Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Tìm hiểu về vấn đề phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Quốc Gia Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.13 KB, 99 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI – công nghệ thông tin và tri thức bùng nổ đã
chiếm lĩnh một vị trí quan trọng và trở thành một động lực quan trọng cho sự
phát triển của nền kinh tế xã hội. Nền kinh tế đã có những biến chuyển từ kỷ
nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin. Sự phát triển của công nghệ
thông tin đã có sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới sự phát triển của hoạt
động TTTV. Thông tin tăng nhanh theo cấp số nhân về số lượng chất lượng
cũng như về loại hình và phương thức khai thác, điều này đã tạo nên một sức
ép lớn cho các cơ quan TTTV. Các cơ quan TTTV đã phải tự biến đổi, hoàn
thiện mình sao cho phù hợp để quản trị thông tin và tri thức.
Nhằm giải quyết bài toán về quản trị, phát triển nguồn tri thức hóa,
các mô hình thư viện hiện đại đã ra đời và xu thế phát triển TVS đã trở thành
một phần chủ đạp trong hoàn cảnh hoạt động TTTV trên thế giới. Cuộc cách
mạng thông tin không những cung cấp năng lực công nghệ hướng đến TVS,
mà còn đáp ứng một nhu cầu chưa từng có về lưu trữ tổ chức và truy cập
thông tin.
Nhằm hội nhập với cộng đồng thư viện trên thế giới, Thư viện Việt
Nam cần phát triển về TNS và công nghệ khai thác. Xây dựng một TVS là
một quy trình phức tạp và vô cùng tốn kém. Xây dựng phát triển và thực
hiện chia sẻ TNS là công việc cốt lõi trong việc hình thành TVS. Tuy nhiên
chi phí để số hóa tài liệu là rất lớn, chúng ta cần xây dựng và tuân theo một
quy trình thống nhất, đồng bộ để tránh lãng phí và mang lại hiệu quả thực
sự.
Thư viện số với việc xây dựng, phát triển và chia sẻ tài nguyên thông
tin số đang trở thành một xu thế tất yếu đối với các thư viện ở Việt Nam nói
riêng và trên thế giới nói chung. Việc phát triển TNS không chỉ phục vụ mục


Sinh viên: Mai Thị Hương

1

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

đích nhằm sao lưu bảo quản tài liệu được tốt hơn mà còn vì nó đáp ứng được
tốt hơn nhu cầu của người dùng tin.
Xây dựng phát triển và chia sẻ kho TNS trong thư viện các trường đại
học trên thế giới quan tâm đầu tư phát triển. Đặc biệt đối với Việt Nam một
đất nước có nền giáo dục đang phát triển thì vấn đề phát triển và chia sẻ
TNS nhằm đáp ứng nhu cầu học tập nghiên cứu trong nội bộ một đơn vị và
giữa các đơn vị với nhau đang được quan tâm xây dựng và phát triển.
Khi tiến hành nghiên cứu về TVS tác giả nhận thấy vấn đề phát triển
và chia sẻ TNS là vấn đề đang được quan tâm hàng đầu. Chính vì vậy tác giả
đã đi sâu tìm hiểu cụ thể một số đơn vị điển hình về việc phát triển và chia
sẻ TNS với đề tài: “Tìm hiểu về vấn đề phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại
Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện
Quốc Gia Việt Nam” làm Khóa luận của mình.
2.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính xác của đề tài được xác định là
phát triển và chia sẻ tài nguyên số.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn cả về mặt không gian và
thời gian là việc phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại Trung tâm TTTV
ĐHQGHN và Thư viện Quốc gia Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

3.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Trên cơ sở tham khảo các tài liệu trong và ngoài nước, các báo cáo
khoa học về vấn đề xây dựng TVS và phát triển chia sẻ TNS.
Dựa trên xu thế quốc tế và nhu cầu điều kiện cụ thể tại Việt Nam đặc
biệt là ĐHQGHN và Thư viện Quóc gia Việt Nam về phát triển và chia sẻ
TNS.
Phương pháp nghiên cứu:
Sinh viên: Mai Thị Hương

2

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Nghiên cứu lí thuyết: Thu thập, phân tích, tổng hợp các thông tin
trong các tài liệu tham khảo.
Nghiên cứu thực tiễn: Kháo sát thực tế tại Trung tâm Thông tin – Thư
viện ĐHQGHN và Thư viện Quốc Gia Việt Nam.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu bước đầu về vấn đề phát triển và chia sẻ TNS,
Khóa luận mang lại cái nhìn ban đầu, khái quát về việc phát triển và chia sẻ
TNS tại Việt Nam nói chung và tại Trung tâm TTTV ĐHQGHN và Thư
viện Quốc gia Việt Nam nói riêng; từ đó đề xuất một số giải pháp hiệu quả
trong việc phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại đây.
5. Ý nghĩa khoa học của khóa luận

Về lý luận: Khóa luận đã trình bày vấn đề lí luận nội hàm các khái
niệm liên quan tới tài nguyên số: Thư viện số, Thư viện điện tử, Số hóa, Tài
liệu số, Siêu dữ liệu, Tài liệu điện tử. Và nhưng vấn đề cơ bản xung quanh
vấn đề phát triển và chia sẻ tài nguyên số.
Ý nghĩa thực tiễn: Việc phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại Trung
tâm TTTV ĐHQGHN và Thư viện Quốc gia Việt Nam. Đưa ra một số đề
xuất giải pháp phù hợp nhằm nâng cao việc phát triển và chia sẻ tài nguyên
số tại Trung tâm TTTV ĐHQGHN và Thư viện Quốc gia Việt Nam
6. Bố cục của khóa luận
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu của khóa luận này ngoài phần
mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận được chia thành các
phần:
- Phần mở đầu trình bày lý do chọn đề tài, tình hình nghiên cứu, mục
đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu, bố cục của khóa luận
- Phần nội dung

Sinh viên: Mai Thị Hương

3

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Chương 1: Những vấn đề chung về tài nguyên số và Giới thiệu về
Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Quốc
gia Việt Nam.

Chương 2: Phát triển và chia sẻ TNS tại Trung tâm Thông tin – Thư
viện ĐHQGHN và Thư viện Quốc gia Việt Nam.


Một số khái niệm chung về phát triển và chia sẻ tài nguyên số



Phát triển TNS tại Trung tâm TTTV ĐHQGHN: Đội ngũ cán

bộ kĩ thuật , thiết lập chính sách phát triển kho TNS , Biện pháp để tạo lập
kho TNS , Lập ngân sách và duy trì ngân quỹ cho việc phát triển kho TNS,
Công tác phối hợp và giám sát hoạt động xuất bản của bộ sưu tập điện tử,
Vấn đê công nghệ cho phát triển tài nguyên số, Bảo quản TNS , Vấn đề bản
quyền trong phát triển nguồn TNS hóa , Vấn đề hỗ trợ người dùng tin trong
phát triển nguồn TNS hóa


Chia sẻ TNS: Thực trạng chia sẻ TNS tại Trung tâm TTTV

ĐHQGHN và Thư viện Quốc gia Việt Nam


So sánh việc phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại Trung tâm

TTTV ĐHQGHN và Thư viện Quốc gia Việt Nam
Chương 3: Một số nhận xét đánh giá và kiến nghị.
- Kết luận

Sinh viên: Mai Thị Hương


4

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI NGUYÊN SỐ
VÀ KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VÀ THƯ VIỆN QUỐC GIA
VIỆT NAM
1.1 Một số khái niệm chung và những nhân tố tác động tới hoạt động
phát triển, chia sẻ tài nguyên số
1.1.1 Những vấn đề chung
1.1.1.1 Thư viện số
Có thể nói khi con người bước sang thế kỷ 21, bước sang kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên của công nghệ thông tin và truyền thông. Công nghệ thông
tin phát triển kéo theo đó là sự bùng nổ thông tin theo cấp số nhân. Xuất
hiện theo đó là các thuật ngữ khái niệm: TVĐT, TVS, TNS, số hóa tài
nguyên….Hầu hết những thuật ngữ này dùng chưa thống nhất có nhiều sự
pha trộn:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về TVS.
Theo như Gladney – 1994: “Một TVS phải là tập hợp các thiết bị máy
tính, lưu trữ, truyền thông cùng với nội dung số và phần mềm để tái tạo thúc
đẩy và mở rộng các dịch vụ thông tin của các thư viện truyền thống chứa các

tài liệu trên giấy và các vật mang tin khác vẫn làm như thu thập, biên mục,
tìm kiếm, phân phát thông tin. Một dịch vụ TVS đầy đủ trọn vẹn phải bao
gồm đảm bảo có cả các dịch vụ chính yếu của các thư viện truyền thống và
khai thác tối đa các ích lợi của công nghệ lưu trữ số, tìm kiếm thông tin và
truyền thông số.”
Liên đoàn thư viện thế giới – DLF: “ TVS là một tổ chức cung cấp tài
nguyên, bao gồm cả đội ngũ chuyên nghiệp, để chọn lọc cấu trúc, cung ứng
Sinh viên: Mai Thị Hương

5

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

truy cập, biên dịch, phân phối , bảo quản nguyên vẹn, và đảm bảo bền vững
theo thời gian những bộ sưu tập kỹ thuận số để sẵn sàng phục vụ cộng đồng
một cách kinh tế.”
Song có thể nói rằng, dù định nghĩa như thế nào thì TVS với mục đích
đạt được các nhu cầu xã hội đều phải:
Phục vụ một cách lý tưởng một cộng đồng hay một tập hợp cộng đồng
người dùng tin xác định nào đó.
Không phải là một thực thể đơn độc.
Được cấu tạo bởi cấu trúc thống nhất, logic và tổ chức.
Kết hợp giữa việc học tập, giáo dục với quá trình truy cập.
Tận dụng tối đa yếu tố con người (cán bộ thư viện) cũng như các yếu
tố công nghệ.

Tạo sự truy cập thông tin nhanh chóng và hiệu quả cùng với một loạt
các phương thức đa dạng, đa chiều.
Cung cấp truy cập miễn phí (đối với cộng đồng người dùng tin xác
định)
Sở hữu và quản lý, kiểm soát được các nguồn tài nguyên thông tin của
mình (hay có thể phải mua bên ngoài)
Có một tập hợp nguồn tài nguyên thông tin có đặc điểm sau:
Lớn và ổn định.
Được tổ chức và quản trị tốt.
Có nhiều khổ mẫu và khuôn dạng khác nhau…
1.1.1.2 Thư viện điện tử
Thư viện điện tử (TVĐT): Khái niệm về thư viện điện tử được định
nghĩa như sau: “Một hệ thống thông tin trong đó các nguồn thông tin đều có
sẵn dưới dạng có thể xử lý được bằng máy tính và trong đó tất cả các chức

Sinh viên: Mai Thị Hương

6

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

năng bổ sung, lưu trữ, bảo quản, tìm kiếm, truy cập và hiển thị đều sử dụng
công nghệ thông tin”.
Sự xuất hiện khái niệm này có liên quan trực tiếp tới sự bùng nổ thông
tin trên Internet và Web mang lại. Khái niệm này đang được các chuyên gia

công nghệ thông tin sử dụng để chỉ toàn bộ hệ thống bất kể có dựa trên một
thư viện truyền thống hay không. Môi trường kỹ thuật Internet hiện nay
thậm chí cho phép một số người coi toàn thể nguồn thông tin trên mạng một
lúc nào đó như một thư viện số ảo toàn cầu mà độc giả là toàn thể những
người sử dụng mạng trên hành tinh và các công cụ tìm tin, sự hiện diện của
Web bảo đảm các chức năng thư mục cho thư viện đó. Tuy nhiên sự khác
biệt giữa thư viện điện tử, Thư viện số với kho thông tin khổng lồ trên
Internet đó là World Wide Web (WWW) thiếu hẳn những đặc điểm quan
trọng của việc sưu tầm có chọn lọc và tổ chức thông tin chặt chẽ như trong
thư viện điện tử và thư viện số.
Thư viện điện tử cũng có thể hiểu theo nghĩa tổng quát: Là một loại
hình thư viện đã tin học hóa toàn bộ hoặc một số dịch vụ thư viện; Là nơi
người sử dụng có thể tới để tra cứu, sử dụng các dịch vụ thường làm như với
một thư viện truyền thống nhưng đã được tin học hóa. Nguồn lực của Thư
viện điện tử bao gồm cả tài liệu in giấy và tài liệu đã được số hóa.
1.1.1.3 Tài liệu điện tử
Có nhiều quan điểm nói về tài liệu điện tử. Hiện nay khái niệm này
phần lớn vẫn còn rất mơ hồ. Tài liệu điện tử có thể được xem là tài liệu được
trình bày và lưu trữ trên vật mang tin điện tử và có thể truy cập được thông
qua hệ thống máy tính điện tử và mạng máy tính. Các vật mang tin ở đây có
thể là băng từ, đĩa từ, các vật lưu trữ thông tin của máy tính.

Sinh viên: Mai Thị Hương

7

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Có thể thấy sự ra đời của tài liệu điện tử là kết quả tất yếu của bùng nổ
thông tin và bùng nổ công nghệ.
Tài liệu điện tử có các dạng như: Tạp chí điện tử (e – journal), các file
dữ liệu được tổ chức qua hệ thống thư mục:


Các file dữ liệu audio có nội dung âm nhạc, thơ, các bài giảng,

sưu tập âm thanh, sinh vật học,..


Các file dữ liệu hình ảnh như các bộ sưu tập hình ảnh chuyên

nghiệp, thương mại, các hình ảnh liên quan đến các công trình nghiên cứu
khoa học: toán, lí, hóa, sinh vật học...Các dữ liệu file (nơi, ngày, giờ, nội
dung, mô tả nội dung liên quan, tác giả, độ phân giải,..)


Các file video bao gồm các tài liệu được thu lại, nội dung, các

bài phát biểu, sự kiện quan trọng liên quan đến nhà trường, khoa lớp, các
video download từ internet, các bộ sưu tập chuyên nghiệp.
1.1.1.4 Tài liệu số
Tài liệu số là những tài liệu được lưu giữ bằng máy tính. TLS có thể
được tạo lập bằng máy tính như việc xử lý các file văn bản, các bảng biểu
hoặc chúng có thể được chuyển đổi sang dạng số từ những tài liệu dạng
khác. TLS cũng được đề cập đến như tài liệu điện tử. (Từ điển giải nghĩa của

Mindwrap)
Như vậy ta thấy rằng TLS được xây dựng thông qua 2 kênh:
Kênh 1: Tạo lập tài liệu gốc bằng máy tính thông qua việc xử lý các
file văn bản, hình ảnh, bảng biểu...
Kênh 2: Tạo lập TLS thông qua hình thức chuyển đổi định dạng các
tài liệu đã được tạo lập ở những dạng khác nhau như scan, ghi âm...)

Sinh viên: Mai Thị Hương

8

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Nói tóm lại TLS là tất cả những tài liệu được trình bày dưới dạng số
mà máy tính có thể đọc được.
1.1.1.5

Số hóa

Số hóa là quá trình biến các tài liệu in ấn trên giấy được chuyển sang
dạng số, cho phép các trang thiết bị như máy tính để đọc, máy quét hình
phẳng, camera số, camera động và một loạt các thiết bị khác được sử dụng
để số hóa tài liệu.” ( Thư viện trường đại học Cornell)
Chung quy lại ta thấy rằng số hóa là tiến trình chuyển tài liệu thư viện
truyền thống mà cụ thể là sách và văn bản sang dạng điện tử và lưu trữ trên

máy tính.
1.1.1.6

Siêu dữ liệu

Siêu dữ liệu (Metadata) dùng để mô tả một tài nguyên thông tin.
Thuật ngữ “meta” xuất xứ là một từ Hy Lạp dùng để chỉ một cái gì đó có
bản chất cơ bản hơn hoặc cao hơn. Vì vậy siêu dự liệu là dữ liệu về dữ liệu.
Nó được những thủ thư truyền thống đặt vào trong các biên mục và được sử
dụng thông thường nhất để mô tả thông tin về các tài nguyên Web.
Theo tài liệu hướng dẫn số hóa tài liệu “ Moving theory into practice:
digital imaging tutorial” [Kenney, 2001], siêu dữ liệu được xác định là dữ
liệu mô tả của đối tượng thông tin và trao đổi các thuộc tính này ý nghĩa,
khung cảnh và tổ chức. Siêu dữ liệu còn có thể được định nghĩa là dữ liệu có
cấu trúc về dữ liệu” [23, tr53]
Theo tiến sỹ Warwick Cathro, “siêu dữ liệu là những thành phần mô
tả tài nguyên thông tin hoặc hỗ trợ thông tin truy cập đến tài nguyên thông
tin”. Siêu dữ liệu được xác định là “dữ liệu mô tả các thuộc tính của đối
tượng thông tin và trao cho các thuộc tính này ý nghĩa, khung cảnh và tổ
Sinh viên: Mai Thị Hương

9

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh


chức. Siêu dữ liệu còn có thể định nghĩa là dữ liệu có cấu trúc về dữ liệu”.
Gail Hodge định nghĩa siêu dữ liệu là “thông tin có cấu trúc mà nó mô tả,
giải thích, định vị, hoặc làm cho nguồn tin trở nên dễ tìm kiếm, sử dụng và
quản lý hơn. Siêu dữ liệu được hiểu là dữ liệu về dữ liệu hoặc thông tin về
thông tin”.
Theo Dempsey và Heery, 1997: “siêu dữ liệu là dữ liệu đi kèm với đối
tượng thông tin và nó cho phép những người sử dụng tiềm năng có thể biết
trước sự tồn tại cũng như đặc điểm của đối tượng thông tin này”.
Định nghĩa tại Việt Nam:
Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 “ Ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước”:
Siêu dữ liệu hay còn gọi là dữ liệu đặc tả là những thông tin mô tả các
đặc tính của dữ liệu như nội dung, định dạng, chất lượng, điều kiện và các
đặc tính khác nhau nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tìm kiếm, truy
nhập, quản lý và lưu trữ dữ liệu.
Nói tóm lại, siêu dữ liệu là thông tin mô tả tài nguyên thông tin.
Mục đích của siêu dữ liệu:
Mục đích đầu tiên và cốt yếu nhất của siêu dữ liệu là góp phần tìm lại
các tài liệu, tài nguyên điện tử.
Hỗ trợ cho việc sử dụng hiệu quả tài nguyên. Một khi tài nguyên được
trong môi trường điện tử, siêu dữ liệu cung cấp cho người sử dụng những
thông tin về kỹ thuật, về khuôn khổ kinh doanh (bản quyền, quyền truy
cập...)
Đảm bảo sự liên tác giữa các hệ thống. Những sơ đồ dữ liệu được
thống nhất sẽ giúp ích cho các hệ thống có thể nhận dạng đúng các yếu tố,
có thể chuyển đổi dữ liệu dễ dàng, đảm bảo hoạt động trên mạng hiệu quả
hơn.
Sinh viên: Mai Thị Hương

10


Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Phân loại siêu dữ liệu theo A.J Gilliland Swetland có các loại như:
 Siêu dữ liệu hành chính,
 Siêu dữ liệu mô tả, siêu dữ liệu bảo quản,
 Siêu dữ liệu kỹ thuật
 Siêu dữ liệu sử dụng.

Theo Kenney có 3 loại siêu dữ liệu sau:
Siêu dữ liệu mô tả (descriptive metadata): Mô tả và xác định tài
nguyên, cho phép phát hiện ( tìm tài nguyên); ở mức cục bộ, cho phép tìm và
tìm lại đối tượng, ở cấp mạng Web, cho phép phát hiện tài nguyên.
Siêu dữ liệu cấu trúc (structural metadata): Mô tả các liên kết giữa các
đối tượng thông tin liên quan của tài liệu như mục lục, chương, phần, trang
sách, hình ảnh, minh họa, phụ lục …giúp người dùng dễ dàng di chuyển đến
các thành phần của tài liệu; cung cấp thông tin về cấu trúc bên trong của tài
liệu điện tử ( XML, SGML, HTML, OAI, ...)
Siêu dữ liệu hành chính ( Administrative metadata): Hỗ trợ quản trị và
xử lí sưu tập số; Dữ liệu kĩ thuật
Mối liên kết giữa các bản ghi siêu dữ liệu và tài nguyên có thể có một
trong hai dạng sau:
Các phần tử siêu dữ liệu được chứa trong một bản ghi riêng tách rời
với tài liệu, ví dụ trường hợp bản ghi biên mục của thư viên truyền thống.
Siêu dữ liệu có thể được gắn vào trong tài liệu. Ví dụ, trong biên mục

xuất bản nước ngoài, dữ liệu mô tả này được gắn vào trang sau của trang
tiêu đề sách. Đối với thư viện số hóa, việc gắn thông tin biên mục siêu dữ
liệu vào ngay trong tài liệu toàn văn là yêu cầu bắt buộc.
Một bản ghi siêu dữ liệu bao gồm một tập hợp các thuộc tính hoặc tập
hợp các phần tử cần thiết để mô tả các tài nguyên theo yêu cầu. Ví dụ, một
hệ thống siêu dữ liệu thông thường trong biên mục thư viện chứa đựng một
Sinh viên: Mai Thị Hương

11

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

tập hợp bản ghi siêu dữ liệu dùng để mô tả sách như tác giả, nhan đề, ngày
xuất bản, tiêu đề đề mục, số gọi chỉ vị trí trên giá sách,...
Vậy vấn đề đặt ra ở đây rằng siêu dữ liệu đóng vai trò như một mục
lục thư viện, vậy liệu siêu dữ liệu có thay thế mục lục thư viện hay không?
Siêu dữ liệu và phiếu mô tả tương đồng với nhau về mục đích sử
dụng, thậm chí còn giống nhau về nội dung. Tuy nhiên khác nhau cơ bản là
phiếu mục lục thì tách rời với kho sách, trong khi siêu dữ liệu liền vào nội
dung tài liệu.
Chuẩn siêu dữ liệu
Tài liệu điện tử hay kỹ thuật số ở dạng toàn văn và đa phương tiện
phải được đóng gói bằng công nghệ web. Vì siêu dữ liệu phải gắn liền vào
nội dung tài liệu nên cũng phải được đóng gói để trở thành siêu dữ liệu thư
tịch. Chẳng hạn như những biểu ghi thư tịch sử dụng khổ mẫu MARC21

trong thư viện truyền thống, khi sử dụng với tài nguyên điện tử thì phải được
đóng gói bằng ngôn ngữ XML để trở thành MARC-XML.
Có nhiều chuẩn mô tả dữ liệu biên mục mang tích chất siêu dữ liệu
khá thông dụng, ví dụ MARC21/ UNIMARC, ISO2079, Dublin Core
metadata, MODS, METS..các dữ liệu này thường được gắn vào phần đầu
cho mỗi tài liệu điện tử đặt trên website và rất thích hợp cho các search
engine tìm kiếm, lọc ra các thông tin metadata để tổ chức thành các kho dữ
liệu mà không cần dùng đến hệ quản trị cơ sở dữ liệu truyền thống, Nói cách
khác, ngay bản thân ngôn ngữ XML tự nó đã hỗ trợ cho việc hình thành một
cơ sở dữ liệu toàn văn bản, phi cấu trúc rất tiện lợi cho việc tìm kiếm trao
đổi thông tin.
Đặc biệt những ai làm việc với thư viện số thì cần phải biết hai
phương pháp chuẩn khác nhau về trình bày siêu dữ liệu tài liệu: Dạng biên
mục máy đọc được MARC21 và Dublin Core. Dạng MARC được phát triển
Sinh viên: Mai Thị Hương

12

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

công phu, kiểm soát chặt chẽ, chi li bao hàm đến độ khá phức tạp, được tạo
nên bởi những nhà biên mục học chuyên nghiệp chủ yếu để sử dụng trong
các thư viện truyền thống. Chuẩn MARC được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
phát triển vào cuối thập niên 1960 để phục vụ cho việc trao đổi biểu ghi thư
mục giữa các thư viện.

Chuẩn Dublin Core chủ trương đơn giản hóa để sử dụng cho các thư
viện số đối với những người không cần phải huần luyện nghiệp vụ thư viện.
Hai chuẩn này không những chú ý đến những các giá trị đặc thù của mình
mà còn lưu tâm đến những triết lý căn bản đối nghịch nhau một cách tuyệt
đối.
Nếu sử dụng Dunlin Core với 15 thành phần đã được đóng gói bằng
XML để biên mục tài liệu truyền thống lẫn điện tử thì ta không cần phải
chuyển đổi. Nếu có chuyển đổi thì chuyển đổi sang MARC để có thể trao
đổi với hệ thống cũ những biểu ghi thư tịch trong thư viện truyền thống.
Cách biên mục này gọi là cách biên mục trên web, cũng đồng nghĩa với việc
tạo lập siêu dữ liệu. So với dạng MARC, Dublin Core đơn giản hơn. Dublin
Core chỉ bao gồm 15 yếu tố trong khi MARC có tới hàng trăm các trường
lớn nhỏ. Core tức chỉ những thành phần nòng cốt, ngoài ra còn tăng thêm
những thành phần phụ cho mục đích riêng.
1.1.1.7 Khái niệm chia sẻ Tài nguyên số
“Mượn, chia sẻ tài nguyên thông tin giữa các thư viện là hình thức bạn
đọc khi sử dụng nguồn lực thông tin của các thư viện, cơ quan thông tin
khác cả trong nước lẫn nước ngoài để đáp ứng nhu cầu đọc và đáp ứng nhu
cầu đọc và thông tin của người dùng thư viện mình. Như vậy có mượn chia
sẻ thông tin trong nước và mượn chia sẻ thông tin quốc tế. Mượn, chia sẻ tài
liệu thông tin giữa các thư viện có mục đích tạo ra những điều kiện tốt nhất
để thỏa mãn một cách toàn diện và kịp thời những yêu cầu về tài liệu, thông
Sinh viên: Mai Thị Hương

13

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

tin của các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức kinh tế, khoa học, giáo
dụng, văn hóa, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp và
các cá nhân, đồng thời phát huy với hiệu quả cao nhất vốn tài liệu, thông tin
của các thư viện, cơ quan thông tin trong cả nước. Mượn, chia sẻ tài liệu
thông tin vì thế tiết kiệm được kinh phí cho các thư viện” ( TS. Lê Văn Viết)
Chúng ta có thể thấy TNS nó là một dạng nguồn lực của trung tâm
TTTV. Việc chia sẻ TNS chính là một dạng của chia sẻ nguồn lực TTTV.
Theo Aller Ken: Chia sẻ nguồn lực là biểu thị một phương thức hoạt
động nhờ đó các chức năng thư viện được nhiều thư viện cùng chia sẻ. Mục
đích là tạo ra một mạng tác động tích cực vào (a) người sử dụng thư viện về
mặt tiếp cận được nhiều tài liệu hay dịch vụ, và (b) nguồn kinh phí về mức
độ cung cấp dịch vụ với chi phí thấp hơn, tăng dịch vụ ở một mức kinh phí
hay có nhiều dịch vụ hơn với mức kinh phí thấp hơn nếu như hoạt động
riêng lẻ.
Theo Philip Senell: Chia sẻ nguồn lực chỉ là một hình thức mới của
thuật ngữ đã quen thuộc, đó là hợp tác thư viện. Thực sự, hai thuật ngữ này
bao hàm nhiều hoạt động tương tự, nhưng có sự khác biệt quan trọng về
phương pháp. Thuật ngữ trước (hợp tác thư viện) lấy sự hiện hữu của các
thư viện để xét và mô tả cách họ đạt được mục tiêu tốt hơn bằng cách làm
việc cùng nhau. Thuật ngữ mới một mặt công nhận các nguồn lực nhận thức,
tri thức và vật chất, mặt khác, con người tham gia vào tổ chức nhóm để tạo
các quan hệ tối ưu đáp ứng nhu cầu của các thư viện.
Định nghĩa của Philip Senell nhấn mạnh rằng chia sẻ nguồn lực không
phải là điểm kết thúc ở bản thân nó, mà nó còn có nghĩa nâng cao dịch vụ
cung cấp cho người dùng tin.

Sinh viên: Mai Thị Hương


14

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Chia sẻ TNS là sự chia sẻ nguồn lực thông qua sự hỗ cho của máy
tính điện tử và mang máy tính.
1.1.2 Những nhân tố tác động tới hoạt động phát triển và chia sẻ tài
nguyên số
Chúng ta có thể thấy rằng cho dù ở hoạt động nào, lĩnh vực nào, hành
một ngành nghề, một cơ quan tổ chức đoàn thể nào thì cũng đều phải chịu
ảnh hưởng nhất định từ những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan
tác động tới. Hơn thế trong bối cảnh hiện nay sự gia tăng về nguồn thông tin
theo cấp số nhân, cũng như sự phát triển nhanh chóng của khoa học công
nghệ đã tác động không nhỏ tới hoạt động thông tin thư viện nói chung và
hoạt động phát triển chia sẻ tài nguyên số nói riêng.
1.1.2.1 Chính sách của Đảng và Nhà nước về sự nghiệp thư viện
Trong xã hội hiện nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của các
hoạt động kinh tế xã hội thì hoạt động thông tin thư viện cũng không ngừng
phát triển trở thành một bộ phận không nhỏ trong sự phát triển của nền kinh
tế đất nước. Hoạt động thông tin thư viện góp phần không nhỏ vào phục vụ
cho các hoạt động nghiên cứu, học tập, sản xuất, kinh doanh và giải trí của
mọi thành phần trong xã hội. Vị trí, vai trò của thư viện trong xã hội ngày
càng được khẳng định rõ ràng. Chính sách của đảng và nhà nước có tác động
rất lớn tới sự nghiệp thư viện.

Năm 1993, Thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định số 25 – TTg ngày
19/01/1993 về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn
hóa nghệ thuật.
Tiếp đó, năm 2002 Chính phủ lại ra Nghị định số 72/2002/NĐ-CP về
chính sách đầu tư đối với thư viện. Tại chương IV điều 14 có viết: “Bảo đảm

Sinh viên: Mai Thị Hương

15

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

kinh phí cho các thư viện phát triển vốn tài liệu, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, theo hướng hiện đại hóa, từng bước thực hiện điện tử hóa, tự động
hóa, xây dựng thư viện điện tử, tạo cảnh quan môi trường văn hóa nhằm
nâng cao chất lượng người đọc; tổ chức khai thác, sử dụng vốn tài liệu,
thông tin và các hoạt động khác của thư viện theo đúng chỉ tiêu, kế hoạch đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”.
Tại chương IV điều 23 của Pháp lệnh Thư viện có viết: Thư viện hoạt
động bằng ngân sách nhà nước được thu phí đối với các hoạt động dịch vụ
sao chụp, nhân bản tài liệu, biên dịch phù hợp pháp luật về bảo vệ quyền tác
giả, biên soạn thư mục; phục vụ tài liệu tại nhà hay gửi qua bưu điện và một
số dịch vụ khác theo yêu cầu của người sử dụng vốn tài liệu thư viện”.
Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ chính trị (Khóa III) về “ Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại

hóa đất nước”.
Các văn bản pháp quy về công tác thư viện đã thể hiện rõ sự quan tâm
của Đảng-Nhà nước ta đối với sự phát triển của sự nghiệp thư viện. Vấn đề
phát triển và chia sẻ tài nguyên số còn đòi hỏi phải có nguồn kinh phí lớn và
lâu dài, sự quan tâm của nhà nước giúp các cơ quan Thông tin – Thư viện
yên tâm, mạnh dạn hơn để chuyển mình trong thế giới số.
1.1.2.2. Chức năng, loại hình, quy mô của thư viện
Có thể thấy đây là nhân tố quan trọng quyết định việc có hay không
việc việc phát triển nguồn tài nguyên số và việc chia sẻ nó với bên ngoài.
Vấn đề phát triển và chia sẻ tài nguyên số đòi hỏi sự đầu tư không nhỏ về
nguồn lực cả về tiền bạc và con người. Các cơ quan thông tin hiện nay phải
đánh giá được năng lực của mình để có thể quyết định chính xác. Không chỉ

Sinh viên: Mai Thị Hương

16

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

các cơ quan Thông tin Thư viện chuyên ngành (Thư viện các trường đại học,
trung cấp chuyên nghiệp...) mà còn có cả các Cơ quan Trung tâm Thông tin
Thư viện Tổng hợp cũng cần phải xác định diện ưu tiên phát triển loại hình
tài liệu số nào.
1.1.2.3. Các hoạt động thuộc môi trường hoạt động chung
Thông thường có thể thấy bất kỳ một đơn vị, cơ quan kinh tế nói

chung và các cơ quan Thông tin – Thư viện nói riêng cũng đều chịu tác động
nhất định ở các mức độ khác nhau từ phía môi trường hoạt động chung: Như
nền kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ dân trí, tác nhân môi trường...Ví dụ
như nếu nền kinh tế của quốc gia không được phát triển, ngân sách hoạt
động của các đơn vị này có thể sẽ bị cắt giảm; hoặc sự thay đổi của tỷ giá
hối đoái tiền tệ những ảnh hưởng đến hoạt động đặt mua tài liệu từ các nhà
cung cấp, nhà xuất bản ở nước ngoài. Điều này đã có ảnh hưởng tới hoạt
động phát triển tài nguyên số. Cụ thể:
Sự thiếu hụt về tài chính: có thể là việc tập trung phần lớn kinh phí
cho hoạt động cũng không đủ tiền để đặt mua tất cả các tài liệu mà nhà quản
lý lựa chọn cho bộ sưu tập tài nguyên số.
Đồng thời trong điều kiện kinh tế đó đòi hỏi người quản lý thông tin
cần phải thiết thực hơn trong việc lập kế hoạch và báo cáo, giải trình; cũng
như đảm bảo tính hiệu quả đối với hoạt động của thư viện.
Thêm vào đó những thay đổi và phát triển nhanh chóng của khoa học
công nghệ cũng ảnh hưởng đến phương thức quản lý của hoạt động này. Thư
viện sẽ không còn tập trung vào việc quản lý phát triển các tài nguyên theo
truyền thống cũ mà trở nên trú trọng hơn vào việc làm thế nào để truy cập
thông tin, cũng như quản lý nội dung.

Sinh viên: Mai Thị Hương

17

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh


Chính vì các yếu tố đó mà một lần nữa khẳng định yếu tố môi trường
hoạt động xung quanh luôn có ảnh hưởng cơ bản đối với viêc quản lý, đặc
biệt đối với hoạt động phát triển tài nguyên số. Trước hết cần phải tính đến
những thay đổi chung đối với hoạt đông Thông tin – Thư viện trên thế giới
cũng như trong phạm vi quốc gia. Ở đó, phương thức hoạt động của thư viện
và các trung tâm thông tin đang từng bước chuyển mình từ truyền thống
sang hiện đại; đòi hỏi sự thay đổi của các yếu tố trong toàn hệ thống.
Thêm vào đó, sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ, mang đến sự
phát triển của các phương tiện điện tử, cũng như các nguồn tài nguyên trực
tuyến được đánh giá phù hợp...dẫn đến sự phức tạp và thách thức mà các cơ
quan Thông tin Thư viện phải đối mặt với môi trường xung quanh nhằm
đảm bảo cho hoạt động của mình.
Vì vậy, các cơ quan Thông tin Thư viện cần phải xem xét lại vai trò
và những ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động thông tin trong phạm vi
môi trường hoạt động nói riêng, và khu vực nói chung. Đặc biệt cần phải chú
trọng tới vai trò của thư viện mình trong hệ thống thông tin thư viện chung;
ở đó các nguồn tài nguyên thông tin, dịch vụ và hoạt động thông tin của cơ
quan cũng như các thư viện thanh viên cần quan tâm tới việc hướng dẫn các
đối tượng người dùng tin làm thế nào để khai thác có hiệu quả các nguồn tài
nguyên đó. Chính vì vậy, bất cứ sự thay đổi nào trong môi trường chung này
đều có những ảnh hưởng nhất định không thể tránh khỏi.
1.1.2.4 Yếu tố tài chính và kinh phí hoạt động
Một tác động mang tính sống còn đối với hoạt động phát triển và chia
sẻ tài nguyên số là trong các thư viện đó chính là vấn đề kinh phí và quản lý
tài chính. Trên thực tế cho thấy bất kỳ một hoạt động riêng lẻ nào trong việc
phát triển và chia sẻ tài nguyên số đều phụ thuộc vào tính khả thi của các
Sinh viên: Mai Thị Hương

18


Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

nguồn kinh phí. Ngân sách tài chính không phải lúc nào cũng đáp ứng được
nhu cầu của người dùng. Do vậy ngân sách này cần phải đảm bảo tính cấn
đối giữa các loại hình/ khổ mẫu tài liệu và hình thức truy cập nhằm đáp ứng
nhu cầu người dùng. Chính vì thế mỗi thư viện cần lên kế hoạch để kinh phí
bổ sung của minh đáp ứng được:
Sự phong phú đa dạng về loại hình và chủ đề tài liệu đối với các
chuyên ngành đào tạo khác nhau.
Sự phân phối tài liệu hợp lý đảm bảo nhu cầu truy nhập thông tin.
Kinh phí có những ảnh hưởng trực tiếp nhất định tới việc lựa chọn,
đặt mua và bổ sung các nguồn tài nguyên thông tin đưa vào phục vụ. Hơn
nữa nguồn kinh phí phụ thuộc từ nhiều nguồn khác nhau đòi hỏi cán bộ làm
công tác bỏ sung cũng như các nhà quản lý phải có cái nhìn toàn diện hơn
trong việc đưa ra các chính sách phát triển tài nguyên số của cơ quan mình
một cách hợp lý để vẫn đảm bảo đáp ứng nhu cầu thông tin của người dùng,
khả năng duy trì hoạt động của thư viện. Khi thư viện càng đảm bảo khả
năng cung cấp thông tin của mình nhằm đáp ứng nhu cầu và duy trì người
dùng, thì nguồn tài chính sử dụng để mua tài liệu hay quyền truy cập thông
tin càng trở nên hạn chế. Chính vì thế mà nghiên cứu định hướng chiến lược
cần phù hợp với các phương thức công cụ quản lý trong môi trường hiện tại.
Thế nên đôi khi sự thiếu hụt về kinh phí không tránh khỏi, dẫn tới việc tỷ lệ
hóa các bộ sưu tập với các mục đích và chính sách phục vụ khác nhau – trở
thành một hoạt động quan trọng đối với người quản lý cũng như người trực

tiếp làm công tác bổ sung tài liệu khi điều đó ảnh hưởng đến chính sách lựa
chọn cũng như quá trình tiến hành bổ sung tài liệu.
1.1.2.5 Trình độ cán bộ thư viện

Sinh viên: Mai Thị Hương

19

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Trong thư viện số, dù có sự hỗ của công nghệ, nhưng các cán bộ thư
viện phải là người quản trị những nguồn thông tin số này, cán bộ thư viện sẽ
phát triển tiến tới để trở thành những tổ chức và chuyên gia thông tin trong
xã hội. Vì vậy, so với cán bộ thư viện truyền thống, nội dung công việc của
cán bộ thư viện số rất khác biệt. Công việc của họ chủ yếu như sau:
Lựa chọn, bổ sung, bảo quản, tổ chức và quản lý tài nguyên số
Thiết kế kết cấu kỹ thuật cho thư viện số
Mô tả nội dung và thuộc tính của đầu mục hoặc đối tượng (siêu dữ
liệu)
Lập kế hoạch, thực hiện và hỗ trợ các dịch vụ số như đinh hướng
thông tin, tư vấn và chuyển giao;
Tạp lập giao diện thân thiện người dùng trên toàn bộ hệ thống mạng;
Xây dựng các chính sách và tiêu chuẩn liên quan tới thư viện số.
Thiết kế, duy trì và chuyển giao các sản phẩm thông tin với giá trị gia
tăng

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với thông tin số trong môi trường
mạng
Đảm bảo an ninh thông tin.
Nội dung

Cán

bộ

thư

viện

Cán bộ thư viện số

truyền thống
Môi trường Thư viện truyền thống

Thư viện số

làm việc
Vai
trò

Chuyên gia thông tin, định

trong

Thu thập tư liệu, phổ


xã biến tư liệu

hướng thông tin

hội
Sinh viên: Mai Thị Hương

20

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

Hệ

Đơn lẻ

Tổng hợp

kiến thức
Nhóm độc

Cố định

Bất cứ người dùng kết nối mạng

giả
Cơ sở dịch


máy tính
Bên trong toàn nhà thư Trên hệ mạng máy tính

vụ
Nội

thống

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

viện
dung Đơn điệu

Đa dạng, phong phú

công việc
Cách thức

Bị động

Chủ động

phục vụ
Đối tượng

Tài liệu in

Các bộ sưu tập số

làm việc

Nội dung

Gửi giao tài liệu

Định hướng thông tin, tư vấn và

công việc
Trình độ

chuyển giao công nghệ hiện đại
Thấp ( Ngoại ngữ và Cao, chuyên nghiệp

làm việc
CNTT )
Nói tóm lại cho dù thư viện có phát triển theo hướng nào thì mục tiêu
của nó là đáp ứng nhu cầu thông tin và mong muồn hiểu biết của nhân loại
sẽ không bao giờ thay đổi. Trong những thư viện số, cán bộ thư viện sẽ cung
cấp cho bạn đọc những dịch vụ đa dạng, tiên tiến, năng động và linh hoạt
theo cách thức đầy sang tạo, bao gồm:
Phân tích và xử lý nhiều loại tài nguyên khác nhau;
Thúc đẩy và tổ chức các giá trị tiềm ẩn trong mọi thông tin;
Cung cấp những sản phẩm và dịch vụ thông tin có giá gia tăng cao
đúng lúc và đúng đối tượng;
Chuyển giao thông tin đúng tới người dùng và cung cấp các dịch vụ
chuyên biệt và định hướng người dùng.

Sinh viên: Mai Thị Hương

21


Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Nhân viên lưu thông có thể nắm bắt và cập nhật số lượng, tần suất đối
với các loại/ bản tài liệu có nhu cầu sử dụng cao.
Đồng thời họ cũng nắm rõ tình trạng của tài liệu cần được đưa vào
chỉnh sửa hoặc gia cố.
1.1.2.6 Vấn đề liên quan tới công nghệ
Việc lựa chọn công nghệ để phục vụ cho việc phát triển và chia sẻ tài
nguyên số rất quan trọng. Bởi vì nó là công cụ đắc lực giúp ta thực hiện các
công việc trong việc phát triển và chia sẻ kho tài nguyên dạng số. Vì vậy yêu
cầu về công nghệ phải:
Là công cụ, môi trường để đảm bảo các tài liệu số hóa sau khi được
tạo lập sẽ dễ dàng, thuận tiện cho người dùng dễ tiếp cận;
Có để độ tin cậy cho người quản trị và kỹ thuật viên trong quá trình
tạo lập, bảo quản và cung cấp dữ liệu trong quá trình hoạt động của bộ sưu
tập;
Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chuẩn nghiệp vụ thông tin thư viện;
Dễ dàng trao đổi cơ sở dữ liệu với các chuẩn khác, có công cụ sao lưu
an toàn dữ liệu.
Dựa theo các yêu cầu này thì để có thể thực hiện phát triển nguồn tài
nguyên số cũng như thực hiện chia sẻ tài nguyên số đó được thành công thì
cần phải:
Có hệ thống mạng lưới Internet được kết nối internet với đường
truyền đủ để đáp ứng cho người dùng tối thiểu của thư viện( hiện nay hầu
hết các trường đều đã xây dựng mạng LAN của tưh viện là một nhánh của

hệ thống Intranet của trường)

Sinh viên: Mai Thị Hương

22

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Hệ thống máy chủ đủ mạnh để đáp ứng cho việc lưu trữ, bảo quản,
cung cấp dữ liệu, quản lý người dùng và các phần mềm hệ thống có bản
quyền.
Trang Web đăng tải và là cổng truy cập của người dùng vào bộ sưu
tập
Phần mềm quản lý tài liệu số
1.2 .Khái quát về Trung tâm TTTV ĐHQGHN
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Được thành lập theo quyết định 97/CP ngày 10/12/1993 của thủ tướng
chính phủ, ĐHQGHN có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục
đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao đồng thời đào tạo một đội ngũ các nhà
khoa học, các chuyên gia về công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị
trường lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một
trong những nhiệm vụ được quan tâm hang đầu ngay khi được thành lập,
Ban giám đốc ĐHQGHN đã triển khai và xây dựng một Trung tâm Thông
tin – Thư viện hiện đại
Xây dựng và phát triển mô hình một Trung tâm đào tạo đại học, sau

đại học, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh
vực chất lượng cao, ngang tầm các đại học tiên tiến trong khu vực tiến tới
đạt trình độ quốc tế.
Đào tạo nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước.
Nghiên cứu phát triển khoa học – công nghệ, góp phần giải quyết các
vấn đề về thực tiễn do kinh tế xã hội đặt ra, tham gia tư vấn hoạch định
chính sách, chiến lược là các giải pháp phát triển Giáo dục – Đào tạo, khoa
học công nghệ và kinh tế xã hội.
Sinh viên: Mai Thị Hương

23

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Là Trung tâm giao lưu quốc tế về văn hóa khoa học giáo dục của cả
nước.
Trong những năm gần đây ĐHQGHN đang phấn đấu nỗ lực thực hiện
lộ trình nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học nhằm phát triển
ĐHQGHN thành Trung tâm đào tạo đại học đa ngành, đa lĩnh vực, theo
hướng đại học nghiên cứu, từng bước nâng cao vị thế và uy tín trong hệ
thống giáo dục đại học nước nhà và trên thế giới, góp phần phát triển kinh tế
xã hội đất nước.
Một trong những nhiệm vụ được quan tâm đầu tiên ngay sau khi thành
lập, Ban giám đốc ĐHQGHN đã triển khai và xây dựng một Trung tâm

TTTV hiện đại.
Trung tâm Thông tin – Thư viện, ĐHQGHN được thành lập theo
quyết định số 66/TCCB ngày 14 tháng 2 năm 1997 của Giám đốc ĐHQGHN
trên cơ sở hợp nhất các thư viện của các trường đại học thuộc ĐHQGHN:
Đại học Tổng Hợp, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Ngoại Ngữ. Trung
tâm có tên giao dịch quốc tế là: Library and Information Center, Vietnam
national university, Ha Noi và tên viết tắt là LIC. Trung tâm TTTV
ĐHQGHN có tài khoản và con dấu riêng. Trung tâm là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc ĐHQGHN, có tư cách pháp nhân.
Hiện nay trụ sở chính của Trung tâm đặt tại 144 đường Xuân Thủy –
quận Cầu Giấy, Hà Nội. Các chi nhánh:
Phòng phục vụ bạn đọc Thượng Đình (Gồm bộ phận Mễ trì và bộ
phận khoa hóa ở 19 Lê Thánh Tông)
Phòng phục vụ bạn đọc Trường Đại Học Ngoại Ngữ tại số 1 Phạm
Văn Đồng- Cầu Giấy – Hà Nội.
Trung tâm có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu thông tin lớn tại một trường
dại học với 6 trường đại học thành viên và 2 khoa trực thuộc.
Sinh viên: Mai Thị Hương

24

Lớp: K52 - TTTV


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh

Trường Đại học Công nghệ
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Trường Đại học Ngoại Ngữ
Trường Đại học Giáo dục
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Trường Đại học Kinh tế
Khoa Luật
Khoa Quốc tế
Khoa sau đại học
Khoa Quản trị Kinh doanh
Nhận thức rõ chức năng vai trò, vị trí và tầm quan trọng của Trung
tâm trong việc góp phần thực hiện những nhiệm vụ trên, Ban giám đốc
ĐHQGHN đã dành sự quan tâm đặc biệt và đầu tư thích đáng về kinh phí
cho việc nâng cấp, xây dựng và phát triển Trung tâm thành một cơ quan
TTTV lớn.
Hiện nay Trung tâm đã có cơ ngơi khang trang với các phòng phục vụ
được trang bị đầy dủ các phương tiện hiện đại, những kho tư liệu với khối
lượng lớn có thể đáp ứng nhu cầu của người dùng tin ở nhiều lĩnh vực khác
nhau. Trung tâm có quan hệ hợp tác, trao đổi với hơn 50 trường đại học,
viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế, các nhà xuất bản tại Mỹ, Pháp, Đức,
Nga, Italia, Nhật và nhiều nước khác, trong đó có Viện Sorbon, Đại học
Lomonoxop, Viện hàn lâm khoa học Nga, Đại học Tokyo, Đại học Kyodo,
Thư viện Quốc gia Australia…
1.2.2 Chức năng nhiệm vụ
Trung tâm có chức năng thông tin và thư viện phục vụ các công tác:
Đào tạo, nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng và quản lí của
ĐHQGHN. Trung tâm có nhiệm vụ nghiên cứu, thu thập, xử lí, thông báo và
Sinh viên: Mai Thị Hương

25

Lớp: K52 - TTTV



×