Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO sự kết hợp các mặt đối lập TRONG TIẾN TRÌNH xây DỰNG KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ hội CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.63 KB, 82 trang )

“Sự kết hợp các mặt đối lập trong tiến trình xây
dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay”
Trong phép biện chứng duy vật, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn) có vị trí là hạt nhân, là nội dung quan trọng
nhất, vì nó nói lên nguồn gốc và động lực của mọi sự vận động, phát triển. Nắm
vững nội dung quy luật mâu thuẫn, đặc biệt là nắm vững các nguyên tắc biện
chứng của việc giải quyết mâu thuẫn là cơ sở quan trọng nhất cho chúng ta xây
dựng các phương pháp thực tiễn đúng đắn và hiệu quả.
Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn và những mâu thuẫn của bản
thân cuộc sống thì phong phú hơn rất nhiều so với cái mà trí tuệ con người cảm
thấy. Trong công cuộc xây dựng và phát triển toàn diện nước ta hiện nay, những
mâu thuẫn hiện thực lại càng trở nên đa dạng và phong phú. Có những mâu thuẫn
tất yếu của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có những mâu thuẫn trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, có những mâu thuẫn của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có những mâu thuẫn do sự biến đổi phức tạp,
nhanh chóng của thời đại, của quan hệ quốc tế, của khu vực… Sự vận động tiến
lên của đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung, trong lĩnh
vực kinh tế nói riêng diễn ra với tốc độ như thế nào là tuỳ thuộc vào khả năng
chúng ta phát hiện và giải quyết một cách kịp thời tất cả những mâu thuẫn đó.
Bấy lâu nay, khi đề cập đến mâu thuẫn xã hội và phương pháp giải quyết mâu
thuẫn xã hội người ta hay nhấn mạnh đấu tranh giữa các mặt đối lập mà thường ít
bàn về sự thống nhất của chúng. Điều đó cũng từng dẫn đến sự ngộ nhận rằng,
trong quan hệ giữa các mặt đối lập chỉ có đấu tranh mà ít hoặc thiếu sự thống nhất,
hoặc dẫn đến việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn có lúc duy ý
chí, chủ quan và hậu quả là mâu thuẫn không được giải quyết trên thực tế, đã gây
ra tình trạng trì trệ và khủng hoảng nghiêm trọng cho nền kinh tế. Khi xem xét yếu
tố thống nhất các mặt đối lập đòi hỏi chủ thể - con người cần phải biết khai thác
những điểm chung, tương đồng giữa các mặt để từ đó vận dụng thực hiện việc kết



hợp các mặt đối lập một cách biện chứng nhằm thúc đẩy sự phát triển. Có thể nói,
vận dụng sự kết hợp các mặt đối lập là một trong những cách thức tự giác để chủ
thể thúc đẩy tiến trình giải quyết mâu thuẫn khách quan. Trong hiện thực xã hội, ở
các mâu thuẫn, bên cạnh sự trái ngược nhau về tính chất hay xu hướng, giữa các
mặt đối lập còn có những nét tương đồng, phù hợp nhau, cân nhau, thuộc về cùng
một bản chất. Đó chính là cơ sở khách quan của lý luận và phương pháp kết hợp
các mặt đối lập trong thực tiễn của chủ thể nhằm giải quyết một cách có hiệu quả
các mâu thuẫn xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Dĩ nhiên, không thể tiến hành kết
hợp các mặt đối lập một cách tùy tiện, vô nguyên tắc mà phải căn cứ vào tính chất,
xu hướng khách quan của chúng, căn cứ vào yêu cầu thực tiễn và mục tiêu thực
tiễn của chủ thể. Sự kết hợp đó phải luôn tuân theo nguyên tắc tôn trọng tính khách
quan của mâu thuẫn, sự kết hợp nhằm để đưa cuộc đấu tranh của các mặt đối lập
tới một hình thức khác, tạo điều kiện cho mâu thuẫn được giải quyết tốt hơn, có lợi
cho chủ thể. Tránh nhận thức sai lầm coi đây là hành động hoà tan hai mặt đối lập,
là thủ tiêu đấu tranh, thủ tiêu mâu thuẫn chứ không phải là giải quyết mâu thuẫn.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở
nước ta hiện nay, tồn tại nhiều mâu thuẫn với tính chất, mức độ phức tạp khác
nhau, đang diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế. Việc tìm ra mâu thuẫn và phương thức giải quyết chúng phù hợp với từng
giai đoạn cụ thể đang là vấn đề cấp bách. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng
phương pháp kết hợp các mặt đối lập vào giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong
cơ chế thị trường đang vận hành hiện nay và mang lại nhiều tiến bộ đáng kể trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giúp xây dựng và vận hành một cơ chế kinh tế
ngày càng hợp lý, đồng bộ. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng việc kết hợp các mặt
đối lập trong nền kinh tế nước ta hiện nay, cũng tiềm ẩn những nguy cơ không thể
xem thường, thận trọng quá mức, thiếu tỉnh táo sẽ bỏ lỡ thời cơ nhưng thiếu chủ
động, kết hợp một cách vô nguyên tắc cũng sẽ dẫn đến những sai lầm đáng tiếc.
Vì vậy vấn đề “Sự kết hợp các mặt đối lập trong tiến trình xây dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, có ý nghĩa lí luận
và thực tiễn cao.



Đã có rất nhiều công trình tiếp cận và nghiên cứu trên nhiều phương diện,
khía cạnh và ở nhiều mức độ khác nhau về quy luật mâu thuẫn nói chung và sự kết
hợp các mặt đối lập trong việc giải quyết mâu thuẫn xã hội nói riêng.
Trong cuốn sách Về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và cách giải quyết
trên con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của tác giả
Phạm Ngọc Quang, đã làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về vai trò của mâu thuẫn đối với sự phát triển nói chung và sự phát
triển của xã hội nói riêng, từ đó đề xuất hình thức và một số giải pháp giải quyết
các mâu thuẫn cơ bản ở Việt Nam phù hợp với xu thế của thời đại và thực tế phát
triển đất nước theo định hướng XHCN.
Trong sách Thử vận dụng lí luận về mâu thuẫn vào thời kỳ quá độ ở nước ta,
tác giả Phạm Ngọc Quang đã trình bày mâu thuẫn xã hội với tư cách là một phạm
trù cơ bản của phép biện chứng duy vật, xác định mâu thuẫn cơ bản và phân tích về
mặt phương pháp luận các mâu thuẫn kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất những biện pháp tổ chức giải quyết những mâu
thuẫn đó trên thực tế.
Trong cuốn sách Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (Vũ Hồng Tiến chủ biên), tập thể tác giả đã tập trung làm
rõ những quan điểm đó là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển dân số, môi trường, xóa đói giảm nghèo,
đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Với cuốn sách Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của tác giả
Nguyễn Cúc, đã đề cập đến những vấn đề mới trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường ở nước ta như xu hướng phát triển, các nhân tố định hướng, các
giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước và
phát huy tiềm năng con người.

Bên cạnh những công trình chủ yếu trên, vấn đề mâu thuẫn cũng được bàn
nhiều trong các luận án, luận văn như Về phương pháp kết hợp các mặt đối lập để
giải quyết mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ (2008) của Trần Nguyên Kí, Lí


luận mâu thuẫn và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1930 1945 (2008) của Trần Thị Hiền, Vấn đề giải quyết mâu thuẫn trong cách mạng
Miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 (2008) của Nguyễn Thị Kim Oanh, Tư duy biện
chứng mác xít với tiến trình đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (2006) của Nguyễn Công An, Quy luật mâu
thuẫn và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường tiến lên xã hội
chủ nghĩa (2006) của Nguyễn Hồng Thanh v.v...
Ngoài các công trình đã bàn luận trên một cách tương đối có hệ thống, vấn đề
giải quyết mâu thuẫn, nhất là vấn đề kết hợp các mặt đối lập cũng được bàn luận
trong nhiều bài viết đăng trên tạp chí Triết học như bài "Lí luận của Lênin về sự
kết hợp các mặt đối lập và cách mạng Việt Nam hiện nay" (số 3, 1987) của Phạm
Ngọc Quang, bài "Mấy suy nghĩ về vấn đề giải quyết mâu thuẫn" (số 2, 1996) của
Nguyễn Tấn Hùng, bài "Kết hợp các mặt đối lập trong giải quyết mâu thuẫn xã
hội" (số1, 2004) của Trần Thành v.v...
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ SỰ KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ VỀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về sự kết hợp các mặt đối lập
1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự kết hợp các mặt đối
lập
Tư tưởng biện chứng về các mặt đối lập đã sớm xuất hiện trong lịch sử nhân
loại. Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng đó đã đạt đến đỉnh cao
nhất trong những học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức như: I.
Cantơ và đặc biệt là G.V Hêghen. Hêghen đã sớm nhận ra tính phổ biến của mâu
thuẫn và vai trò của nó trong quá trình vận động và phát triển của thế giới, Hêghen
đã khẳng định "Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả

mọi sự sống" [35, tr.47]. Đứng trên lập trường duy vật, kế thừa một cách có phê
phán tất cả những thành tựu có giá trị trong toàn bộ lịch sử triết học, dựa trên
những thành tựu có tính chất vạch thời đại của khoa học hiện đại và thực tiễn lúc
bấy giờ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển học thuyết về mâu thuẫn trên cơ sở


quan điểm duy vật biện chứng, khoa học và sau này Lênin coi học thuyết đó là hạt
nhân của phép biện chứng.
Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến và là nguồn gốc của mọi sự vận động và
phát triển. Do đó, việc phát hiện mâu thuẫn, chấp nhận mâu thuẫn và lựa chọn
phương thức giải quyết nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp chủ thể thực
hiện được mục đích đề ra và tạo điều kiện cho những bước phát triển tiếp theo của
sự vật, hiện tượng hàm chứa mâu thuẫn; ngược lại nếu sử dụng cách thức không
phù hợp thì chẳng những không giải quyết được mâu thuẫn mà thậm chí còn làm
cho mâu thuẫn trở nên gay gắt hơn, vượt khỏi tầm kiểm soát của chủ thể sẽ để lại
hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Năm 1847 đánh dấu sự trưởng thành về tư tưởng của C.Mác với tác phẩm Sự
khốn cùng của triết học. Trong tác phẩm này, ông đã nêu ra tư tưởng về sự cần
thiết phải kết hợp các mặt đối lập trong thực tiễn xã hội khi cho rằng, Pruđông
chưa thấy được mâu thuẫn của chế độ tư hữu, tốt và xấu, thiện và ác, chưa thấy
được sự thống nhất vốn có của các mặt đối lập này nhằm tái hiện sự thống nhất của
chúng trong nhận thức và hành động thực tiễn. Vì vậy, phương pháp của Pruđông
là đem đối lập, tách rời chúng và cuối cùng là giải pháp của ông mang tính chất
siêu hình: hiện thực là thủ tiêu mặt xấu giữ lại mặt tốt. Theo C.Mác, điều đó không
phải là giải quyết mâu thuẫn mà là thủ tiêu mâu thuẫn. Đề xuất việc kết hợp các
mặt đối lập, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Mác và Ăngghen cũng cho
rằng, người cộng sản cần có thái độ sẳn sàng hợp tác với các đảng phái đối lập vì
lợi ích của phong trào công nhân.
Phê phán quan điểm duy tâm khách quan của Hêghen bàn về các mặt đối lập
của mâu thuẫn biện chứng, C.Mác đã khẳng định sự tồn tại của hai loại đối lập,

trên cơ sở đó phân loại thành hai mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong hiện thực đó là
mâu thuẫn của tồn tại và mâu thuẫn của bản chất. Tương ứng với hai loại mâu
thuẫn cơ bản đó là hai cách giải quyết hợp lý, đem lại hiệu quả cao nhất. Theo
Mác, mặt đối lập biện chứng phải là những mặt (bộ phận, yếu tố, thuộc tính,
khuynh hướng...) khác biệt trong cùng một bản chất xác định của sự vật, hiện
tượng, quá trình của thế giới khách quan. Những mặt này, vừa có đặc điểm chung
giống nhau lại vừa có đặc điểm riêng biệt và vì thế, giữa chúng vừa có mối liên hệ


ràng buộc, quy định lẫn nhau vừa có sự bài trừ, phủ định nhau. Hai mặt đối lập
biện chứng trong cùng một bản chất xác định của sự vật, hiện tượng và quá trình
liên hệ với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng; các mặt đối lập biện chứng trong
những điều kiện nhất định có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Mác phân chia làm hai loại đối lập: đối lập của sự tồn tại bao gồm những mặt
(bộ phận, yếu tố, thuộc tính...) có cùng một bản chất; chẳng hạn, cực Bắc và cực
Nam của thanh nam châm, nam giới và nữ giới của loài người. Theo ông, "cực Bắc
và cực Nam cũng đều là những cực; bản chất chúng là đồng nhất cũng vậy, nam
giới và nữ giới tạo thành cùng một loài, cùng một bản chất - bản chất con người"
[26, tr.26]. Với quan niệm đó C.Mác đi đến khẳng định: "mặt đối lập là những quy
định đối lập của cùng một bản chất, là những khác biệt của cùng một bản chất ở
mức độ phát triển cao nhất của nó chúng là bản chất được phân hóa ra" [26, tr.26].
Từ đấy, ông khẳng định: tương tác của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực cho
mọi sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Còn đối lập của bản chất đó
là hai mặt đối lập có bản chất khác nhau nhưng cùng tồn tại trong một chỉnh thể sự
vật, hiện tượng.
Mác cũng đưa ra cách giải quyết thích hợp cho hai loại đối lập trên, nếu là đối
lập của tồn tại thì cách giải quyết duy nhất là kết hợp các mặt đối lập với nhau. Bởi
vì, các mặt đối lập trong mâu thuẫn của tồn tại về thực chất là cùng một bản chất
như nhau, tồn tại không tách rời nhau, luôn luôn phải nương tựa vào nhau, nếu
thiếu mặt này thì mặt kia cũng sẽ không thể tồn tại và hệ quả tất yếu là quá trình

phát triển của sự vật, hiện tượng hàm chứa mâu thuẫn sẽ không thể diễn ra bình
thường, thậm chí là sự vật sẽ bị diệt vong.
Khi sử dụng phương pháp kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn
biện chứng, chúng ta cần xem xét đến hai cấp độ khác nhau: Thứ nhất, sự kết hợp
các mặt đối lập diễn ra một cách khách quan tự nó; Thứ hai, sự kết hợp các mặt đối
lập diễn ra một cách có ý thức, theo chủ đích của con người.
Chúng ta thấy rằng, sự kết hợp các mặt đối lập theo nghĩa chung nhất phải
được hiểu là bao gồm cả sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, không có
thống nhất thì không có đấu tranh và thống nhất là tiền đề của đấu tranh. Mặt khác,
cần hiểu rằng đấu tranh là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập cấu thành mâu thuẫn,


chứ không phải dùng một lực lượng nào đó bên ngoài để triệt tiêu đi một mặt đối
lập thì đó không phải là đấu tranh giữa các mặt đối lập theo đúng nghĩa của nó.
C.Mác khẳng định rằng, cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng chính
là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh của hai mặt ấy là sự
dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới. Ông còn nhận xét: "chỉ với việc
tự đề ra cho mình vấn đề loại bỏ mặt xấu, người ta cũng đã chặn đứng sự vận động
biện chứng rồi" [35, tr.48].
Như vậy, trong mâu thuẫn biện chứng có lúc tự bản thân nó đã thiết lập một
sự kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn đang tồn tại mà không cần đến
sự can thiệp của chủ thể. Đó chính là quá trình kết hợp các mặt đối lập mang tính
khách quan, tự nó. Quá trình này diễn ra phổ biến trong tự nhiên, chẳng hạn như
đồng hóa và dị hóa, di truyền và biến dị là những mặt đối lập tạo nên những mâu
thuẫn vốn có trong bản thân sinh vật, sự kết hợp những mặt đối lập này là yếu tố
đảm bảo cho sự sống diễn ra bình thường.
Đồng hóa và dị hóa là hai quá trình có xu hướng trái ngược nhau, là những
mặt đối lập của nhau nhưng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất - cơ thể sống.
Nếu đồng hóa là quá trình nạp và bổ sung những chất thiết yếu nuôi cơ thể thì dị
hóa là quá trình đào thải những chất đó sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi cơ

thể, ra môi trường bên ngoài. Trong cơ thể sống, nếu không có quá trình đồng hóa
thì quá trình dị hóa cũng không thể diễn ra và ngược lại. Mỗi khi mà một trong hai
quá trình ấy diễn ra không bình thường thì ngay lập tức tác động xấu đến sự phát
triển của sinh vật. Vì vậy, để cơ thể sinh vật phát triển bình thường đòi hỏi hai quá
trình này phải luôn luôn kết hợp nhịp nhàng với nhau, luôn bổ sung, nương tựa vào
nhau để cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Hay như hiện tượng di truyền và
biến dị, xảy ra trong quá trình tiến hóa của các sinh vật trong tự nhiên. Đây là hiện
tượng phổ biến và cũng chính là một ví dụ điển hình về sự tồn tại không thể tách
rời nhau của các mặt đối lập trong cùng một mâu thuẫn. Trong quá trình tiến hóa
của các loài sinh vật, những cá thể thuộc thế hệ sau bao giờ cũng có sự kế thừa
những đặc điểm cơ bản của những cá thể cùng loài thuộc thế hệ trước, đó chính là
hiện tượng di truyền ở các loài sinh vật. Nhưng cũng chính trong quá trình tiến hóa
ấy lại xảy ra hiện tượng ngược lại, đó là các cá thể cùng loài thuộc thế hệ sau,


không phải bao giờ cũng sao chép nguyên bản thế hệ trước mà xuất hiện đột biến ở
một vài đặc điểm cơ bản nào đó hoặc thậm chí là khác biệt hoàn toàn với thế hệ tổ
tiên của nó, người ta gọi hiện tượng này là biến dị. Biến dị là hiện tượng xảy ra chủ
yếu do sự biến đổi tự thân của các loài sinh vật để thích nghi tốt hơn trước sự thay
đổi của môi trường. Ngoài ra, ở các sinh vật sống còn xảy ra hiện tượng đột biến
gen, hiện tượng này không phải là do sự điều chỉnh để thích nghi mà là do sự đột
biến ngẫu nhiên nào đó ở các loài sinh vật, song đây chỉ là hiện tượng xảy ra không
phổ biến ở các loài sinh vật. Nếu hiện tượng di truyền đảm bảo cho các thế hệ cùng
loài có những đặc điểm cơ bản giống nhau, dù quá trình tiến hóa đó diễn ra như thế
nào chúng ta vẫn xác định được tên (gắn liền với đặc trưng cơ bản) của loài sinh
vật ấy như buổi đầu nó xuất hiện, thì biến dị lại làm cho các thế hệ cùng loài có sự
khác nhau và nếu không tìm tòi, nhiên cứu kỹ chúng ta sẽ rất khó xác định được
chính xác tổ tiên của các thế hệ sinh vật đó là thuộc loại nào. Hai mặt đối lập nhau,
nhưng lại không tách rời nhau trong quá trình sinh tồn của một loài, di truyền và
biến dị luôn đồng hành cùng nhau trong quá trình tiến hóa của các loài sự vật. Dù

trải qua nhiều biến đổi song vẫn đảm bảo cho loài đó dù ít hay nhiều cũng có kế
thừa đặc điểm của thế hệ trước, đồng thời tạo cho nó một khả năng thích nghi tốt
hơn trước sự biến đổi thường xuyên của môi trường.
Trong xã hội, sự kết hợp các mặt đối lập được chủ thể tức con người nhận
thức và thực hiện để giải quyết các mâu thuẫn biện chứng của hiện thực lịch sử. Sự
kết hợp các mặt đối lập ở đây được coi là hành động tự giác, tích cực của chủ thể
xuất phát từ nhu cầu và nhằm theo đuổi các lợi ích của mình. Dựa trên cơ sở khách
quan của mâu thuẫn xã hội đó là các mặt đối lập trái ngược nhau nhưng về cơ bản
lại có những điểm chung, tương đồng. Đồng thời, mặc dù có biểu hiện trái ngược
nhưng các mặt đối lập ấy lại tồn tại trong một chỉnh thể của sự vật, hiện tượng cho
nên chúng có cùng một bản chất, chúng mang bản chất của sự vật, hiện tượng chứa
đựng chúng. Chính điều đó cho phép con người với tư cách là chủ thể nhận thức và
thực hiện kết hợp những mặt đối lập nhất định vào giải quyết những mâu thuẫn xã
hội cụ thể. Dĩ nhiên, sẽ thật sự sai lầm khi cứ đơn giản nghĩ rằng có thể kết hợp bất
kỳ mặt đối lập nào trong bất kỳ điều kiện nào, trái lại việc kết hợp các mặt đối lập
phải được xem là hoạt động của con người trong quá trình giải quyết mâu thuẫn xã


hội cụ thể, phải tiến hành một cách tự giác, có chọn lọc, đáp ứng được nhu cầu, lợi
ích của chủ thể. Hơn nữa, kết hợp phải luôn tôn trọng tính khách quan của mâu
thuẫn, có nghĩa là sự kết hợp đó phải nhằm để đưa cuộc đấu tranh của các mặt đối
lập tới các hình thức khác nhau, tạo điều kiện cho mâu thuẫn được giải quyết tốt
hơn, có hiệu quả hơn cho việc đạt được mục đích của chủ thể. Đặc biệt, cần tránh
thái độ và hành động hòa tan các mặt đối lập, vì nếu làm thế có nghĩa là chúng ta
đang thủ tiêu đấu tranh, thủ tiêu mâu thuẫn chứ không phải là giải quyết mâu
thuẫn. Như vậy, việc kết hợp các mặt đối lập cho việc giải quyết mâu thuẫn hoàn
toàn khác với hành động có tính chất triết trung, cũng như khác hoàn toàn với việc
kết hợp có tính cải lương, vô nguyên tắc các mặt đối lập.
Mâu thuẫn của tồn tại biểu hiện phong phú và đa dạng trong đời sống xã hội
và với chúng, chủ thể có thể dùng cách kết hợp các mặt đối lập để triển khai và giải

quyết nhằm thúc đẩy sự phát triển. Trong lịch sử đã có nhiều bài học rút ra từ việc
sử dụng phương pháp giải quyết mâu thuẫn loại này, nếu lựa chọn phương pháp
giải quyết phù hợp sẽ thành công và ngược lại sẽ gánh hậu quả khôn lường. Thất
bại của Công xã Pari (1871) là một bài học xương máu đối với những người cách
mạng trong việc lựa chọn phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Công xã Pari là một
trong những sự kiện nổi bật của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thế kỷ
XIX. Khi phong trào mới nổ ra, quần chúng cách mạng đã thu được một số thắng
lợi, nhưng sau đó bọn phản cách mạng lại quay lại phản công và cuối cùng lực
lượng cách mạng không chống đỡ nổi, toàn bộ thành quả cách mạng bị mất, phong
trào bị dìm trong biển máu. Sự thất bại của Công xã Pari có nhiều nguyên nhân
nhưng trong đó phải kể đến nguyên nhân chủ quan vô cùng quan trọng đó là do
những người lãnh đạo phong trào đã không xây dựng được khối liên minh công
nông. Công nhân đại diện cho chế độ công hữu, còn nông dân lại gắn liền với chế
độ tư hữu, nhưng trong chế độ tư bản chủ nghĩa thì họ đều là những người lao
động làm thuê, đều bị bóc lột, bị áp bức như nhau. Do đó, họ có chung một kẻ thù
đó là giai cấp tư sản, nên trong điều kiện lịch sử cụ thể này, họ là hai mặt đối lập
cùng bản chất. Do không biết kết hợp sức mạnh của hai giai cấp thống khổ nhất đó,
do phạm vi của phong trào tương đối hẹp (chỉ tập trung ở Pari và một số vùng lận
cận) lực lượng ít, không đủ mạnh nên Công xã Pari đã thất bại. Lịch sử ghi lại


rằng, khi công nhân Pari tiến hành đấu tranh rầm rộ trong các nhà máy, xí nghiệp,
trên đường phố thì cách đó không xa những người nông dân vẫn thản nhiên làm
việc trên các cánh đồng, hoặc những nơi gần trung tâm phong trào, nông dân hầu
như không biết chuyện gì xảy ra. Giữa công nhân và nông dân không hề có sự liên
hệ nào trong suốt quá trình diễn ra phong trào, vì vậy công nhân Pari phải đơn độc
chiến đấu với kẻ thù mạnh hơn họ gấp nhiều lần mà không có những người bạn
đồng minh đáng tin cậy đó là nông dân. Theo Mác, thất bại của Công xã Pari là tất
yếu. Từ Công xã Pari, Mác rút ra bài học là để cách mạng thành công là cần phải
thiết lập được khối liên minh công nông vững chắc, làm nồng cốt để liên hiệp với

các giai cấp và giai tầng khác trong xã hội tạo ra một sức mạnh to lớn, đủ sức chiến
đấu và chiến thắng kẻ thù.
Quan điểm này của Mác, sau này được Lênin vận dụng có hiệu quả đã làm
nên Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công rực rỡ, trở thành một trong
những sự kiện vĩ đại nhất thế kỷ XX, mở ra một thời đại mới cho xã hội loài người.
Chính sự tài tình của Lênin và Đảng Bônsêvích Nga trong việc xây dựng và củng
cố khối liên minh công nông vững chắc, đã thu hút các lực lượng khác vào Mặt
trận cách mạng, tăng cường sức mạnh cho lực lượng cách mạng, đủ sức lật đổ sự
thống trị của chuyên chế Nga hoàng, bọn tư sản cá mập và bọn Cu lắc (địa chủ ở
nông thôn), đem lại quyền làm chủ hoàn toàn cho người lao động. Trong xã hội
nước Nga tư bản lúc bấy giờ, công nhân và nông dân là hai giai cấp gắn liền với
hai chế độ sở hữu khác nhau thậm chí đối lập nhưng họ lại cùng chung số phận là
giai cấp bị thống trị, bị áp bức, bị bóc lột. Vì vậy, họ có chung một kẻ thù là bọn
phong kiến, tư sản. Do đó, họ đoàn kết chặt chẽ với nhau để cùng đánh thắng kẻ
thù. Lênin cũng nhận thấy "nông dân với tư cách là người lao động = bạn đồng
minh; với tư cách là người tư hữu và đầu cơ = kẻ thù" [35, tr.49], từ đấy ông đã
cùng những người cộng sản Nga giác ngộ họ, đưa họ vào khối liên minh công nông
và lấy liên minh này làm nồng cốt của cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga đã chứng minh quan điểm đúng đắn của phép biện chứng mácxít về
phương thức kết hợp các mặt đối lập trong việc giải quyết mâu thuẫn của tồn tại.
Như vậy, mâu thuẫn của tồn tại diễn ra phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư
duy con người và việc giải quyết mâu thuẫn loại này cũng là việc làm thường


xuyên, cần thiết nhằm thúc đẩy sự vận động, phát triển của sự vật nhưng không
làm cho mâu thuẫn mất đi. Giải quyết mâu thuẫn thuộc loại này trong phần lớn
trường hợp, không phải là loại bỏ mâu thuẫn mà là tìm kiếm con đường và phương
pháp kết hợp các mặt đối lập với nhau trong cùng một bản chất, sao cho có thể tạo
điều kiện thuận lợi để mâu thuẫn trở thành động lực thực sự của sự phát triển.
Đối với mâu thuẫn của bản chất đây là mâu thuẫn mà các mặt đối lập có bản

chất khác nhau nhưng tồn tại trong một chỉnh thể. Một trong hai mặt đối lập luôn
tìm cách phủ định, bài trừ mặt kia để vươn lên trở thành bản chất đối lập. Mác cho
rằng, phương thức duy nhất để giải quyết hiệu quả mâu thuẫn loại này là thủ tiêu
một trong hai mặt đối lập, chỉ khi một trong hai mặt đối lập kia mất đi thì mâu
thuẫn mới thực sự được giải quyết. Loại mâu thuẫn này xuất hiện chủ yếu trong
lĩnh vực xã hội, có thể nói đây là loại mâu thuẫn mà quá trình hình thành, tồn tại và
giải quyết nó được thực hiện trong hoạt động của con người. Chính hoạt động của
con người đẩy nhanh sự chín muồi hoặc làm chậm quá trình phát triển của mâu
thuẫn. Việc kết hợp các mặt đối lập trong hiện thực xã hội, đòi hỏi chủ thể phải thể
hiện được tính định hướng rõ ràng trong hành động, kết hợp làm sao cho mặt đối
lập đại diện cho cái tích cực, cái tiến bộ sẽ dần chiến thắng mặt đối lập kia đại diện
cho cái tiêu cực, lạc hậu.
Mâu thuẫn của bản chất biểu hiện tập trung trong mâu thuẫn giai cấp của xã
hội như mâu thuẫn giữa giai cấp nô lệ và chủ nô, nông dân và địa chủ, vô sản và tư
sản... Điều cần chú ý đối với mâu thuẫn loại này là, phải xác định được giai đoạn
tồn tại của mâu thuẫn để đưa ra cách giải quyết hợp lý, đem lại hiệu quả trong thực
tiễn. Chủ thể bằng ý thức của mình tìm ra những phương thức giải quyết ở từng
giai đoạn cụ thể của mâu thuẫn, có như vậy mới tạo ra động lực cho sự phát triển
của xã hội.
Thường thì, trong giai đoạn đang triển khai và phát triển, việc giải quyết
mâu thuẫn không phải là sự thủ tiêu đối lập, mà phải nâng sự đối lập lên trình độ
hay nấc thang cao hơn. Để giải quyết mâu thuẫn ở giai đoạn này, phương thức kết
hợp các mặt đối lập được coi là phương pháp tối ưu và hiệu quả nhất. Phân tích
quá trình giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
tồn tại những mâu thuẫn của xã hội quá độ được tạo nên bởi hai mặt đối lập có sự


khác nhau về bản chất. Ở mâu thuẫn này, mặt đối lập thứ nhất thường hướng về
chủ nghĩa xã hội và mặt đối lập thứ hai thường hướng về chủ nghĩa tư bản. Việc
giải quyết mâu thuẫn cần phải được tiến hành trên những lĩnh vực khác nhau như

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Trong lĩnh vực kinh tế của thời kì quá độ, tồn
tại nhiều yếu tố thuộc về các phương thức sản xuất khác nhau, "trong đó cái mới
không thể tức khắc mọc ngay lên được còn cái cũ cũng không thể tiêu tan đi trong
chốc lát" [27, tr.27]. Lênin cho rằng, trong trạng thái kinh tế như thế, chế độ kinh
tế duy nhất có thể thực hiện được là kết hợp những đặc điểm của cả hai chế độ
khác nhau đó, kết hợp dưới nhiều hình thức và hành động khôn ngoan nhất là kết
hợp các lực lượng thuộc các quan hệ khác nhau trong các hình thức kinh tế quá độ,
dưới sự chi phối của lực lượng kinh tế quốc doanh và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Điều đó, sẽ dẫn chúng ta đi từ nền kinh tế tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội thông
qua chủ nghĩa tư bản nhà nước. Vậy, để xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp trong xã hội
chủ nghĩa khi mà nó chưa phát triển đến độ chín muồi, khi mà xã hội chưa đủ điều
kiện để trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự hay khi đang ở trong một thời kỳ
quá độ lâu dài, thì chủ thể cần lựa chọn phương pháp kết hợp các mặt đối lập có sự
khác nhau về bản chất này để giải quyết mâu thuẫn xã hội.
Khi mâu thuẫn thực sự chín muồi, các mặt đối lập sẽ chuyển hóa và gắn với
điều đó là mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Lúc này,
xã hội xã hội chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản bị xóa bỏ, thủ tiêu. Quá trình
xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp không thể thực hiện trong một thời gian ngắn mà đòi
hỏi một quá trình lâu dài, phức tạp và quanh co. Thực tiễn nước Nga sau Cách
mạng tháng Mười chính là một kinh nghiệm sống về việc vận dụng thành công
phương pháp kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn xã hội, đưa nước
Nga không chỉ thoát khỏi khủng hoảng mà còn vươn lên trở thành một quốc gia
hùng mạnh. Vậy, giai đoạn mâu thuẫn đã đạt đến độ chín muồi thì chúng ta tiến
hành giải quyết mâu thuẫn bằng cách xóa bỏ mâu thuẫn, tiến hành triệt tiêu một
trong hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn đó, đưa sự vật chuyển lên thang bậc phát
triển cao hơn với những mâu thuẫn mới cùng xuất hiện và cùng tồn tại ở trong đó.
Tóm lại, theo quan điểm của Mác có hai loại mâu thuẫn cơ bản, đó là mâu
thuẫn của tồn tại và mâu thuẫn của bản chất; tương ứng với mỗi loại mâu thuẫn thì



có một phương thức giải quyết thích hợp. Đối với mâu thuẫn của tồn tại, cách giải
quyết tối ưu nhất đó là sử dụng phương pháp kết hợp các mặt đối lập; còn đối với
mâu thuẫn của bản chất thì căn cứ vào các giai đoạn phát triển của nó để lựa chọn
phương pháp giải quyết thích ứng. Giai đoạn mâu thuẫn chưa chín muồi có thể sử
dụng phương pháp kết hợp các mặt đối lập, với điều kiện phải tiến hành kết hợp
một cách có nguyên tắc, tôn trọng tính khách quan của mâu thuẫn, phù hợp với
điều kiện lịch sử cụ thể. Sự thỏa hiệp, nhượng bộ một cách vô nguyên tắc, vô điều
kiện sẽ rơi vào cải lương chủ nghĩa, rơi vào chủ nghĩa chiết trung. Khi mâu thuẫn
đạt đến độ chín muồi, lên đến chóp đỉnh thì tiến hành thủ tiêu một trong hai mặt
đối lập, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Như vậy, kết hợp các mặt đối lập có
thể thực hiện được trong cả hai loại mâu thuẫn cơ bản trên đây của hiện thực xã
hội, nhưng cách thức và mức độ thực hiện sự kết hợp ấy ở mỗi loại thì có khác
nhau.
1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về sự kết hợp các mặt đối lập
Một nét nổi bật trong tư duy biện chứng của Lênin là tư tưởng về sự kết hợp
các mặt đối lập. Trong đấu tranh cách mạng và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, V.I Lênin coi sự kết hợp các mặt đối lập như là một sách lược của Đảng
Bônsêvích và của nhà nước Nga để thực hiện sự thỏa hiệp, hợp tác liên minh tạm
thời với những lực lượng đối lập vì lợi ích của cách mạng của chủ nghĩa xã hội. V.I
Lênin cho rằng thái độ của chủ nghĩa Mác đối với những chuyển biến quanh co của
lịch sử cũng đã đề cao sự thỏa hiệp, lợi dụng sự thỏa hiệp ấy. Lênin giải thích rõ,
khái niệm kết hợp có nghĩa là những sự vật khác nhau mà chúng ta cần phải kết
hợp với nhau; sự kết hợp có nghĩa là phải biết vận dụng các biện pháp của chính
quyền nhà nước để bảo vệ những lợi ích vật chất và tinh thần của giai cấp vô sản
đã hoàn toàn liên hợp lại để cho nó khỏi bị chính quyền nhà nước đó xâm phạm.
Ông không những chỉ ra tính tất yếu của việc sử dụng sự kết hợp các mặt đối lập
như là một nghệ thuật, mà còn coi như đó là một chiến lược và sách lược của Đảng
Cộng sản Liên Xô trong toàn bộ lịch sử đấu tranh của mình.
Từ thực tiễn những năm đầu tiên của chính quyền Xô viết, V.I Lênin đã hình
thành tư tưởng về sự cần thiết phải kết hợp một cách tự giác các mặt đối lập. Ông

nhận xét rằng, "dù sao chúng ta cũng đã học được ít nhiều chủ nghĩa Mác, đã học


được rằng làm thế nào và khi nào có thể và cần thiết phải kết hợp các mặt đối lập"
[30, tr.90]. Phân tích mâu thuẫn xã hội nói chung và mâu thuẫn trong đời sống kinh
tế nước Nga nói riêng nhưng năm sau Cách mạng tháng Mười, Lênin đề xuất tư
tưởng về sự kết hợp các mặt đối lập và coi đó là phương thức có tính chất đặc thù
để giải quyết một cách hiệu quả những mâu thuẫn kinh tế - xã hội ở nước Nga lúc
bấy giờ, không những thế ông còn đưa tư tưởng này vào thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga. Sự kết hợp các mặt đối lập được nhận thức và thực hiện,
bởi Lênin luôn có tính nguyên tắc và điều này được thể hiện ở những điểm sau
đây:
Thứ nhất, Lênin chú ý đến việc tìm những người bạn đồng minh tạm thời để
đấu tranh chống lại kẻ thù chung. Bằng việc sử dụng một mặt đối lập trong mâu
thuẫn nội bộ kẻ thù để tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng, Lênin đã thực hiện
một sự kết hợp các mặt đối lập vì lợi ích chung, tạm thời có lợi cho cách mạng.
Trong thời kỳ đấu tranh chống lại sự can thiệp của chủ nghĩa đế quốc, bảo
vệ chính quyền Xô viết non trẻ, Lênin đã chú ý đến hai khuynh hướng đối lập tồn
tại trong hiện thực giữa các nước đế quốc đó là khuynh hướng muốn chinh phục,
thôn tính và khuynh hướng muốn trao đổi, buôn bán, sử dụng các mối liên hệ kinh
tế, thị trường, tài nguyên giàu có của nước Nga Xô viết. Trong điều kiện đó, V.I
Lênin đã đi đến vận dụng một cách sáng tạo sự kết hợp có ý thức các mặt đối lập
nhằm giải quyết những mâu thuẫn của thời kỳ quá độ, trong điều kiện có sự bao
vây của chủ nghĩa đế quốc. Đó cũng chính là biểu hiện của chính sách đối ngoại vô
sản có nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt, tôn trọng tính biện chứng khách quan của
thời kỳ quá độ trong điều kiện bao vây của chủ nghĩa đế quốc.
Thứ hai, Lênin quan tâm đến sự kết hợp các mặt đối lập ở biểu hiện giữa hai
nhân tố chất cũ (chủ nghĩa tư bản) và chất mới (chủ nghĩa xã hội) tồn tại trong nền
kinh tế quốc dân thời kỳ quá độ vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Sự kết hợp này
biểu hiện rõ nhất trong Chính sách kinh tế mới được Lênin soạn thảo và thực hiện

trong thực tế.
Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ kinh tế của chuyên chính vô sản,
đấu tranh với sự tự phát triển tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ, giai cấp vô sản đã
sử dụng tư sản, sử dụng sự hiểu biết, trí thông minh và vốn kinh nghiệm quản lý


của giai cấp tư sản để góp phần hình thành, ổn định nền sản xuất lớn chủ nghĩa xã
hội, tạo cơ sở vật chất lớn mạnh để đẩy lùi tính tự phát tiểu tư sản. Chính sách kinh
tế mới được Lênin soạn thảo là tấm gương sáng về sự kết hợp các mặt đối lập trong
điều kiện lịch sử của thời kỳ quá độ, sao cho chiến thắng được giai cấp tư sản và
nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng, lôi kéo được những người sản xuất hàng hóa
nhỏ, những người tiểu tư sản về phía mình.
NEP - từ gọi tắt của Chính sách kinh tế mới được Lênin đưa ra lần đầu tiên
vào tháng 2 năm 1922 nhưng tư tưởng về Chính sách kinh tế mới của ông thì đã
xuất hiện từ tháng 1 năm 1918, khi chính quyền Xô viết giành được thời gian tạm
nghỉ bằng con đường hòa bình. Đất nước Xô viết ra khỏi chiến tranh gặp phải sự
tàn phá về kinh tế đến mức độ chưa từng có trước đó. Những hậu quả nặng nề của
bảy năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế - xã hội trở
nên nóng bỏng. Để giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, Chính
sách kinh tế mới được Lênin đưa ra nhằm giải quyết mục tiêu trước mắt và cấp
bách với năm nội dung chủ yếu. Từ việc triển khai các nội dung của chính sách
kinh tế mới, Lênin chú ý đề cập đến việc khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa
trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Thực hiện nội dung này nhằm đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và
tiêu dùng cho nông dân và cho xã hội, giúp nhà nước giải quyết vấn đề lương thực
một cách vững chắc, đồng thời khôi phục và phát triển kinh tế hàng hóa trong nông
nghiệp, làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội.
Cùng với việc triển khai nội dung trên đây, Lênin chú trọng việc sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi vì việc
khôi phục và phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp còn kéo theo cả sự khôi

phục và kích thích xu hướng tư bản chủ nghĩa. Theo Lênin đó là điều đương nhiên,
sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là một sự phát triển không
tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ và việc ngăn cấm hay chặn đứng
sự phát triển đó là có hại cho cách mạng, Lênin cho đó là sự dại dột và tự sát đối
với đảng nào muốn áp dụng nó.
Tuy nhiên, Lênin cũng nhấn mạnh không được coi thường hay buông lỏng
việc kiểm tra, kiểm soát sự phát triển của xu hướng tư bản chủ nghĩa. Muốn vậy,


theo ông phải sử dụng hình thức kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi chủ nghĩa
tư bản nhà nước không đáng sợ mà là đáng mong đợi và phải được học tập vì lợi
ích của chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm trên của Lênin biểu hiện cái nhìn biện chứng có tính nguyên tắc
trong giải quyết mâu thuẫn, quá trình khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa mà
đồng nghĩa với nó là việc khôi phục và kích thích xu hướng tư bản chủ nghĩa trong
nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; điều đó cho thấy, Lênin đang thực
hiện sự kết hợp các mặt đối lập giữa yếu tố tư bản chủ nghĩa và yếu tố xã hội chủ
nghĩa vì lợi ích cách mạng.
Thực ra, Lênin chủ trương sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm chống lại tính tự phát tiểu tư sản. Coi hình
thức chủ nghĩa tư bản nhà nước là hình thức kinh tế cơ bản trong cơ cấu nền kinh
tế nhiều thành phần. Biểu hiện của hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước trong kinh
tế đó là những hình thức như tô nhượng trong công nghiệp, hình thức hợp tác xã
của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong
thương nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng,
khu đất....
Đề xuất chủ trương này, Lênin đã đi từ phân tích đời sống kinh tế của đất
nước Xô viết lúc bấy giờ, làm sáng tỏ vị trí, tính chất, khuynh hướng vận động của
năm thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước Nga, bao gồm kinh tế nông dân mang
tính chất tự nhiên, sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản

nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong năm thành phần kinh tế đó, ông xem
tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
Lênin chỉ ra thực chất mối quan hệ giai cấp lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản
nhà nước đấu tranh với chủ nghĩa xã hội mà là giai cấp tiểu tư sản và chủ nghĩa tư
bản tư nhân cùng nhau chống lại chủ nghĩa tư bản nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội.
Từ những phân tích trên, Lênin đi đến chủ trương liên minh nhà nước vô sản
và chủ nghĩa tư bản nhà nước để chống lại các thế lực tự phát tiểu tư sản. Ông chỉ
rõ rằng, bằng việc kết hợp các mặt đối lập với nhau, cụ thể là kết hợp giữa nhà
nước vô sản và nhà nước tư sản sẽ giúp cho nền công nghiệp được phục hưng. Đó
cũng chính là điều kiện để cải tạo có hiệu quả nền công nghiệp sản xuất nhỏ và


người nông dân tư hữu, thu hút công nhân trở lại nhà máy, chấm dứt tình trạng họ
phải tự sản xuất ra bật lửa rồi lại tự mình mang ra tiêu thụ ngoài thị trường. Việc
người công nhân xa rời nhà máy, để sống anh ta phải làm đủ mọi việc linh tinh sẽ
làm tha hóa ngay chính bản thân của họ, đẩy họ về phía những người sản xuất nhỏ.
Do vậy, liên minh với chủ nghĩa tư bản nhà nước để khôi phục lại nền đại công
nghiệp là con đường có hiệu quả nhất nhằm cứu vớt ngay bản thân công nhân - giai
cấp lãnh đạo của chuyên chính vô sản.
Thứ ba, liên quan đến những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Lênin đề cập đến sự kết hợp giữa chính sách dàn đều và chính
sách trọng điểm, biểu hiện của sự kết hợp có ý thức này là giữa vấn đề dân tộc và
quốc tế, giữa nhiệt tình cộng sản và hoạch toán kinh tế, giữa dân chủ và tập trung
trong nguyên tắc tập trung dân chủ, giữa thuyết phục và cưỡng bức, giữa động viên
tư tưởng và khuyến khích vật chất, giữa quy luật chiến tranh và quy luật xây dựng
hòa bình... Trong quá trình thực hiện sự kết hợp giữa chính sách dàn đều và chính
sách trọng điểm, Lênin nhấn mạnh đến yếu tố thời điểm, hoàn cảnh. Vấn đề đặt ra
là phải suy nghĩ cho thật kỹ hai chính sách và vận dụng làm sao cho phù hợp với
từng hoàn cảnh cụ thể nhằm đem lại lợi ích cho cách mạng.
Sự kết hợp các mặt đối lập trong tư tưởng của Lênin không phải là thái độ

chiết trung, mà luôn có tính nguyên tắc và biện chứng; nó dựa trên quan điểm thừa
nhận và lấy cái mới làm yếu tố chủ đạo, làm chủ lực cho sự phát triển theo hướng
xã hội chủ nghĩa. Nếu vi phạm nguyên tắc biện chứng trong khi thực hiện sự kết
hợp các mặt đối lập sẽ biến cái mới thành cái cũ, biến cái kích thích sự phát triển
thành cái kìm hãm sự phát triển... Chẳng hạn, khi thực hiện sự kết hợp các mặt đối
lập trong nguyên tắc tập trung dân chủ cần phải phân định rõ giữa tập trung dân
chủ khác với tập trung quan liêu và tính tự phát, vô tổ chức. Lênin nhấn mạnh
"không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan
liêu và lối rập khuôn máy móc" [30, tr.95]. Do vậy, không thể áp dụng sự kết hợp
các mặt đối lập một cách tùy tiện, máy móc hoặc vô nguyên tắc, Lênin đã đưa ra
một nhận định hết sức xác đáng: có thể kết hợp các khái niệm đối lập với nhau
thành một điệu nhạc chối tai nhưng cũng có thể kết hợp chúng lại thành điệu nhạc
êm tai.


Lênin coi sự kết hợp các mặt đối lập như là một hình thức đặc biệt của cuộc
đấu tranh giữa chúng. Theo ông, đấu tranh có nhiều hình thức khác nhau: có đấu
tranh thủ tiêu cả hai mặt đối lập; có đấu tranh dẫn đến thủ tiêu một mặt còn mặt kia
được biến đổi; có đấu tranh làm kích thích lẫn nhau, hoàn thiện lẫn nhau và cùng
nhau phát triển... Hiểu như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, trong mâu thuẫn
biện chứng sự thống nhất của các mặt đối lập luôn bao hàm trong mình sự khác
biệt, đối lập và xung đột. Chính trong sự thống nhất ấy mà các mặt đối lập tương
tác một cách biện chứng với nhau, và đó cũng là sự đấu tranh của các mặt đối lập
làm nên nguồn gốc, động lực phát triển của sự vật, hiện tượng. V.I Lênin khẳng
định rằng, sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, đấu tranh là
tuyệt đối, chính nhờ đấu tranh mà các sự vật vận động, chuyển hóa lẫn nhau, làm
cho thế giới trở nên vô hạn, vĩnh viễn và bất diệt. Trong đó, sự kết hợp các mặt đối
lập vừa được coi là một hình thức đặc biệt của cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập,
đồng thời đó cũng là một phương thức mà chủ thể lợi dụng những điểm chung,
tương đồng của các mặt đối lập trong sự thống nhất giữa chúng để giải quyết mâu

thuẫn nhất là các mâu thuẫn xã hội.
Có thể khẳng định, việc kết hợp biện chứng các mặt đối lập với tư cách là
một phương thức đi tới giải quyết mâu thuẫn, đã được Lênin sử dụng để lãnh đạo
nhân dân Nga xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế
mới (NEP) những năm 1921 - 1924. Chính sách này nhằm khắc phục hậu quả tiêu
cực từ việc kéo dài chính sách cộng sản thời chiến trước đó. V.I Lênin đã tiến hành
kết hợp một cách biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa kinh
tế tư bản và nhà nước Xô viết. Biểu hiện tập trung nhất của việc kết hợp này trong
NEP chính là chủ trương thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực chất của chủ
nghĩa tư bản nhà nước như Lênin khẳng định đó là việc chấp nhận sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản trong khuôn khổ của sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước Xô viết.
Mục đích của việc phát triển tư bản nhà nước kiểu mới này là nhằm khai thác, lợi
dụng mặt tích cực của chủ nghĩa tư bản (về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý...)
để đem lại lợi ích cho chủ nghĩa xã hội.
Rõ ràng, đây là hành động chủ động, tự giác, tích cực của Đảng và Nhà
nước Xô viết trong việc hợp tác với chủ nghĩa tư bản và các nhà tiểu tư sản. Nhưng


cũng chính vì là hoạt động tự giác của nhà nước Xô viết, cho nên việc kết hợp này
phải luôn đặt trong giới hạn, khuôn khổ chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, việc hợp tác với
chủ nghĩa tư bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng giống như sử
dụng con dao hai lưỡi, vì xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản và các nhà tư bản trong
quan hệ với chủ nghĩa xã hội không phải vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội mà là vì
lợi ích của chính giai cấp tư sản. Lênin hiểu điều đó, nên đã ra sức bảo vệ NEP nói
chung và chủ nghĩa tư bản nhà nước nói riêng, tạo mọi điều kiện cho chủ nghĩa tư
bản nhà nước phát triển với việc tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát của chính
quyền Xô viết. Lênin yêu cầu phải luôn coi công tác kiểm kê, kiểm soát này là một
cái trạm trung gian để đi đến chủ nghĩa xã hội, tránh chệch hướng chủ nghĩa xã
hội. Chỉ trong điều kiện như vậy, việc thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước mới là
cần thiết, đáng mong đợi và là bắc cầu để đi vào chủ nghĩa xã hội.

Như vậy, sự kết hợp các mặt đối lập được nêu ra trong chính sách kinh tế
mới của Lênin là sách lược có nguyên tắc, có điều kiện chứ không phải là tùy tiện,
vô nguyên tắc. Việc Lênin phát hiện ra các mặt đối lập và sáng tạo, linh hoạt trong
việc kết hợp chúng vào những điều kiện, hoàn cảnh nhất định đem lại lợi ích cho
cách mạng mà biểu hiện cụ thể của tư tưởng đó ở chính sách kinh tế mới, đã đem
lại một ý nghĩa hết sức to lớn. Tư tưởng này đã mở ra một khả năng, một phương
pháp giải phóng những mâu thuẫn xã hội, nảy sinh trong quá trình đi lên chủ nghĩa
xã hội ở những nước lạc hậu, tiền tư bản. V.I Lênin cho thấy đối với một nước còn
ở tình trạng tiểu nông là chủ yếu, để có thể đi lên chủ nghĩa xã hội phải thực hiện
bước quá độ gián tiếp, phải qua những khâu trung gian, những hình thức quá độ
đặc biệt. Một trong những hình thức của khâu trung gian, quá độ ấy là chủ nghĩa tư
bản nhà nước và đó cũng là kết quả tất yếu của sự kết hợp biện chứng giữa hai mặt
đối lập, kinh tế tư bản và nhà nước vô sản. Thực hiện NEP, ông khẳng định rằng,
phải bắc những nhịp cầu nhỏ, đi qua những nấc thang, những mắc xích trung gian,
áp dụng những giải pháp vừa tầm, thích hợp với những nước tiểu nông, biết cách
thỏa hiệp với họ, kiên nhẫn chờ đợi, thuyết phục họ đi đến chủ nghĩa xã hội. Đó là
bước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với các nước lạc hậu, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.


Bên cạnh đó, V.I Lênin cũng đã nắm bắt được những mâu thuẫn phát sinh
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội biểu hiện ra ở các quan hệ trong đời
sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội..., từ đó đi đến vận dụng sự kết
hợp các mặt đối lập để đưa ra chính sách đối ngoại vô sản linh hoạt, mềm dẻo
nhằm tăng cường lực lượng, tìm các nước đồng minh tạm thời, cùng liên kết đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc bảo vệ chính quyền Xô viết non trẻ. Tư tưởng kết
hợp các mặt đối lập còn được Lênin vận dụng một cách triệt để vào việc giải quyết
mâu thuẫn xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống; kết hợp giữa chính sách dàn đều
và chính sách có trọng điểm tùy vào điều kiện, hoàn cảnh đương thời để lựa chọn
chính sách nào đóng vai trò quyết định; kết hợp giữa động viên tư tưởng với

khuyến khích vật chất nhằm tạo ra động lực cho người lao động cùng đoàn kết, bảo
vệ thành quả cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, với tư cách là những nhà triết học thực tiễn, những nhà duy vật
chiến đấu C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin đã đạt đến trình độ cao của tư duy
biện chứng về sự kết hợp các mặt đối lập và vận dụng nó vào trong hoạt động thực
tiễn cách mạng. Tư tưởng của các ông đã bước đầu xây dựng nên cơ sở lý luận về
phương pháp kết hợp các mặt đối lập và đã có những thành công nhất định trong
thực tiễn cải tổ đất nước Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu. Chính
sách kinh tế mới (NEP) với tư cách là một chiến lược, được Lênin vạch ra đã giải
quyết thắng lợi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội trong thời gian dài từ 1921 1924 ở nước Nga Xô viết, đưa nước Nga từ khủng hoảng đi tới hồi sinh và phát
triển. Suốt nhiều thập kỷ qua, chính sách kinh tế mới của Lênin vẫn được các nước
ở những trình độ phát triển khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau nhận thức
và vận dụng. Có thể nói, thiên tài Lênin thể hiện tập trung nhất trong chính sách
kinh tế mới và trong thực tiễn lãnh đạo, tổ chức thực hiện chính sách đó. Ông đã
nêu ra kiểu mẫu về thái độ trung thành với chủ nghĩa Mác trong hành động, trong
phong cách lãnh đạo táo bạo, kiên quyết và đầy tính nghệ thuật, lái con thuyền
cách mạng vượt qua gian nguy, tạo nền móng vững chắc cho mọi thắng lợi sau
này. Nhờ có NEP, lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học lần đầu tiên đi vào hiện
thực. Lênin không chỉ đặt nền móng cho lý luận mà còn nêu ra mẫu mực về chiến
lược và sách lược tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội từ những điểm xuất phát


khác nhau, phản ánh đúng đắn đòi hỏi của quy luật ra đời và phát triển chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện thời đại mới. Tư tưởng kinh tế của Lênin mà nhất là chính
sách kinh tế mới đang soi sáng, hướng dẫn mỗi bước tiến lên của cách mạng ở các
nước có trình độ khác nhau. Ở nước ta, việc nghiên cứu phép biện chứng trong
điều kiện mới, nghiên cứu phương pháp giải quyết mâu thuẫn của V.I Lênin được
cụ thể hóa trong chính sách kinh tế mới, giúp chúng ta thấy được tính phức tạp của
cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo lý luận cách
mạng vào điều kiện riêng của đất nước.

1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự kết hợp các mặt đối lập
Quán triệt sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào giải quyết các mâu thuẫn xã hội
nảy sinh trong từng thời kỳ cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam vững bước đi lên
giành thắng lợi. Giải quyết mâu thuẫn xã hội, do đó thực sự là một nghệ thuật
trong hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến
tính phổ biến của mâu thuẫn trong các sự vật, sự việc và quá trình. Người cho rằng
cái gì cũng có mâu thuẫn như có biến âm, biến dương, có sinh có tử, có quá khứ và
có hiện tại, có mới có cũ...., đó là những mâu thuẫn trong mọi sự vật. Khi có mâu
thuẫn thì phải tìm cách giải quyết và muốn vậy phải biết phân tích các mâu thuẫn
để phân loại chúng thành chính hay phụ, từ đó có cách giải quyết thích hợp. Trong
đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh giai cấp, có nhận thức đúng mâu thuẫn
mới xác định rõ đâu là kẻ thù và đâu là bạn đồng minh. Nhờ xác định và phân loại
đúng mâu thuẫn một cách khách quan, khoa học nên Hồ Chí Minh luôn vạch ra
được phương pháp phù hợp, huy động được những lực lượng cần thiết để giải
quyết mâu thuẫn kịp thời, đúng đắn, hiệu quả cho mọi giai đoạn của cách mạng.
Nghệ thuật giải quyết mâu thuẫn xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
kế thừa trực tiếp từ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là tư tưởng của
V.I Lênin về kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn kinh tế - xã hội.
Phương pháp tư duy mềm dẻo, biện chứng truyền thống theo kiểu phương Đông đã
giúp Hồ Chí Minh phát hiện mâu thuẫn và tìm ra phương thức giải quyết thích hợp,
chèo lái con thuyền cách mạng đi đến bến bờ thành công.


Xuất phát từ đặc điểm văn hóa - xã hội, từ quan hệ giữa các giai tầng trong
lịch sử dân tộc ta và để giải quyết các mâu thuẫn xã hội ở trong đó, Hồ Chí Minh
thường nhấn mạnh chữ đồng và hạn chế khai thác những dị biệt giữa các mặt đối
lập. Chữ đồng trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm một nội dung hết sức phong
phú, sinh động và biện chứng đó là đồng tâm, đồng lòng, đồng mục tiêu, đồng lý

tưởng, đồng lợi ích....
Nhất quán với tư tưởng này trong việc giải quyết mâu thuẫn xã hội, Hồ Chí
Minh chủ trương khai thác triệt để những điểm tương đồng giữa các mặt đối lập
nhằm tìm kiếm một giải pháp có tính chất mềm dẻo, dễ dung hòa để hướng tới mục
tiêu chung là cùng có lợi, tránh đổ máu hoặc thiệt hại không cần thiết. Người đã
vận dụng tài tình tư tưởng đó vào giải quyết các mâu thuẫn trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đồng thời coi đó là một phương pháp, một sách lược hết sức quan
trọng để đạt mục tiêu to lớn của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Từ rất sớm trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận
sự vật dưới con mắt phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Người thấy
muốn chiến thắng được đế quốc Pháp thì phải hiểu rõ thực lực của kẻ thù và thực
lực của ta, thấy được nguyên nhân làm nên sức mạnh của Pháp và nguyên nhân
đưa tới sự yếu kém của dân tộc ta. Thực tế cho thấy, đế quốc Pháp hùng mạnh vì
có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, còn Việt Nam yếu vì đất nước còn bị giam hãm
trong vòng sản xuất phong kiến lạc hậu. Do đó, mâu thuẫn giữa Việt Nam và Pháp
không những là mâu thuẫn giữa hai dân tộc mà còn là mâu thuẫn giữa nền sản xuất
tiên tiến với nền sản xuất lạc hậu. Trước Hồ Chí Minh chưa có một tấm gương nào
của thế giới về một dân tộc thuộc địa, lạc hậu đánh tháng một đế quốc tư bản chủ
nghĩa hùng mạnh. Tình thế đó, thôi thúc Hồ Chí Minh tìm kiếm những biện pháp
thích hợp, có ích cho sự nghiệp cách mạng. Nghiên cứu sâu hơn mối tương quan
giữa ta và địch, Người vận dụng phép biện chứng tuần hoàn của phương Đông đã
học được trong thời niên thiếu như âm cực dương hồi, bĩ cực thái lai, cùng tắc
biến, biến tắc thông... Đây là tư duy biện chứng mà trước đó đã được nhiều nhà
hoạt động xã hội ở phương Đông nhiều thời đại xem xét và vận dụng, nó đã gieo
vào lòng Người một niềm tin rằng có thể thay đổi được thực trạng đất nước. Đến


với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tiếp nhận các nguyên lý như nhìn nhận
sự vật trong đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, trong sự chuyển hóa về

lượng thành những thay đổi về chất... và nhờ vào đó, Người đã đưa những quan
niệm biện chứng phương Đông lên một bước mới, củng cố và nâng cao quyết tâm
làm thay đổi tình hình đất nước.
Trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ, vận dụng phép biện chứng duy vật
vào phân tích xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỉ XX, Hồ Chí
Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuẫn vốn có của xã hội
phong kiến là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến; hai là, mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp xâm lược. Từ đó, Hồ Chí
Minh xác định, nhân dân Việt Nam có hai kẻ thù chính là đế quốc và phong kiến
tay sai, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là
chống đế quốc giành lại độc lập cho dân tộc và chống lại phong kiến đem lại ruộng
đất cho dân cày. Để giải quyết mâu thuẫn đối kháng trên, Hồ Chí Minh đã vận
dụng phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích mâu thuẫn xã hội.
Người thấy rằng, các mặt đối lập làm nên mâu thuẫn ngoài tính đối lập ra còn có
tính thống nhất và tính thống nhất ở đây ngoài ý nghĩa là tiền đề tồn tại của các mặt
đối lập thì còn có sự đồng nhất ở một số điểm nào đó trong hai mặt đối lập. Từ đó,
Hồ Chí Minh đã vận dụng vào để giải quyết mâu thuẫn xã hội, Hồ Chí Minh đã
luôn đề cao chữ đồng, mặt thống nhất, đoàn kết... Người sử dụng phương pháp kết
hợp các mặt đối lập để tạo nên sức mạnh đoàn kết trong nhân dân. Chẳng hạn như,
trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh thấy được bên ta
cũng có lòng yêu nước, độc lập, dân chủ và yêu hòa bình còn bên địch về cơ bản
thì trái lại, nhưng xét ở một nhóm nào đó trong trường hợp, hoàn cảnh nào đó thì
bên địch cũng có những yếu tố trên, cụ thể là trong hàng ngũ của Pháp chống lại ta,
cũng có những người đã từng là chiến sĩ đấu tranh cho độc lập của nước Pháp, đấu
tranh để giải phóng nước Pháp khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức vì thế ở
những người đó cũng ít nhiều có lòng trắc ẩn với dân tộc ta đó là điểm tương đồng,
thống nhất. Hoặc bên ta, tuy yêu nước nhưng họ còn lưu luyến với xã hội phong
kiến và tư sản, số người này lại thống nhất lập trường với giai cấp bên kia... Nhìn
rõ vấn đề đó, Hồ Chí Minh đã khơi dậy tinh thần đoàn kết mọi lực lượng miễn là



có lòng trung thành với Tổ quốc, không phản lại quyền lợi của dân chúng, không
kể đó là Việt gian, thân Pháp hay thân Nhật.
Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, để giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược, Người đã đề cao sự đoàn kết, thống nhất các lực
lượng nhân dân trong nước và đồng thời chủ trương đoàn kết, tranh thủ triệt để sự
ủng hộ của nhân dân tiến bộ Pháp và các nước trên thế giới, coi đó là sức mạnh để
giải phóng dân tộc. Với tư tưởng đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, lâu dài với tất cả
những ai có thể đoàn kết được vì mục tiêu chung. Trên nguyên tắc đó, Hồ Chí
Minh đã đoàn kết tất cả những người yêu nước, không phân biệt xu hướng chính
trị, tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào và quá khứ họ đã
hợp tác với phe nào. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã quy tụ được toàn thể nhân dân thuộc
các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây từng mắc
lỗi lầm nhưng nay đã thực sự ăn năn, hối cải... tập hợp dưới ngọn cờ cách mạng,
tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, có sức mạnh vô địch thực hiện thắng lợi cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc.
Ngoài chủ trương kết hợp các mặt đối lập, Người còn đưa ra sách lược phân
hóa cao độ trong hàng ngũ địch, bằng cách tìm ra những mặt đối lập tạo nên mâu
thuẫn gay gắt trong hàng ngũ của chúng, để không những làm cho nhân dân căm
ghét chúng hơn mà còn làm cho chúng bị cô lập trên thế giới.
Khi cách mạng thành công, chính quyền về tay nhân dân, Hồ Chí Minh lại
một lần nữa giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ lực lượng cách
mạng, trong nội bộ nhân dân nhằm xây dựng, mở rộng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh, muốn làm được điều đó cần phải
đấu tranh ngăn chặn những phần tử tiêu cực, thoái hóa, biến chất trong nội bộ
Đảng, chính quyền cách mạng. Hồ Chí Minh xác định đây là vấn đề còn khó khăn
hơn gấp nhiều lần so với trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh lại
một lần nữa chú trọng đến chữ đồng, mặt thống nhất, đoàn kết thông qua phương

pháp kết hợp các mặt đối lập được Người tiến hành một cách khách quan, biện
chứng. Tất cả những điểm chung, điểm tương đồng giữa các mặt đối lập của mâu


thuẫn xã hội được Người vận dụng theo hướng có lợi cho sự nghiệp cách mạng.
Người chỉ rõ, đối với mâu thuẫn nội bộ nhân dân thì thực hành dân chủ, đối với
mâu thuẫn của đế quốc, phong kiến và bè lũ phản động thì thực hành chuyên chính
để đàn áp chúng.
Tư tưởng kết hợp các mặt đối lập của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong
chủ trương, đường lối, chiến lược và sách lược cách mạng của Người. Sau khi tìm
thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản, Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù
hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản Mác và Ăngghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ" [19, tr.21]. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và cho rằng giải
phóng giai cấp là điều kiện cơ bản để giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh không giáo
điều khi vận dụng tư tưởng đó, Người cho rằng, trong hoàn cảnh một nước thuộc
địa nửa phong kiến như nước ta, giải phóng dân tộc sẽ tạo điều kiện để giải phóng
giai cấp. Hồ Chí Minh nhận thấy, mâu thuẫn xã hội cơ bản nỗi lên hàng đầu đó là
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bọn
tay sai; dưới chế độ thống trị của thực dân đế quốc, trừ bọn Việt gian và phản
động, các giai cấp và các tầng lớp trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm giai
cấp công nhân, nông dân, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, trí thức... tuy có lợi ích khác
nhau nhưng đều bị bóc lột nặng nề, đều có chung một nhu cầu và ý chí đánh đuổi
đế quốc xâm lược, giành quyền lợi về cho giai cấp. Hồ Chí Minh nhận thấy, các
giai cấp và các tầng lớp dù có những sự đối lập, sự khác biệt nhưng họ vẫn có
những điểm chung, tương đồng, từ đó Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu. Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp các mặt đối lập, kết hợp các giai cấp,
tầng lớp khác nhau, đối lập nhau vì mục tiêu chung. Sự liên minh, đoàn kết cả cộng

đồng dân tộc trong xã hội đã nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất, kiên
cường của dân tộc Việt Nam, điều đó đã huy động được sức mạnh to lớn trong
cộng đồng dân tộc. Chính sức mạnh to lớn đó đã đưa cách mạng giải phóng dân tộc
đến thành công, tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con
người trong xã hội.


×