Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.06 KB, 27 trang )

1

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC ÁNH

VAI TRÒ CỦA QUAN ĐIỂM THẨM MỸ TRONG
GIÁO DỤC THẨM MỸ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Mỹ học
Mã số: 62 22 03 07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2017


2

Công trình được hoàn thành
tại Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Phạm Hồng Thái
2. PGS.TS Nguyễn Văn Phúc

Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Ngọc Long
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Phản biện 2: PGS.TS Trần Thị An


Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thị Thọ
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Văn Huyên
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt
Học
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án,
tại Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
….,……, 2017


3

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Ngọc Ánh (2011), Giáo trình Mỹ học cơ sở, Nxb Giáo dục. (Tham
gia phần 4.4. Hình tượng nghệ thuật, tr.134-159).
2. Nguyễn Ngọc Ánh (2011), sách Nghệ thuật học, Nxb Thông tin và Truyền
thông, Hà Nội. (Tham gia chương VI: tr.222-259).
3. Nguyễn Ngọc Ánh, Đàm Thế Vinh (2014), “Tăng cường công tác giáo dục
giá trị truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam theo tư tưởng Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số (7).
4. Nguyễn Ngọc Ánh (2015), “Vai trò của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho thế
hệ trẻ ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Truyền thống và phát triển, số
9+10.
5. Nguyễn Ngọc Ánh (2015), “Bàn về tính đặc thù của quan điểm thẩm mỹ
mác-xít”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số (10).
6. Nguyễn Ngọc Ánh (2016), “Giáo dục thẩm mỹ thông qua hoạt động văn hóa

nghệ thuật”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98).


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất
nước ta bước sang một trang mới, đó là thời kỳ đổi mới toàn diện với những
chính sách mở cửa hội nhập, giao lưu cùng các nước trong khu vực và trên thế
giới cả về chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong quá trình đó, bên cạnh sự chuyển
biến lớn lao của đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần, trong đó có các
quan điểm, thị hiếu, nhu cầu thẩm mỹ của người dân cũng đang biến đổi rất
nhanh chóng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đưa
ra nhiệm vụ trong tâm: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí
tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” [26, tr.434].
Mặc dù vậy trong lĩnh vực đời sống thẩm mỹ hiện nay, bên cạnh những
biểu hiện của các quan điểm thẩm mỹ lành mạnh, tích cực, đang xuất hiện
không ít quan điểm trái chiều với những diễn biến phức tạp, đáng lo ngại. Do
tác động của kinh tế thị trường trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế,
cuộc đấu tranh giữa các giá trị văn hóa, thẩm mỹ chân chính với những cái
tầm thường, thấp hèn ở nước ta diễn ra ngày một quyết liệt dưới mọi hình
thức. Bên cạnh việc tiếp biến những giá trị thẩm mỹ tiến bộ của nhân loại,
không ít những cái xấu đang len lỏi vào đời sống tư tưởng của người dân. Sự
du nhập của những tư tưởng, trào lưu văn hóa, nghệ thuật từ bên ngoài tuy làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân song cũng làm cho việc định
hướng giá trị trở nên phức tạp, tạo sự hoài nghi về những giá trị tốt đẹp của
dân tộc, trong đó có những giá trị của chủ nghĩa xã hội. Những mặt xấu này
không những đã khơi dậy các quan điểm sai trái, những thị hiếu tầm thường,

mà còn có tác động kìm hãm sự phát triển những quan điểm thẩm mỹ cao đẹp,
lành mạnh, làm suy thoái các giá trị truyền thống đã từng in sâu vào tâm hồn,
tình cảm, tư tưởng của nhân dân ta qua nhiều thế hệ. Trong khi đó, việc quản
lý các hoạt động thông tin đại chúng và văn hóa phẩm còn lỏng lẻo, xu hướng
thương mại hóa, chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức năng giáo
dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học nghệ thuật bị suy giảm.
Trong thời gian qua, nghệ thuật học, mỹ học Việt Nam đã trải qua không ít
những bước thăng trầm cùng những biến chuyển của lịch sử, nhưng qua mỗi bước
phát triển đó, quan điểm thẩm mỹ của dân tộc ta đều thấm nhuần tư tưởng cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc đấu tranh bảo
vệ những tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ tốt đẹp, chân chính trước sự xuất hiện của
những văn hóa lai căng, thấp hèn càng đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc hơn
nữa quan điểm thẩm mỹ của Mác - Lênin trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong xu thế hội nhập hiện nay.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của quan điểm thẩm mỹ đối với sự nghiệp xây
dựng con người Việt Nam mới, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa


5

XI, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ: “Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục,
khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới
chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri
thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học
tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [25, tr.49-50].
Trong bối cảnh đó, giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng trong mỹ học
Mác - Lênin, có nhiệm vụ lớn trong xây dựng nền văn hóa mới, con người mới ở

nước ta mà mục tiêu trọng tâm là tạo cơ sở đúng đắn cho mọi hoạt động thưởng thức,
đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI tiếp tục
nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ
cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ
thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng
thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng” [25, tr.50].
Giáo dục thẩm mỹ không chỉ bó hẹp trong giáo dục nhà trường mà còn chịu
sự tác động của đời sống thẩm mỹ với các quan điểm thẩm mỹ phong phú, đa
dạng. Nội dung tư tưởng của giáo dục thẩm mỹ ở nước ta thấm nhuần quan
điểm của Đảng, Nhà nước về các giá trị cao quý của con người. Nó hướng tới
hình thành những thị hiếu tốt, tình cảm phong phú, lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp
để con người có sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa truyền
thống và hiện đại. Điều 2 Luật Giáo dục Việt Nam năm 2005 cũng đã nhấn
mạnh: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc” [16].
Tuy nhiên, việc giáo dục thẩm mỹ ở nước ta vẫn tồn tại những bất cập và
chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi thực tiễn đang vận động và biến đổi
không ngừng; công nghệ truyền thông có thể nối liền mọi khoảng cách; đặc biệt
thế hệ trẻ Việt Nam năng động và không ngừng học tập, tìm hiểu những nhu
cầu thẩm mỹ mới lạ thì chúng ta lại quá xem nhẹ việc mở rộng các hình thức
giáo dục thẩm mỹ, chưa chú ý nhiều tới phát huy vai trò của quan điểm thẩm
mỹ trong giáo dục thẩm mỹ, chưa sát sao trong việc quản lý các kênh truyền
thông đại chúng. Trong thời gian qua đã xuất hiện sự lệch lạc trong xu hướng
thương mại hóa nghệ thuật khiến bản chất của một số loại hình nghệ thuật bị
mất đi giá trị ban đầu. Một bộ phận người dân có xu hướng sùng bái các tác
phẩm văn hóa, nghệ thuật nước ngoài một cách thái quá làm ảnh hưởng đến
việc xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.

Như vậy, từ thực trạng những biểu hiện quan điểm thẩm mỹ hiện nay ở


6

nước ta và những định hướng giáo dục thẩm mỹ trong các văn kiện của Đảng
gần đây cho thấy việc tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò của quan điểm
thẩm mỹ trong việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại đang là
đòi hỏi cấp bách không chỉ về mặt lý luận mà còn cả về thực tiễn. Vì vậy,
nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo
dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là làm sáng tỏ vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong
giáo dục thẩm mỹ, thực trạng phát huy vai trò đó trong giáo dục thời gian qua,
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ
trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân tích làm rõ khái niệm, nội dung, những đặc trưng cơ bản của
quan điểm thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ, vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong
giáo dục thẩm mỹ.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo
dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, từ đó xác định những vấn đề đặt ra từ thực trạng.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của quan điểm thẩm
mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong
giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi mỹ học và khuôn khổ của luận án tiến sĩ triết học, luận án
tập trung nghiên cứu vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở
nước ta gắn với việc phát huy các giá trị thẩm mỹ truyền thống dân tộc và
đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về không gian, luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu vai trò của quan điểm
thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường, gia đình, xã hội gắn với bối
cảnh văn hóa - chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước và quốc tế.
Về thời gian, luận án nghiên cứu từ năm 1986, khi thực hiện đường lối đổi
mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo. Những vấn đề được cập nhật trong thời gian khác chỉ
nhằm so sánh và làm rõ các vấn đề trình bày ở giai đoạn này.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của mỹ học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề mỹ học


7

và văn hóa nghệ thuật. Luận án có kế thừa một số thành tựu của các công trình
nghiên cứu liên quan đã công bố của các tác giả đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án lấy
mỹ học Mác - Lênin làm cơ sở lí luận kết hợp với sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử - logic: Đối tượng nghiên cứu luôn được đặt trong
mối quan hệ với những điều kiện lịch sử cụ thể để thấy được logic vận động của
vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ.
- Phương pháp hệ thống: Đây là phương pháp quan trọng giúp nghiên cứu
sinh có cách tiếp cận hợp lý về vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong tương

quan chung của nội dung giáo dục thẩm mỹ, giữa giáo dục thẩm mỹ và các hình
thức giáo dục khác.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thông qua việc tổng hợp, phân tích
các tư liệu liên quan đã làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đánh giá thực
trạng và giải pháp phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm
mỹ ở nước ta hiện nay.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này giúp nhận diện được bản chất và
hiện tượng, nội dung và hình thức trong nghiên cứu vai trò của quan điểm thẩm
mỹ trong giáo dục thẩm mỹ. Qua đó, một mặt thấy được những đặc trưng cơ bản
về vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ, mặt khác, tiếp thu có
chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong những nghiên cứu về vai trò của quan điểm
thẩm mỹ ở trong và ngoài nước, để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận án.
- Phương pháp liên ngành: Luận án có sử dụng thành tựu của các ngành khoa
học xã hội và nhân văn như: triết học, mỹ học, lý luận và phê bình văn học nghệ
thuật, đạo đức học, tâm lý học, giáo dục học, xã hội học để làm rõ bản chất chính
trị, xã hội, thẩm mỹ của vai trò quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Với việc sử dụng bảng hỏi điều tra xã
hội học với đối tượng là một bộ phận người dân, sinh viên trên địa bản Hà Nội
đã cung cấp cho luận án những số liệu thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu
thực trạng hình thành và phát huy vai trò quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục
thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, từ đó có những giải pháp cụ thể hơn nhằm phát huy
vai trò quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm rõ vai trò của quan điểm thẩm mỹ
trong giáo dục thẩm mỹ. Thông qua sự phân tích khái niệm, nội dung, những
đặc trưng cơ bản của quan điểm thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ, luận án góp phần
khẳng định tầm quan trọng của vai trò của quan điểm thẩm mỹ đối với giáo dục
thẩm mỹ, nội dung cốt lõi, ảnh hưởng và mức độ thành công của việc giáo dục
thẩm mỹ bằng quan điểm thẩm mỹ ở nước ta hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của quan

điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta thời gian qua, từ đó đề xuất


8

một số giải pháp phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm
mỹ ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về quan điểm
thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ và vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục
thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, từ đó khẳng định việc chủ động vận dụng quan
điểm thẩm mỹ tiến bộ trong giáo dục thẩm mỹ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng trong hình thành và phát triển các năng lực thẩm mỹ của con người.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức, cá
nhân nghiên cứu và giảng dạy mỹ học, đặc biệt là các hoạt động gắn liền với
giáo dục thẩm mỹ, giúp các cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên nâng cao
nhận thức về quan điểm thẩm mỹ và ảnh hưởng của nó trong hoạt động giáo
dục thẩm mỹ; từ đó có những quan điểm thẩm mỹ đúng đắn trong nhận thức,
thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, cùng với các vấn đề về văn học,
nghệ thuật, thẩm mỹ, giáo dục đã được các tác giả nước ngoài nghiên cứu từ

khá sớm và có tính chất đi trước. Các quan điểm về vấn đề này có tính chất đa
chiều, và có phần chịu sự tác động của các điều kiện kinh tế, văn hóa, lịch sử
mang yếu tố khu vực, yếu tố vùng và đặc trưng quốc gia. Tuy nhiên, các tác giả
khá thống nhất khi đồng nhất quan điểm thẩm mỹ với quan điểm về cái đẹp
dưới hai con mắt duy tâm hoặc duy vật.
Ở Việt Nam, vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ là một
một vấn đề được quan tâm nghiên cứu khá nhiều trong thời gian gần đây, đặc
biệt là khi đất nước phát triển, bước vào quá trình hội nhập sâu rộng hơn. Đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp với hướng nghiên cứu của đề
tài, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: “Quan điểm thẩm mỹ và sử
thi trong văn học” của tác giả Lã Nhâm Thìn; “Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng
con người mới” của tác giả Lê Anh Trà (1982); “Giáo dục thẩm mỹ - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Đỗ Huy (1987); “Kế thừa giá trị truyền thống
văn hóa dân tộc trong xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam”, luận án tiến
sĩ của tác giả Cù Huy Chử (1995); “Vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mỹ


9

ở nước ta hiện nay”, luận án tiến sĩ của tác giả Lê Quang Vinh (1996); “Quan hệ
giữa cái thẩm mỹ với đạo đức trong cuộc sống và trong nghệ thuật” của tác giả
Nguyễn Văn Phúc (1997); “Giáo dục thẩm mỹ, món nợ lớn đối với thế hệ trẻ”
của tác giả Đỗ Xuân Hòa (1997); “Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm
mỹ”, luận án tiến sĩ của tác giả Trần Túy (1998); “Vai trò của truyền thông đại
chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay”, luận án tiến sĩ của tác giả
Trần Ngọc Tăng (2001); “Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn
hóa cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” luận án tiến sĩ của
tác giả Lương Thanh Tân (2009), “Giải pháp của việc giáo dục quan điểm thẩm
mỹ đối với việc hình thành ý thức thẩm mỹ cho con người trong nền kinh tế thị
trường” của tác giả Phạm Thị Tuân (2014), “Bàn về tính đặc thù của quan điểm

thẩm mỹ mác-xít”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số (10) của Nguyễn Ngọc Ánh
(2015),… Các tác giả đã đưa ra những tiền đề lý luận và thực tiễn thực hiện vai
trò của văn hóa, nghệ thuật, thẩm mỹ trong giáo dục, hướng tới phát huy chất
lượng đời sống con người thời gian qua; từ đó đề xuất một số giải pháp như:
hoàn thiện hệ giá trị, phát triển các thiết chế, xây dựng đời sống văn hóa mới…
nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam đa dạng, kết hợp những tinh túy trong bản
sắc dân tộc với lối sống hiện đại của giai đoạn đất nước đang chuyển sang công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sau khi tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, nghiên
cứu sinh đã chỉ rõ những kết quả nghiên cứu đã đạt được; những vấn đề còn bỏ
ngỏ, từ đó lựa chọn những vấn đề luận án cần tiếp tục làm rõ.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp những cứ liệu quan
trọng cho quá trình nghiên cứu về vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục
thẩm mỹ ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu sinh trân trọng, kế thừa thành quả mà
các công trình đi trước đã để lại. Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách hệ thống vai
trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ, đặc biệt là việc đánh giá thực
trạng của việc phát huy vai trò quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục hiện nay vẫn là
một khoảng trống. Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Vai trò của quan điểm
thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án.
Chương 2
VAI TRÒ CỦA QUAN ĐIỂM THẨM MỸ
TRONG GIÁO DỤC THẨM MỸ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Một số vấn đề lý luận về quan điểm thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ
2.1.1. Quan điểm thẩm mỹ
2.1.1.1. Khái niệm về quan điểm thẩm mỹ
Quan điểm thẩm mỹ là một đối tượng nghiên cứu cụ thể của khoa học mỹ
học. Nó không chỉ biểu hiện trình độ giáo dục thẩm mỹ của xã hội mà còn thể
hiện quá trình tự phát triển của cá nhân. Mặt khác, quan điểm thẩm mỹ không



10

thể xa rời các định hướng giá trị tiên tiến của thời đại, tính chủ quan thuần túy
thực sự không tồn tại trong quan điểm thẩm mỹ. Nói cách khác, quan điểm
thẩm mỹ là sự khái quát nhu cầu thẩm mỹ của xã hội và hoạt động thẩm mỹ của
con người. Đó là những nguyên tắc tiếp cận các hiện tượng thẩm mỹ ngoài đời
sống và trong nghệ thuật. Do vậy, quan điểm thẩm mỹ chỉ đạo mọi hoạt động thẩm
mỹ, từ hoạt động sống đời thường đến hoạt động nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Từ sự phân tích ở trên, có thể hiểu Quan điểm thẩm mỹ là hệ thống những
phán đoán, nhận định, khái quát, kết luận về các hiện tượng thẩm mỹ, bộc lộ
năng lực cảm thụ, đánh giá bằng lý trí của con người. Nó là kết tinh của tổng
hòa các hoạt động thẩm mỹ của cá nhân và cộng đồng được hình thành theo những
chuẩn mực giá trị xã hội nhất định trong sự thống nhất với các điều kiện của một
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể.
Quan điểm thẩm mỹ là kết quả kết tinh ý kiến của xã hội và những nhận
định riêng của mỗi cá nhân. Hay nói khác đi, con người có một thước đo thẩm
mỹ gắn liền với lịch sử sáng tạo của nó, và quan điểm thẩm mỹ là sản phẩm
riêng của con người xã hội. Tuy có những quan điểm thẩm mỹ mang màu sắc
cá nhân riêng nhưng chúng đều được kiểm nghiệm bằng các thước đo xã hội, từ
đó người ta phân biệt được quan điểm thẩm mỹ đúng đắn với quan điểm thẩm
mỹ sai lệch, chưa đúng chuẩn. Vì vậy, quan điểm thẩm mỹ mang đậm màu sắc
của những tư tưởng, những quan điểm, đường lối văn hóa văn học, nghệ thuật
của mỗi quốc gia, dân tộc. Xét trong phạm vi nước ta, ngoài yếu tố chủ quan
của mỗi cá nhân, quan điểm thẩm mỹ không tách rời khỏi quan điểm văn hóa
văn nghệ và thẩm mỹ của chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như đường lối văn hóa
văn nghệ của Đảng và Nhà nước.
2.1.1.2. Một số đặc trưng của quan điểm thẩm mỹ
Thứ nhất: Quan điểm thẩm mỹ mang tính trừu tượng
Nếu như cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ tồn tại

trong dạng cụ thể sinh động, thì quan điểm thẩm mỹ tồn tại ở dạng trừu tượng.
Nó bộc lộ trực tiếp qua các khái niệm, phạm trù mỹ học trong hệ thống lý luận về
mỹ học, và bộc lộ gián tiếp qua hình tượng nghệ thuật và các hiện tượng thẩm mỹ
do con người xây dựng nên.
Từ những ngày đầu hình thành khoa học mỹ học, tính trừu tượng đã được
coi là một nét đặc thù của quan điểm thẩm mỹ. Nó là hệ thống các ký hiệu được
dùng như những phương tiện không thể thiếu trong việc giao lưu, truyền tải thông
tin của con người. Trên các vách đá, thân cây, trên mặt đất, thậm chí ngay trên mặt
của người dân các bộ tộc, bộ lạc đều có các ký hiệu mang tính chất tượng trưng,
trừu tượng, hàm ý những ý nghĩa thẩm mỹ và văn hóa đặc thù.
Do vậy, tính trừu tượng trong quan điểm thẩm mỹ của chủ thể thể hiện ra
như một tiêu chuẩn để đánh giá các giá trị thẩm mỹ. Trước sự đa dạng, phong
phú của rất nhiều chủ thể thẩm mỹ và những hiện tượng thẩm mỹ mới, chủ thể
thể hiện quan điểm của mình như một công cụ chuẩn xác để bình xét thẩm mỹ


11

và bày tỏ ý kiến chủ quan của mình trước các hoạt động thẩm mỹ, từ đó hình
thành nên những chuẩn mực về quan điểm thẩm mỹ xã hội. Nếu thiếu tính trừu
tượng, quan điểm thẩm mỹ sẽ khó mà bộc lộ được hết những giá trị hiện thời
cũng như giá trị tương lai của mình. Như vậy, tính trừu tượng đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc làm rõ bản chất của quan điểm thẩm mỹ, mà nếu
không có nó quan điểm thẩm mỹ sẽ không thể đạt được tới trình độ lý luận khái
quát, tổng hợp và không thể hoàn thiện được.
Thứ hai: Quan điểm thẩm mỹ mang tính giai cấp, tính dân tộc, tính thời đại
Quan điểm thẩm mỹ mang tính chất giai cấp, tính chất dân tộc một cách rõ
ràng. Tư tưởng mỹ học của nhân loại từ trước đến nay là sự đối lập quyết liệt,
gay gắt giữa hai khuynh hướng quan điểm duy tâm, phản động và duy vật, cách
mạng. Các nhà triết học, mỹ học, lý luận nghệ thuật...luôn đứng trên quan điểm

giai cấp, dân tộc để bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề mỹ học, lý giải
những vấn đề mỹ học. Những luận điểm đó cho thấy, chỉ đứng trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật lịch sử mới có thể lý giải và nhận thức được đúng đắn
nguồn gốc của nghệ thuật và văn học, tính quy luật, khuynh hướng phát triển và
vai trò của nó trong đời sống xã hội.
Bên cạnh tính dân tộc, quan điểm thẩm mỹ của mỗi thời đại luôn phản ánh
những tính chất, đặc trưng của thời đại đó. Tính thời đại, tính giai cấp và tính dân
tộc trong quan điểm thẩm mỹ không bài trừ lẫn nhau mà luôn hòa quyện thống
nhất, hỗ trợ nhau. Tính thời đại không chỉ giúp quan điểm thẩm mỹ truyền thống
thích nghi và phát triển mà còn giúp nền thẩm mỹ dân tộc có khả năng thỏa mãn
tốt nhất những nhu cầu thẩm mỹ mới nảy sinh trong đời sống thẩm mỹ hiện đại.
Mặt khác, không phải bất cứ quan điểm thẩm mỹ nào nảy sinh trong hiện tại
cũng có giá trị và được xã hội đón nhận. Xã hội luôn có những nhu cầu và thị
hiếu rõ ràng, tiếp thu có chọn lọc giá trị tích cực có thể cộng sinh cùng tính dân
tộc, tính giai cấp. Cho nên, một quan điểm thẩm mỹ chỉ có thể phát triển khi nó
bao hàm trong đó tính dân tộc, tính giai cấp và không ngừng được bổ sung các
giá trị tiên tiến của thời đại.
Thứ ba: Quan điểm thẩm mỹ vừa có tính cá nhân vừa có tính xã hội
Quan điểm thẩm mỹ vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Đây là hai
đặc tính quan trọng hình thành nên cộng đồng, dân tộc. Quan điểm thẩm mỹ sẽ
không thể tồn tại nếu thiếu một trong hai đặc tính này. Bởi lẽ, cá nhân hình thành và
phát triển nhờ cộng đồng và cộng đồng tồn tại và duy trì được nhờ vào cá nhân. Từ
những nét đặc trưng thẩm mỹ mang tính cá nhân riêng biệt, con người kết hợp với
nhau tạo thành những tập đoàn người có chung những quan điểm, tư tưởng giống
nhau hình thành nên tập đoàn xã hội
Tính chất cá nhân của quan điểm thẩm mỹ hình thành và tồn tại trong mỗi
cá nhân phong phú, đa dạng, muôn màu muôn vẻ, không ai giống ai. Sự muôn
màu muôn vẻ của quan điểm thẩm mỹ cá nhân tạo nên tính đa dạng, phong phú
của quan điểm thẩm mỹ xã hội. Đời sống thẩm mỹ sẽ trở nên đơn điệu, nghèo



12

nàn nếu như tất cả mọi người đều có quan điểm thẩm mỹ giống nhau. Tính chất
cá nhân làm đời sống thẩm mỹ rộn ràng màu sắc và xúc cảm hơn.
Mặt khác, sự hình thành, vận động và phát triển của cá nhân không tách rời
các yếu tố xã hội như giai cấp, dân tộc, thời đại. Bởi vậy, quan điểm thẩm mỹ là
quan hệ biện chứng giữa yếu tố cá nhân và yếu tố xã hội. Nói cụ thể hơn, trong
sự cảm thụ, thưởng thức, trong thái độ đánh giá thẩm mỹ của từng cá nhân đã
được thẩm thấu trong đó những quan niệm về chính trị, xã hội, triết học, đạo
đức...tức là các yếu tố mang bản chất xã hội. Sự chi phối của các yếu tố xã hội
vào quan điểm thẩm mỹ cá nhân của con người cũng là một tất yếu. Nói như
quan niệm mác-xít, chủ thể thẩm mỹ không phải là một cá nhân biệt lập với xã
hội, mà trước hết, đó là một con người xã hội - hiểu theo nghĩa nó là con người
của một giai cấp, một dân tộc và thuộc về một thời đại lịch sử nhất định.
2.1.2. Giáo dục thẩm mỹ
2.1.2.1. Bản chất của giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ là hình thức giáo dục sử dụng các biện pháp, cách thức
nhằm rèn luyện và hoàn thiện thái độ, tình cảm và năng lực cảm thụ, đánh giá,
sáng tạo của con người trong cuộc sống và nghệ thuật, hướng tới những giá trị
chân - thiện - mỹ. Từ đó có thể thấy, bản chất của giáo dục thẩm mỹ xét đến
cùng là sự tác động tích cực, đồng bộ, có định hướng, có kế hoạch những nội
dung thẩm mỹ vào ý thức của con người, nâng cao khả năng nhận thức thẩm mỹ
và hướng dẫn con người hành động theo một chương trình, mục tiêu cụ thể
nhằm giáo dục con người đi theo những mục tiêu chuẩn về chân - thiện - mỹ.
Bản chất của giáo dục thẩm mỹ là hình thành một chủ thể thẩm mỹ có năng
lực thụ cảm nhạy bén và khả năng sáng tạo trong mọi hoạt động sống, là phát
triển một cách hài hòa các hoạt động cá nhân và xã hôi của con người. Và để
đạt được mục tiêu cao quý đó, giáo dục thẩm mỹ phải bao gồm trong đó giáo
dục trong nhà trường và ngoài xã hội, tự giáo dục và cả giáo dục lại. Nói cách

khác, giáo dục thẩm mỹ là sự tác động vào ý thức con người một cách có định
hướng, có kế hoạch nhằm nâng cao khả năng nhận thức và sáng tạo thẩm mỹ
theo chương trình, mục tiêu xã hội.
Bản chất của giáo dục thẩm mỹ không chỉ gói gọn trong công tác đào tạo
thông thường. Giáo dục thẩm mỹ còn hàm chứa ý nghĩa hình thành thẩm mỹ.
Đó là quá trình con người trưởng thành về nhu cầu, thị hiếu, quan điểm thẩm
mỹ thông qua hoạt động lao động. Bằng lao động, con người đã tác động vào tự
nhiên, cải tạo tự nhiên, biến tự nhiên phục vụ cho mình, đồng thời con người cũng
tự cải biến mình từ con người cá nhân thành con người xã hội, từ những cá thể đơn
lẻ thành một cộng đồng có tổ chức, có những giá trị văn hóa, xã hội chung.
Từ đó có thể nhận thấy: Bản chất của giáo dục thẩm mỹ là quá trình sử
dụng các hình thức giáo dục có kế hoạch, tác động vào đối tượng thẩm mỹ,
nhằm rèn luyện và hoàn thiện thái độ, tình cảm, năng lực cảm thụ, đánh giá,


13

sáng tạo của con người trong cuộc sống và nghệ thuật; từ đó hình thành khát
khao đưa cái đẹp vào cuộc sống, hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ.
2.1.2.2. Vai trò và hình thức của giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ có vai trò quan trọng trong việc hình thành lối sống văn hóa
nói riêng và hoàn thiện nhân cách con người nói chung theo chiều hướng tiến bộ,
nhân văn và vận động theo quy luật của cái đẹp. Giáo dục thẩm mỹ là sự xã hội
hóa cá nhân về mặt thẩm mỹ thông qua mối quan hệ thẩm mỹ của con người với
thực tiễn cuộc sống để phát triển con người một cách toàn diện, hài hòa.
Giáo dục thẩm mỹ có vai trò phát huy những giá trị thẩm mỹ tích cực và
tiến bộ trong truyền thống văn hóa dân tộc, phát huy chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, từng bước
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo một đời sống thẩm mỹ phong phú nhằm

đào tạo đội ngũ cử nhân khoa học lý luận có lý tưởng cao đẹp, giàu lòng yêu nước,
vững vàng về chính trị, có tri thức thẩm mỹ, có tinh thần nhiệt tình và đạo đức.
Thực chất, vai trò của giáo dục thẩm mỹ chính là những ảnh hưởng, tác động
của các giá trị thẩm mỹ trong các hoạt động của con người với đối tượng thẩm
mỹ. Những tác động đó có thể kể đến cụ thể như sau:
Giáo dục thẩm mỹ góp phần hình thành các nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh
Giáo dục thẩm mỹ góp phần bồi dưỡng lý tưởng thẩm mỹ xã hội
Giáo dục thẩm mỹ góp phần phát triển khả năng sáng tạo
Sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ là sự nghiệp giáo dục có hệ thống và đòi hỏi
phải có một hệ thống giáo dục toàn diện. Nó có ý nghĩa quan trọng trong thời
đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin phát triển như vũ
bão, nhu cầu tiếp cận những thị hiếu thẩm mỹ dễ dàng được đáp ứng, dễ dàng
tuyên truyền; điều này đồng nghĩa với việc những yêu cầu của hình thức giáo
dục thẩm mỹ sẽ càng cao hơn và việc giáo dục thẩm mỹ một cách có hệ thống
càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Do vậy, để tạo sự nghiệp
giáo dục thẩm mỹ vừa có cơ chế tự nó, vừa có cơ chế đồng bộ tạo điều kiện cho
cái tốt, cái đẹp, cái lành mạnh gặp gỡ và thâm nhập vào nhau thì cần có một
chiến lược tầm quốc gia về giáo dục thẩm mỹ. Trong đó, cần coi trọng cả bốn hình
thức cơ bản trong giáo dục thẩm mỹ, là: Giáo dục thẩm mỹ bằng lao động và
thông qua lao động, giáo dục thẩm mỹ bằng nêu gương, giáo dục thẩm mỹ bằng
mỹ học Mác – Lênin, giáo dục thẩm mỹ bằng đời sống văn hóa - nghệ thuật và
giáo dục thẩm mỹ thông qua phổ biến, tuyên truyền nghị quyết của đảng bằng
các phương tiện truyền thông và thông qua các thiết chế văn hóa.
2.1.2.3. Một số nguyên tắc giáo dục thẩm mỹ
Là một bộ phận hữu cơ của công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng, Nhà nước,
nên giáo dục thẩm mỹ vừa đảm bảo những nguyên tắc chung về công tác tư tưởng
vừa làm tròn nghĩa vụ thẩm mỹ trong hệ thống mỹ học của mình. Cụ thể:
Thứ nhất: Bảo đảm tính thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ



14

Thứ hai, bảo đảm tôn trọng tính đa dạng thẩm mỹ.
Thứ ba, bảo đảm sự thống nhất giữa giáo dục thẩm mỹ với giáo dục chính
trị và giáo dục đạo đức.
Thứ tư, bảo đảm tính đảng trong giáo dục thẩm mỹ.
2.2. Vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ
2.2.1. Quan điểm thẩm mỹ giữ vai trò nhận thức cho giáo dục thẩm mỹ
Quan điểm thẩm mỹ giữ vai trò quan trọng trong việc định hình và phát
triển giáo dục thẩm mỹ, trong đó vai trò nhận thức được xem như kim chỉ nam
cho quá trình định hình và phát triển này, đồng thời, nó cũng là thước đo để
đánh giá trình độ phát triển của thời đại hiện tại. Bằng nhận thức thực tiễn và
thông qua nhận thức thực tiễn, con người đã hình thành nên hệ thống những
quan điểm lý luận về các hoạt động thẩm mỹ, và giáo dục thẩm mỹ dùng chính
hệ thống luận điểm đó để hình thành, xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhân
cách con người và xã hội.
2.2.2. Quan điểm thẩm mỹ giữ vai trò định hướng cho giáo dục thẩm mỹ
Một là, định hướng lý tưởng, tình cảm, thị hiếu và tự do sáng tạo của con người.
Hai là, định hướng nhu cầu thẩm mỹ cho công chúng và đáp ứng nhu cầu
đó một cách hợp lý
Ba là, định hướng việc tiếp thu các giá trị văn hoá thẩm mỹ nhân loại
Bốn là, định hướng việc giữ gìn, phục hồi và phát huy các giá trị văn hoá
thẩm mỹ truyền thống, làm nền tảng cho giáo dục thẩm mỹ phát huy vai trò của
quan điểm thẩm mỹ
Năm là, định hướng việc hoàn thiện lối sống con người Việt Nam hiện đại
2.2.3. Vai trò của quan điểm thẩm mỹ với tư cách yếu tố cấu thành nội
dung của giáo dục thẩm mỹ
2.2.3.1. Quan điểm thẩm mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện
nội dung giáo dục thẩm mỹ
2.2.3.2. Quan điểm thẩm mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc trang bị tri

thức thẩm mỹ xã hội, mỹ học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối
văn hóa văn nghệ của Đảng cho hoạt động giáo dục thẩm mỹ
Chương 3
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA QUAN ĐIỂM THẨM MỸ
TRONG GIÁO DỤC THẨM MỸ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Những yếu tố cơ bản tác động đến việc phát huy vai trò của quan
điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
3.1.1. Đời sống thẩm mỹ với tư cách là nhân tố khách quan tác động đến việc
phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
Đời sống thẩm mỹ là một lĩnh vực của đời sống tinh thần bao gồm ý thức thẩm
mỹ, quan hệ thẩm mỹ, hình tượng thẩm mỹ của con người. Nó phản ánh hiện thực


15

cuộc sống con người trong quan hệ với nhau cũng như trong thưởng thức và sáng
tạo thẩm mỹ. Các quan hệ thẩm mỹ vận động trong đời sống thẩm mỹ đều là sản
phẩm của một dân tộc, một giai cấp, một thời đại nhất định. Cái đẹp, cái bi, cái
hài, cái cao cả trong cuộc sống và nghệ thuật đều gắn với các thời đại đã sản sinh
ra nó, vì thế đời sống thẩm mỹ thường mang trong nó dấu ấn xã hội.
Ngày nay, xã hội có nhiều biến đổi. Đời sống của người dân được nâng cao,
nhu cầu nhận thức, trình độ nhận thức và hưởng thụ thẩm mỹ ngày một phát triển
cả về chiều sâu và độ đa dạng, phong phú. Điều này một mặt sẽ tạo điều kiện cho
dân chúng tiếp thu tốt hơn các giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ; một mặt đòi hỏi
việc tuyên truyền, giáo dục phải được nâng cao chất lượng, có sức thuyết phục
mới được quần chúng chấp nhận. Đây là một thách thức không nhỏ đối với việc
giáo dục, truyền tải quan điểm thẩm mỹ cũng như phát huy vai trò của quan điểm
thẩm mỹ trong nhà trường và ngoài xã hội hiện nay. Việc phát huy vai trò của
quan điểm thẩm mỹ, do vậy, phải có tính hệ thống và phải đạt tới niềm tin.
Mặc khác, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng tạo nên sự

thâm nhập của các yếu tố từ bên ngoài, tình trạng tồn tại đan xen giữa cái cũ
và cái mới, yếu tố tích cực và tiêu cực, quan điểm mác-xít và phi mác-xít làm
cho đời sống thẩm mỹ thêm đa dạng, phức tạp. Ngày nay, khi thế giới quan
thẩm mỹ ngày một đa dạng và phức tạp, trong xây dựng đời sống văn hóa
thẩm mỹ dân tộc - hiện đại, vẫn luôn diễn ra những cuộc đấu tranh với nhiều
hình thức khác nhau. Xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng phần nào
dẫn tới hiện tượng xa rời lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực
dụng, lối sống chạy theo đồng tiền ngày một phổ biến kéo theo tính vụ lợi,
thực dụng, lạnh lùng, tàn nhẫn làm băng hoại đạo đức truyền thống, thuần
phong mỹ tục, tấn công vào từng cá nhân, từ chỗ coi trọng các giá trị văn hóa,
đạo đức sang tuyệt đối hóa các giá trị vật chất. Những quan điểm thẩm mỹ đồi
trụy, lai căng có lúc, có nơi vẫn chưa bị lên án, tác động đến hoạt động thẩm
mỹ của nhiều người, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Vì vậy, vai trò của
quan điểm thẩm mỹ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong nhiệm vụ
định hướng nhận thức cho giáo dục thẩm mỹ đạt kết quả.
3.1.2. Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng Cộng sản về vấn đề văn
hóa, văn nghệ từ khi đất nước bắt đầu đổi mới đến nay
Ngay từ khi thành lập đến nay, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
luôn đánh giá cao vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của lý luận văn hóa nghệ
thuật. Đó là sự phản ánh, khái quát từ thực tiễn cuộc sống, là vũ khí sắc bén, là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Trước đổi mới, quan điểm thẩm mỹ còn ít nhiều mang tính giáo điều, cứng
nhắc, không phản ánh đầy đủ được về mặt lý luận sự vận động sinh động của
đời sống thẩm mỹ, do đó, vai trò của nó đối với giáo dục thẩm mỹ cũng còn hạn
chế. Trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng luôn nhấn mạnh đến các vấn đề


16


văn hóa, văn nghệ trong hai lĩnh vực: văn hóa, nghệ thuật và đời sống văn hóa
cụ thể. Nhưng từ đổi mới, do sự phát triển của thực tiễn xây dựng văn hóa và
những lý luận tổng kết từ thực tiễn đó, các lý luận của Đảng đã có nhiều thay
đổi, bao quát và phổ rộng hơn. Các quan điểm này là sự tiếp tục nhất quán các
quan điểm trước đó, theo tư tưởng mác-xít, đồng thời phát triển những điểm
tiến bộ, tích cực trong điều kiện thực tiễn mới.
3.2. Những thành tựu trong việc thực hiện vai trò của quan điểm thẩm
mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
3.2.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện vai trò nhận thức của
quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
Với đường lối đổi mới nhận thức của Đảng qua các kỳ đại hội, quan điểm
văn hóa nói chung, quan điểm thẩm mỹ nói riêng ở nước ta hiện nay đã có
nhiều biến đổi. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được đánh dấu từ Đại hội VI
đến Đại hội XII của Đảng. Vai trò nhận thức ở đây thể hiện qua việc nó đem
những quan điểm, nhận thức mới của Đảng vào trong giáo dục thẩm mỹ, giúp
truyền bá, phổ biến giúp con người có được những nhận thức mới. Có thể khái
quát thành tựu bước đầu đạt được về vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo
dục thẩm mỹ trong 30 năm đổi mới đất nước được thể hiện như sau:
Một là, thay đổi nhận thức trong hoạt động giáo dục - đào tạo.
Hai là, thay đổi nhận thức về lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn.
Ba là, nhận thức về hoạt động văn hóa thẩm mỹ trong và ngoài nước đã có
những cởi mở, đi vào chiều sâu.
Bốn là, thay đổi nhận thức trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống
thể chế và thiết chế văn hóa.
Năm là, thay đổi nhận thức trong công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa thẩm mỹ.
3.2.2. Những kết quả đạt được trong việc phát huy vai trò định hướng của
quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
3.2.2.1. Giáo dục ý thức về phục hồi và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp làm cơ sở nền tảng cho giáo dục thẩm mỹ
Kế thừa và phát huy di sản truyền thống kết hợp với tiếp thu các giá trị văn

hóa thẩm mỹ thế giới đã trở thành một chiến lược quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục quan điểm thẩm mỹ phục vụ đời sống văn hóa tinh thần trong công
cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Ngày nay, bằng vai trò của quan điểm thẩm mỹ, thông qua các hình thức
giáo dục thẩm mỹ ngày càng phong phú và đa dạng, mọi nét đẹp trong văn hóa,
nghệ thuật truyền thống đều có thể trở thành công cụ để giáo dục thẩm mỹ, phát
huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ.
3.2.2.2. Giáo dục quan điểm tiếp thu các giá trị văn hóa thẩm mỹ của thế
giới để làm giàu cho giáo dục văn hóa thẩm mỹ Việt Nam
Nhờ chính sách mở cửa, bằng các hình thức giáo dục thẩm mỹ phong phú,
đa dạng, công tác giáo dục quan điểm thẩm mỹ đã đem lại những thành quả to


17

lớn trong việc làm giàu mỹ quan dân tộc, mọi loại hình văn hóa của các dân tộc
đều được chúng ta mở cửa và đón nhận. Tiêu biểu trong đó phải kể đến các lĩnh
vực như: âm nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh, các hoạt động thể thao, các cuộc thi sắc
đẹp, trong lĩnh vực biểu diễn người mẫu, thời trang, trong hoạt động truyền
hình thực tế hay trong tổ chức các ngày lễ hội.
Có thể nói, thông qua kết quả của hoạt động giáo dục thẩm mỹ đã tạo nên
những thay đổi căn bản cho bộ mặt của đời sống văn hóa tinh thần dân tộc. Với
những tác dụng tích cực đó sẽ góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện quan
điểm thẩm mỹ trong đời sống con người Việt Nam nói chung.
3.2.2.3. Quan điểm thẩm mỹ thông qua giáo dục đã góp phần hoàn thiện lối
sống con người Việt Nam hiện đại
Giáo dục thẩm mỹ đã tác động tích cực vào tư tưởng của người Việt Nam
và được biểu hiện cụ thể trong chính đời sống hằng ngày của mỗi người. Trước
đây, khi đất nước còn chìm trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, lý tưởng
sống của mỗi người chính là quan điểm của dân tộc, chúng ta sống đoàn kết,

tương trợ vì cộng đồng, vì Tổ quốc. Nhưng khi hòa bình lập lại, con người bắt
đầu chú ý hơn tới các nhu cầu của cá nhân, người ta được sống cho cái tôi, cái bản
ngã của mình nhiều hơn. Từ đó bắt đầu xuất hiện một tư tưởng về lối sống nhanh,
lối sống nghiêng về tiêu thụ, và lối sống ưa chuộng mô hình gia đình hạt nhân…
Lối sống hiện đại là một trong những vấn đề quan trọng của đời sống văn hoá.
Đó là thành quả của các chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như sự thành công
của hoạt động giáo dục thẩm mỹ. Xây dựng một lối sống lành mạnh, mọi người
có trách nhiệm với xã hội, vì lợi ích bản thân, biết trân trọng chính mình, nhưng
cũng phải vì lợi ích của cả “gia đình, tập thể và xã hội” như chủ trương của
Đảng ta, sẽ là một nhiệm vụ quan trọng của nền văn hóa tiến tiến của chúng ta.
3.2.2.4. Giáo dục quan điểm thẩm mỹ mới kích thích hoạt động tự do sáng
tạo của con người
Trên thực tế, tự do sáng tạo chính là một trong những quyền cơ bản quan
trọng nhất của con người. Bằng việc khẳng định quyền tự do sáng tạo trong luật
và các văn kiện của Đảng, công tác giáo dục thẩm mỹ đã có cơ sở cũng như
mục đích để tiến hành và hoàn thành chức năng giáo dục của mình. Kết quả của
nó cho thấy, trong lịch sử văn hóa Việt Nam, chưa bao giờ tự do sáng tạo có
những biểu hiện tích cực như hiện nay. Từ nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, họa
sĩ…đến những người không làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật đều có quyền tự
do sáng tạo để thể hiện tài năng của mình. Đó là điều đổi mới quan trọng trong
văn hóa nói chung và trong văn hóa chính trị nói riêng, phù hợp với các nguyên
tắc của xã hội công dân, của chế độ dân chủ.
3.2.3. Những kết quả đạt được trong việc phát huy vai trò của quan điểm
thẩm mỹ với tư cách yếu tố cấu thành nội dung của giáo dục thẩm mỹ
Nói về vai trò nhân tố cấu thành nội dung giáo dục thẩm mỹ của quan điểm
thẩm mỹ, người ta không chỉ nhắc đến tính trường quy của nó. Nói rộng ra, vai


18


trò này không chỉ được thể hiện trong nhà trường mà nó gắn bó mật thiết với sự
hình thành các khía cạnh về hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ.
Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực có khả năng giáo dục thẩm mỹ đạt hiệu quả
bất ngờ. Qua văn học, nghệ thuật, nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được
giữ gìn, có thêm nhiều tác phẩm có giá trị được ra đời, nhiều bộ sưu tập công phu
từ kho tàng văn hoá dân gian và văn hoá bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ
được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư
tưởng, học thuật và thẩm mỹ của dân tộc. Hoạt động lý luận, phê bình cũng đạt
được những kết quả tích cực, khẳng định vai trò quan trọng của quan điểm thẩm
mỹ, đồng thời tạo cơ hội cho khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Bên cạnh các
sáng tác của các nghệ sĩ, đã xuất hiện rất nhiều tác phẩm của các tác giả nghiệp dư
về các lĩnh vực khác nhau, thể hiện những tư tưởng độc đáo, sâu sắc nhưng không
vượt khỏi khuynh hướng chung về quan điểm thẩm mỹ của dân tộc.
3.3. Những hạn chế trong việc thực hiện vai trò của quan điểm thẩm
mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
3.3.1. Hạn chế trong việc thực hiện vai trò nhận thức của quan điểm
thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
Có thể thấy những thành tựu đạt được trong nhận thức về vai trò của quan
điểm thẩm mỹ những năm gần đây ở nước ta đã đạt được những ưu thế nhất
định. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng sự đổi mới nhận thức đó
chưa hoàn toàn tương xứng với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đề ra về phát
huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ, chưa tương xứng
với tiềm năng và nguồn lực vốn có của nhân dân và xã hội. Điều đó được thể
hiện trong một số nội dung như:
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước đã đưa ra rất nhiều quan điểm chỉ đạo nhưng
quan điểm của Đảng về văn hóa thẩm mỹ và xã hội còn mang nặng tính hình
thức, chưa chú ý tới chất lượng và hiệu quả thiết thực.
Thứ hai, là tình trạng phân hóa và mất cân đối trong nhận thức quan điểm thẩm
mỹ giữa các vùng, các miền, các tầng lớp xã hội, các lứa tuổi gia tăng. Nhận thức về
bản chất và năng lực thụ cảm thẩm mỹ của xã hội cũng chênh lệch đáng kể.

Thứ ba, nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy các cấp về phát
huy vai trò đặc biệt của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ chưa thật
đầy đủ, chậm chạp và thiếu đồng bộ, nhất là trong sử dụng các thiết chế văn hóa
ở các địa phương hiện nay.
3.3.2. Hạn chế về vai trò định hướng của quan điểm thẩm mỹ trong giáo
dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
3.3.2.1. Hạn chế trong việc tiếp thu và phát huy những giá trị trong quan
điểm thẩm mỹ truyền thống vào trong quá trình giáo dục thẩm mỹ hiện nay
Việc tiếp thu các giá trị truyền thống dân tộc đã đem lại những giá trị tích
cực cho xây dựng đời sống văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta
hiện nay. Tuy vậy, bên cạnh hoạt động phát huy, phục hồi các giá trị truyền


19

thống một cách chính đáng; ở một số nơi, một số người đã nhân danh việc bảo
vệ bản sắc dân tộc để phát động những chiến dịch phục hồi tràn lan mọi hiện
tượng văn hóa của quá khứ. Đi kèm với nó là các hủ tục lạc hậu (như bói toán,
đốt vàng mã...), sự thương mại hóa lễ hội (như hiện tượng khấn thuê, in ấn một
cách tràn lan, xem bói, xem tướng, đọc thẻ như một dịch vụ không thể thiếu ở
nhiều ngôi chùa, …) hay các hoạt động cờ bạc, giải trí ầm ĩ cạnh không gian
thờ cúng…đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự linh thiêng của những nơi này.
Việc phục hồi, phát huy các hiện tượng văn hóa trong lịch sử không có gì là
sai, nhưng phục hồi không đơn giản chỉ là hồi phục về mặt hình dáng, cơ sở vật
chất đơn thuần theo xu hướng hoài cổ, thủ cựu, mà cần chú ý đến việc phục hồi
các giá trị văn hóa đích thực của dân tộc. Xu hướng phục hồi hời hợt bề ngoài
kia chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, kìm hãm sự phát triển, gây
mơ hồ cho việc giáo dục thẩm mỹ.
3.3.2.2. Chưa tiếp thu một cách có chọn lọc các quan điểm thẩm mỹ đương
đại vào trong quá trình giáo dục thẩm mỹ hiện nay

Tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà
nước và công tác giáo dục toàn dân. Nhưng tiếp thu phải dựa trên cơ sở và điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước, là tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm, có hòa nhập
nhưng không hòa tan, không đánh mất mình, phải tiếp thu những giá trị phù hợp
và có khả năng vận dụng vào điều kiện nước ta.
Trong đời sống văn hóa Việt Nam hiện nay, ngoài những thành tựu đạt
được nhờ tiếp thu tích cực các giá trị tinh hoa nhân loại thì một bộ phận người
dân có phần bị lệ thuộc vào lối tư duy của phương Tây. Đó là lối tư duy bắt
chước, lạm dụng quá nhiều tiếng Anh trong ngôn ngữ hằng ngày; trong các
chương trình giải trí và quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng;
trong việc sử dụng quá nhiều yếu tố nhục dục trong văn học, phim ảnh, âm nhạc,
và kể cả sân khấu; tổ chức tràn lan các buổi biểu diễn một số loại hình văn hóa đại
chúng như biểu diễn người mẫu, thi hoa hậu; lạm dụng việc tổ chức lễ hội,... Điều
này đã tác động không nhỏ đến quan điểm thẩm mỹ của một bộ phận người dân.
3.3.2.3. Hạn chế trong định hướng hoàn thiện lối sống con người Việt Nam
ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục
thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
Lối sống hiện đại là một trong những vấn đề quan trọng của đời sống văn hoá.
Đây được coi là ngôi trường lớn để công tác giáo dục thẩm mỹ thể hiện mình trong
việc xây dựng lối sống công dân lành mạnh, có trách nhiệm với xã hội, mà không
quên lợi ích bản thân, gia đình. Tuy nhiên, trong tính phức tạp của đời sống xã hội,
việc hoàn thiện lối sống cho con người hiện nay còn gặp phải một vài hạn chế.
Thứ nhất, trong một xã hội đang phát triển từng ngày về mọi mặt như Việt
Nam hôm nay, lối sống nhanh đã giúp con người theo kịp những biến đổi tích
cực đó. Tuy nhiên trong khi tiếp cận lối sống nhanh của phương Tây, nhiều khi


20

chúng ta mới chỉ tiếp thu cái bề mặt văn hóa mà chưa tiếp thu được cái chiều

sâu kinh tế - xã hội của lối sống đó.
Thứ hai, gia đình là một trong những môi trường giáo dục quan trọng,
nhưng hiện nay lối sống trong sinh hoạt gia đình hạt nhân đem lại không ít các
hệ lụy: các thế hệ trong gia đình ít gắn kết, cháu chắt ít được gần gũi ông bà, cụ
kị dẫn tới tình thân không được sâu sắc, ruột thịt. Hiện tượng này kéo dài sẽ tạo
nên lối sống thiếu tình cảm, khoa học, tương lai sẽ ảnh hưởng tới các thế hệ sau.
Thứ ba, Mặt trái của lối sống tiêu thụ là sự lãng phí. Phần đông giới trẻ đã và
đang tiêu thụ nhiều hơn mức họ cần. Mặt khác, lối sống tiêu thụ còn đẩy con
người vào tình trạng là “nô lệ hàng hóa”, tạo cơ hội cho sự “lên ngôi” của thói ích
kỉ, biến một số chuẩn mực định giá con người theo hướng tiêu cực.
3.3.2.4. Hạn chế trong năng lực thẩm mỹ của cán bộ văn hóa nghệ thuật và
người dân ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong
giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
Cán bộ văn hóa ở một số địa phương còn hiểu mơ hồ về quan điểm thẩm mỹ,
năng lực cảm thụ thẩm mỹ chưa cao, chưa thấy được tầm quan trọng của giáo dục
thẩm mỹ và vai trò của quan điểm thẩm mỹ đúng đắn trong giáo dục thẩm mỹ ở
nước ta hiện nay. Điều đó gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục thẩm
mỹ cũng như việc phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ cho dân chúng.
Thị hiếu của phần đa công chúng và thế hệ trẻ mới dừng lại ở các loại hình
nghệ thuật bình dân, nhiều tính thị trường, ít tính nghệ thuật, còn các loại hình
nghệ thuật giàu chất trí tuệ, tính nhân văn, triết luận như balê, nhạc giao hưởng,
opera… hầu như không phục vụ cho bộ phận khán giả này. Điều này thể hiện
năng lực thưởng thức nghệ thuật của người dân chưa cao, từ đó chưa nhận thức
được tầm quan trọng của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ.
3.3.3. Hạn chế về vai trò của quan điểm thẩm mỹ với tư cách yếu tố cấu
thành nội dung của giáo dục thẩm mỹ
Thực tiễn phát huy vai trò nhân tố cấu thành của quan điểm thẩm mỹ trong
giáo dục thẩm mỹ còn chưa tương xứng với tầm quan trọng của nó, chưa đủ để tác
động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống thẩm mỹ xã hội, đặc biệt là
hoạt động giáo dục thẩm mỹ. Các quan điểm chỉ đạo về phát huy quan điểm thẩm

mỹ chưa được quán triệt đầy đủ nên chưa được thực hiện nghiêm túc.
Trong thực tiễn thực hiện và triển khai nội dung quan điểm thẩm mỹ trong
giáo dục thẩm mỹ, vẫn còn tồn tại tình trạng gượng ép, giáo điều, thiếu tính
thực tiễn, làm giảm chất lượng và giá trị lý luận và thực tiễn của quan điểm
thẩm mỹ. Bên cạnh đó, lực lượng tuyên truyền giáo dục ở các vị trí quan trọng
còn hạn chế về trình độ chuyên môn, đội ngũ cán bộ chuyên về thẩm mỹ, nghệ
thuật chưa có, đa phần là sự kiêm nghiệm của cán bộ văn hóa, tuyên giáo…
Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, đồng bào các dân tộc thiểu
số, biên giới, hải đảo, đời sống vật chất còn quá nghèo nàn, nên yếu tố thẩm mỹ trở
thành một nhu cầu xa xỉ. Khoảng cách về trình độ thẩm mỹ toàn xã hội vì vậy cũng


21

dãn cách, gây trở ngại cho hoạt động giáo dục thẩm mỹ và tạo ra những khó khăn
cho việc phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ.
Nguyên nhân của những hạn chế trên bắt nguồn từ việc chưa nhận thức đúng và
đủ về mục tiêu, chương trình giáo dục toàn diện, về vai trò của quan điểm thẩm mỹ
nói chung và vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ nói riêng.
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA QUAN ĐIỂM THẨM MỸ TRONG GIÁO DỤC THẨM MỸ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trên cơ sở phân tích thực trạng vai trò quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm
mỹ ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc giáo dục thẩm mỹ
còn gặp phải những hạn chế nhất định. Vì vậy, để hoạt động giáo dục thẩm mỹ gặt
hái/đạt được nhiều thành công, luận án đưa ra ba nhóm giải pháp như sau:
4.1. Nhóm giải pháp đối với chủ thể giáo dục thẩm mỹ
4.1.1. Đổi mới nhận thức và làm phong phú thêm quan điểm thẩm mỹ
Quan điểm thẩm mỹ được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa quan

điểm thẩm mỹ Mác – Lênin vào hoàn cảnh nước ta hiện nay. Cùng với những
biến chuyển của xã hội, quan điểm thẩm mỹ cần được đổi mới không ngừng
trên cơ sở tiếp thu những thành tựu tiến bộ trong quan điểm thẩm mỹ của nhân
loại. Nhấn mạnh điều này để khắc phục nhận thức cứng nhắc trước đây về quan
điểm giai cấp hẹp hòi đi đến phủ nhận những yếu tố tích cực của các quan điểm
thẩm mỹ khác. Việc đổi mới nhận thức này sẽ cho phép ta chủ động tiếp nhận
những thành tựu mới và đa dạng của đời sống thẩm mỹ hiện nay.
4.1.2. Nâng cao năng lực quản lý của các tổ chức Đảng và Nhà nước
trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật nhằm phát huy vai trò của quan
điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ
Các cấp lãnh đạo cần đề cao thực hiện quản lý chặt chẽ các hoạt động biểu
diễn văn hóa nghệ thuật, kiểm duyệt các chương trình trên các phương tiện
thông tin đại chúng, tăng thời lượng phát sóng, các kênh về các chương trình
văn hóa, nghệ thuật, giải trí mang quan điểm thẩm mỹ truyền thống có chất
lượng cao trên truyền hình và phát thanh Trung ương và địa phương phù hợp
với tâm lý các đối tượng khác nhau. Bên cạnh đó, cần đầu tư thích đáng về mọi
mặt để có những tác phẩm nghệ thuật, các sản phẩm văn hóa hấp dẫn, sâu sắc, có
giá trị thẩm mỹ, tái hiện sinh động đời sống thẩm mỹ lịch sử, làm lay động thị hiếu,
cuốn hút tâm hồn, tình cảm của công chúng, qua đó, truyền tải các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, định hướng suy nghĩ, lối sống phù hợp với thuần phong
mỹ tục của dân tộc cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung, thế hệ trẻ nói riêng.
Trong quá trình xây dựng hệ thống giáo dục thẩm mỹ không thể thiếu vai
trò của nhà nước trong việc định hướng, điều chỉnh một cách chủ động, sáng tạo
và có ý thức các hoạt động văn hóa. Nhà nước và các cấp ban ngành lãnh đạo cần


22

xây dựng và hoàn thiện các thể chế văn hóa và hoạt động văn hóa nghệ thuật, tạo
hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa vận động phát triển.

4.1.3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, đoàn thể trong xã hội
Tăng cường sức mạnh tổng hợp của các tổ chức đoàn thể trong xã hội là
một giải pháp được đặc biệt coi trọng trong công tác giáo dục quan điểm thẩm
mỹ. Đó là sự tác động giáo dục có mục đích của gia đình, sự phối kết hợp chặt
chẽ và ảnh hưởng qua lại với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội qua các
phương tiện truyền thông.
Gia đình, nhà trường, xã hội là những thiết chế có những chức năng giáo
dục, xã hội hóa cá nhân không hoàn toàn giống nhau nhưng lại hỗ trợ cho nhau,
trong đó có công tác giáo dục quan điểm thẩm mỹ. Trong quá trình tổ chức các
hoạt động giáo dục thẩm mỹ thẩm mỹ, đặc trưng của từng thiết chế được bộc lộ
rõ rệt và cần được bổ sung cho nhau. Những mặt mạnh của giáo dục thẩm mỹ
trong gia đình sẽ bổ sung cho những thiếu hụt của giáo dục trong nhà trường.
Đồng thời, giáo dục gia đình cần được bổ sung những mặt mạnh của giáo dục
nhà trường và các tổ chức xã hội. Giáo dục thẩm mỹ xã hội thì lại lấy nền tảng
thẩm mỹ từ những thành công trong vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo
dục thẩm mỹ ở gia đình, nhà trường.
Trong thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập, sự giao lưu văn hóa đa phương, đa
dạng như hiện nay, sự tác động đan xen của yếu tố tích cực và tiêu cực, đang
làm cho công tác giáo dục thế hệ trẻ trở nên phức tạp hơn. Cho nên, sự phối hợp
đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục thẩm mỹ cho
giới trẻ cần đạt đến mục tiêu xây dựng ý thức tự giác trong học tập, định hướng
trong nhận thức và hành động, có lập trường tư tưởng vững vàng, có quan điểm
thẩm mỹ rõ ràng để cho thế hệ trẻ một mặt thẩm thấu các giá trị thẩm mỹ truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, một mặt có được hành trang căn bản cho con đường
phía trước, xứng đáng là tương lai của dân tộc.
4.2. Nhóm giải pháp đối với đối tượng giáo dục thẩm mỹ
4.2.1. Đẩy mạnh giáo dục quan điểm thẩm mỹ cho các tầng lớp nhân
dân bằng các hình thức phù hợp
Đầu tiên, cần quán triệt vai trò và nhiệm vụ của công tác giáo dục thẩm mỹ;
đồng thời đề ra chương trình, mục tiêu và kế hoạch hành động cụ thể trong từng

thời kỳ, từng giai đoạn trong hoạt động giáo dục đào tạo.
Cần có các biện pháp tuyên truyền, giáo dục cho mọi đối tượng dân cư về tầm
quan trọng của quan điểm thẩm mỹ trong việc hình thành và hoàn thiện phẩm
chất, kỹ năng mỗi người. Xác định các chủ điểm, chủ đề với nội dung cụ thể về
đạo đức, lối sống, lý tưởng thích hợp với trình độ, tuổi tác, nhu cầu của mỗi người,
để họ ý thức được cuộc sống và biết trân quý những giá trị tốt đẹp của xã hội.
Nhà nước phải có chiến lược lâu dài cho việc đầu tư thích đáng cho các hoạt
động giáo dục, tuyên truyền giáo dục về các giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc; phải trang bị một bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực và lý tưởng thẩm


23

mỹ cần thiết để mỗi người đều có được chính kiến trong việc tiếp cận và lựa
chọn các giá trị văn hóa, thẩm mỹ phù hợp với bản thân và quy chuẩn xã hội.
Giáo dục quan điểm thẩm mỹ trong thời đại này không phải công việc riêng
của các nhà quản lý văn hóa, văn nghệ hay các nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu mà
nó là trách nhiệm và quyền lợi của tất cả mọi người. Đặc biệt, trách nhiệm,
quyền lợi đó không hề mang tính chất gò bó, ép buộc mà nó tự nhiên, nhẹ nhàng
thấm sâu trong đời sống thẩm mỹ mỗi người và biểu hiện ra, tác động với các
quan hệ thẩm mỹ một cách tự nhiên, đem lại những hiệu quả rộng lớn và lâu dài.
4.2.2. Nâng cao năng lực thụ cảm thẩm mỹ của người dân
Cơ sở đầu tiên xây dựng quan điểm thẩm mỹ là vốn sống mà con người tích
lũy từ việc nhận thức hiện thực cuộc sống và quá trình giáo dục thẩm mỹ. Vì
vậy, mọi giải pháp đều trở nên vô nghĩa nếu mỗi người không có ý thức tự giác
thụ cảm thẩm mỹ. Bên cạnh việc trang bị những kiến thức mỹ học cơ bản làm
cơ sở khoa học cho mọi hoạt động thẩm mỹ của con người, chúng ta cần quan
tâm, tăng cường khuyến khích, cổ vũ sự tính tích cực, sáng tạo của mỗi người.
Đây là biện pháp quan trọng biến những tri thức được tích lũy trong sách vở và
cuộc sống thành những công cụ đắc lực phục vụ việc giáo dục thẩm mỹ, hình thành

và hoàn thiện quan điểm thẩm mỹ cá nhân. Khi các hoạt động thẩm mỹ được thể
hiện trên tinh thần chủ động, tự nguyện, tự giác sẽ phát huy tối đa sự thích thú, hào
hứng, tích cực của mỗi người, nâng chất lượng các hoạt động lên cao.
Để nâng cao năng lực tự giác thụ cảm thẩm mỹ, xây dựng một đời sống
thẩm mỹ thực sự phát triển lành mạnh, làm tiền đề phát triển quan điểm thẩm
mỹ xã hội, cần phải xác lập và đảm bảo được sự thống nhất hài hòa giữa yếu tố
cá nhân và yếu tố xã hội trong mỗi cá nhân chủ thể thẩm mỹ.
4.2.3. Khuyến khích việc sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật chất lượng cao
Sáng tạo những tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật góp phần xây
dựng văn hóa và con người Việt Nam mới, nó là hồn cốt, phương hướng của
nền văn học nghệ thuật Việt Nam; là triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW, Hội
nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước. Vì vậy, đưa nghệ thuật vào cuộc sống, phổ biến rộng rãi các hình ảnh
và nội dung của nghệ thuật trong đời sống thẩm mỹ sẽ có hiệu quả cao trong
việc nâng cao trình độ thưởng thức của công chúng. Khi những tác phẩm nghệ
thuật có chất lượng càng được phổ biến rộng thì thị hiếu của người dân càng
nâng cao, quan điểm thẩm mỹ đúng đắn sẽ phổ quát rộng rãi toàn bộ đời sống
thẩm mỹ, những giá trị thẩm mỹ xấu xa, thiếu lành mạnh, trong sáng sẽ bị đẩy
lùi và không còn điều kiện phát triển. Do đó, luôn luôn cần thiết sáng tạo những
tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao và phổ biến rộng rãi để phục vụ công cuộc
lành mạnh hóa và nâng cao đời sống tinh thần cho người dân, đó là một trong
những giải pháp tốt nhất để giáo dục thẩm mỹ hiện nay.
4.3. Nhóm giải pháp đối với môi trường giáo dục thẩm mỹ


24

4.3.1. Loại trừ các văn hóa phẩm không lành mạnh góp phần nâng cao
chất lượng sáng tạo thẩm mỹ và nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ

Ðể từng bước loại trừ văn hóa độc hại, thực hiện mục tiêu xây dựng văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các cơ
quan, đơn vị cần thực hiện các quy định về ngăn chặn, phê phán, bài trừ các sản
phẩm văn hóa độc hại; đấu tranh, từng bước loại bỏ các thói quen xấu, hủ tục
lạc hậu; đồng thời, khôi phục các lễ hội truyền thống, trang phục truyền thống,
văn hóa phi vật thể, phong tục tốt đẹp của dân tộc. Tập trung thực hiện có hiệu
quả phong trào xây dựng gia đình văn hóa, bảo vệ các giá trị văn hóa tốt đẹp
của gia đình Việt Nam. Ðẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử
và kỹ năng sống cho thanh, thiếu niên; kiên quyết ngăn chặn các sản phẩm văn
hóa độc hại xâm nhập vào nhà trường và thế hệ trẻ. Nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý văn hóa, nhất là ở khâu thẩm định, thanh tra, kiểm tra văn hóa.
Mặt khác, phải quan tâm xây dựng văn hóa từ mỗi gia đình, khu phố, góp phần xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, cần không ngừng siết chặt công tác quản lý đồng thời với việc
tạo nên một loại thuốc đề kháng cho xã hội trước những tác động ấy. Các cấp
uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp tăng cường lãnh đạo,
quản lý, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống sự xâm nhập của các sản
phẩm văn hóa độc hại gây huỷ hoại đạo đức xã hội, làm cơ sở hình thành những
quan điểm thẩm mỹ đúng đắn và phát huy vai trò của nó trong thưởng thức,
đánh giá và sáng tạo nghệ thuật.
4.3.2. Đầu tư nâng cao hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho
phát huy vai trò của quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ
Để phát huy vai trò quan điểm thẩm mỹ trong giáo dục thẩm mỹ thì việc
nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật và môi trường giáo dục là một nhu
cầu tất yếu. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả công tác này, các cấp lãnh đạo Đảng,
Nhà nước cần phải quan tâm thỏa đáng và kịp thời những trang thiết bị cần thiết
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục thẩm mỹ. Cụ thể, để thực hiện giải
pháp này, chúng ta cần triển khai tốt các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tăng cường kinh phí đầu tư cho các hoạt động giáo dục quan điểm

thẩm mỹ, hoạt động văn hóa, văn nghệ. Tỷ lệ trong tăng ngân sách cho các hoạt
động văn hóa phải tăng tương ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế của từng địa
phương và trên cả nước.
Thứ hai, sử dụng có hiệu quả các công trình hiện có, đầu tư xây dựng hoặc
bố trí thành hệ thống các đơn vị các khu vực sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể
thao, giải trí lành mạnh, phù hợp với mọi đối tượng người dân.
Thứ ba, củng cố và phát triển thêm các hoạt động văn hóa để đáp ứng nhu
cầu hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật ngày càng cao của xã hội.
Thứ tư, tăng cường đầu tư cho các chương trình nghệ thuật, giới thiệu vẻ đẹp


25

của các cảnh quan thiên nhiên, những di tích, di sản văn hóa, những danh lam
thắng cảnh, những khu du lịch sinh thái và đặc biệt là những giá trị văn hóa
truyền thống phi vật thể của đất nước.
Tăng cường đầu tư cho các chương trình nghệ thuật quần chúng là công
trình toàn diện, toàn dân. Nó là sự kết hợp tổng lực toàn xã hội từ đầu tư về tài
chính, về cơ sở vật chất kỹ thuật cho đến đầu tư về nguồn nhân lực. Trên mặt
trận văn hóa này, mỗi người là một chiến sĩ, là một nhà tuyên truyền giỏi; vì
vậy ngoài việc đầu tư tổng lực về các điều kiện khách quan thì mỗi người cần
chủ động đầu tư cho bản thân những kiến thức văn hóa nghệ thuật riêng, để
phục vụ tốt nhất cho công cuộc giáo dục thẩm mỹ của toàn dân.
4.3.3. Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo cả về kinh tế, văn hóa,
giáo dục, y tế, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; tạo
tiền đề trang bị những kiến thức thẩm mỹ cơ bản cho người dân
Sự khác biệt và mất cân đối trong thu nhập cũng như cơ hội tiếp cận các
dịch vụ thẩm mỹ là nguyên nhân mấu chốt dẫn đến sự không thống nhất về thị
hiếu và nhu cầu thẩm mỹ của bộ phận dân chúng này với toàn xã hội. Do đó cần
chú trọng đầu tư xây dựng hoàn thiện các thiết chế văn hóa - xã hội ở những

khu vực này, chú ý giảm sự phân hóa giàu nghèo, nâng cao chất lượng dân số,
khai thác và bảo vệ tốt giá trị nguồn tài nguyên vật thể và phi vật thể; đặc biệt,
cần có một hệ thống an sinh xã hội toàn diện và hòa nhập, cùng với một chương
trình mục tiêu và tập trung về xóa đói giảm nghèo để giải quyết tình trạng
nghèo đói từ lâu đời trong các dân tộc thiểu số.
4.3.4. Hoàn thiện hệ thống chính sách để thúc đẩy các ngành công nghiệp
văn hóa phát triển
Công nghiệp văn hóa là lĩnh vực công nghiệp đặc trưng ra đời từ giữa thế
kỷ XX, được phát triển dựa trên cơ sở sử dụng kỹ thuật số hóa, dựa vào công
nghệ kết nối thông tin và mạng internet, lợi dụng tài nguyên thông tin và tài
nguyên liên quan nhằm phục vụ quá trình sáng tác, phát triển, phân phối, tiêu
thụ và tiêu dùng sản phẩm văn hóa trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh cần
giữ chủ quyền và tính độc lập của quan điểm thẩm mỹ xã hội như hiện nay thì
Việt Nam muốn chống lại ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai nhất là sự xâm thực
của nhiều hiện tượng phản văn hóa thì phải đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống
chính sách để công nghiệp văn hóa có điều kiện phát triển an toàn, nâng cao sức
cạnh tranh và khả năng đề kháng trước các sản phẩm văn hóa thẩm mỹ thế giới.
Đối mặt với tình hình gay gắt như vậy chúng ta phải biết sử dụng và phát huy
tối đa tài nguyên văn hóa độc đáo của mình, đẩy mạnh xây dựng công nghiệp
văn hóa dân tộc, từng bước định hình và khẳng định các giá trị văn hóa thẩm
mỹ của mình; một mặt bảo vệ đời sống tinh thần dân tộc, một mặt góp phần bảo
vệ chủ quyền và an ninh văn hóa thẩm mỹ đất nước, thúc đẩy sự tiến bộ và
phồn vinh của văn hóa dân tộc.


×