việt trước
khi du nhập tam giáo Phật, Nho và Đạo”.
Cho đến nay tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta chưa biết chưa biết chính xác có từ
khi nào, nhưng có ý kiến cho rằng “người ta tin mẹ thần linh này đã xuất hiện từ buổi
hồng hoang hay ít nhất từ lúc người Việt khai thác đồng bằng Bắc bộ.
Có thể nhận thấy tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt xuất hiện vào khoảng thế

kỷ thứ III hoặc thứ II trước công nguyên. Bởi vì Phật giáo là tôn giáo nước ngoài đưa
vào Việt Nam sớm nhất, có tác giả đã viết “có tài liệu nói đạo Phật vào ta khoảng thế kỷ
thứ III trước công nguyên, dưới thời vua A-Dục”.
Ngoài ra theo TS.Trần Đăng Sinh thì: “đến thế kỷ thứ III, II trước công nguyên
đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng đã là địa bàn chung sống của người Âu Việt và Lạc
Việt”
Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở Việt Nam còn xuất phát từ nền văn minh nông
nghiệp lúa nước điển hình, thờ Mẫu này nở trên một miền đất nhiều đời trồng cây lúa
nước. Đối với dân cư nông nghiệp thì hình ảnh người mẹ từ việc hái lượm đã tìm ra hạt
lúa để từ đó trở thành hồn lúa như một tác giả đã nhận xét: “trong các loại cây trồng, lúa
là cây duy nhất trong thời kì làm đòng được các tộc người ở Đông Dương gọi là có
chửa như người mẹ; là cây duy nhất được coi có hồn.
Ngươì Việt xưa kia sống nhờ vào thiên nhiên rất nhiều, nhưng cũng phải chống
chọi nhiều với thiên nhiên. Do đó con người cầu mong sự phù hộ, giúp đỡ của các
“Mẹ” thiên nhiên và các Mẫu có nguồn gốc thiên thần cũng làn lượt ra đời.

17


Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường được đồng nhất với Mẫu địa- địa Tiên Thánh
Mẫu vì cốt lõi ban đầu, nhũng yếu tố cơ bản của địa Tiên Thánh Mẫu là người trần lấy
vợ tiên.
Trong tâm thức của người Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là:
“Mẫu Thượng Thiên”- Mẹ ở trên trời giáng xuống,
“Mẫu nghi thiên hạ”- Mẹ của muôn dân,
“Tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian (Mẫu Liễu Hạnh, Phù Đổng Thiên
Vương, Chử Đồng Tử và Thánh Tản Viên).
Khi Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, không rõ từ khi nào đã trở thành một vị thần chủ
đạo của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ. “Phủ” trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang ý nghĩa
rộng và bao quát, nó ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ. Tuy là đời sau nhưng

Mẫu Liễu Hạnh lại thường được đạt vào vị trí trang trọng nhất trên bàn thờ Mẫu Tứ
Phủ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện đã có nhiều truyền thuyết khác nhau, bà có thể
vừa là Thiên thần vừa là Nhân thần đối với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng con,
chu du khắp nơi, trừ ác, ban lộc….Mẫu Liễu Hạnh có thể biến thành Mẫu Thiên, có lúc
lại đồng nhất với Mẫu Địa và Mẫu Thoải.
Phủ Tây Hồ gắn liền với huyền thoại thành Mẫu Liễu Hạnh gặp gỡ và họa thơ
với các văn sĩ Phùng Khắc Khoan và hai ông Ngô, Lý.
Tục truyền rằng: bà chúa Liễu Hạnh tên thật là Quỳnh Hoa - con gái thứ hai của
Ngọc Hoàng, bị đày xuống trần gian vì tội làm vỡ cái ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng
chu du, khám phá khắp mọi miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa
linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên
nhiên huyền diệu. Như tiền duyên xui khiến, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan trong
lần đi thuyền dạo chơi trên hồ, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào quán Tiên chúa. Tâm đầu ý
hợp, họ cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán” mà nay vẫn còn lưu truyền mãi. Tiên
chúa ở đây trong bao lâu không ai biết, chỉ biết khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm thì
18


nàng không còn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm. Cái xuất xứ
ly kỳ của phủ Tây Hồ là thế.
Tác giả Nguyễn Duy Hinh với tư cách là nhà nghiên cứu về Mẫu Liễu Hạnh,
ông cho rằng Mẫu Liễu Hạnh: “không phải giáng tiên, không phải trích tiên, không
phải thi tiên mà là Mẫu chăn dắt đàn con”.
Theo dấu ấn của Đạo giáo thì du tiên và giáng tiên không phải là đầu thai mang
xác người nên không nằm trong Đạo giáo mà chỉ có trích tiên nhằm trong dấu ấn của
Đạo giáo.
Hiện nay, ở đồng bằng Bắc bộ Mẫu Liễu Hạnh là nhân vật linh thiêng, phổ biến
của tín ngưỡng thờ Mẫu. Nhiều khi được xếp đứng đầu và là biến thể cao nhất trong tín
ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ.

Mẫu Liễu Hạnh ra đời là sản phẩm của xã hội lịch sử Việt Nam cụ thể đó là giai
đoạn phong kiến Việt Nam thời Lê. Thực tế lịch sử của đất nước khi Mẫu Liễu Hạnh
được sinh ra là: ở đất Vụ Bản giữa không gian các thế lực phong kiến thời Lê(Thanh
Hóa), Trần(Nam Định) mà Mẫu đầu thai sinh vào nhà họ Lê lấy chồng họ Trần, phải
chăng đó là tập hợp sức mạnh oai hùng Trần Thắng Nguyên, Lê Thắng Minh, mà cũng
là phật giáo thời nhà Trần còn Nho giáo thời nhà Lê. Tại sao Mẫu Liễu Hạnh lại xuất
hiện trong bối cảnh có lúc xã hội thanh bình có khi loạn lạc, các thế lực phong kiến LêMạc, Trịnh -Nguyễn phân tranh…..
Có thể nói Mẫu Liễu Hạnh ra đời đã làm hoàn chỉnh hệ thống thờ Tam phủ - Tứ
phủ và thể hiện đầy đủ triết lí thờ Mẫu triết lí theo vũ trụ quan phương Đông.
Từ thờ nữ thần, thờ Mẫu trong quá trình phát triển đến Mẫu Tam phủ - Tứ phủ
có sự ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: trong tín
ngưỡng thờ Mẫu thì nơi thờ phụng chính của Thành Mẫu Liễu Hạnh chỉ gọi là phủ như
Phủ Dầy (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội) có thể xuất phát từ khi trong xã hội xuất
hiện những phủ Chúa, cung Vua thời Trịnh-Nguyễn. Còn trước đó không gian thiêng

19


liêng thờ Mẫu chỉ là những nơi đền miếu. Hiện nay chưa ai có thể trả lời chắc chắn Tam
phủ-Tứ phủ của Đạo Mẫu có từ bao giờ.
2.1.2.2. Các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu phổ biến ở nước ta
Hiện nay tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta rất đa dạng, bao gồm:
Thứ nhất, Mẫu huyền thoại và Mẫu lịch sử:
- Mẫu huyền thoại như: Mẹ của Phù Đổng Thiên Vương tước hiệu là Đồng
Xung Thiên Thần Vương Mẫu, bà chúa Liễu Hạnh tước hiệu là Thánh Mẫu Liễu
Hạnh….
- Mẫu lịch sử: là những nhân vật lịch sử có thực nhưng sau khi chết vì nhiều lý
do đã được suy tôn là thánh thần như Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu – nguyên phi của vua Lý
Thánh Tông, bà Phạm Thị Ngọc Trần – mẹ của Lê Thái Tông.
Thứ hai, Mẫu trong nước và Mẫu Ngoài nước:

- Mẫu trong nước: như Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Man Nương…
- Mẫu nước ngoài như: Thái hậu họ Dương và ba công chúa của vua Tống Bình
( Trung Quốc), được tôn phong là Quốc Mẫu Vương bà Tứ vị thánh nương; Thiên Hậu
Thánh Mẫu người Phúc Kiến (Trung Quốc) được thờ ở thành phố Hồ Chí Minh…
Thứ ba, Mẫu nhiên thần và Mẫu nhân thần:
- Mẫu nhiên thần: gồm có Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn…
- Mẫu nhân thần: Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu, Phạm Thị Ngọc Trần….
Thứ tư, Mẫu có nguồn gốc quyền quý và Mẫu có nguồn gốc bình dân:
- Mẫu có nguồn gốc quyền quý: các Thái Hậu, Hoàng Hậu, công chúa….
- Mẫu có nguồn gốc bình dân: như nàng Vũ Thị Khiết – người con gái nghèo ở
tỉnh Nam Định, là vợ chàng Trương Sinh “ nhưng rồi phải lấy cái chết để chứng minh
cho tấm lòng cao cả ấy của mình. Đời sau thương nàng lập đền thờ tôn làm thánh
Mẫu”.
Thứ năm, Mẫu được thờ theo tước hiệu. Bao gồm 3 loại:

20


- Loại 1: tước hiệu Vương Mẫu có: Mẹ của Phù Đổng Thiên Vương mang tước
hiệu là Đông Xung Thiên Thần Vương Mẫu.
- Loại 2: Tước hiệu Quốc Mẫu có Bà Âu Cơ - mẹ của tất cả con dân đất Việt.
- Loại 3: Tước hiệu Thánh Mẫu có Thánh Mâu Man Nương, thánh Mẫu Liễu
Hạnh…
2.1.2.3 Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ -Tứ Phủ ở nước ta
Ở nước ta còn có một loại hình Thờ Mẫu rất độc đáo và đang tồn tại khá phổ
biến đới với người dân ở đây, đó là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ-Tứ phủ. Các vị Mẫu
trong Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ-Tứ phủ gồm có: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng
Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Địa.
Trong tâm thức của người dân từ xa xưa đã có sự tôn thờ người Mẹ. Mẹ đem lại
cho ta chỗ dựa bằng tấm lòng vào cánh tay của mẹ…trong rừng sâu những con thú dữ

rất dữ tợn bạo tàn mà vẫn vâng lời mẹ núi. Sóng gió có thể hung giữ nhưng phải nghe
theo lời mẹ Biển. Từ đó ra đời sự tôn thờ mẹ Rừng, mẹ Nước. Đã có hai mẹ của Rừng
và Nước, vậy tại sao lại không có mẹ của Trời. Bà mẹ của Trời với chức năng quản lí
cõi Thiên. Các bà mẹ trên dần dần được ghép cho các huyền thoại, sự tích để rồi các mẹ
trở thành Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Thiên, người ta dành cho
mỗi Bà một phủ một tòa riêng. Tam tòa ở đây có thể có thể hiểu theo ba cõi Trời – Non
- Nước. Vì thế xuất hiện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ - Tam tòa Thánh Mẫu, có thể coi
đây là thế giới quan dân giã của người Việt từ thời hoang sơ.
Khi có thêm một phủ mới là Địa phủ thì Tam phủ biến thành Tứ phủ, nhưng:
“không rõ từ lúc nào mà Tam phủ biến thành Tứ phủ”
Từ khi xuất hiện Mẫu cai quản từng miền vũ trụ hình thành thì bản thân nó đã
chứa đựng những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ thêm vào đó là các niềm tin. Từ đó
các điện thờ được đựng lên và dần được sắp xếp thành hệ thống và gọi đó là tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam Phủ-Tứ phủ hay Tam tòa tứ phủ.
21


Mẫu có quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, những lại hóa thân thành Tam vị,
Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các các miền khác nhau của vũ trụ; Thiên Phủ, Địa Phủ,
Thoải Phủ, Nhạc phủ đứng đầu mỗi Phủ là một vị Thánh Mẫu tương ứng với: Mẫu
Thượng Thiên cai quản Thiên Phú, Mẫu Địa cai quản Địa phủ; Mẫu Thoải cai quản
Thoải Phủ và Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ. Các Mẫu cai quản các miền vũ
trụ có nhiều truyền thuyết huyền thoại khác nhau.
Trong quá trình biến đổi phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ rồi Tứ phủ,
chúng ta chú ý tới giai đoạn từ thế kỉ XVI đến thế kỷ XVIII, xã hội luôn có những biến
động. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khó khăn bên cạnh đó sự không ổn định là tình
trạng chung cho cuộc sống của mọi tầng lớp xã hội. Từ những lý do trên người ta mong
có một sức mạnh kỳ diệu để giải phóng con người ra khỏi chế độ phong kiến đang suy
yếu, một xã hội rối loạn và các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên. Vì thế họ cần có
một Mẫu nữa, Mẫu này phải ở cõi nhân sinh mà sự hiện diện của bà khắp mọi nơi,

mang tính phổ quát và gần gũi với những con người và họ mong muốn có một nhân vật
Thánh Mẫu có thân phận như một người phụ nữ bình thường. Vào khoảng thế kỷ XVI
vừa là nhu cầu phát triển nội tại của tín ngưỡng thờ Mẫu có từ trước vừa là khát vọng
của quần chúng nhân dân, vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa VIệt Nam đã thờ thê một
Mẫu mang tính phổ biến đó là Mẫu Liễu Hạnh- quan niệm dân gian thường coi là Bà
hóa thân thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên và có lúc là Mẫu địa.
Mẫu Liễu Hạnh ra đời ở thế kỷ XVI nhưng cho đến nay chưa có tài liệu chính
xác để khẳng định Tứ phủ ra đời từ bao giờ.
Cũng có thể từ Tam phủ chuyển sang Tứ phủ là sự thể hiện tư duy trong dân
gian, từ Tam phủ lên Tứ phủ cho đầy đủ về vũ trụ.
Sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã làm cho tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ
nâng lên trình độ cao hơn và toàn diện hơn.

22


Chúng ta đều biết nếu như từ tín ngưỡng thờ Mẫu đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
Phủ đã có sự phát triển từ cụ thể lên phổ quát ấy được bổ sung bằng những quan niệm
nhân sinh và vũ trụ, nó thể hiện tính hệ thống cao hơn đặc biệt là những nghi thức lễ
hội.
Trong điện thờ Mẫu Tứ Phủ Mẫu Thượng Thiên đã bị lu mờ bên cạnh Mẫu Liễu
Hạnh. Phải chăng Mẫu Thượng Thiên vì quá xa trên tận trời cao nên không gắn với nhu
cầu thực tế cuộc sống hàng ngày của người dân nên bị lãng quên. Mẫu Liễu Hạnh xuất
hiện đã kéo theo những thần linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ gắn với đời thường
với dân gian.
Một điều đáng chú ý là đa số trong các điện thờ hiện nay chỉ có Tam Tòa Thánh
Mẫu. Trong đó tượng Mẫu Liễu Hạnh được đặt ở giữa và hai bên là Mẫu Thượng Ngàn
và Mẫu Thoải. Không có tượng Mẫu Thượng Thiên là do theo quan niệm dân gian Mẫu
Liễu Hạnh vốn là con gái Ngọc Hoàng.Có thể với lí do đó Mẫu Liếu Hạnh đồng thời là
hóa thân của Mẫu Thượng Thiên và Mẫu Địa.

2.2. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY
HỒ
2.2.1. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ
Đất nước ta là một quốc gia trải dài có rất nhiều vùng miền vốn đặc điểm khác
nhau về địa lí lịch sử. Tình hình kinh tế - xã hội - văn hóa - tư tưởng lối sống và con
người cũng khác nhau nên có ảnh hưởng đến phong cách lối sống tín ngưỡng cũng
mang những sắc thái không giống nhau.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Tây Hồ nhìn chung cũng mang đặc điểm
của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu vốn
xuất phát từ hiện tượng thờ nữ thần có nguồn gốc lâu đời của người Việt.
Đặc điểm thứ nhất: tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính tiểu nông, dân dã và quần
chúng:

23


Bắt nguồn từ cư dân trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gó mùa, cho nên từ quan
niệm đến lối nghĩ nếp sống của người Việt về cơ bản thể hiện những đặc trưng của
người nông dân.Cụ thể trong tiềm thức người ta quan niệm việc tôn thờ thần Đất, thần
Lúa….đều đồng nhất với Âm và nhân hóa thành Nữ tính - Mẹ.
Có thể nói tín ngưỡng Tứ phủ là tín ngưỡng dân dã của người Việt lọc bỏ những
dòng chảy bên lề làm méo mó ý nghĩa khởi nguyên thì đạo Mẫu biểu hiện một phần tư
duy nông dân được kết tụ lại qua quá trình lịch sử.
Tín ngưỡng thờ Mẫu có chứa đựng yếu tố ma thuật thu hút mọi người bằng
nhiều hình thái văn hóa dân gian như nhảy múa bài trí điện thờ rực rỡ không theo một
quy định nào. Nhiều người đi lễ và đến những nơi thờ Mẫu mà không hiểu nơi đó thờ
những ai và có những quyền phép gì? Họ đến để cầu xin làm ăn buôn bán có lời con
cháu được bình an tai qua nạn khỏi…; họ cho rằng Mẫu có thể cứu hộ độ trì cho muôn
vàn chúng sinh không phân biệt giàu nghèo, sang hèn….với nhiều mong muốn và nỗi
niềm khác nhau. Đây là kết quả tất yếu của nền văn hóa nông nghiệp ở trình độ thấp.

Ngoài ra nơi thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu có thể rất khiêm tốn, chỉ là một gian
thờ bên cạnh ngôi nền hay ngôi chùa nhỏ nào đó, thậm chí chỉ là một bàn thờ khiêm tốn
tại một góc chùa theo kiểu “Tiền Phật, hậu Thánh…”
Tuy nhiên sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là loại hình sinh hoạt Văn hóa
mang đậm tính dân dã, bình dân. Một tác giả viết rằng tín ngưỡng thờ Mẫu có thể phản
ánh đậm nét tâm hồn người Việt với một sức sống mãnh liệt uyển chuyển, có sự điều
chỉnh để phù hợp với mọi hoàn cảnh lịch sử.
Tính dân dã, tính quần chúng của tín ngưỡng thờ Mẫu còn biểu hiện ở chỗ không
phải học thuộc điều răn, cấm kỵ, không lễ nghi cầu kỳ phức tạp, không có những giáo
lí…nên nó dễ đi vào quần chúng dễ chấp nhận.
Đặc điểm thứ hai: Nơi thờ Mẫu ở tại phủ có tính hỗn dung với các tín ngưỡng,
tôn giáo khác:

24


Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng thờ đa thần. Hầu hết các lãng xã ở đồng bằng
Bắc bộ đều có đền, miếu, đình chùa,…giữa tam giáo và tín gưỡng dân gian, trong đó có
tín ngưỡng thờ Mẫu có mối quan hệ chặt chẽ chúng đan xem thâm nhập vào nhau cùng
tồn tại trong quá khứ và hiện tại.
Trong các nơi thờ cũng như đền, phủ, miếu, điện thờ các Mẫu còn có cả một hệ
thống các vị thần linh vốn xuất thân từ những tôn giáo, tín ngưỡng khác như Đạo giáo,
Phật giáo, Nho giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên…trong đó các thánh Mẫu luôn được
khẳng định ở vị trí trang trọng nhất. Và tại của Mẫu những buổi hành lễ như vậy qua sự
hiện diện của các vị giáng đồng những chư vị thuộc đủ mọi dân tộc…
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng không đóng khung trong một khuôn
hình mà bung ra nhiều cung cách dáng vẻ nhiều khi còn mở toang cửa cho các thần
thánh của các tôn giáo, tín ngưỡng khác ùa vào như một liên kết vui vẻ.
Đặc điểm thứ ba: Tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính phổ biến:
Tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng dân gian. Vì vậy nó có vai trò và vị

trí khá quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong đời sống thường nhật của một bộ phận quần
chúng nhân dân. Thờ Mẫu có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước ta, từ Bắc vào Nam, từ
miền xuôi đến miền núi, có cả ở đô thị lẫn nông thôn và ở nhiều tộc người.
Hiện nay các Mẫu được thờ dưới nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau
đó là: Mẫu được thờ ở trong Chùa, Phủ, Đền, Điện, Miếu.
Đặc điểm thứ tư: Niềm tin trong tín ngưỡng phải được vật chất hóa, tức nó được
gửi vào vật tin và nó là niềm tin cảm xúc nên chấp nhận những cái phi lý và đay cũng là
đặc điểm của văn hóa dân gian Việt Nam. Vì thế vật được tin cũng chấp nhận yếu tố phi
lý và chuyển hóa thành nhân vật được thờ. Lúc này xuất hiện quá trình thiêng hóa. Quá
trình này thể hiện:
Thứ nhất: huyền thoại hóa các Mẫu là quá trình gán cho nhân vật Mẫu một hoặc
nhiều huyền thoại.

25


×