Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.05 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Nhà nước pháp quyền là một mô hình, phương thức tổ chức nhà nước
và xã hội dựa trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Đảng
ta đã nhận thức được tính tất yếu khách quan, cấp thiết việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm chỉ ra: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Từ Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng ta đã chính thức
nêu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân.
Trải qua các hội nghị và các kỳ Đại hội Đảng, nhất là từ Đại hội VIII (năm
1996) đến nay, nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng
được bổ sung và có những bước phát triển quan trọng. Xuyên suốt thời kỳ
đổi mới, tư tưởng của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
nhất quán và tuân thủ như một nguyên tắc, tính quy luật của quá trình phát
triển đất nước. Tại Đại hội XII, Đảng ta có những bổ sung, phát triển lý luận
về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó vừa làm
sâu sắc thêm những quan điểm, tư tưởng đã được thể hiện nhất quán trong
các văn kiện trước đó của Đảng, vừa có những phát triển mới đáp ứng đòi
hỏi của tình hình thực tiễn.
Nghiên cứu quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là hướng tới làm rõ bản chất
cách mạng, khoa học và những bổ sung, phát triển mới, đồng thời, là cơ sở
quan trọng giúp cho mọi tổ chức, lực lượng nâng cao nhận thức, trách
nhiệm, cụ thể hóa vào giáo dục, tuyên truyền để nó thâm nhập sâu rộng vào
đời sống tinh thần, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân và toàn xã
hội; cũng thông qua đó mà lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân


Việt Nam nói riêng xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm trong xây dựng và
bảo vệ Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình
mới.



NỘI DUNG
1. Quá trình nhận thức của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức, quán triệt và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà
nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự theo phương châm “bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”. Chính phủ là chính phủ của nhân dân, Chính phủ phải hứa
với dân: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta
phải hết sức tránh”. Đó là một nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, “tất
cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe và chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp
1959). “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ
của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”.
Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới Nhà nước
đã manh nha một số nội dung về Nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định
“quản lý Nhà nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”; phải quan
tâm xây dựng pháp luật; từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật để bảo đảm cho bộ máy Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp
luật”.
Đến Đại VII, quan điểm đổi mới Nhà nước đã được bổ sung thêm nội
dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”. Như vậy, có thể nói, qua
hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi mới Nhà nước theo hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng đã có những bước tiến quan
trọng.



Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
(1/1994), chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới
được Đảng ta chính thức khẳng định và thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”
cũng mới lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện của Đảng. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở
nước ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, hiểu biết của
chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm.
Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải thận trọng trong quyết định, cũng như
trong tiến hành thực hiện.
Trong Văn kiện Đại hội VIII (1996), Đảng ta coi xây dựng Nhà nước
pháp quyền như một trong năm quan điểm cần quán triệt trong quá trình tiếp
tục cải cách, đổi mới Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Đến Đại hội IX, qua tổng kết những thành tựu nghiên cứu lý luận,
cũng như thực tiễn từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã
coi “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng” là một nhiệm vụ mang tính chiến lược và xuyên suốt trong quá trình
“đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ,
tăng cường pháp chế”.
Trong Văn kiện Đại hội X, khi tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi
mới, Đảng ta không những tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng Nhà
nước pháp quyền, mà còn ghi nhận điều chúng ta “có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản” là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
đang xây dựng. Khẳng định xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô
hình Nhà nước pháp quyền là một bước đột phá trong tư duy và thực tiễn
xây dựng Nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta. Đó là cơ sở chính trị
cho việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu về nhà nước pháp quyền, đổi mới
một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà

nước ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là ngày một, ngày hai chúng ta
có thể xác lập ngay được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong lý
luận và cả trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta đang
đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. Đó là: Vấn đề


thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mô hình nhà nước pháp quyền đã được nhân loại thử nghiệm, chọn lọc qua
nhiều thế kỷ và đang trở thành hình thức phổ biến trong thế giới đương đại.
Tuy nhiên, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không có nghĩa là “bê
nguyên” những hình thức ấy. Vả lại, ngay cả ở các nước phương Tây, nhà
nước pháp quyền cũng không hoàn toàn giống nhau. Ở mỗi quốc gia, nhà
nước pháp quyền cũng có những nét độc đáo riêng, tuỳ thuộc vào các đặc
điểm, truyền thống dân tộc cũng như điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và
văn hoá.
Hơn nữa, Nhà nước pháp quyền mà nhân dân ta đang xây dựng là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đó, về bản chất, là đối lập với
nhà nước pháp quyền tư sản. Do vậy, về nội dung pháp luật, về bản chất của
pháp luật chắc chắn cũng khác với nhà nước pháp quyền tư sản. Còn về hình
thức có thể có những nét tương đồng mà qua nghiên cứu, chọn lọc, cải biến,
chúng ta có thể kế thừa mặt này, mặt kia của mô hình này hay mô hình khác.
Tuy nhiên, đây cũng không phải là điều đơn giản, thậm chí còn là khá
phức tạp và rất nhạy cảm về chính trị. Chẳng hạn, việc có vận dụng hay
không vận dụng, vận dụng đến mức độ nào thuyết phân lập các quyền của
phương Tây. Ngay cả ở các nước tư bản, mức độ vận dụng học thuyết này
cũng không giống nhau. Điều đó không phải do có sự khác nhau về chế độ
chính trị, mà bắt nguồn từ nhiều lý do khác, trong đó có những quan niệm
khác nhau về tác dụng của sự phân quyền. Mục đích của việc phân quyền là
để tránh sự độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực. Đó là mặt tích

cực. Nhưng việc phân quyền giữa các cơ quan thực hiện quyền lực cũng có
những mặt trái của nó. Do vậy, ở các nước phương Tây cũng xuất hiện quan
điểm cho rằng, không nên cường điệu ý nghĩa mang tính chất lý thuyết của
thuyết phân quyền. Hơn nữa, thuyết phân quyền của phương Tây cũng
không chỉ thuần tuý ở khía cạnh kỹ thuật tổ chức -pháp lý, mà còn là đặc
trưng xã hội - chính trị của nhà nước pháp quyền tư sản. Hay, nói cách khác,
không chỉ là phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà còn là


việc phân chia quyền lực, phân bố quyền lực giữa các giai cấp và các nhóm
xã hội, các lực lượng xã hội.
Xuất phát từ những lý do đó, Đảng ta đặt vấn đề, trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta không áp dụng nguyên xi
thuyết phân quyền của phương Tây, mà “có sự phân công rành mạch giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và có sự phối hợp giữa các cơ quan thực
hiện những quyền đó”. Vấn đề đặt ra là làm sao tạo lập được những cơ chế,
thiết chế phù hợp đảm bảo sự phân công rành mạch ba quyền và sự phối hợp
nhịp nhàng giữa các cơ quan thực hiện quyền lực. Thiếu những cái đó khó
tránh khỏi tình trạng như đã và đang diễn ra ở những mức độ nhất định: lấn
quyền, lạm quyền, vượt thẩm quyền hoặc bỏ sót quyền, chưa sử dụng hết
quyền hạn của mình,…
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung phát triển năm 2011) do Đại hội lần thứ XI của Đảng thông
qua, đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực
Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước
ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng

tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân gắn bó
mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có
cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm dụng quyền, xâm phạm quyền dân chủ
của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất của
Trung ương”.
2. Những nội dung cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam theo quan điểm Đại hội XII của Đảng.


2.1. Những điều kiện, cơ sở để Đảng ta lãnh đạo về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nhưng những điều kiện cho việc xây dựng đó còn có những hạn chế nhất
định. Trước hết, đó là việc chuẩn bị về mặt lý luận. Phải nói rằng, trong
những năm đổi mới, chúng ta đã có những bước khởi động và tập trung
nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết từng vấn đề, từng khía cạnh cụ thể lý luận
Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tuy nhiên, việc thiết kế mô hình cụ thể
chưa thực sự thật chín muồi, không ít vấn đề còn phải được nghiên cứu, trao
đổi, tranh luận trên các diễn đàn, các trang sách báo. Liên quan đến lý luận
nhà nước pháp quyền còn phải nói đến một số lý luận khác, như xã hội công
dân, kinh tế thị trường. Những vấn đề này, cũng có thể nói, chưa được
nghiên cứu đủ tầm cả về bề rộng lẫn chiều sâu; hơn nữa, vẫn còn có những
quan niệm chưa thống nhất, nhất là về xã hội công dân. Nhà nước pháp
quyền được xây dựng trên cơ sở xã hội công dân.
Đến lượt mình, xã hội công dân chỉ có thể được hoàn thiện và phát triển

thuận lợi trên cơ sở Nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, đi đôi với xây dựng
Nhà nước pháp quyền, chúng ta phải tạo lập và hoàn thiện xã hội công dân.
Xã hội nước ta đã là xã hội công dân chưa, xây dựng và hoàn thiện xã
hội công dân đòi hỏi những gì? Tất cả những điều này phải có lý luận soi
sáng, hướng dẫn. Hơn nữa, ở nước ta, thực tiễn của quá trình đổi mới và xây
dựng xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng đã xuất hiện một số vấn đề phức
tạp mà lý luận chưa giải thích được hoặc giải thích chưa có sức thuyết phục.
Trong quan niệm và quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
ranh giới giữa tính nguyên tắc và bảo thủ, giữa tính linh hoạt, sáng tạo, tư
duy mới và hữu khuynh không phải là điều dễ dàng phân biệt rạch ròi… Bên
cạnh những vấn đề lý luận, còn phải nói đến những hạn chế về điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đã biết, tư tưởng
nhà nước pháp quyền xuất hiện từ rất sớm, nhưng phải đến thời đại cách
mạng tư sản mới có những điều kiện để phát triển thành học thuyết và hiện
thực hoá trong thực tế.
Ở nước ta hiện nay, nếu nói chưa có điều kiện để xây dựng Nhà nước
pháp quyền là không đúng, nhưng phải thấy rằng, chúng ta vẫn còn những
hạn chế nhất định, chẳng hạn, về trình độ dân trí. Không thể xây dựng một
chế độ dân chủ cao trên một nền dân trí thấp kém được. Nói đến trình độ dân
trí, trước hết, là nói đến ý thức pháp luật, trình độ văn hoá pháp lý. Dân chủ


hiện đại đi đôi với pháp luật. Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng phải xây dựng được Hiến pháp và
một hệ thống pháp luật đảm bảo tính đồng bộ, phản ánh và đáp ứng các yêu
cầu của tiến bộ xã hội.
Từ sau Đại hội VI đến nay, công tác lập pháp của Quốc hội nước ta đã
có những tiến bộ đáng kể, nhưng so với yêu cầu vẫn còn những hạn chế.
Chúng ta vẫn còn thiếu những đạo luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội;
hơn nữa, bản thân những điều luật đã có cũng cần phải được rà soát lại. Vì

vậy, sau 30 năm đổi mới, Đảng ta vẫn yêu cầu phải “tiếp tục đổi mới tổ chức
và hoạt động của Quốc hội,… Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật,
giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh”. Nói đến ý thức pháp luật còn phải nói
đến trình độ am hiểu pháp luật của nhân dân. Không am hiểu luật, không thể
có ý thức pháp luật cao. Nói đến trình độ dân trí còn phải nói đến đòi hỏi dân
chủ của nhân dân. Đòi hỏi dân chủ của nhân dân ta đã cao chưa? Đây là một
câu hỏi cần phải được đặt ra. Không có đòi hỏi dân chủ cao từ phía nhân
dân, từ cuộc sống không thể xây dựng chế độ dân chủ cao được. Nhân dân ta
phần lớn đang ở trong tình trạng bị động, tin tưởng, chờ đợi từ phía Đảng và
Nhà nước.
Thực tế đã chỉ ra rằng, xây dựng chế độ dân chủ theo kiểu ban phát từ
trên xuống, hoặc sẽ là rất hạn chế, hoặc sẽ trở nên hình thức. Trong chế độ
dân chủ tư sản hiện nay, sở dĩ người lao động có được một số quyền dân chủ
nhất định, đó tuyệt nhiên không phải là do “lòng từ thiện” của giai cấp tư
sản, mà là kết quả của cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài của quần chúng lao
động dưới chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên, Đảng và Nhà
nước rất quan tâm đến xây dựng chế độ dân chủ, mong muốn xây dựng một
chế độ dân chủ cao, rộng rãi đối với nhân dân. Nhưng rõ ràng điều đó vẫn
chưa đủ. Dân chủ phải là sự nghiệp của quần chúng, phải là “tác phẩm” của
bản thân quần chúng. Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là nhằm mục đích xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân,
một chế độ dân chủ triệt để, đầy đủ và thực sự cho nhân dân. Muốn vậy, phải
tiếp tục nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ, đảng viên và quảng đại quần
chúng nhân dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá
trình lâu dài. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng trong những năm qua,
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những thành tựu


nhất định, song trong quá trình xây dựng cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi

chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tìm kiếm, thử nghiệm. Do
vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang là
nhiệm vụ cấp bách đặt ra trước chúng ta.
2.2. Nội dung cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam theo quan điểm Đại hội XII của Đảng.
Trước hết, cần nhận thức đầy đủ những nội dung thuộc bản chất khoa
học, cách mạng các quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Tư tưởng về Đảng
là một bộ phận của hệ thống chính trị và là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
luôn nhất quán, được thực hiện một cách trung thành, xuyên suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tư tưởng ấy trong Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng là sự tiếp nối, đồng thời được bổ sung, phát triển mới phù hợp với
thực tiễn đất nước và quốc tế hiện nay. Nghị quyết Đại hội XII chỉ rõ: “Quan
điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung,
hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản”. Khái quát trên tiếp tục khẳng
định một nguyên tắc về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời thể hiện sâu sắc nhất bản chất
cách mạng, khoa học của quan điểm này. Nó phản ánh đúng thực tiễn xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những chuyển
biến tích cực và mạnh mẽ.
Quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đối lập với quan điểm của các học giả tư
sản ở mặt bản chất giai cấp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phù hợp với lịch sử, truyền thống
dân tộc cũng như thực trạng, đặc điểm đất nước ta hiện nay. Tinh thần ấy
biểu hiện tập trung ở quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là
chủ thể của quyền lực Nhà nước; nền tảng xã hội của Nhà nước là nhân dân,
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức. Điều đó được Nghị
quyết Đại hội XII khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền

tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức”. Còn nhà nước pháp quyền tư sản mang bản chất giai cấp tư sản,
quyền lực tập trung vào tay giai cấp tư sản. Ở phương diện đặc trưng quyền
lực nhà nước thì trong nhà nước pháp quyền tư sản thực hiện quyền lực


thống nhất trong tay giai cấp tư sản và hoạt động theo cơ chế “tam quyền
phân lập”. “Tam quyền phân lập” chỉ là thực hiện chức năng kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan thuộc nhà nước để tập trung quyền lực vào tay giai
cấp tư sản một cách hiệu quả nhất. Vì thế, “tam quyền phân lập” không có
giá trị đối với nhà nước thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân
làm chủ như ở nước ta. Quan điểm trong Nghị quyết Đại hội XII cũng thể
hiện ở hai mặt, quyền lực và cơ chế hoạt động giữa các cơ quan thể hiện
quyền lực, nhưng đối lập hoàn toàn về bản chất giai cấp với “tam quyền
phân lập” trong nhà nước pháp quyền tư sản. Nghị quyết Đại hội XII chỉ rõ:
“… quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Quyền lực thống nhất và sự phân công, phối hợp, kiểm soát
lẫn nhau trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng chung
mục đích thực hiện: Quyền lực thuộc về nhân dân. Sự phân công, phối hợp,
kiểm soát lẫn nhau trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là tạo điều kiện nhằm phát huy vai trò, chức năng của mỗi cơ quan để thực
hiện quyền lực thuộc về nhân dân chứ không phải phân chia quyền lực. Còn
“tam quyền phân lập” trong nhà nước tư sản chỉ là kiểm soát sự phân chia
quyền lực giữa các phe nhóm, đảng phái có địa vị, lợi ích gắn với nhà nước
của giai cấp tư sản. Tinh thần về: Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân…;
quyền lực Nhà nước là thống nhất... là những đặc trưng cơ bản thuộc bản
chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quan điểm này được
hiến định trong Hiến pháp năm 2013:
“Điều 2:

1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Điều 3:


Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện”.
Với sự hiến định trong Hiến pháp, cho thấy quan điểm về bản chất Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa thể hiện được sự bổ sung,
phát triển mới, vừa nâng tầm cao về tính pháp lý của quan điểm này.
Nội dung Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có tính
toàn diện, đồng bộ trên tất cả các mặt, các phương diện, bảo đảm tính hệ
thống và cho phép hoạt động đúng nguyên tắc pháp quyền; trong đó tập
trung nhất ở vấn đề lập pháp, hành pháp, tư pháp. Về thể chế, chức năng,
nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết Đại hội XII chỉ rõ: “Tiếp
tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức… theo quy định của
Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Tinh thần trên được cụ thể hóa trở thành
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan thuộc bộ máy Nhà nước, như: Đối

với Quốc hội, Nghị quyết Đại hội XII xác định: “… thực sự là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất…”. Với
nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất có chức năng lập pháp, có quyền quyết định
các vấn đề trọng đại của đất nước và có quyền giám sát tối cao hoạt động
của các cơ quan Nhà nước khác. Trong hệ thống các cơ quan quyền lực của
Nhà nước ta, Quốc hội có vị trí, vai trò rất lớn theo luật định. Quốc hội
“được làm” nhưng có “làm được” hay không - đó là vấn đề không nhỏ. Điều
đó liên quan trực tiếp tới thiết chế tổ chức và phương thức hoạt động của
Quốc hội.
Trong quá trình đổi mới, cải cách Nhà nước nói chung, Quốc hội nói
riêng, hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề: Quốc hội ta là quốc hội quốc dân
hay quốc hội nhân dân; hoạt động thường xuyên hay định kỳ, Quốc hội
“tham luận” hay “tranh luận”, Quốc hội chuyên nghiệp hay nghiệp dư, tỷ lệ
đại biểu chuyên trách và đại biểu nghiệp dư, cơ cấu và chất lượng đại biểu;
quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác, ... Xét về mặt lý


thuyết, Quốc hội ta là quốc hội quốc dân, đại biểu cho cử tri, cho nhân dân
cả nước. Nhưng vì nhiều lý do nên trên thực tế, điều đó chưa hẳn đã là như
vậy. Chức năng đại diện của Quốc hội ta vẫn thiên về đại biểu cho các địa
phương, đại diện cho cử tri ở đơn vị bầu cử, chứ chưa hẳn là cử tri cả nước.
Điều này có liên quan đến tổ chức bầu cử (bầu cử gắn với địa phương,
và do vậy, cách giải quyết như thế nào vẫn là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên
cứu. Quốc hội mang tính nghiệp dư hay tính chuyên nghiệp hoá? Xung
quanh vấn đề này hiện vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho
rằng, nếu Quốc hội hoạt động thường xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá
thì các đại biểu mất đi mối liên hệ trực tiếp với cử tri, với cơ sở. Dĩ nhiên,
Quốc hội hoạt động thường xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá sẽ xuất
hiện những trở ngại đó, nhưng không phải không có cách giải quyết, khắc

phục. Vả lại, theo kinh nghiệm của nhiều nước cũng như yêu cầu của nhà
nước pháp quyền, chỉ có Quốc hội hoạt động thường xuyên mới hoàn thành
được chức năng lập pháp, mới có đủ khả năng thay đổi, bổ sung luật, đạo
luật theo kịp với yêu cầu của cuộc sống.
Đó là điều cần suy nghĩ. Chuyên nghiệp hoá Quốc hội cũng là hướng
cần thiết. Nghị sĩ quốc hội phải làm chức năng đại biểu mà muốn vậy, phải
có tài năng, khả năng và phải dành thời gian để làm tròn nghĩa vụ và thạo
nghề đại biểu. Đó là chưa nói đến chuyện họ phải là những người lập pháp
thành thạo, có chuyên môn sâu, hay ít nhất cũng phải có năng lực thẩm định,
phản biện, chất vấn. Vấn đề tỷ lệ đại biểu chuyên trách đã được đặt ra trong
những khoá gần đây (hiện nay tỷ lệ đó vào khoảng 30%). Đó là hướng đi
đúng, nhưng đủ chưa. Ở đây, còn phải tính đến tỷ lệ đại biểu được tái cử và
không được tái cử. Như vậy, chỉ xoay quanh việc cải cách Quốc hội theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề
còn phải tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm, thực hiện.
Về Chính phủ là: “… cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Về tư pháp là: “…
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện
đại”. Với các nội dung ấy đã thể hiện đầy đủ quan điểm về một Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nội dung về: “Nhà nước pháp
quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” được nêu trong Nghị quyết Đại hội XII là một
điểm mới, một đặc trưng cơ bản được khái quát mang tính đặc thù hiện nay.


Với sự bổ sung mới, hoàn thiện ấy đã phản ánh đúng điều kiện, hoàn cảnh
hiện nay, đồng thời cũng cho thấy yêu cầu cao về trình độ phát triển ở tất cả
các mặt, các nội dung thuộc Nhà nước pháp quyền; trong đó nổi bật nhất là
tư tưởng về “nguyên tắc pháp quyền”. Đây là lần đầu tiên trong nghị quyết
“nguyên tắc pháp quyền” được khái quát. Nó như một điểm nhấn, nội dung

mới, sự khái quát hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, thể hiện sự phát triển tư
duy đổi mới của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ở trình độ cao. Ở đó, không chỉ thể hiện rõ quan điểm về các cơ quan trong
bộ máy, mà bao hàm cả sự hoàn thiện cơ chế vận hành, nguyên tắc tổ chức,
hoạt động của nhà nước. Nghị quyết Đại hội XII khẳng định: “Trong tổ chức
và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc
pháp quyền…”, “… coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội” , cho nên
càng làm rõ hơn bản chất giai cấp, đặc trưng dân tộc và sự ưu việt, trình độ
văn minh của Nhà nước ta trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Những vấn đề cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội XII có tính toàn diện, trong tính
chỉnh thể thống nhất rất cao. Trong đó, những nội dung quan trọng nhất nổi
lên là: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn… giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ…”; “Tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”; “Tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền…”;
“Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận
hành…”; “Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội,
vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm ra, giám sát quyền lực nhà nước.
Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo
đức xã hội”... Đây là những nội dung có tính đặc trưng cơ bản; nguyên tắc
bao trùm nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay. Đặc biệt, quan điểm về: “tuân thủ các nguyên tắc pháp
quyền”; xây dựng Nhà nước pháp quyền mang đặc trưng, sự phù hợp với:
“... điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế”; “Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây
dựng nền tảng đạo đức xã hội”... là những điểm mới và rất quan trọng.
Hệ thống quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thể hiện rõ tính quy luật phát triển tư duy của Đảng, đồng

thời cũng phản ánh lộ trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ


nghĩa Việt Nam trong nhiệm kỳ Đại hội XII với những thuận lợi và khó
khăn cụ thể. Với bản chất cách mạng và khoa học của các quan điểm trên là
cơ sở để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, về bản chất tốt đẹp và
sự vững mạnh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng và bảo vệ Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về
chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần tăng cường nguồn lực cho
quốc phòng, an ninh” đủ sức “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân
tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội”. Đồng thời, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nâng
cao hiệu lực quản lý của Nhà nước về quốc phòng, quản lý nhà nước đối với
tổ chức và hoạt động của Quân đội với tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; tăng cường xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, tạo cơ sở vững chắc để xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Do vậy, Quân đội nhân dân Việt Nam với vai trò là lực lượng chính
trị, lực lượng vũ trang nhất mực trung thành của Nhà nước, bảo vệ Đảng,

bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ, bảo vệ chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quân đội ta thực hiện chức năng đó không chỉ
bằng sức mạnh quân sự, sức mạnh của lực lượng vũ trang, mà còn bằng sức
mạnh chính trị, ở năng lực kiến thức về Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, ở
phẩm chất đạo đức cách mạng, thực sự là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà
nước và là niềm tin của nhân dân. Đồng thời cũng là sức mạnh trực tiếp đấu
tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, âm mưu “phi
chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Vì vậy, đẩy mạnh xây dựng


Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại phải
gắn với việc chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, Điều lệnh, Điều lệ, chế
độ của quân đội; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quân đội, làm
cho quân đội gắn bó chặt chẽ với hệ thống chính trị, với toàn xã hội; tăng
cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của mình trên
cơ sở pháp luật. Đó là một biện pháp cơ bản để nâng cao sức mạnh chiến
đấu, nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đội nhân dân, góp phần giữ
vững trật tự kỷ cương của xã hội.
Để thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ trên, đòi hỏi phải tăng cường giáo
dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của mỗi cán bộ, chiến sĩ; đổi mới
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật trong quân đội, nâng
cao trình độ kiến thức về luật pháp, trình độ văn hóa pháp lý cho sĩ quan và
chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng. Nghiên cứu giải quyết những vấn
đề về hành chính quân sự trong nhiệm vụ cải cách hành chính; nâng cao hiệu
lực của cơ quan bảo vệ pháp luật Nhà nước trong Quân đội nhân dân.
Trước sự phát triển mới của tình hình, một trong những nhiệm vụ quan
trọng và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay mà Đại
hội XII của Đảng đã xác định là: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị”. Trong đó, tập trung hoàn thiện thể chế, chức

năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện tổ chức và nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước; chú trọng công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Quân đội nhân dân ngoài việc thực hiện tốt chức năng cơ bản của mình
còn phải tích cực tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
vững mạnh. Với khả năng của mình và thực tiễn đã cho thấy quân đội có thể
tham gia vào hoạt động xây dựng Nhà nước trên nhiều mặt như củng cố,
nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, nhất
là hệ thống chính quyền, đoàn thể, Mặt trận ở cơ sở; tham gia đổi mới quy
trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là các bộ luật và pháp
lệnh về bảo vệ Tổ quốc (Luật Quốc phòng, Luật Biên giới quốc gia, Luật
biển Việt Nam, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan...), thực hiện quản lý
Nhà nước về quốc phòng, đẩy mạnh cải cách hành chính trong quân đội góp
phần tích cực vào việc cải cách hành chính quốc gia, thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, góp phần mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước


thực sự là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức
và thực hiện đường lối chính trị của Đảng...
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất
yếu, khách quan trong tiến trình phát triển của đất nước. Thực chất của vấn
đề này là nhằm bảo đảm cho Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý xã
hội bằng hệ thống pháp luật đồng bộ. Muốn thế, đòi hỏi phải có giải pháp
đồng bộ, trong đó điểm mấu chốt là phải từng bước hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời gắn liền với đó,
cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, cần
làm cho mọi quân nhân - công dân nắm vững pháp luật Nhà nước, có ý thức
và chấp hành nghiêm pháp luật, “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật”.

Quân đội là một bộ phận, một tổ chức thành viên của Nhà nước nên cán
bộ, chiến sĩ với tư cách là công dân cần được tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật rộng rãi, tạo điều kiện cho mọi người nắm vững pháp luật, tự
giác chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước trong đời sống thường nhật cũng
như trong quá trình tham gia các hoạt động xã hội. Nhưng cũng cần nhận
thức rõ điều rất quan trọng là, quân đội là lực lượng nòng cốt của nền quốc
phòng toàn dân, nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, hoạt động của
quân đội mang tính đặc thù cao, do đó việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật
cho cán bộ, chiến sĩ với tư cách là công dân, quân nhân cần phải được giáo
dục nội dung cơ bản trong hệ thống pháp luật, nhưng cũng cần nghiên cứu
kỹ, lựa chọn nội dung, chương trình, phương pháp sao cho phù hợp, thiết
thực phục vụ cho việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao. Cần tập
trung tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững, hiểu sâu những
luật, văn bản pháp lý (pháp lệnh, quy chế...) liên quan trực tiếp đến quốc
phòng - an ninh, đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhằm tạo thuận lợi về cơ sở
pháp lý trong hoạt động xây dựng và đấu tranh quốc phòng. Yêu cầu chung
là như vậy, còn đối với từng đơn vị cụ thể, cần nghiên cứu rất kỹ, phải căn
cứ vào tính chất, đặc điểm hoạt động của đơn vị để lựa chọn nội dung trọng
tâm cho phù hợp. Chẳng hạn như, những đơn vị hoạt động trên tuyến biên
giới, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững
Luật và Quy chế biên giới, nắm vững quan điểm, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội trong hoạt động


thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.
Đối với những đơn vị hoạt động trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm,
nhạy cảm về quốc phòng - an ninh, có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn
giáo lại cần tập trung tuyên truyền, giáo dục cho bộ đội nắm chắc Luật đất
đai, Pháp lệnh Tôn giáo, quan điểm, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo
của Đảng và Nhà nước để bộ đội không chỉ thực hiện nghiêm, mà còn có

trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, vận động đồng bào thấu suốt, chấp hành
chủ trương, chính sách, pháp luật Nhà nước, tăng cường khối đoàn kết các
dân tộc, đồng thời tích cực đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, kích động,
chia rẽ của các thế lực thù địch, phản động trên địa bàn. Đặc biệt, với những
đơn vị hoạt động trên vùng biển, đảo Tổ quốc, nhất là ở những khu vực nhạy
cảm, hiện đang có sự tranh chấp chủ quyền thì yêu cầu về nội dung tuyên
truyền, giáo dục pháp luật còn cao hơn. Ngoài ra đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ cần
nắm vững những luật về biển, đảo, hàng hải của Nhà nước, nắm vững quan
điểm, chủ trương giải quyết những bất đồng, tranh chấp của một số nước
trên địa bàn thuộc vùng biển đảo nước ta của Đảng và Nhà nước. Vì vậy,
còn phải nắm chắc luật, thông lệ, công ước quốc tế về biển, đảo, thềm lục
địa, vùng đặc quyền kinh tế... tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh, quản lý
và bảo vệ chủ quyền vùng biển Tổ quốc. Việc tuyên truyền, giáo dục nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước trong quân đội không chỉ được coi
trọng đẩy mạnh với các đơn vị thường trực mà cả đối với lực lượng dự bị
động viên - một lực lượng chiến lược, vừa là dân vừa là quân trong điều kiện
thời bình.
Bảo vệ Tổ quốc trong xu thế mở cửa, hội nhập, đan xen giữa hợp tác
với đấu tranh, đối tượng với đối tác vừa có những cơ hội và thuận lợi lớn, lại
vừa có những khó khăn, thách thức không nhỏ. Đặc biệt là đấu tranh bảo vệ
lợi ích quốc gia dân tộc, trong quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế, cũng như
đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải hết sức
tỉnh táo, khôn khéo, linh hoạt và điều mấu chốt là đấu tranh phải đúng
nguyên tắc, có cơ sở pháp lý và trong khuôn khổ pháp lý, trên cơ sở bảo đảm
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Muốn
thế, phải nắm được luật cơ bản của quốc tế và những quy định chung của
Hiến chương Liên hiệp quốc về những vấn đề liên quan, thậm chí cả luật của
nước sở tại có quan hệ hoặc liên quan đến ta trong hợp tác và đấu tranh. Đây
là yêu cầu mới, rất cao và cũng rất bức xúc đối với tất cả các ngành, các cấp,



trong đó có quân đội (trực tiếp nhất là đối ngoại quân sự) trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới.
“Sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật”, “toàn quân hành động
theo Điều lệnh” trở thành phong cách, đạo đức, nếp sống tốt đẹp của mỗi
cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ với tư cách là một
quân nhân - công dân, nên mọi ứng xử, mọi hành vi đều phải in đậm dấu ấn
khuôn khổ pháp luật. Điều đó cũng thể hiện rõ đạo đức của mỗi quân nhân,
của mỗi công dân, bởi lẽ một người có đạo đức trong sáng thì không bao giờ
làm việc gì bất chấp pháp luật Nhà nước và dư luận xã hội. Cho nên đạo
đức, pháp luật luôn luôn quyện vào trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, trên
mọi lĩnh vực hoạt động của mỗi quân nhân, từ việc đi lại, ăn ở đến làm việc,
học tập, ứng xử, giao tiếp, quan hệ quân dân, ...
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, chúng ta
đang nỗ lực tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại; coi trọng xây dựng vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng, tổ chức. Trong quá trình đó, cần tiếp tục đổi mới công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục và nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật Nhà nước, nhận thức sâu sắc về bản chất tốt đẹp của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; vạch rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn
chống phá của kẻ thù, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng; loại bỏ các
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các hiện tượng tiêu cực, sai trái
trong đơn vị; nhằm bảo đảm cho quân đội có đủ khả năng và sức mạnh cần
thiết để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; thực sự là một trong
những lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ
Tổ quốc; xứng đáng là lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng,
Nhà nước và nhân dân.
Hiểu và nắm vững những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Đảng ta về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là trong
Văn kiện Đại hội XII, nhìn lại chặng đường 30 năm đổi mới, đất nước ta đã

đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; vai trò lãnh đạo của
Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
được nâng lên, quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ


nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản, bản chất
dân chủ, Nhà nước của dân, do dân và vì dân ngày càng rõ ràng hơn…Vì
vậy, chúng ta càng nhận thức sâu sắc và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
thắng lợi của công của công cuộc đổi mới. Nghiên cứu Bộ môn Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung; quan điểm, tư tưởng xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, đối với những người
làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng có ý nghĩa rất
thiết thực; sẽ là cơ sở khoa học để quán triệt sâu sắc hơn nữa những quan
điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời
nêu cao ý thức trách nhiệm trong đấu tranh bảo vệ mặt trận chính trị, tư
tưởng cũng như quán triệt và thực hiện thắng lợi quan điểm, tư tưởng xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

KẾT LUẬN


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là quá trình tiếp nối
nhận thức, đúc rút kinh nghiệm của quá trình 30 năm lãnh đạo xây dựng đất
nước đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI khởi sướng. Xây dựng, bổ sung và
phát triển nhiều nội dung, trong đó vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng, quyết định những định hướng để
tiếp tục xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn
mới.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân là quá trình lâu dài, đòi hỏi phải thực hiện đổi
mới đồng bộ trên các mặt hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp; đổi mới
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục, khoa học và
công nghệ,... đổi mới tổ chức, bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức,... Vì vậy, ngoài việc xây dựng chiến lược, xác định chủ trương,
giải pháp đúng đắn phải có kế hoạch và bước đi thích hợp. Điều quan trọng
nhất là thống nhất nhận thức, biến thành quyết tâm thực hiện trong toàn bộ
hệ thống chính trị. Chỉ có trên cơ sở đó mới có thể xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Trên cơ sở nhận thức đúng bản chất vấn đề, thấy rõ tính cách mạng,
khoa học về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trong quá trình thực hiện phải luôn quán triệt tinh thần đấu tranh khắc phục
những hạn chế và sự chống phá của các thế lực thù địch. Những hạn chế,
khuyết điểm còn tồn tại và sự chống phá của các thế lực thù địch luôn “đồng
hành” cùng nhau trong chuỗi quá trình thực hiện mục tiêu của các thế lực
thù địch là từ “diễn biến” đến “tự diễn biến” và đến “tự chuyển hóa”... Các
thế lực thù địch với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, ở nhiều mặt, nổi bật


nhất là chống phá quan điểm về quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phủ nhận sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước; phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ...
hòng làm lạc hướng nhận thức trong xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H.1991.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1997.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2001.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2006.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016.
8. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,
Nxb Lao động, H.2014.
9. Học viện Chính trị - Tập bài giảng Nhà nước pháp quyền (dùng cho
đào tạo cao học xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước), H.2013.
10. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Các
chuyên đề bài giảng chính trị học, Nxb Chính trị -Hành chính, H.2010.


11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011.
12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011.
13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011.



×