TIỂU LUẬN:
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM QUA VĂN KIỆN ĐẠI
HỘI XI CỦA ĐẢNG
Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XI, trong bài viết này,
tác giả đã đưa ra và phân tích những điểm mới ấy. Đó là: 1, Về các đặc trưng cơ
bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 2, Thực tiễn quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua;
3, Những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ ngày 12/1/2011 đến ngày 19/1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua nhiều văn
kiện quan trọng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng. Nhiều chủ đề nêu trong các văn kiện này
đang được các cơ quan, ban, ngành triển khai quán triệt và học tập nhằm đưa Nghị
quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập và
phân tích một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được đưa ra trong các văn kiện này.
Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã xác định Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây dựng, tổ chức và vận hành
theo thể chế Nhà nước pháp quyền.(*)Đây là chủ trương, đường lối có tính chiến
lược của Đảng, xuất phát từ yêu cầu tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và
phát triển đất nước. Những yêu cầu tất yếu, khách quan đó bao gồm: Một là, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của
tiến trình tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Hai là, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu quản lý và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu phát triển xã hội theo hướng dân chủ,
hài hòa và bền vững.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bản chất là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là nhân tố khơng thể thiếu trong việc đảm bảo
sự ổn định chính trị, giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, tạo điều kiện cho người dân
thực hành các quyền tự do dân chủ, hướng tới xây dựng một đất nước dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó
đồng thời cũng là những phẩm chất đảm bảo cho xã hội phát triển theo hướng dân
chủ, hài hòa và bền vững.
Từ những yêu cầu trên đây, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII (tháng 01/1994), Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng khái niệm Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước
pháp quyền như một điều kiện không thể thiếu để phát triển nền dân chủ thực sự vì
nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”(1). Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(2). Trong
Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả
thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan cơng quyền”(3).
Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp
quyền nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các văn kiện Đại hội của Đảng, có thể khái
quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo quan điểm của Đảng ta: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp; Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật,
pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý
giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật; Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Qua khảo sát, tìm hiểu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bắt
đầu từ Nghị quyết Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng
01/1994) cho đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trên cơ sở đối
chiếu, so sánh với Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, có thể rút ra một
số điểm mới được nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Thứ nhất, quan niệm về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã được thể hiện tại các văn kiện, nghị quyết khác nhau của Đảng và
trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng
cơ bản đó đã được khái quát một cách cô đọng, tập trung tại một luận điểm về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) có ghi
rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng,
phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp
luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế
và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ
trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương”(4).
So sánh với quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nêu trong
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, có thể khẳng định rằng, luận điểm
được nêu trong Văn kiện Đại hội XI là luận điểm thể hiện đầy đủ và tập trung nhất
các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cái mới
của luận điểm trên thể hiện ở chỗ, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, chức năng của Nhà
nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước
với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe
ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước cịn phải
có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vơ trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của cơng dân. Có thể
coi đây là sự bổ sung thêm một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nhằm khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta.
Thứ hai, đối chiếu giữa Báo cáo chính trị tại các Đại hội IX, Đại hội X với Báo cáo
chính trị tại Đại hội XI, chúng ta thấy rằng, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX,
Đảng ta chỉ dành một mục nhỏ “1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng” ở phần “IX- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”(5) để nói về vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X, vấn
đề này được đề cập tại mục
“2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” ở phần “XI- Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hồn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(6). Cịn trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội XI, Đảng ta đã dành hẳn một phần “XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để chuyên bàn về vấn đề này. Điều đó cho thấy,
trước hết, về mặt hình thức trình bày, Đảng ta đã dành sự chú ý thỏa đáng và sự quan
tâm sâu sắc hơn đối với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Thứ ba, đánh giá về thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong những năm qua, Văn kiện Đại hội XI đã ghi nhận: “Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động
được nâng lên”(7). Tuy nhiên, Đại hội XI cũng thẳng thắn, nghiêm túc đánh giá, chỉ
ra những hạn chế, khuyết điểm: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”. Những hạn chế cụ thể
được chỉ ra trong Văn kiện Đại hội XI là: “Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều
hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan cịn chưa
hợp lý, biên chế cán bộ, cơng chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ
quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính
chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính cịn gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu;
phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không
nghiêm...”(8). Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên đây, như Văn kiện
Đại hội XI đã chỉ ra, ngoài các nguyên nhân khách quan, nhưng trực tiếp và quyết
định nhất vẫn là các nguyên nhân chủ quan, như công tác nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn nói chung, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của cơng
cuộc đổi mới, trong đó có vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
còn hạn chế, thiếu thống nhất. “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành
của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết,
dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng
lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức cịn bất
cập”(9). Các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và khả thi chưa được xác định đầy đủ, rõ
ràng và chậm được triển khai trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam... Việc chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như nguyên nhân của
những hạn chế, khuyết điểm đó là một điểm mới trong Văn kiện Đại hội XI cần được
ghi nhận; bởi lẽ, trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề này hầu như chưa
được đề cập đến. Đây cũng chính là cơ sở khoa học, thực tiễn để Đảng ta đề ra những
nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp cơ bản cần triển khai nhằm đẩy mạnh quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm tới.
Thứ tư, từ việc tập trung xác định rõ các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của việc xây dựng
Nhà nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội XI, lần đầu tiên, Đảng ta
xác định rõ những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những giải pháp
cụ thể gồm:
1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trước tiên, phải nâng cao nhận thức về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: không chỉ là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, mà cịn phải “bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”; không chỉ là Nhà nước quản lý, điều
hành theo pháp luật, mà còn phải “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà
nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”;
không chỉ là nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà còn phải
“nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong
việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; khơng chỉ là đề cao vai trị
của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, mà còn phải “tiếp tục hồn thiện hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt
các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”(10)... (những chữ in nghiêng là
do tác giả nhấn mạnh). Điểm mới ở đây là, cùng với yêu cầu nâng cao nhận thức về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI còn
chỉ ra những nhiệm vụ thiết thực, cụ thể nhằm từng bước hiện thực hóa việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là khâu then chốt đảm bảo sự
thành công của việc xây dựng, sự vận hành có hiệu lực, hoạt động có hiệu quả cao
của Nhà nước pháp quyền xã hội hội nghĩa Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Văn kiện Đại
hội XI đã đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước:
Thứ nhất, “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc hội thực sự là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất...”.
Muốn đạt được mục đích đó, cơng tác bầu cử đại biểu Quốc hội cần có sự đổi mới,
hồn thiện về cơ chế để cử tri có thể lựa chọn và bầu được những người đủ đức, đủ
tài, xứng đáng trở thành đại biểu của nhân dân trong Quốc hội. Thực tiễn công tác
chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XIII đang đặt ra u cầu này. Vấn đề gia tăng tính
dân chủ, cơng khai, đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở trong các phiên thảo
luận và hoạt động chất vấn trên diễn đàn Quốc hội cũng phải được chú trọng và tăng
cường hơn nữa.
Thứ hai, “tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước
hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng
tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống...”. Đây cũng đang là đòi hỏi cấp thiết của
thực tiễn đời sống pháp luật, khi mà các luật, pháp lệnh của Nhà nước cứ phải
thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Để nâng cao chất lượng cơng tác xây dựng pháp luật
thì cần phải tăng cường hoạt động khảo sát thực tiễn các quan hệ xã hội đang cần có
pháp luật điều chỉnh; làm thật tốt công tác dự báo pháp luật.
Thứ ba, “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để
thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối
ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Từ sự nghiên cứu đó, có lẽ,
việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) theo
hướng mở rộng, tăng thêm thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước là một giải
pháp cần được tính đến.
Thứ tư, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng
nền hành chính thống nhất, thơng suốt, trong sạch, vững mạnh; có hiệu lực, hiệu quả;
tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của
Chính phủ...”. Chính phủ là cơ quan hành pháp nên có vai trị quan trọng hàng đầu
trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năng lực của chính phủ,
của từng thành viên chính phủ trong việc dự báo, ứng phó, giải quyết nhanh chóng,
kịp thời, đúng pháp luật những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phịng... mới nảy sinh sẽ là điểm mấu chốt trong thực hiện giải pháp này.
Thứ năm, “đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và
bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân...”. Thực tế cho
thấy, dù đã thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt tiến trình cải cách hành chính, trong đó có
các thủ tục hành chính; song, kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng sự mong đợi của
nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang
đặt ra đòi hỏi phải chuyển hồn tồn từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính vì
dân, phục vụ nhân dân.
Thứ sáu, “đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người...”. Đối với nội dung này, Văn kiện Đại hội XI nêu ra một loạt vấn
đề cần tập trung làm tốt hơn trong thời gian tới, như hoàn thiện tổ chức bộ máy các
cơ quan tư pháp; đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan,
tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp; đổi mới hệ thống tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra; nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp...
Thứ bảy, “tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương...”(11);
trong đó, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân các cấp phải là vấn đề được chú trọng hàng đầu; đồng thời, tiếp tục
thực hiện thí điểm chủ trương khơng tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường.
Thực ra, những giải pháp cụ thể trên đây đã từng được Đảng ta đề cập trong các Văn
kiện Đại hội IX và X, nhưng chúng không gắn liền với vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc đưa tất cả các giải pháp trên tập trung vào phần
“XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong
Văn kiện Đại hội XI cho thấy, Đảng ta quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh
mẽ việc đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước - một trong những nhân tố
đảm bảo cho việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đây cũng là một điểm mới của Văn kiện Đại hội XI.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực đáp ứng u cầu
trong tình hình mới
Đội ngũ cán bộ, cơng chức là khâu chủ yếu thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải được đội ngũ cán bộ, công chức triển
khai trên thực tế thì mới có thể đi vào trong đời sống xã hội. Họ là những người trực
tiếp chuyển từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức trong sạch, có năng lực đáp ứng u cầu trong tình hình mới vừa là nhiệm vụ,
vừa là giải pháp hết sức quan trọng của quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI nhấn mạnh: “Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng
lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động
viên, khuyến khích cán bộ, cơng chức hồn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi
miễn những người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân
dân”(12). Trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cũng đã được Đảng ta đề cập nhiều lần, nhưng cịn ít gắn với nội dung xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Còn trong Văn kiện Đại hội XI, việc
tách riêng vấn đề này và đặt nó là một trong bốn nội dung gắn liền với việc đẩy mạnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứng tỏ rằng, Đảng ta
đã và đang hết sức coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong tiến trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Tích cực thực hành tiết kiệm, phịng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng,
lãng phí
Nhận thức một cách sâu sắc những tác hại nghiêm trọng mà nạn tham nhũng gây ra
đối với sự tồn vong của một chính thể, đang thực sự là nguy cơ đối với công cuộc đổi
mới, xây dựng, phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã phát động cuộc chiến
chống tham nhũng. Vấn đề đấu tranh chống tham nhũng đã được Đảng ta đề cập
trong các văn kiện Đại hội IX và X, nhưng không trực tiếp gắn liền với vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nay, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng
ta coi việc tích cực thực hành tiết kiệm, phịng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí là một trong những nội dung không thể thiếu của việc đẩy mạnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là một điểm mới
và hoàn toàn hợp lý; bởi lẽ, tham nhũng được coi là một thứ “quốc nạn”, một thứ
“giặc nội xâm”, gây phương hại đến tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. “Phịng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa lâu dài”(13) trong quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tóm lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương,
đường lối có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu,
khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thức, quan điểm của
Đảng ta về các đặc trưng cơ bản, về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, phát triển và
hồn thiện dần qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trong Văn kiện Đại hội XI
chứa đựng nhiều điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cả trên phương diện hình thức trình bày, cách diễn đạt, cả trên phương diện nội
dung các đặc trưng cơ bản, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể khẳng định rằng,
những nội dung liên quan đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nêu trong Văn kiện Đại hội XI là sự thể hiện bước phát triển mới
trong quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. (13)
********************
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131-132.
(2) Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002,
tr.178.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.85-86.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131.
(6) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125-126.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.159.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.171-172.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.179-180.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246-247.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.248-251.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.252.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.252-253.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I.LÊNIN VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CỦA ĐẢNG TA
VŨ TRỌNG DUNG (*)
Đưa ra và luận giải những nội dung căn bản trong chính sách kinh tế mới của
V.I.Lênin, đồng thời chỉ rõ ý nghĩa to lớn của nó không chỉ đối với công cuộc khôi
phục và phát triển kinh tế ở nước Nga Xôviết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, mà
cịn đối với cơng cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm đổi mới, tác
giả đã khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trên tinh thần vận dụng sáng tạo chính sách kinh
tế mới của V.I.Lênin là đúng đắn và cần thiết để đưa nền kinh tế nước ta từng bước
tiến lên.
Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin được ban hành và áp dụng ở nước Nga
Xôviết cách đây đã chín mươi năm. Qua mỗi bước thăng trầm của lịch sử, bản chất
cách mạng và sáng tạo của nó lại một lần nữa được khẳng định.
Chúng ta đều biết, thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xôviết đã phải trải
qua một chặng đường phát triển đầy mâu thuẫn và phức tạp. Tháng 2 năm 1921,
V.I.Lênin đã xác định nhiệm vụ cho nước Nga Xôviết như sau: “Trong một số vấn đề
kinh tế, chúng ta cần rút lui về những vị trí của chủ nghĩa tư bản nhà nước”(1). “Chủ
nghĩa tư bản nhà nước” mà V.I.Lênin nói tới ở đây là chủ nghĩa tư bản nhà nước
trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Nếu như trong những
năm đó, đơi khi V.I.Lênin có nói tới “Chủ nghĩa cộng sản”, thì điều đó chỉ có nghĩa
là ơng nói nó xuất hiện ở giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Bởi vì, chủ nghĩa cộng sản trọn vẹn, chín muồi là sự nghiệp của một tương lai
lâu dài. Chính sách kinh tế mới được xem là khâu chính của thời kỳ quá độ cũng là
đối sách của V.I.Lênin do hoàn cảnh khách quan trong nước những năm 1920 - 1921
tạo ra. Vì vậy, để hiểu rõ thực chất chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, trước tiên
cần phải xem xét tình trạng của nước Nga Xôviết thời kỳ sau nội chiến (1920).(1)
Như mọi người đều biết, tình trạng kinh tế của nước Nga Xơviết sau nội chiến vô
cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ”, tình trạng phân tán và
tản mạn của những người tiểu sản xuất, sự nghèo đói, vơ văn hố và mù chữ của họ,
mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nơng thôn bị ngừng trệ. Nội chiến
những năm 1918 - 1920 làm khánh kiệt đất nước, cản trở công việc tái thiết lực
lượng sản xuất vốn đã bị tàn phá nặng nề. Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920,
nạn dịch súc vật; vì vậy tăng thêm những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc
khơi phục giao thơng và cơng nghiệp.
Theo đà ngày càng suy thối của tình trạng kinh tế đất nước, tình thế chính trị cũng
tiếp tục trầm trọng hơn. Khá phổ biến là sự dao động về chính trị của người tiểu sản
xuất. Cuộc nổi loạn ở Crônstát và cuộc khởi nghĩa của nông dân ở vùng Tambốp đã
thể hiện một cách đặc trưng cho sự dao động của tầng lớp tiểu tư sản và tính tự phát
của nơng dân nói chung. Những sự kiện diễn ra vào mùa xuân năm 1921 chứng tỏ
Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng và những người mensêvích muốn thực hiện
“chuyển giao chính quyền” cho những phần tử tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân làm
nảy sinh tình trạng này đã được V.I.Lênin chỉ rõ rằng, đó là do “chúng tôi đã tiến quá
xa trong cuộc tấn công về mặt kinh tế… Chúng tôi chưa đủ sức để chuyển trực tiếp
sang những hình thức thuần túy xã hội chủ nghĩa, sang việc phân phối thuần túy xã
hội chủ nghĩa; và nếu chúng tôi lại tỏ ra không có khả năng lùi bước, để chỉ đóng
khung trong những nhiệm vụ dễ hơn mà thơi, thì có lẽ chúng tôi đã bị nguy cơ diệt
vong rồi” (2).
ở đây, V.I.Lênin muốn nói rằng, nếu như “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” trước đây
được rất nhiều người trong Đảng hiểu như là một chính sách cần phải được tiếp tục
trong chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì thực tế đã
cho thấy, sau chiến tranh, khơng thể tiếp tục con đường đó, bởi nó đối lập Đảng với
quần chúng nhân dân, công nhân với nông dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền kinh
tế vốn đã hoang tàn của đất nước.
Tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng sản (b) Nga đã nhất trí thơng
qua chính sách kinh tế mới. Đảng đã quyết định áp dụng ở nước Nga Xôviết những
biện pháp khẩn cấp, kiên quyết nhằm cải thiện tình cảnh của nông dân và phát triển
lực lượng sản xuất ở nơng thơn.
Qua nhiều bài viết và nói của V.I.Lênin, chúng ta thấy rõ lúc đó ơng đã thay đổi quan
điểm của mình về các thành phần kinh tế trong nước và sự tác động qua lại lẫn nhau
của chúng, về vai trò của giai cấp tư sản mới, và nhất là về vai trò của hợp tác xã và
quan hệ thị trường. Cần nhấn mạnh rằng, những quan điểm đó cịn tiếp tục thay đổi
trong những tác phẩm cuối cùng của V.I.Lênin. Đối với ơng, việc thay đổi đó là hồn
tồn tự nhiên. Ơng ln vận dụng phương pháp của phép biện chứng duy vật để giải
quyết những mâu thuẫn mới nảy sinh và phát triển. Ông chỉ rõ rằng, khi tình hình đã
thay đổi thì khơng thể áp dụng những phương pháp cũ. Rằng, chúng ta không tránh
khỏi sai lầm khi vẫn duy trì tình trạng cả xã hội chỉ là một văn phòng và một nhà
máy cùng lao động như nhau, hưởng cùng một mức lương. Vì vậy, sau nội chiến,
ông đã kịp thời thay đổi chủ trương, chuyển từ cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản thời
chiến” sang chính sách kinh tế mới.
V.I.Lênin đã rút ra kết luận là: Trong điều kiện thực tế của nước Nga, giai cấp vô sản
đã giảm nhiều sau hai cuộc chiến tranh lại vừa mới giành chính quyền về tay, họ
khơng có kinh nghiệm quản lý và do vậy, khơng có khả năng khẳng định sở hữu xã
hội đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội. Để phát triển lực lượng sản xuất
trong điều kiện mới hình thành, cần phải kiên quyết duy trì nền kinh tế nhiều thành
phần. Điều đó có nghĩa là, ngồi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mới chỉ phôi
thai và về nguyên tắc, được cơng nhận là có vai trị chủ đạo, cần phải cho phép tồn
tại những phương thức sản xuất khác và hơn nữa cần phải phát triển ở mức độ nhất
định một số thành phần kinh tế khác. Trong khi vận dụng chính sách kinh tế mới,
V.I.Lênin đã dùng từ “quá độ” để chỉ rõ trong nền kinh tế của nước Nga khi đó “có
những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội”(3).
Nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đầu thế kỷ XX, ở
nước Nga khi đó có những thành phần kinh tế sau đây:
“1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;
2. Sản xuất hàng hố nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mỳ);
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân;
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước;
5. Chủ nghĩa xã hội”(4).
ở đây xuất hiện vấn đề là, thành phần kinh tế nào trong những thành phần kinh tế ấy
có thể chấp nhận được đối với chủ nghĩa xã hội tương lai, các thành phần kinh tế tác
động qua lại theo hướng nào trong mối quan hệ tương hỗ ấy?
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin cho phép sử dụng ở từng khâu sản xuất và lưu
thông những phương thức kinh tế đa dạng và đang từ từ biến đổi với quy mơ lớn; có
chú ý tới trình độ trang bị kỹ thuật nhằm phát huy cao độ khả năng của tất cả các
thành phần kinh tế khác nhau và từng bước liên kết chúng, trong khi vẫn duy trì và
phát huy vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, hướng hoạt động của nền kinh tế
theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quyết định mang ý nghĩa chiến lược này có tác dụng
mở ra mọi khả năng phát triển lực lượng sản xuất và thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp
lý. Đó chính là phương sách đúng đắn như V.I.Lênin đã chỉ ra: “Để chúng ta có thể
làm trịn một cách thắng lợi nhiệm vụ của chúng ta, tức là chuyển thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách
trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa
xã hội”(5). Chính chủ nghĩa tư bản cũng phải bắt đầu bằng cách ấy. Nhấn mạnh vai
trò của chủ nghĩa tư bản như là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất,
V.I.Lênin đã kiên trì giải thích rằng, nước Nga chưa đủ sức để chuyển trực tiếp từ
tiểu sản xuất sang chủ nghĩa xã hội, và trong điều kiện như vậy, chủ nghĩa tư bản ở
một mức độ nhất định là không tránh khỏi, giống như sản phẩm tự nhiên của nền tiểu
sản xuất và trao đổi hàng hoá; nhưng nhiệm vụ trực tiếp là: “Chúng ta phải lợi dụng
chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà
nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm
phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản
xuất lên”(6).
Đương nhiên, chủ nghĩa tư bản nhà nước đúng với nghĩa của nó khơng phải là giải
pháp trực tiếp đưa nền sản xuất nông nghiệp sang nền nếp xã hội chủ nghĩa. Song,
theo V.I.Lênin, ở giai đoạn phát triển này của nền kinh tế nước Nga, chủ nghĩa tư
bản có thể là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, bởi nó tồn tại và chịu sự quản lý, điều tiết của
chính quyền Xơviết. Vì vậy, cho dù giữa hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa và chủ
nghĩa xã hội cịn có sự cạnh tranh, song đó chính là động lực phát triển của lực lượng
sản xuất. V.I.Lênin nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước cịn đóng vai trị hỗ trợ
cho chủ nghĩa xã hội và chính quyền Xơviết có được lợi ích trước mắt dưới dạng
phát triển lực lượng sản xuất và tăng khối lượng sản phẩm cho những nhu cầu thiết
yếu trong một thời gian ngắn. Đây là lý do cắt nghĩa vì sao cần sử dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước như một phương tiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết trong những năm 20 của
thế kỷ XX, cần thiết phải sử dụng không những chủ nghĩa tư bản trong nước, mà cả ở
nước ngoài nữa, khi cần phải học tập kinh nghiệm của phương Tây, và nói chung, cả
kinh nghiệm của những nước phát triển. V.I.Lênin chỉ rõ: “Dùng cả hai tay mà lấy
những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền xơ viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ
thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + =
tổng số = chủ nghĩa xã hội”(7). Liên quan tới vấn đề này, V.I.Lênin còn thẳng thắn
phê phán những đảng viên chỉ muốn mơ ước về “sự trong sạch” của chủ nghĩa cộng
sản, sính thảo ra những dự án, quy chế và quy tắc khác nhau nhưng lại không thúc
đẩy được cơng việc thực tế tiến lên.
Như vậy, có thể nói, khi vạch ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã
coi thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước là điều kiện cần thiết để chuyển
sang chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như nước Nga. Ơng đã chỉ rõ vai trị đặc
biệt và vị trí cần thiết của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế nước Nga: “Chủ
nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của
nước ta… Chủ nghĩa tư bản nhà nước khơng có gì là đáng sợ đối với Chính quyền
Xơviết, vì nước Xơviết là một nước mà trong đó chính quyền của cơng nhân và nông
dân nghèo đã được bảo đảm”(8). Không chỉ thế, ông còn nhấn mạnh rằng, “đối với
thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đã cho phép tồn tại, thì cần phải để cho nó tồn tại.
Nếu chủ nghĩa tư bản đó là qi đản và khơng tốt, thì chúng ta có thể uốn nắn nó, vì
chính quyền nằm trong tay chúng ta, và chúng ta chẳng có gì mà sợ cả. Tất cả mọi
người đều thừa nhận điều đó, và sẽ là lố bịch nếu lẫn lộn điều đó với việc gieo rắc
tâm trạng hoang mang. Nếu chúng ta sợ thừa nhận điều đó, thì chắc chắn chúng ta sẽ
tiêu vong. Nhưng chúng ta sẽ học tập điều đó, chúng ta sẽ có quyết tâm học tập điều
đó; đây là điều đã được chứng minh trong ba, bốn, và năm năm nay là những năm
mà chúng ta đã học tập được những điều còn phức tạp hơn trong một thời gian ngắn
hơn”(9).
V.I.Lênin cho rằng, chúng ta có thể học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước của người
Đức, dốc hết sức ra bắt chước nó và khơng ngại dùng biện pháp độc tài để đẩy nhanh
nước Nga cổ dã man bắt chước con đường phát triển của Tây Âu đó và không ngần
ngại dùng những thủ đoạn dã man để đấu tranh với tình trạng dã man.
Chính sách kinh tế mới cịn có ý nghĩa to lớn đối với nơng thôn, nông dân. Mặc dù
thực chất của vấn đề là ở sự điều chỉnh mối quan hệ trao đổi giữa thành phố (cơng
nghiệp) và nơng thơn (nơng nghiệp), song đó chính là sự sống cịn của nơng thơn và
người nơng dân.(8)Không phải vô cớ mà V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trị của chính
sách thuế lương thực và cơ chế thị trường. Trên thực tế, thực hiện chính sách thuế
lương thực không chỉ là sự thay thế việc trưng thu lương thực thừa, mà cịn có nghĩa
là tự do bn bán lúa mì thừa và các sản phẩm khác sau khi đã nộp thuế. Đây là một
chính sách thơng minh và hợp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, nó củng cố khối liên minh công
nông với tư cách nền tảng giai cấp của chủ nghĩa xã hội tương lai; thứ hai, tạo ra sự
phát triển thương mại tự do, chủ động và góp phần khơi phục tồn bộ nền kinh tế
thông qua việc hồi sinh các quan hệ tư bản tư nhân. Theo V.I.Lênin, tự do thương
mại chính là địn bẩy phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp và
tiểu công nghiệp, cũng như mở rộng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa quan liêu
trong kinh tế. Ông viết: “Cơ sở kinh tế” của sự tiêu vong của chủ nghĩa quan liêu,
của sự tiêu vong các tầng lớp trên và tầng lớp dưới, của sự tiêu vong sự bất bình
đẳng...” là ở “việc trao đổi hàng hố với nơng dân”(10). Rằng, “kinh tế nơng dân, với
tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu khơng có một
sự tự do trao đổi nào đó, và khơng có những quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự
do trao đổi đó”(11). Do vậy, theo ơng, với nước Nga khi đó, thương nghiệp là
“phương sách kiểm nghiệm” đời sống kinh tế nhà nước, là “mối ghép” duy nhất, là
cái có thể liên minh đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô sản với nơng dân để từ đó, mới
có thể có sự phát triển kinh tế.
Nhờ có chính sách kinh tế mới và q trình sản xuất nên chỉ trong vịng một năm
rưỡi nhân dân Liên Xô đã đạt được những kết quả rực rỡ, có ý nghĩa quyết định trong
kinh tế; tình cảnh của nơng dân và đa số những người tiểu sản xuất đã được cải thiện;
trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ đã có sự tiến triển, khơng cịn cảnh cơng nhân bất
bình; trong lĩnh vực cơng nghiệp nặng đã bắt đầu tích luỹ được vốn cần thiết để vực
nền công nghiệp nặng đi lên. Thế nhưng, không phải tất cả những người bơnsêvích
đều ủng hộ chính sách kinh tế mới, trong dư luận xã hội vẫn cịn có nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, điều quan trọng là phải hiểu đúng thực chất của
chính sách kinh tế mới. Bởi lẽ, một số người cho rằng, chính sách kinh tế mới chỉ là
biện pháp nhất thời; số người khác lại coi đó chỉ là thời kỳ khôi phục kinh tế đất
nước sau nội chiến; số thứ ba thì nhìn nhận đó là tổn thất của cách mạng, là sự chệnh
hướng sang tư bản chủ nghĩa. Chỉ có một số người hiểu đúng rằng, chính sách kinh
tế mới là một trong những hình thức, phương thức hợp lý nhất để chuyển từ “chế độ
cộng sản thời chiến” sang chủ nghĩa xã hội. (10)
Như vậy, ở đây là cả một quá trình, trong đó cách đặt vấn đề về xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin đã có sự thay đổi. Nhưng bản thân
V.I.Lênin vẫn chưa nói đến việc thay đổi căn bản quan niệm về chế độ xã hội chủ
nghĩa. Công thức về “chế độ của những người xã viên văn minh” dĩ nhiên không thể
bao hàm tất cả bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như cơng thức “Chính quyền xơ
viết cộng với điện khí hóa tồn quốc”. Chúng ta khơng thể tán thành quan điểm cho
rằng, dường như chính sách kinh tế mới là mơ hình “mới” của chủ nghĩa xã hội do
V.I.Lênin nghĩ ra lúc cuối đời. Chính sách kinh tế mới khơng phải là mơ hình mới
của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là hướng mới trong việc xây dựng nền móng của chủ
nghĩa xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thông qua việc lợi dụng nền kinh tế nhiều thành
phần để tránh chủ nghĩa giáo điều trong việc quản lý kinh tế của nhà nước. Cơ chế
kinh tế của chính sách kinh tế mới theo quan niệm của V.I.Lênin, về cơ bản, vẫn là
cơ chế đặc trưng không phải cho chủ nghĩa xã hội, mà là cho thời kỳ quá độ xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Với V.I.Lênin, chính sách kinh tế mới là sự kết hợp nhiều hình thức sở hữu khác
nhau và do vậy, trong nó có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các quan hệ sản xuất
khác nhau. Đường lối phát triển này là sự củng cố từ từ nhằm tăng cường phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cơng nghiệp và nơng nghiệp để nó đủ khả năng
phục hồi kinh tế đất nước và sau đó, phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga
Xôviết. Rất tiếc rằng, mấy năm sau khi V.I.Lênin qua đời, chính sách kinh tế mới đã
sớm bị dừng lại, không được tiếp tục hồn chỉnh, bổ sung trong cơng cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo chính
sách kinh tế mới của V.I.Lênin vào điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta. Từ Đại hội
VI (năm 1986), Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đặc
trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ trương
chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu thời kỳ trước đổi
mới, ở nước ta chỉ có một thành phần kinh tế là “thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể”, thì giờ đây, phải “bằng những
biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự
liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(12).
Đây là lúc thực tiễn đặt ra cho chúng ta cần phải nhận thức đúng đặc điểm của nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ như V.I. Lênin đã chỉ ra là có những thành phần, những
bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện đó,
khơng thể xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ bằng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa;
nghĩa là khi đề ra đường lối kinh tế phải tính tới tất cả các thành phần kinh tế hợp
thành nền kinh tế quốc dân, khơng được bỏ sót một thành phần kinh tế nào. Chỉ có
như vậy, chúng ta mới khai thác được mọi tiềm năng của sản xuất, khai thác được
sức mạnh của toàn dân trong tất cả các thành phần kinh tế, mới thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.(12).
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, Đại hội X của Đảng (năm
2006) đã xác định năm thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là:
1. Thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà
nước (trước đây thường gọi là kinh tế quốc doanh) và các sở hữu khác của Nhà nước,
kể cả phần vốn của Nhà nước trong các đơn vị liên doanh. Đảng ta khẳng định:
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển”(13).
2. Thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình
thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng
thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất,
kinh doanh và đời sống. Trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(14).
3. Thành phần kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Mục tiêu đổi mới của
chúng ta là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta có kinh tế tư nhân, nhưng chúng ta khơng tư nhân hố nền kinh tế. “Kinh tế
tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(15). Vì
vậy, Đảng ta chủ trương phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình
doanh nghiệp tư nhân. Và, để phát triển kinh tế tư nhân - thành phần kinh tế năng
động nhất, chiếm số lượng doanh nghiệp và số người tham gia đơng nhất, cịn nhiều
tiềm năng phát triển, Đảng ta xác định: “Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt
động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được
pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội,
nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin. Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã
hội và mơi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân
phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”(16).
4. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình
thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp
tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngồi. Kinh tế tư bản nhà nước
có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả
năng tổ chức, quản lý, thị trường,… của nhà tư bản để phát triển sản xuất vì lợi ích
của bản thân họ và của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo
thêm việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là thành phần kinh tế được khuyến
khích phát triển.
Trong định hướng lớn về phát triển kinh tế, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức, kinh doanh và hình thức phân phối. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh”(17).
Như vậy, có thể nói, quan điểm của Đảng ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý
của Nhà nước chính là sự tiếp tục cuộc cách mạng trên lĩnh vực quan hệ sản xuất
trong điều kiện mới, đảm bảo thích ứng của quan hệ sản xuất với trình độ hiện có của
lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường ln có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Song, với tình hình cụ thể hiện nay của nước ta, chúng ta khơng có
con đường nào khác là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải chấp nhận ở mức độ nhất định
những quan hệ mà chúng ta đang muốn xoá bỏ, như lao động làm thuê, người bóc lột
người, bất bình đẳng, bất cơng, sự phân hố giàu nghèo, nạn thất nghiệp… Song, với
chúng ta, cơ chế thị trường chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất chứ
khơng phải là mục đích cần đạt tới.
Trong hồn cảnh đó, để đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. ở đây, sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước là một tất yếu khách quan. Hiện nay, chúng ta đã có một bộ máy nhà nước
đủ mạnh và một hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện để quản lý, điều
khiển sự vận động và phát triển chung của xã hội. Bằng các biện pháp, nhất là các
biện pháp kinh tế và hệ thống luật hiện hành, Nhà nước cần chủ động điều tiết và tạo
dựng sự liên kết giữa các xu hướng khác nhau, từ đó tạo nên một động lực chung cho
sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. (17)
Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã đạt
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo đà cho đất nước bước vào thời kỳ phát
triển mới. Điều đó đã và đang khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trên tinh thần vận dụng
sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin là đúng đắn và cần thiết để đưa nền
kinh tế nước ta từng bước tiến lên, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
************
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Giảng viên cao cấp, Học viện Chính trị - Hành chính Khu
vực I.
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.44. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.254.
(2) V.I.Lênin. Sđd., t.45, tr.328.
(3) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.248.
(4) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.248.
(5) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.274.
(6) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.276.
(7) V.I.Lênin. Sđd., t.36, tr.684.
(8) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.252.
(9) V.I.Lênin. Sđd., t.41, tr.141-142.
(10) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr. 462.
(11) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr. 376.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.41.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.83.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.83.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.86-87.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.73.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VẬN
DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MAI THỊ QUÝ (*)
BÙI THỊ HẰNG (**)
Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách khái quát quan niệm duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin về các vấn đề nguồn gốc, bản chất và chức năng của tôn
giáo cũng như thái độ, phương hướng giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã
hội. Đồng thời, tác giả cũng phân tích sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề này trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
1. Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất
của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ
nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thơng qua các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của
tôn giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tơn giáo có nguồn gốc siêu
nhiên, thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá
nhân con người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần
thánh thì các nhà duy vật, vơ thần đã có quan điểm hồn tồn đối lập. L.Phoiơbắc nhà triết học duy vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng,
không phải thần thánh sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh
theo hình mẫu của mình; rằng: “Thượng đế siêu hình khơng phải là cái gì khác mà là
sự tập hợp, là tồn bộ những đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con
người, nhờ vào sức tưởng tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay
một thực thể độc lập”([1]). Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự
của tơn giáo và ở khía cạnh này, ơng vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ
phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phê phán tôn giáo nói chung, càng chưa
hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm
chí, ơng cịn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tơn giáo khác thay thế, đó là “tơn
giáo tình u” để xố bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để
lý giải vấn đề bản chất của tơn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã
hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện
tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất.
Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những
hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất
định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo
đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang
đường” thế giới khách quan. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút
hết toàn bộ nội dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang
cho bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lịng nhân từ,
lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”(2).
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến
dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói
cách khác, tơn giáo là sự nhân cách hố giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất
người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác
với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi - dù đó
chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã
viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính
mình và đã thần thánh hố nó như một bản chất xa lạ nào đó”(3). Lột tả bản chất của
tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc
của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của
họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế” (4).
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư
ảo” của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tơn giáo và đặt niềm tin lớn lao
vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện
thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh
tế – xã hội. Trong lịch sử tiến hố của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo
tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng
do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên cịn thấp kém, con người ln cảm thấy yếu
đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh
siêu nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi
xã hội có sự phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp,
một bộ phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị.
Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn
của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an tồn. Đó cũng là
ngun nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong
những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước